Sóng Thần

Sóng Thần tiếng nói của người viễn xứ, gửi về quê hương yêu dấu, niềm tin và hy vọng Dân Chủ Đa Nguyên

 
 
Việt Sử

Việt Nam Sử Lược

 

Trần Trọng Kim

 

CHƯƠNG V

Công Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc

1. Việc giao thiệp với nhà Thanh 2. Việc lấy đất Cao Bằng của họ Mạc 3. Quan chế 4. Việc binh chế 5. H́nh luật 6. Thuế đinh, thuế điền và sưu dịch 7. Các thứ thuế 8. Sổ chi thu 9. Việc khai mỏ 10. Việc đúc tiền 11. Sự đong lường 12. Việc in sách 13. Việc học hành thi cử 14. Trường học vơ 15. Làm quốc sử 16. Sự đánh dẹp giặc giă trong nước: Giặc Ngân già; Giặc Ninh xa: Nguyễn hữu Cầu; Nguyễn danh Phương; Hoàng công Chất; Lê duy Mật

1. Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh.

Năm quư măo (1663), lúc ấy nhà Minh đă mất rồi, vua nhà Thanh có cho sứ sang dụ vua An Nam về triều cống. Bấy giờ Trịnh Tạc mới cho sứ đem đồ cống lệ sang Yên Kinh (tức là Bắc Kinh) để cầu phong cho vua Lê. Đến năm đinh mùi (1667) vua Khang Hy nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua Lê làm An Nam Quốc Vương. Từ đó hai nước thông sứ với nhau như thường. Về sau dẫu có lôi thôi về những việc giặc cướp và việc giới hạn ở phía thượng du, nhưng bao giờ vua nhà Thanh cũng chủ lấy sự ḥa b́nh, cho nên việc ǵ cũng trang trải xong xuôi.

2. Việc Lấy Đất Cao Bằng của Nhà Mạc.

Năm ất sửu (1625) Mạc Kính Khoan đă xin về hàng, được phong làm Thái Úy Thông Quốc Công, cho giữ đất Cao Bằng. Song đến năm mậu dần (1638) Kính Khoan mất, con là Mạc Kính Vũ (có chỗ gọi là Mạc Kính Hoàn) không nhận chức và không chịu về cống, lại tự xưng làm vua hiệu là Thuận Đức.

Từ đó họ Mạc cứ thỉnh thoảng đem quân về cướp phá ở mạn Thái Nguyên, quan quân đánh đuổi nhiều lầ, nhưng không trừ hẳn đi được.

Năm đinh tị (1667) Trịnh Tạc đem đem đại binh cùng các tướng là Đinh Văn Tả, Lê Chân, Lê Hiến lên đánh lấy đất Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải bỏ chạy sang Tàu. Trịnh Tạc mới treo bảng, chiêu tập dân sự về làm ăn, và đặt quan cai trị, lại sai Vũ Vinh làm đốc trấn đất Cao Bằng, Đinh Văn Tả làm trấn thủ đất Thất Tuyền (tức là Thất Khê bây giờ).

Mạc Kính Vũ ở bên Tàu, lấy vàng bạc đút lót cho quan nhà Thanh để tâu xin với Thanh Đế bắt họ Trịnh trả lại đất Cao Bằng cho họ Mạc. Thanh Đế cho Kính Vũ về ở Nam Ninh, rồi sai sứ sang thương nghị với Nam triều về việc ấy. Triều đ́nh An Nam và sứ nhà Thanh bàn đi bàn lại măi, sau Trịnh Tạc phải chịu trả lại cho họ Mạc đất 4 châu ở Cao bằng là châu Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang và triệu quan đốc trấn Vũ Vinh về.

Về sau Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở đất Vân Nam và đất Quảng Tây, Mạc Kính Vũ cũng về đảng với Tam Quế mà chống lại nhà Thanh. Đến khi Tam Quế chết rồi, nhà Thanh đă lấy lại đất Quảng Tây, họ Trịnh muốn nhân dịp ấy mà trừ họ Mạc cho xong, bèn một mặt sai Đinh Văn Tả và Nguyễn Hữu Đăng lên đánh Mạc Kính Vũ. Đến tháng tám năm đinh tị (1667), Đinh văn Tả lấy được thành Cao Bằng. Mạc Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang Long Châu, bị quân nhà Thanh bắt giải sang trả cho An Nam.

Từ khi Mạc Mậu Hợp phải bắt, họ Mạc thất thủ Thăng Long rồi, con cháu chạy lên mạn ngược, nhờ thế nước Tàu được giữ đất Cao Bằng, tương truyền được 3 đời, là Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ; đến nay mới mất hẳn. Ḍng dơi học Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng, có nhiều người được tha, cho làm quan với họ Trịnh.

3. Quan Chế.

Trước khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê th́ quan chế vẫn theo như đời Hồng Đức, nhưng từ khi nhà Lê trung hưng về sau, chính quyền về họ Trịnh, cho nên quan chế có khác ít nhiều. Trước th́ trên cùng có quan Tham tụng và quan Bồi tụng để coi việc chính trị, tức là giữ chức Tể tướng đời xưa, rồi đến các quan Thượng thư ở lục bộ.

Lục bộ là: Lại bộ coi việc thuyên chuyển các quan viên, việc thăng hàm thưởng tước, việc cách chức giáng trật, tức là coi mọi việc riêng về quan lại trong nước. Hộ bộ coi việc điền thổ và nhân dân, thuế khóa, lương tiền thu vào phát ra. Lễ bộ coi việc nghi lễ tế tự, việc học hành thi cử, việc áo mũ phẩm phục và phù ấn, việc làm chương làm biểu, việc đi sứ nước nọ nước kia, việc coi thiên văn, làm lịch, làm thuốc, bói toán, việc quan hệ tăng ni, đạo sĩ, việc âm nhạc ca xướng. Binh bộ coi các vơ quan, quân lính và việc pḥng bị biên giới v.v.... H́nh bộ coi việc h́nh pháp, kiện tụng. Công bộ coi việc xây đắp thành tŕ, cung điện, cầu cống, đường xá, sông ng̣i, rừng núi.

Đến năm mậu tuất (1718), đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại đặt ra Lục phiên ở bên phủ chúa, cũng như Lục bộ ở bên nhà vua, để coi mọi việc chính trị.

Về việc vơ bị th́ trước có Ngũ phủ là: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi một phủ đặt một Đô đốc phủ có quan tả hữu Đô đốc coi việc cả quân. Trong đời vua Thánh Tông, th́ Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc về Đông quân; Sơn nam, Thuận hóa, Quảng nam thuộc về Nam quân; Tam Giang, Hưng Hóa thuộc về Tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc quân. Đến năm giáp th́n (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc lại đặt thêm chức Chưởng phủ sự và Thự phủ sự để coi hết thảy các quân.

Các quan chức thời bấy giờ, chia ra làm ba ban: văn ban, vơ ban và giám ban. Theo thường lệ, th́ chỉ có văn ban và vơ ban mà thôi. Nhưng từ khi họ Trịnh giữ quyền bính và lại yêu dùng các nội giám, thường cho ra làm quan coi việc chính trị, cho nên mới đặt ra giám ban. Ban này đến cuối đời Cảnh hưng (1740-1786) mới bỏ.

Từ khi họ Trịnh cầm quyền, th́ bên nhà vua gọi là Triều đ́nh, bên phủ chúa gọi là Phủ Liêu. Phàm những việc chính trị và quân dân đều do bên phủ chúa định đoạt hết cả, cho nên người ta thường dùng Phủ liêu, chứ không mấy khi dùng chữ Triều đ́nh, v́ Triều đ́nh chỉ có cái hư vị, chứ không có quyền ǵ nữa.

Sự kén chọn các quan lại th́ lệ cứ mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không xứng chức th́ phải giáng xuống.

Khi nào quan viên về hưu trí th́ được ăn dân lộc, như là quan nhất phẩm th́ mỗi năm được 400 quan tiền dân lộc của bốn năm xă; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan của hai ba xă; quan tam phẩm được 250 hoặc 150 quan của một hai xă; quan tứ phẩm được 150 quan của một xă; quan ngũ phẩm được 100 quan của một xă.

Đời bấy giờ lại đặt ra một phép rất hay, như là cấm không cho các quan viên lập trang trại ở chỗ ḿnh làm quan, bởi v́ thường có nhiều người ỷ quyền thế mà hà hiếp lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi những đồ gian ác làm tôi tớ, để quấy nhiễu mọi người, đến nỗi có nhiều nơi dân phải xiêu tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại cho dân, và lại có thể giữ liêm cho quan vậy.

Nhưng về sau, từ đời Trịnh Giang trở đi, nhà chúa chơi bời xa xỉ, lại có nhiều giặc giă, phải t́m cách lấy tiền, đặt ra lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan th́ được thăng chức một bậc. C̣n những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan th́ được bổ tri phủ, 1.800 quan th́ bổ tri huyện 104 .

Như thế, hễ ai có tiền th́ được quyền trị dân, chứ không cần có tài năng ǵ cả, thành ra cái phẩm giá của những người làm quan đời bấy giờ cũng kém dần dần đi.

4. Việc Binh Chế.

Khi nhà Lê trung hưng ra đánh họ Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà thôi 105 . Về sau, từ lúc đánh được nhà Mạc rồi, họ Trịnh chia ra làm hai thứ binh: một thứ gọi là ưu binh th́ lấy lính ở ba phủ đất Thanh Hóa và ở bốn phủ đất Nghệ An, lệ cứ ba suất đinh lấy một tên lính; một thứ gọi là nhất binh th́ lấy lính ở tứ trấn ở đất Bắc là Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, lệ cứ 5 suất đinh lấy một tên lính.

Lính ưu binh th́ đóng ở kinh thành, kén vào làm quân Túc vệ để canh giữ những nơi đền vua phủ chúa. Những lính ấy đă được cấp cho công điền, lại được thêm chức sắc.

Lính nhất binh th́ chỉ để đủ giữ các trấn, và hầu hạ các quan, c̣n th́ cho về làm ruộng, có khi nào cần dùng đến th́ mới gọi, như là về đời Trịnh Doanh có lắm giặc giă, phải đánh dẹp nhiều nơi, th́ mới gọi đến lính tứ trấn, [104]

Việc bán phẩm hàn đă có từ đời vua Dụ Tông nhà Trần và đời vua Thánh Tông nhà Lê. Nhưng mà bấy giờ chỉ cho lấy hàm mà thôi, chứ không có thực chức. 105

Khi vua Lê Thái Tổ ra đánh nhà Minh th́ số binh bấy giờ được 25 vạn, chia ra làm 5 quân, gọi là trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Đến khi đánh dẹp xong rồi, cho 15 vạn về làm ruộng, c̣n để lại 10 vạn chia ra làm 5 đạo gọi là đông đạo, tây đạo, nam đạo, bắc đạo và hải tây đạo. cả thảy được độ chừng 11.500 người, chia ra làm 20 vệ. Sau lại đổi ra làm cơ, làm đội, mỗi cơ có 200 người, để 100 người ở tại ngũ, c̣n 100 người cho về làm ruộng, rồi cứ lần lượt thay đổi nhà mà về.

5. H́nh Luật.

H́nh luật về đời ấy th́ đại khái cũng như đời Tiền Lê. H́nh pháp th́ chia ra làm 5 thứ gọi là ngũ h́nh: xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Nhưng trước th́ tội ǵ cũng được cho chuộc cả 106 , đến đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc định lại: trừ những người được dự vào bát nghị 107

ra, c̣n ai phạm tội ǵ cứ chiếu theo tội nặng nhẹ mà luận h́nh, chứ không cho chuộc nữa.

Trước th́ ai đă phải tội lưu, lại phải tội chặt tay nữa. Đến đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương mới bỏ cái luật chặt tay và đổi lại như là ai phải chặt hai bàn tay va phải lưu đi viễn châu th́ cải làm tội đồ chung thân; ai phải chặt một bàn tay và phải lưu ngoại châu th́ đổi làm tội đồ 12 năm; ai phải chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu, th́ đổi làm tội đồ 6 năm. C̣n như ai phạm tội trộm cướp th́ không kể vào lệ ấy.

Những việc án mạng, trộm cướp và những việc hộ, hôn, điền thổ th́ phải theo thứ tự mà xét xử. Như việc án mạng th́ quan phủ huyện xét, rồi đệ lên để Thừa ti và hiến ti hội đồng xét lại. Việc trộm cướp, ở Kinh đô th́ do quan Đề Lĩnh xét lại, ở các trấn th́ do quan Trấn thủ xét lại.

Phàm những việc đại tụng tiểu tụng mà ở huyện phủ hay là ở Thừa ti, Trấn ti, xử không xong, th́ đến Hiến ti xét lại. Ở Hiến ti không xong, th́ đến Giám sát xét lại. Ở Giám sát và Đề Lĩnh không xong, th́ đến Ngự sử Đài xét lại.

Những việc nhân mạng th́ hạn cho 4 tháng, việc trộm cướp điền thổ th́ 3 tháng, việc hôn nhân ẩu đả th́ 2 tháng, chứ lệ không cho để lâu, làm mất công việc của dân.

6. Thuế Đinh, Thuế Điền và Sưu Dịch.

Trước tệ cứ sáu năm làm sổ hộ tịch một lần, rồi cứ tùy số dân đinh nhiều ít mà đánh thuế, gọi là "qui" đồng niên mỗi tên đinh cứ tùy hạng, hoặc đóng một quan hay là một quan tám tiền, tức là thuế thân. Đến năm kỷ dậu (1669) đời vua Huyền Tông, quan Tham Tụng là ông Phạm Công Trứ xin đặt ra phép b́nh lệ, nghĩa [106]

Tội trượng th́ cứ mỗi một trượng là quan tam phẩm phải chuộc 5 tiền, quan tứ phẩm phải chuộc 4 tiền, quan ngũ phẩm 3 tiền, quan thất bát phẩm 2 tiền, từ củu phẩm cho xuống đến thứ nhân th́ 1 tiền. Tội đồ làm lính coi chuồng voi th́ phải chuộc 60 quan, làm lính đồn điền th́ 100 quan. Tội lưu cận châu th́ phải chuộc 130 quan, viễn châu th́ 290 quan. Tội tử th́ phải chuộc 330 quan. [107]

Đă nói ở đời vua Lê Thái Tổ. là làm sổ đinh nhất định một lần, rồi làng nào phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ theo như thế mà đóng măi, chứ có đẻ thêm ra cũng không kể, mà có chết đi cũng không trừ.

Lập phép ấy là để cho dân khỏi phải làm sổ, mà quan cũng khỏi phải tra xét, nhưng phải một điều bất tiện là về sau số đinh hơn kém bao nhiêu, quan không biết được nữa. Đến năm quư tị (1713) đời vua Dụ Tông, sử chép rằng số dân nội tịch phải đóng thuế cho nhà vua cả thảy chỉ 206.315 suất mà thôi.

C̣n như thuế điền th́ năm kỷ hợi (1719) đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương sai cái quan phủ huyện và quan Thừa Chính, Hiến sát làm việc đạc điền để mà chia tiền thuế cho các dân xă cho đều. Lệ bây giờ cứ đo công điền công thổ mà đánh thuế, gọi là "thuế", chia ra làm ba hạng. Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nh́ 8 tiền, hạng ba 6 tiền.

Những sưu dịch như là việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang trường thi, việc làm cầu cống, đắp đường sá, giữ đê điều v.v.... th́ cứ tùy nghi mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà cung ứng cho đủ.

Ấy, các thứ thuế trước đánh là vậy. Đến năm quư măo (1723), quan tham tụng là ông Nguyễn Công Hăng theo phép tô, phép dung và phép điệu của nhà Đường mà châm chước, sửa sang lại, như sau này:

Phép tô, tức là phép đánh thuế điền thổ, cứ mỗi mẫu công điền là phải nạp 8 tiền thuế, mà ruộng nào cấy hai mùa th́ chia ba, quan lấy một phần thóc. Những đất băi của quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1 quan 2 tiền; chỗ nào trồng dâu th́ nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu th́ nộp cả bằng tiền.

Các ruộng tư điền ngày trước không đóng thuế, đến bây giờ mới đánh: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa mỗi mẫu 2 tiền.

Phép dung, tức là phép đánh thuế thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng 1 quan 2 tiền. Những người sinh đồ, lăo hạng và hoàng đinh [108 ] th́ đóng một nửa.

Phép điệu, tức là phép bắt dân đóng tiền sưu dịch, cứ mỗi một suất đinh, một năm 2 mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền, mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan lấy tiền ấy mà làm các việc, không phiền đến dân nữa. [108 ]

Lăo hạng là những người từ 50 tuổi đến 60 tuổi. Hoàng đinh là người mới có 17 đến 19 tuổi.

7. Các Thứ Thuế.

Đời bấy giờ đánh thuế các thứ thổ sản, thuế mỏ, thuế đ̣, thuế chợ, v.v.... nhưng mà những thuế ấy, khi đánh khi thôi, không có nhất định.

1. Thuế Tuần Ti: Các thuyền bè chở hàng hóa đi buôn bán ở trong sông cũng phải chịu thuế. Trong nước lập ra cả thảy 23 sở tuần ti để thu thuế; như tre gỗ th́ cứ 10 phần đánh thuế một phần; những đồ tạp hóa th́ 40 phần đánh thuế một phần. 2. Thuế muối: Năm tân sửu (1721) Trịnh Cương đặt quan Giám Dương để đánh thuế muối, cứ 10 phần, quan lấy 2 phần. Những người buôn muối phăi lĩnh thẻ của quan Giám dương, th́ mới được mua muối, mà trước phải mua của quan đă, rồI sau mới được mua của những người làm muối. V́ đánh thuế như thế, cho nên giá muối cao đến một tiền một đấu muối, dân sự ăn uống khổ sở. Bởi vậy đến năm nhâm tí (1732) Trịnh Giang bỏ thuế muối không đánh nữa. Đến năm bính th́n (1746) Trịnh Doanh lại lập lại phép đánh thuế muối, cứ chia ra 50 mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp phải nộp 40 hộc thuế muối, mỗi một hộc đánh giá là 180 đồng tiền, tức là ba tiền. 3. Thuế thổ sản: Năm giáp th́n (1724), Trịnh Cương định lệ đánh thuế các thổ sản, như là vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, các đồ dụng vật như là rượu, mật, dầu, và các đồ thập vật như là giấy, chiếu, vải, v.v....

8. Sổ Chi Thu.

Về thời Trịnh Giang làm chúa, có lắm giặc giă phải chi tiêu nhiều việc, cho nên năm kỷ mùi (1731) các quan xin đặt quan để cùng với Hộ phiên mà làm sổ biên rơ đồng niên thu vào được bao nhiêu và phát ra mất bao nhiêu, để liệu sự chi dụng cho vừa.

9. Việc Khai Mỏ.

Nước ta từ đời bấy giờ ở Tuyên Quang th́ có mỏ đồng ở Tụ Long, mỏ bạc ở Nam Xương và ở Long Sinh. Ở Hưng hóa th́ có mỏ đồng ở Trinh Lan và Ngọc Uyển. Ở Thái Nguyên th́ có mỏ đồng ở Sáng Mộc, Yên hận, Liêm tuyền, Tống sinh, Vũ nông; mỏ vàng ở Kim mă, Tam lộng; mỏ kẽm ở Cồn minh. Ở Lạng sơn th́ có mỏ đồng ở Hoài viễn.

Những mỏ ấy đều là người Tàu sang khai cả, bao nhiêu quyền lợi về tay người Tàu hết, của 10 phần nhà nước không được một. Mà những phu Tàu sang làm mỏ thường hay quấy nhiễu dân sự. Tuy rằng năm đinh dậu (1717) Trịnh Cương đă định lệ rằng những người Tàu sang khai mỏ; chỗ đông lắm chỉ được đến 300 người, chỗ đông vừa 200 người, chỗ ít 100 người mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu khách đông đến hàng vạn người, rồi sinh sự đánh nhau, thường phải dùng binh lính đi đánh dẹp măi mới xong.

10. Việc Đúc Tiền.

Nhà Hậu Lê trung hưng lên rồi, vẫn tiêu tiền Hồng Đức, và ở trấn nào cũng có sở đúc tiền; nhưng v́ có lắm sự nhũng lạm cho nên đến năm quư dậu (1753) Trịnh Doanh mới bỏ sở đúc tiền ở các trấn, mà chỉ để hai sở gần đất Kinh sư mà thôi. Đến năm bính thân (1776) đời Cảnh Hưng vua Hiến Tông, khi họ Trịnh đă lấy được đất Thuận Hóa rồi, lại mở ḷ đúc tiền ở Phú Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.

Đời bấy giờ cũng có đúc ra bạc lạng để tiêu dùng. Mỗi một lạng là 10 đồng, mỗi đồng giá hai tiền. Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được

11. Sự Đong Lường.

Sự đong lường th́ trước vẫn theo lối cũ, cứ 6 hạp là một thăng, nhưng từ năm giáp th́n (1664) ông Phạm Công Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là hoàng chung quản làm chừng. Cái ống ấy đựng được 1200 hộc thóc đen, gọi là một thược, rồi cứ 10 thược làm một hạp, 10 hạp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu là một hộc.

12. Việc In Sách.

Người nước ta học chữ Nho đă lâu mà những sách học như là Tứ Thư, Ngũ Kinh toàn thị dùng sách in của Tàu cả. Năm giáp dần (1734) đời vua Thuần Tông, Trịnh Giang mới bắt khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Ấy cũng là một sự lợi cho sự tài chính của nước ta.

13. Việc Học Hành Thi Cử.

Sự học hành về đời Hậu Lê, th́ đại khái cũng giống như đời Tiền Lê, trong nước ở đâu cũng lấy Nho học làm trọng. Ở Quốc Tử Giám th́ đặt quan tế tửu và quan tư nghiệp để làm giảng quan, mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập.

C̣n việc thi cử là việc nhà nước chọn lấy nhân tài để dùng làm việc nước, th́ đời nào cũng có. Từ khi nhà Mạc và nhà Lê tranh nhau ngôi vua, Bắc Triều họ Mạc vẫn mở khoa thi ở Thăng Long; Nam triều họ Lê v́ bận việc binh, cho nên đến măi năm Canh Th́n (1580) mới mở khoa thi Hội ở Tây Đô; từ đó về sau cứ ba năm một kỳ thi Hội, nhưng mà cách thức thi cử c̣n sơ lược, đến năm Giáp th́n (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc mới định lại qui thức thi Hội.

C̣n như thi Hương, th́ đến năm Mậu Ngọ (1678) mới định các điều lệ rơ ràng. Từ đó cứ ba năm một kỳ thi Hương: Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Yên Quảng đều có trường thi cả. Nhưng mà sự thi Hương bấy giờ hồ đồ lắm, không nghiêm như đời Hồng Đức. Như là về đời vua Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái th́ đặt lệ ai đi thi phải nộp tiền minh kinh để lấy tiền làm nhà trường và khoản đốn quan trường.

Đến năm canh ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thu tiền thông kinh, hễ ai nộp ba quan th́ dược đi, mà không phải khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm ruộng, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có người chết. Vào ở trong trường người th́ dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học tṛ với quan trường th́ thông với nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi cử bấy giờ thật là bậy.

14. Trường học vơ.

Đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại mở ra trường học vơ, đặt quan giáo thụ để dạy cho con cháu các quan vào học vơ kinh chiến lược, cứ mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân mùa thu th́ tập vơ nghê, mùa đông mùa hạ th́ tập vơ kinh.

Lại đặt ra lệ 3 năm một lần thi vơ. Thi là đại khái là phải bắn cung, múa giáo, múa gươm, phi ngựa mà bắn cung và chạy bộ và bắn cung, rồi sau cùng hỏi nghĩa sách để xét học lực, hỏi phương lược để xét tài năng.

Năm canh thân (1740) Trịnh Doanh lập vơ miếu, chính vị th́ thờ Vũ Vương, Khương thái công, Tôn vơ tử, Quảng tử, v.v.... Ở đàng sau th́ thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, và lại lập miếu riêng thờ Quan Công. Cứ xuân thu hai kỳ tế lễ.

15. Làm Quốc Sử.

Từ khi ông Vũ Quỳnh làm sách Đại Việt Thông Giám, măi đến đời vua Lê Huyền Tông nhà Hậu Lê, Trịnh Tạc mới sai quan Tham Tụng là Phạm Công Trứ soạn sách Việt Sử Toàn Thư, kể từ vua Trang Tông nhà Hậu Lê cho đến vua Thần Tông, chia ra làm 23 quyển; nhưng mà bộ sử ấy không in. Đến năm bính th́n (1676) đời vua Hi Tông sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc sử, nhưng chẳng bao lâu ông ấy mất, lại sai Lê Hi và Nguyễn Quư Đức chép nối từ vua Huyền Tông cho đến vua Gia Tông, thêm vào 13 quyển, gọi là Quốc Sử Thực Lục.

Năm ất tị (1775) đời Cảnh Hưng, Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn, Lê Quư Đôn, Ngô Thời Sĩ, Nguyễn Du soạn quốc sử, chép thêm từ Hi Tông cho đến đời Ư Tông, gọi là Quốc Sử Tục Biên, cả thảy là 6 quyển.

16. Sự Đánh Dẹp Giặc Giă Trong Nước.

Về thời Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương làm chúa, th́ ông nào cũng hết ḷng lo việc trị dân, và lại nhờ có những người tôi giỏi như Phạm Công Trứ, Nguyễn Công Hăng, v.v... đều hết sức giúp đỡ, cho nên sửa sang được nhiều việc, nước được yên trị. Nhưng mà từ khi Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa, giết vua Lê, hại cả các quan đại thần như Nguyễn Công Hăng, Lê Anh Tuấn và làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đă tàn ngược lại hay tiêu dùng xa xỉ, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng, dân t́nh khổ sở, giặc giă nổi lên khắp cả mọi nơi, đường sá trạm dịch đi không được, phải làm đồn hỏa hiệu ở trên đỉnh núi để pḥng khi có việc ǵ th́ đốt lửa báo

Bấy giờ trong triều th́ có mấy người tôn thất như là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui, Lê Duy Chúc 109

cùng với mấy người triều thần là Phạm Công Thế, Vơ Thước, định đốt kinh thành để trừ họ Trịnh, nhưng chẳng may việc lộ ra phải bỏ chạy. Ở ngoài các trấn th́ chỗ nào cũng có giặc, ở Hải Dương th́ có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên ở làng Ninh Xá (thuộc huyện Chí Linh), Vơ Trác Oánh nổi lên ở làng Mộ Trạch (thuộc huyện Đường An), ở đất Sơn Nam th́ có Hoàng Công Chất, đều lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh làm cớ, bởi vậy cho nên dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo giặc. Toán nào đông th́ kể có hàng vạn người, toán nào ít th́ cũng có đến hàng trăm hàng ngh́n người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quan quân đánh dẹp không được.

Đang lúc giặc cướp như thế, Trịnh Giang cứ dâm dật vô độ, lại đào hầm làm nhà ở dưới đất để cho khỏi sợ sấm sét, c̣n việc chính trị th́ để cho những hoạn thần là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Các quan ở phủ liêu là Nguyễn Quư Cảnh, Nguyễn Công Thái, Vơ công Tể bèn truất Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa, để lo việc đánh dẹp cho yên giặc giă.

Đời bấy giờ giặc cướp th́ nhiều, nhưng mà những giặc to phải đánh lâu, th́ có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, và Vơ Trác Oánh ở đất Hải Dương; Hoàng Công Chất, Vơ Đ́nh Dung ở Sơn Nam; Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng, ở Sơn Tây; Nguyễn Hữu Cầu ở mặt đông nam; Lê Duy Mật ở mặt Thanh Hóa và Nghệ An. May lúc ấy lại có những quan đánh giặc giỏi như Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đ́nh Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt, v.v.... cho nên Trịnh Doanh và Trịnh Sâm mới dần dần dẹp yên được các nơi. [109 ]

Duy Mật và Duy Qui là con vua Dụ Tông, Duy Chúc là con vua Hi Tông.

Giặc Ngân Già: Năm canh thân (1740 trong khi đất Hải Dương, ở làng Ninh Xá, có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn, th́ đất Sơn Nam, ở làng Ngân Già, có Vũ Đ́nh Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp phá rất dữ, giết cả quan Đốc lĩnh là Hoàng Kim Qua. Thế giặc mạnh lắm, Trịnh Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Vơ Đ́nh Dung đem chép, và đỗi tên xă Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Ḥa).

Giặc Ninh Xá: Trước hết Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vơ Trác Oánh và Nguyễn Diên dấy binh từ năm kỷ mùi (1739) làm loạn ở Hải Dương, rồi vẫy vùng ở đất Từ Sơn, Thuận Thành, Nam Sách và Hồng Châu. Nguyễn Cừ th́ giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, Nguyễn Tuyển th́ giữ núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, quân lính kể có hàng mấy vạn người, quan quân đi đánh có nhiều người phải bắt.

Năm tân sửu (1745) quan thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn của giặc ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và ở Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Vơ Trác Oánh không biết đi đâu mất. C̣n Nguyễn Cừ th́ chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng lại về Đông Triều, nhưng v́ hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân Sơn, bị quan Hiệp Đồng là ông Phạm Đ́nh Trọng bắt được đóng cũng đem về kinh làm tội. Từ đó giặc Cừ và giặc Tuyển mới tan.

Nguyễn Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu, tục gọi là quận He, người Hải Dương, trước đi ăn cướp, sau theo Nguyễn Cừ làm giặc. Đến khi Nguyễn Cừ bị bắt rồi, Nguyễn Hữu Cầu đem đồ đảng về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm quư hợi (1743), Hữu Cầu giết được quan Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, rồi tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế lừng lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc, quan Trấn phủ là Trần Đ́nh Cẩm, và quan Đốc đồng là Vơ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính mà chạy; ở Kinh Sư, được tin ấy rất lấy làm báo động.

Hoàng Ngũ Phúc đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu.

Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đ́nh Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương Giang, giết được tướng của giặc là tên Thông, lấy được quân nhu chiến mă thật là nhiều.

Nguyễn Hữu Cầu là một người kiệt hiệt nhất trong bọn làm giặc thời bấy giờ, mà lại quỷ quyệt, ra vào bất trắc lắm; có khi bị vây hàng mấy ṿng, mà chỉ một ḿnh một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo. V́ rằng ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có.

Các tướng sĩ ai cũng sợ, duy chỉ có ông Phạm Đ́nh Trọng là đánh được Hữu Cầ mà thôi, cho nên Hữu Cầu đào mă mẹ ông ấy đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đ́nh Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu. Cũng v́ lẽ ấy cho nên năm bính dần (1749) Hữu Cầu cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu, lại sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem tờ dụ ra bảo Phạm Đ́nh Trọng đừng đánh Nguyễn Hữu Cầu nữa. Phạm Đ́nh Trọng khăng khăng một mực không chịu, bảo Nguyễn Phi Sảng rằng: "Những người làm tướng ở ngoài dẫu có mệnh vua cũng có điều không nên chịu. Ông vâng mệnh vua đi gọi giặc về hàng th́ ông cứ đi, tôi vâng mệnh vua đi đánh giặc, th́ tôi cứ đánh". Nói xong, cất quân đi ngay.

Lúc ấy Phạm Đ́nh Trọng có mộ người ở huyện Thanh Ḥa, huyện Tú Kỳ, huyện Vĩnh Lại và huyện Thượng Hồng, đặt làm 4 cơ, giao cho hai người thủ hạ cai quản. Ở phủ liêu bọn Đỗ Thế Giai nhân lấy điều ấy mà nói gièm với Trịnh Doanh. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Phạm Đ́nh Trọng là người trung thành, không nói ǵ đến việc ấy, lại làm một bài thơ đưa ra cho ông ấy để ông ấy yên ḷng.

Nguyễn Hữu Cầu tuy đă xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Một hôm Phạm Đ́nh Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nói với thủ hạ rằng: "Ta vừa mới thua, có tin về Kinh, tất nhiên không ai pḥng bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ được". Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi th́ trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đ́nh Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy.

Từ khi thua trận Bồ Đề rồi, Hữu Cầu về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đ́nh Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.

Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An hợp đảng với tên Diên ở Hương Lăm (thuộc huyện Nam Đường). Phạm Đ́nh Trọng đem quân vào đánh phá trại giặc, rồi đuổi Hữu Cầu ra đến làng Hoàng Mai bắt được, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Bấy giờ là năm tân vị (1751) tức là năm Cảnh Hưng thứ 12.

Nguyễn Danh Phương: Năm canh thân (1740) tên Tế và tên Bồng làm loạn ở đất Sơn Tây, quan Chính Tây Đại Tướng quân là Vơ Tá Lư đánh bắt được cả hai tên ấy ở huyện An Lạc (thuộc phủ Vĩnh Tường). Bấy giờ thủ hạ tên Tế là Nguyễn Danh Phương, tục gọi là quận Hẻo, đem dư đảng về giữ núi Tam Đảo. Một mặt th́ mộ quân trữ lương và một mặt th́ cho người về nói dối xin hàng.

Lúc bấy giờ tên Cầu tên Chất đang làm loạn ở phía đông nam, cho nên Trịnh Doanh cũng tạm cho hàng.

Năm giáp tí (1744) tên Phương đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt Tŕ, sang cướp phá ở bên huyện Bạch Hạc. Bấy giờ quan Đốc suất Sơn Tây là Văn Đ́nh Ức đem binh đến vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện B́nh Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó Danh Phương lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện B́nh Xuyên và huyện Tam Dương), trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên Quan, thanh thế lừng lẫy trong non 10 năm trời, thành ra một nước riêng trong nước Nam vậy.

Năm canh ngọ (1750) Trịnh Doanh tự đem đại quân đi đường Thái Nguyên đến đánh phá được đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn Hương Canh, giặc bắn súng, đạn ra như mưa, quan quân không tiến lên được Trịnh Doanh mới lấy gươm trao cho ông Nguyễn Phan mà bảo rằng: "Đồn này phá không được th́ lấy quân pháp mà trị!" Nguyễn Phan đem quân sấn vào rồi cởi áo chiến bào ra, xuống ngựa đi bộ, và bảo những người thủ hạ rằng: "Quân sĩ có tên ở trong sổ sách, việc ǵ đă có quân pháp. Chúng bay là người riêng của ta mà hôm nay là buổi ta phải bỏ ḿnh để giúp nước, và lại chính là ngày chúng bay đền ơn cho ta. Vậy ai có cha già con dại, th́ cho lui ra, c̣n th́ nên cùng với ta mà liều một trận sống chết để báo đền ơn nước, cho khỏi phụ cái tiếng râu mày!". Thủ hạ không ai chịu lùi, đều xin cùng xông vào, phá được đồn Hương Canh. Doanh Phương rút quân về giữ đồn Ngọc Bội, quân Trịnh Doanh tiến lên đuổi đánh. Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ đoản binh cho tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Giặc giữ không nổi bỏ chạy tan cả. Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn, quan quân đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở huyện Lập Thạch th́ bắt được. Trịnh Doanh đem quân về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đ́nh Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt tên Phương dâng rượu, tên Cầu thổi kèn, ba quân hôm ấy thật là vui vẻ.

Về đến Kinh sư, tên Cầu và tên Phương đều phải chém cả.

Hoàng Công Chất: Hoàng Công Chất cùng với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên một lúc. Trước phá ở đất Sơn Nam về hạt Khoái Châu. Đến năm ất sửu (1745) lại bắt được và giết quan trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, sau v́ quan quân đuổi đánh, Công Chất chạy vào Thanh Hóa rồi ra Hưng Hóa cùng với tên Thành làm loạn ở vùng ấy. Năm tân tỵ tên Thành bị quan quân bắt được, tên Chất chạy lên giữ động Mănh Thiên (phía bắc Hưng Hóa) rồi chiếm giữ cả mấy châu gần đấy, đồ đảng có hàng vạn người. Từ đó tên Chất cứ cướp phá ở đất Hưng Hóa và đất Thanh Hóa. Măi đến năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm mới sai quan thống lĩnh là Đoàn Nguyễn Thục đem quân Sơn Tây lên đánh động Mănh Thiên. Khi quan quân lên đến nơi th́ Hoàng Công Chất đă chết rồi, con là Hoàng Công Toản chống giữ không nổi, bỏ chạy sang Vân Nam. Đồ đảng tan cả.

Lê Duy Mật: Năm mậu ngọ (1738) đời vua Ư Tông, bọn hoàng thân là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui và Lê Duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng chẳng may sự không thành phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Qui và Duy Chúc phải bệnh mất, c̣n Duy Mật giữ đất thượng du phía tây nam. Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả. Bấy giờ Duy Mật có bắt được Phạm Công Thế đem ra hỏi rằng: "Ông là người khoa giáp sao lại theo nghịch?" - Công Thế cười mà nói rằng: "Đă lâu nay danh phận không rơ, lấy ǵ mà phân thuận nghịch?" Nói rồi giương cổ ra chịu h́nh.

Lê Duy Mật từ khi chạy về Thanh Hóa, chiêu tập binh sĩ, rồi từ năm canh thân (1740) là Cảnh Hưng năm đầu, về đánh ở đất Hưng Hóa và Sơn Tây, sau lại cùng với giặc là tên Tương giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu, tên Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn Ninh giữ núi Tŕnh Quang làm căn bản.

Năm giáp tí (1764) Lê Duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu với chúa Nguyễn là Vũ Vương. Nhưng chúa không muốn gây sự với họ Trịnh, cho nên không giúp.

Năm đinh hợi (1767) được tin Trịnh Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê Duy Mật đem quân về đánh ở đất Hương Sơn và đất Thanh Chương rồi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ư dùng binh để dứt mối loạn.

Năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm chánh đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đ́nh Thể làm đốc binh đất Hưng Hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi qua6n của Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đến vây Tŕnh Quang. Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ là người con rể là Lại Thế Chiêu làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng với vợ con tự đốt mà chết

* * *

Tóm lại mà xét, th́ những công việc của họ Trịnh sửa đổi ở miền Bắc cũng nhiều, và có thể chia ra làm ba thời kỳ:

Thời kỳ thứ nhất vào khoảng Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng và Trịnh Tráng. Lúc bấy giờ c̣n phải đánh họ Mạc ở phía Bắc, rồi lại chống với họ Nguyễn ở phía Nam, cho nên trong thời kỳ ấy chỉ có việc chiến tranh ở ngoài mà thôi, c̣n những công việc trong nước không sửa sang được mấy.

Thời kỳ thứ hai là vào khoảng Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương. Lúc bấy giờ việc chiến tranh đă yên, trong nước b́nh trị, cho nên trong thời kỳ ấy các chúac mới sửa sang và chỉnh đốn lại những phép tắc, luật lệ, việc thuế khóa, sự học hành, thi cử, v.v....

Thời kỳ thứ ba là vào khoảng Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. V́ Trịnh Giang thất chính cho nên trong thời kỳ này có lắm giặc giă, quan quân phải đánh đông dẹp bắc trong ba bốn năm trời, thành ra không làm được việc ǵ ích lợi, đến nỗi dân nghèo nước yếu, chính trị điêu tàn, bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà nhà Trịnh đổ, nhà Lê cũng mất.

 

CHƯƠNG VI

Công-việc họ Nguyễn làm ở miền Nam

1. Quan-chế

2. Thi-cử

3. Việc vơ-bị

4. Việc thuế-khóa

5. Số tiền chi-thu trong nước

6. Lấy đất Chiêm-thành

7. Mở đất Nam Việt và sự giao-thivới Chân-lạp

8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-la

9. Việc lập dinh định phủ

Họ Nguyễn đă giữ riêng một cơi ở phía nam, lập ra nghiệp chúa, lưu- truyền đời nọ qua đời kia, bởi vậy cho nên chính-trị, thuế-lệ, binh-lính, việc ǵ cũng tự sửa-sang và xếp đặt lấy như là một nước tự-chủ vậy.

1. Quan-Chế.

Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau với họ Trịnh th́ quan-lại vẫn ở ngoài Bắc bổ vào nhưng mà từ khi chúa Săi là Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ với quân họ Trịnh ở bắc Bố-Chính th́ các quan-viên đều do chúa Nguyễn đặt lấy cả.

Ở Chính dinh là chỗ chúa đóng th́ đặt tam-ti để giúp chúa coi việc chính- trị. Tam-ti là: Xá sai-ti, Tướng-thần-lại-ti, Lệnh-sử-ti. 1. Xá-sai-ti

giữ việc từ tụng văn án. Có quan Đô-tri, Kư-lục làm đầu. 2. Tướng-thần-lại-ti

giữ việc thu tiền thu thuế, chi-phát lương- thực cho quan các đạo. Có quan cai-bạ làm đầu. 3. Lệnh-sử-ti

giữ việc tế tự, tết nhất và việc chi-cấp lương cho quân ở chính dinh. Có quan Nha-úy làm đầu.

Mỗi ti lại có quan Cai-hợp, Thủ-hợp và các lại-ti để làm mọi việc.

Ở ngoài các dinh, th́ có nơi chỉ đặt có một Lệnh-sử-ti kiêm cả việc Xá-sai-ti và Tướng-thần-lại-ti, có nơi th́ đặt Xá-sai-ti và Lệnh-sử-ti để coi việc quân dân, từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế khóa, v.v. nghĩa là tùy nơi quan-trọng hay là không, mà thêm bớt quan-viên.

Ở phủ huyện, th́ đặt tri-huyện, tri-phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ th́ có đề-lại, thông-lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn đạo, lễ-sinh, chuyên việc tế-tự ở chỗ sở tại. C̣n việc thu thuế th́ đặt quan khác để coi về việc ấy.

Đến đời chúa Thượng Nguyễn phúc Lan (1635-1648) lại đặt thêm chức nội-tả, ngoại-tả, nội-hữu, ngoại-hữu, gọi là tứ trụ để giúp chúa trị dân.

Về đàng quan vơ th́ đặt chức: chưởng-đinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai- đội để coi việc binh.

2. Thi Cử.

Năm đinh-hợi (1674) chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa-văn.

Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ đệ-nhất thi tứ-lục, kỳ đệ-nhị thi thơ-phú, kỳ đệ-tam thi văn-sách. Quan tri-phủ tri-huyện làm sơ-khảo, quan cai-bạ, kư-lục, vệ-úy làm giám-khảo. Những quyển đậu, th́ chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám-sinh, được bổ ra làm tri-phủ, tri-huyện; hạng thứ nh́ gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ-sinh, hoặc làm nhiêu-học.

Thi hoa-văn th́ cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu th́ được bổ vào làm việc ở Tam-ti.

Năm ất-hợi (1695) Quốc-chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn-chức và thi Tam-ti. Thi Tam-ti là thi Xá-sai ti, thi Tướng-thần-lại-ti và thi Lệnh-sử-ti. Thi Văn-chức th́ thi tứ- lục, thơ-phú, văn-sách; thi Xá-sai-ti th́ hỏi về việc binh-lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng-thần-lại-ti và Lệnh-sử-ti th́ chỉ làm một bài thơ mà thôi.

Năm canh-thân (1740), Vũ-vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) định lại phép thi: những người đậu kỳ đệ-nhất gọi là nhiêu-học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ-nhị và kỳ đệ-tam th́ được miễn sai chung thân; đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương-cống, được bổ đi làm tri-phủ, tri-huyện.

Xem như vậy th́ sự thi-cử ở miền Nam đời bấy giờ c̣n sơ-lược lắm.

3. Việc Vơ-Bị.

Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau với họ Trịnh cho nên phải lo việc vơ-bị hơn. Quân th́ chia ra làm năm cơ gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn người.

Năm tân-mùi (1631) chúa Săi lập ra sở đúc súng đại-bác và mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện-tập để pḥng-bị chiến-tranh.

4. Việc Thuế-Khóa.

Điền-thổ chia ra làm 3 hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu th́ thuế đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường.

Những công điền th́ cấp cho dân cày-cấy để nộp thuế; c̣n ai khai-khẩn được đất hoang ra làm ruộng, th́ cho là tư điền.

Thuế mỏ. Ở đất Quảng-nam, Thuận-hóa có mỏ vàng; ở đất Quảng- nghĩa có mỏ bạc; ở đất Bố-chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả.

Thuế xuất-cảng nhập-cảng. Lệ cứ những tàu ở Thượng-hải và ở Quảng đông lại, th́ phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Mả-cao, ở Nhật-bản lại, th́ phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm-la, ở Lă-tống lại, th́ phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, th́ phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.

Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6 thành th́ đem vào kho, c̣n 4 thành để nộp cho quan-lại, binh-lính đă coi về việc thu thuế.

5. Số tiền chi-thu trong nước.

Năm quí đậu (1753) Vũ- vương sai quan Chưởng-thái-giám là Mai văn Hoan tính số vàng, bạc và tiền thu vào phát ra mỗi năm là bao nhiêu.

Bấy giờ số tiền th́ có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400 quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng th́ có năm thu được 830 lượng, có năm được 890 lượng. Bạc th́ thứ giáp-ngân (?) có năm thu được 240 lượng, có năm được 390 lượng; thứ dung-ngân (?) có năm được 2.400 lượng, có năm được 1.800 lượng; thứ kê-ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có năm không có đồng nào.

Tính đổ đồng lại từ năm bính-dần (1746) đến năm nhâm-thân (1752) nghĩa là trong 7 năm, số vàng được 5.768 lượng, số giáp ngân được 9.978 lượng, số dung-ngân được 14.276 lượng, số kê-ngân được 21.150 đồng.

Từ đó trở đi mỗi năm phải làm sổ kê rơ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng giêng năm sau dâng lên để chúa xem.

Những tiền tiêu trong nước, th́ có tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ thái-b́nh.

6. Lấy đất Chiêm-Thành.

Trước Trịnh Kiểm chỉ cho Nguyễn Hoàng vào trấn-thủ đất Thuận-hóa mà thôi; sau đến năm canh-ngọ (1570) họ Trịnh đ̣i quan trấn-thủ Quảng-nam là Nguyễn Bá Quưnh về trấn đất Nghệ-an, để đất Quảng-nam cho Nguyễn Hoàng kiêm lĩnh.

Năm tân-hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm-thành lấy đất lập ra phủ Phú-yên; chia ra làm hai huyện là Đồng-xuân và Tuyên-ḥa. Đến năm quí-tị (1653) vua nước Chiêm-thành là Bà Thấm sang quấy-nhiễu ở đất Phú-yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai-cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan-lang trở vào cho vua Chiêm, c̣n từ sông Phan-lang trở ra lấy làm Thái-ninh-phủ, sau đổi làm phủ Diên-khánh (tức là Khánh-ḥa bây giờ), đặt dinh Thái-khang để Hùng Lộc làm thái-thú.

Năm quí-dậu (1693) vua nước Chiêm-thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng-binh là Nguyễn hữu Kính (con Nguyễn hữu Dật) đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần-tử là Tả trà Viên, Kế bà Tử cùng thân-thuộc là Bà Ân đem về Phú-Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm-thành làm Thuận-phủ, cho Tả trà Viên, Kế bà Tử làm chức Khám-lư và ba người con của Bà Ân làm đề đốc giữ Thuận-phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt-nam để phủ dụ dân Chiêm- thành. Qua năm sau lại đổi Thuận-phủ ra làm Thuận-thành-trấn, cho Kế bà Tử làm tả-đô-đốc. Năm đinh-sửu (1697) chúa Nguyễn đặt phủ B́nh-thuận lấy đất Phan-lư (Phan-tri) Phan-lang (Phan-rang) làm huyện Yên-phúc và huyện Ḥa-đa.

Từ đó nước Chiêm-thành mất hẳn.

Nước Chiêm-thành chính là nước Lâm-ấp ngày trước đă từng qua mấy trăm năm, cùng với họ Lư, họ Trần đối địch, chống với quân Mông-cổ, không cho xâm phạm vào cơi, lập nên một nước có vua, có tôi, có chính-trị, có luật-pháp. Nhưng chỉ hiềm v́ người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở đất Việt-nam, thành ra hai nước không mấy khi ḥa hiếu được với nhau.

Đă là đối địch th́ không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo- hóa là: khỏe c̣n, yếu chết. V́ vậy cho nên từ khi vua Thánh-tông nhà Lê đă lấy đất Quảng nam và đă chia nước Chiêm ra làm 3 nước rồi, th́ từ đó về sau thế-lực nước ấy mỗi ngày một kém, dân t́nh mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng-loại Chiêm-thành bây giờ cũng chẳng c̣n được mấy ngh́n người nữa. Một nước trước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc ḷng, song nghĩ cũng thương-tâm thay cho những nước yếu-hèn không tránh khỏi được cái họa: cá nhỏ bị cá lớn nuốt.

7. Mở đất Nam-Việt và sự giao thiệp với Chân-Lạp.

Nguyên nước Chân-lạp ở vào quăng dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ng̣i, ruộng đất th́ nhiều mà nước Nam ta thường hay mất mùa, dân-t́nh phải đói khổ luôn, và lại vào lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô-xoài (Bà-rịa) và ở Đồng- nai (nay thuộc Biên-ḥa).

Năm mậu-tuất (1658) vua nước Chân-lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc huyện Phước- chánh, tỉnh Biên-ḥa) bắt được vua nước ấy là Nặc ông Chân đem về giam ở Quảng-b́nh một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và phải bênh- vực người Việt-nam sang làm ăn ở bên ấy.

Năm giáp-dần (1674), nước Chân-lạp có người Nặc ông Đài đi cầu- viện nước Tiêm-la để đánh Nặc ông Nộn.

Nặc ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái-khang (nay là Khánh-ḥa). Chúa Hiền bèn sai Cai-cơ đạo Nha-trang là Nguyễn dương Lâm cùng với Nguyễn đ́nh Phái làm tham-mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc ông Đài, phá được đồn Sài-g̣n, rồi tiến quân lên vây thành Nam- vang. Nặc ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc ông Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính ḍng con trưởng cho nên lại lập làm chánh quốc-vương đóng ở Long-úc, để Nặc ông Nộn làm đệ-nhị quốc-vương, đóng ở Sài-g̣n, bắt hằng năm phải triều cống.

Năm kỷ-tị (1679) có quan nhà Minh là tổng-binh trấn-thủ đất Long- môn (Quảng-tây) Dương ngạn Địch, phó-tướng Hoàng Tiến, tổng-binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng-đông) là Trần Thượng Xuyên, phó-tướng Trần an B́nh, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt-nam. Chúa Hiền nhân muốn khai-khẩn đất Chân-lạp, bèn cho vào ở đất Đông-phố (tức là đất Gia định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc đă (tức là đất Đồng-nai thuộc Biên-ḥa), ở Mỹ-tho (thuộc Định-tường), ở Ban-lân (thuộc Biên-ḥa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường-phố, có người phương tây, người Nhật-bản, người Chà-và đến buôn bán đông lắm.

Năm mậu-th́n (1688) những người khác ở Mỹ-tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương ngạn Địch đi, rồi đem chúng đóng đồn ở Nan-khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân-lạp. Vua Chân-lạp là Nặc ông Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần-phục chúa Nguyễn nữa.

Bấy giờ chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân-lạp phải theo lệ triều-cống.

Năm mậu-dần (1698) chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Kính làm kinh-lược đất Chân-lạp, chia đất Đông-phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng-nai làm huyện Phúc-long và Sài-g̣n làm huyện Tân-b́nh. Đặt Trấn-biên dinh (tức là Biên-ḥa) và Phan-trấn dinh (tức là Gia định) sai quan vào cai-trị. Lại chiêu-mộ những kẻ lưu dân từ Quảng-b́nh trở vào để lập ra thôn-xă và khai-khẩn ruộng đất. C̣n những người Tàu ở đất Trấn-biên (Biên-ḥa) th́ lập làm xă Thanh-hà, những người ở đất Phan-trấn (Gia định) th́ lập làm xă Minh-hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.

Bấy giờ lại có người khách Quảng đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân-lạp, thấy ở phủ Sài-mạt có nhiều người các nước đến buôn-bán, bèn mở ṣng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu-mộ những lưu dân lập ra 7 xă, gọi là Hà-tiên. Năm mậu-tí (1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa phong cho làm chức tổng- binh, giữ đất Hà-tiên.

Đến khi Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc thiên Tứ làm chức đô đốc, trấn ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho-học để khai-hóa đất Hà- tiên.

Thời bấy giờ đất Chân-lạp cứ loạn lạc luôn. Năm kỷ-măo (1699) vua nước ấy là Nặc ông Thu đem quân chống với quân chúa Nguyễn, chúa sai quan tổng-suất Nguyễn hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Nam- vang, Nặc ông Thu bỏ chạy, con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm mở cửa thành ra hàng. Sau Nặc ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều-cống như cũ. Quân ta rút về.

Được ít lâu vua thứ hai là Nặc ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc ông Thu phong cho con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc ông Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc ông Thâm.

Năm ất-dậu (1705) Nặc ông Thâm nghi cho Nặc ông Yêm có ư làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc ông Thâm lại đem quân Tiêm-la về giúp ḿnh. Nặc ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia định.

Chúa Nguyễn sai quan cai-cơ là Nguyễn cửu Vân sang đánh Nặc ông Thâm. Nguyễn cửu Vân sang phá được quân Tiêm-la; đem Nặc ông Yêm về thành La-bích. Từ đó Nặc ông Thâm ở Tiêm-la cứ thỉnh-thoảng đem quân về đánh Nặc ông Yêm.

Năm giáp-ngọ (1714) quân của Nặc ông Thâm về lấy thành La-bích và vây đánh Nặc ông Yêm nguy-cấp lắm. Nặc ông Yêm sai người sang Gia định cầu-cứu. Quan đô đốc Phiên-trấn (Gia-định) là Trần thượng Xuyên và quan phó-tướng Trấn-biên (Biên-ḥa) là Nguyễn cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm ở trong thành La-bích. Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm sợ-hăi, bỏ thành chạy sang Tiêm-la. Bọn ông Trần thượng Xuyên lập Nặc ông Yêm lên làm vua Chân-lạp.

Năm tân-hợi (1729) quân Chân-lạp sang quấy-nhiễu ở hạt Gia định. Chúa Nguyễn bèn đặt sở Điều-khiển để thống-nhiếp việc binh ở mạn ấy.

Năm bính-th́n (1736) Nặc ông Yêm mất, con là Nặc ông Tha lên làm vua. Đến năm mậu-th́n (1747) Nặc ông Thâm lại ở bên Tiêm-la về, cử binh đánh đuổi Nặc ông Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc ông Tha phải bỏ chạy sang Gia định.

Được ít lâu Nặc ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều-khiển là Nguyễn hữu Doăn đem quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc ông Tha về nước.

Nặc ông Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc ông Thâm là Nặc Nguyên đem quân Tiêm-la sang đánh đuổi đi. Nặc ông Tha chạy sang chết ở Gia định.

Nặc Nguyên về làm vua Chân-lạp thường hay hà-hiếp rợ Côn-man 110

và lại thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết t́nh-ư ấy, đến năm quí-dậu (1753), sai Nguyễn cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm ất-hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam-vang chạy sang Hà-tiên nhờ Mạc thiên Tứ.

Năm sau Mạc thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm-bôn và Lôi-lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn cư Trinh dâng sớ bày-tỏ cách khai- thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, th́ mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân-lạp.

Năm đinh-sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám-quốc. Nặc Nhuận c̣n đang lo để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua, th́ bị người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.

Quan tổng-suất là Trương phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc-hạ giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc thiên Tứ ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm vua Chân-lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước.

Nặc Tôn dâng đất Tầm-phong-long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương phúc Du và Nguyễn cư Trinh đem dinh Long-hồ về xứ Tầm-bào, tức là chỗ tỉnh-lỵ tỉnh Vĩnh-long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là Đông-khẩu đạo ở Sa-đéc, Tân-châu đạo ở Tiền-giang và Châu đốc đạo ở Hậu-giang.

Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương-úc, Cần-bột, Trực-sâm, Sài-mạt và Linh-quỳnh để tạ ơn Mạc thiên Tứ. Mạc thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà-tiên cai-quản.

Vậy đất 6 tỉnh Nam-Việt bây giờ là đất lấy của nước Chân-lạp mà người Việt-nam khai-thác ra. [110 ]

Côn-man là chỗ những người Chiêm Thành sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp

8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-La.

Tiêm-la là một nước ở về phía tây-nam sông Mê-kông ḍng đơi người Thái sang ở đấy.

Cứ theo sử ta và sử Tàu th́ thoạt đầu tiên gọi là nước Phù-nam. Đến quăng nhà Tùy và nhà Đường bên Tàu là vào quăng thế-kỷ thứ sáu, thứ bảy th́ đất Phù-nam chia ra làm hai: một nửa về phía đông có một dân-tộc khác đến lập ra nước Chân-lạp, c̣n một nửa về phía tây th́ người Phù-nam ở gọi là nước Xích-thổ.

Vào quăng nhà Tống, nhà Kim (thế-kỷ thứ XI, thứ XII) th́ nước Xích- thổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là La-hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế-kỷ thứ XIII, thứ XIV) th́ sử có chép hai nước ấy sang cống.

Về sau nước La-hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêm- la-hộc. Đến đầu nhà Minh (cuối thế-kỷ thứ XIV) vua nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái-tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm-la 111 .

Nước Tiêm-la lúc đầu c̣n nhỏ-yếu, thường bị người Chân-lạp áp- chế. Sau cường-thịnh dần dần lên, rồi vào khoảng năm Vạn-lịch (1573- 1620) nhà Minh, nước Tiêm-la lại đánh Chân-lạp mà hùng-bá cả phương ấy.

Trong thời ấy vua Tiêm-la là Phra Naroi ḍng dơi nhà Ayouthia dùng một người Hi-lạp tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua giao-thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ-thần Tiêm-la sang bái-yết Pháp-hoàng Louis XIV ở tại Versailles.

Thủa bấy giờ chúa Nguyễn c̣n đang khai sáng ở đất Phú-yên, Khánh-ḥa, nhưng về sau chúa Nguyễn lấy hết đất Chiêm-thành, lại lấn sang đất Chân-lạp. Người Tiêm-la có ư muốn ngăn-trở để giữ lấy Chân-lạp làm của ḿnh. Nhưng v́ thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để chúa Nguyễn sang bảo-hộ Chân-lạp.

Tuy vậy nước Tiêm-la thường hay dùng những người phản đối với vua Chân-lạp, rồi giúp binh-lực cho về làm loạn trong nước. Nhiều khi quân ta phải sang đánh đuổi quân Tiêm-la để giúp quốc-vương Chân-lạp. Cũng có khi quân Tiêm-la sang đánh ở đất Hà-tiên, như năm ất-tị (1715) người Chân-lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm-la sang cướp phá, quan tổng-binh Hà-tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy. [111]

Nước Thái Lan ngày nay.

Quân ta và quân Tiêm-la đă giao chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông sứ với nhau. Măi đến năm canh-ngọ (1750) đời chúa Nguyễn là Vơ-vương Nguyễn-phúc Khoát, th́ mới thấy sử chép rằng chúa sai quan đem thư sang trách nước Tiêm-la dung-túng kẻ nghịch-thần để làm loạn nước Chân-lạp.

Năm ất-hợi (1755) nước Tiêm-la sai sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước ấy sang buôn-bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc-lệ đă đặt ra không thể bỏ đi được.

Năm đinh-hợi (1767) quân nước Diến-Điện sang đánh Tiêm-la bắt được vua nước ấy là Phong-vương 112

và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn người dân đem về Diến-Điện. C̣n những người con của Phong-vương là Chiêu xỉ Khang th́ chạy sang Chân-lạp và Chiêu Thúy th́ chạy sang Hà-Tiên.

Bấy giờ nước Tiêm-la không có vua, chức Phi-nhă (Phya) đất Mang- tát là Trịnh quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh quốc Anh là người Triều-châu, tỉnh Quảng đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm-la làm trưởng ở Mang-tát. Yển chết, Trịnh quốc Anh lên nối nghiệp xưng là Phi-nhă, là một chức xă-trưởng vậy.

Trịnh quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân-lạp là Nặc Tôn phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh quốc Anh không phải là ḍng dơi người Tiêm-la, không chịu cống.

Vua Tiêm-la lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân-lạp tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân Tiêm-la không làm ǵ được lại phải rút về.

Trịnh quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy c̣n ở Hà-tiên, sợ ngày sau sinh ra biến loạn, bèn đến tháng 10 năm tân-măo (1771) đem binh- thuyền sang vây đánh Hà-tiên. Quan tổng-binh là Mạc thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy.

Vua Tiêm-la để tướng là Trần Liên, ở lại giữ Hà-tiên rồi tiến quân sang đánh Chân-lạp. Quốc-vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm-la đóng quân ở thành Nam-vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân-lạp. [112]

Vua nước Tiêm La bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương

Tháng 6 năm sau (1772) chúa Nguyễn sai quan tổng-suất là Nguyễn cửu Đàm lĩnh chức Điều-khiển đem binh-thuyền đi đánh quân Tiêm-la. Quân của Nguyễn cửu Đàm tiến sang đến Nam-vang, quân Tiêm-la bỏ chạy về Hà-tiên, Nặc Non cũng chạy về Cầu-bột.

Nặc Tôn lại về làm vua Chân-lạp.

Vua Tiêm-la về đến Hà-tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc thiên Tứ về để giảng-ḥa. Mạc thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm-la bèn để Trần Liên ở lại giữ Hà-tiên, rồi bắt con gái Mạc thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước.

Năm sau Mạc thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm-la xin ḥa. Vua Tiêm-la gọi Trần Liên về và cho người con gái của Mạc thiên Tứ về Hà-tiên. C̣n Chiêu Thúy th́ đem giết đi.

Từ đó Mạc thiên Tứ lại về giữ đất Hà-tiên.

9. Lập dinh định phủ.

Lúc đầu, Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận-hóa th́ đóng dinh ở làng Ái-tử (thuộc huyện Đăng-xương, gần tỉnh-lỵ tỉnh Quảng-trị). Được 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà-bát ở huyện ấy, tức là Cát Dinh. Đến năm bính-dần (1626) chúa Săi là Nguyễn phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc-an (thuộc huyện Quảng-điền, tỉnh Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.

Năm bính-tí (1636) chúa Thượng là Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim-long (thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên).

Năm đinh-măo (1687) chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Trăn đem phủ về làng Phú-xuân, tức là đất Kinh-thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái-tông-miếu, thờ chúa Hiền.

Năm giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng vương-hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa-sang phép-tắc, và định triều-phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.

1. Chính dinh (Phú-xuân) 2. Cựu dinh (Ái-tử) 3. Quảng-b́nh dinh 4. Vũ-xá dinh 5. Bố-chính dinh 6. Quảng-nam dinh 7. Phú-yên dinh | 8. B́nh-khang dinh | đất Chiêm-thành 9. B́nh-thuận dinh | 10. Trấn-biên dinh } 11. Phiên-trấn dinh } đất Chân-lạp 12. Long-hồ dinh }

Dinh nào cũng đặt quan Trấn-thủ, quan Cai-hạ, quan Kư-lục để coi việc cai-trị. C̣n phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhơn th́ thuộc về tỉnh Quảng- nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ và quan Khám-lư để coi mọi việc. Đất Hà-tiên th́ đặt là Trấn, có quan đô đốc cai-trị.

Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa miền nam, nhưng trước th́ vẫn giữ chức vua Lê phong cho, măi đến đầu thế-kỷ thứ XVIII năm nhâm-ngọ (1702) Nguyễn phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh để xin phong làm vua, nhưng Thanh-triều nói rằng nước Nam c̣n có họ Lê không phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn-phúc Chu bèn xưng là quốc-chúa và đúc cái ấn Đại-Việt-Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo để làm cái Truyền-quốc-bảo, đến đời vua Thế-tổ mới thôi. Đến năm giáp-tí (1744) Nguyễn-phúc Khoát mới xưng vương-hiệu và đổi lại chế độ, định ra triều-nghi.

Bấy giờ đất phía nam tuy độc-lập, nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc-hiệu. Nhưng người ngoại-quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng-nam quốc. Đấy là v́ ở Quảng-nam có phố Hội-an (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng-nam mà gọi.

C̣n những công-việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan-trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở-mang bờ-cơi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu-mộ những người nghèo-khổ trong nước đưa đi khai-hóa những đất ph́-nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam-Việt bây giờ phồn-phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm vậy.

 

CHƯƠNG VII

Người Âu-châu sang nước Nam

I. SỰ ĐI T̀M ĐẤT

1. Người Âu-châu sang Á-đông

2. Người Âu-châu sang đất Việt-nam

II. SỰ ĐI TRUYỀN GIÁO

1. Đạo Thiên-chúa

2. Đạo Thiên-chúa sang nước Việt-nam

Nguyên người Âu-la-ba đi du-lịch thiên-hạ là v́ có hai cớ: một là đi ́m đất để buôn-bán, hai là để truyền-bá tông-giáo Thiên-chúa ở các nước.

1. Sự đi t́m đất.

Người Âu-châu sang Á đông - Từ đời La- mă, đă có sách chép người Âu-châu sang đến nước Tàu, nhưng không rơ cách giao-thiệp ra làm sao; đến thập-tam thế-kỷ mới có ông Marco Polo, người nước I-ta-li sang ở triều nhà Nguyên về đời vua Thế-tổ Tất Liệt hằng 17 năm, rồi sau đi qua Ấn-độ-dương về nước, làm ra quyển sách: "Thế-giới kỳ-quan" (Les merveilles du monde), kể những chuyện ông ấy đă biết.

Về sau vào thập-ngũ thế-kỷ, ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) dùng địa-bàn chỉ nam (boussole) định đi qua Đại-tây dương sang Ấn độ, rồi t́m thấy châu A-mỹ-lị-gia (Amérique); đến năm 1479, người Bồ đào-nha (Portugal) tên là Vasco de Gama đi ṿng qua Hảo-vọng-giác (Cap de Bonne Espérance) sang Ấn-độ-dương vào đất Ấn độ. Năm 1521 lại có người Bồ đào-nha tên là Magellan đi qua Ấn độ dương sang Thái-b́nh-dương vào đất Phi-luật-tân (Philippines).

Từ đó về sau người Bồ đào-nha (Portugal) mới sang Tây-ban-nha (Espagne) và người Ḥa-lan (Hollande) mới sang Á đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn-bán như sau này:

Năm quí-hợi (1563) về đời Gia-tĩnh nhà Minh, người Bồ-đào-nha đến ở đất Áo-môn (Macao) nước Tàu.

Năm mậu-th́n (1568) người Tây-ban-nha sang lấy đất Phi-luật-tân làm thuộc địa.

Năm bính-thân (1596) người Ḥa-lan sang lấy đất Trà-và (Java) làm thuộc địa. Về sau dần dần người Bồ-đào-nha, người Pháp-lan-tây (France) và người Anh-cát-lợi (Angleterre) đến ở đất Ấn độ.

Người Âu-châu sang đất Việt-nam. Người Âu-châu sang buôn-bán ở nước ta, th́ có người Bồ-đào-nha đến ở xứ Nam trước hết cả, mở cửa hàng ở phố Hội-an (tức là Faifo) thuộc đất Quảng-nam. Ở đấy lại có người Tàu, người Nhật-bản và người Ḥa-lan đến buôn-bán nhiều lắm. Sách của ông Maybon và Russier có chép rằng năm giáp dần (1614) đời chúa Săi đă có người Bồ-đào-nha tên là Jean de la Croix đến lập ḷ đúc súng ở đất Thuận- hóa, mà bây giờ ở Huế người ta c̣n gọi chỗ ấy là Phường đúc.

Ở ngoài Bắc th́ trước đă có tàu của người Bồ-đào-nha ra vào buôn-bán, nhưng măi đến năm đinh-sửu (1637) đời vua Thần-tông nhà Lê, Thanh đô- vương Trịnh Tráng mới cho người Ḥa-lan đến mở cửa hàng ở Phố-Hiến (gần chỗ tỉnh-lỵ Hưng-yên bấy giờ). Về sau ở đấy có người Nhật-bản, người Tàu, người Tiêm-la đến buôn-bán kể có 2.000 nóc nhà, làm thành ra chỗ vui-vẻ lắm, cho nên tục-ngữ bấy giờ có câu rằng:

" Thứ nhất Kinh-kỳ, thứ nh́ Phố-hiến "

Lúc bấy giờ người Bồ-đào-nha sang buôn-bán ở trong Nam nhiều hơn, mà ở ngoài Bắc th́ có người Ḥa-lan nhiều hơn, nhưng thủa ấy người hai nước ấy hay tranh-cạnh với nhau, bởi thế chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ư muốn nhân cớ ấy mà nhờ họ giúp ḿnh. Song v́ lợi buôn-bán cho nên họ không chịu ra mặt giúp hẳn, thành ra lâu ngày các chúa cũng chán và lại lôi-thôi về việc tông-giáo, cho nên đến năm canh-th́n (1700) đời vua Lê Hi-tông, người Ḥa-lan thôi không vào buôn-bán ở ngoài Bắc nữa.

Đời bấy giờ người Anh-cát-lợi và người Pháp-lan-tây cũng vào buôn- bán ở nước ta. Năm nhâm-tí (1672) đời vua Lê Hi-tông, người Anh-cát-lợi đem chiếc tàu Zant vào xin mở cửa hàng buôn-bán, chúa Trịnh cho xuống ở Phố-hiến, nhưng v́ sau sự buôn-bán không được thịnh-lợi, người Anh-cát-lợi chỉ ở đến năm đinh-sửu (1697) rồi thôi.

C̣n người Pháp-lan-tây th́ từ năm canh-thân (1680) đă có tàu vào xin mở cửa hàng ở Phố-hiến; đến năm nhâm-tuất (1682) lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Tiêm-la sang đem phẩm-vật dâng chúa Trịnh.

Ở trong Nam th́ năm bính-dần (1686) có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù-lao Côn-lôn. Đến năm kỷ-tị (1749) lại có một người Pháp tên là Poivre đi chiếc tàu Machault vào cửa Hội-an, xin vào yết- kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc-thư cùng phẩm-vật để tỏ t́nh giao hiếu của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp vào thông-thương. Nhưng chẳng được bao lâu th́ công-ty của Pháp ở Ấn độ băi đi, cho nên sự thông thương với người Pháp cũng băi.

Sự đi truyền giáo.

Đạo Thiên-chúa. Nguyên khi xưa toàn xứ Âu-la-ba không có nhất định một tông-giáo nào cả. Mỗi dân-tộc thờ một vị thần riêng của ḿnh. Thường hay lấy cái lực hoạt động của tạo-hóa mà tưởng-tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như dân- tộc Hi-lạp (Grec) và dân-tộc La-mă (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân-tộc Do-thái (Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đă được độc-lập, chỉ thờ một vị thần gọi là Jéhovah sinh-hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà thôi. Đến đời dân La-mă đă kiêm-tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc A-phi-lị-gia và đất tây-nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc về La-mă, mà đạo Do-thái bấy giờ cũng đă suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái mà lập ra đạo mới  [113]

dạy người lấy sự yêu-mến và tôn-kính Thiên-chúa làm gốc, lấy bụng từ-bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi truyền-bá các nơi. Ông Saint Pierre th́ sang lập giáo đường ở tại Kinh-thành La-mă, ông Saint Paul th́ đi truyền đạo ở khắp trong nước.

Lúc đầu đạo Thiên-chúa bị nhiều phen vua La-mă nghiêm-cấm, dùng cực h́nh mà giết hại các giáo-sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dẫu nguy-nan thế nào mặc ḷng, các môn đồ cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn phương. Măi đến đầu đệ-tứ thế-kỷ (313) vua La-mă là Constantin mới cho giảng đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa một ngày một thịnh, lập Giáo-hoàng để thống-nhất việc giáo, đặt Giám-mục để coi việc giáo ở các nơi, lại sai giáo-sĩ đi truyền đạo khắp trong thiên-hạ: hễ ở đâu có người là có giáo-sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo Thiên-chúa cả.  [113]

Đạo của ông Gia Tô lập ra cho nên ta thường gọi là đạo Gia Tô, lại v́ đạo ấy chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi, cho nên lại gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là Cơ đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế.

Bên Á đông ta th́ từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh- giáo 114

tức là một phái Gia-tô-giáo đă sang Tàu, nhưng v́ bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo Cảnh-giáo mất dần đi. Măi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới thật có giáo-sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu.

Đạo Thiên-chúa sang nước Nam. Ở nước Nam ta từ khi đă có người Âu-la-ba sang buôn bán, th́ tất là có giáo-sĩ sang dạy đạo. Cứ theo sách Khâm định Việt-sử, th́ từ năm Nguyên-ḥa nguyên-niên đời vua Trang-tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên-chúa ở làng Ninh-cường, làng Quần-anh, thuộc huyện Nam-chân (tức là Nam-trực) và ở làng Trà-lũ, thuộc huyện Giao-thủy.

Sách Nam-sử của Trương vĩnh Kư chép rằng năm bính-thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người giáo-sĩ Tây-ban-nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo ở trong Nam trước hết cả. Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ư quấy-nhiễu ǵ chăng, bèn đuổi đi.

Đến năm ất-măo (1615) đời chúa Săi, giáo-sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm giáp-tí (1624) có giáo-sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú-xuân và lập ra các giáo đường. Năm bính-dần (1626) đời vua Lê Thần-tông, giáo-sĩ là Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi. Được ít lâu ông Jean Rhodes ở trong Nam ra Bắc vào yết-kiến chúa Trịnh và đem dâng các đồng- hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được giảng đạo tại Kinh đô.

Từ đó về sau các giáo-sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người ḿnh càng ngày càng theo đạo cũng nhiều. Nhưng v́ nước ta tự xưa đến nay vẫn theo Nho-giáo, lấy sự thờ-cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế-tự thần-thánh làm phải, mà lệ nước th́ lấy sự cúng-tế làm một việc rất quan- trọng. Đột nhiên thấy nhiều người ḿnh theo đạo Thiên-chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm hủy-hoại cả cái phong-hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ đụ ấy.

Cứ theo trong sử th́ năm tân-vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn-phúc Lan cấm không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước.  [114]

Cảnh giáo là một phái đạo Gia Tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ ngũ thế kỷ ở Đông La Mă, rồi truyền sang nước Ba Tư (Perse) và nước Tàu.

Năm quí-măo (1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo-sĩ và cấm không cho người ḿnh theo đạo Gia-tô.

Năm giáp-th́n (1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà-nẵng.

Năm bính-tí (1696) đời vua Lê Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá hết cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước.

Năm nhâm-th́n (1712) đời vua Lê Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia-tô phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa-lan đạo" 115 .

Năm giáp-tuất (1754) đời Cảnh-hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm-cấm một cách rất ngặt, không cho người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo- trưởng và đạo đồ.

Từ đó về sau việc cấm đạo một ngày một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng không lấy luật nước làm sợ, cứ cố sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần dần người trong nước phân ra bên lương bên giáo, ghen-ghét nhau hơn người cừu địch. Vua quan th́ thấy dùng phép thường không cấm được, mới dùng đến cực h́nh để mà trừng-trị, giết hại bao nhiêu người vô tội.

Tóm lại mà xét, th́ giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà thôi, th́ chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có lẽ ǵ mà ngăn-cấm; nhưng bởi v́ khi đă quan-hệ đến việc sùng-tín, th́ dù hay dở thế nào mặc ḷng, người ta ai cũng cho sự sùng-tín của ḿnh là phải hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế-lực để mà đè-nén nhau. Cũng v́ thế cho nên về sau nước ta không chịu suy-xét lẽ phải-trái cho kỹ-càng, làm lắm sự tàn-ác để đến nỗi mất cả sự ḥa-hiếu với các nước ở Tây dương và gây nên cái mối biến-loạn cho nước nhà vậy.  [115]

Hoa Lan tức là Ḥa Lan (Hollande). Người Ḥa Lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Ḥa Lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây th́ thường cứ gọi là Ḥa Lan

 

CHƯƠNG VIII

Vận Trung Suy của Chúa Nguyễn

1. Trương Phúc Loan chuyên quyền 2. Tây Sơn dấy binh 3. Quân họ Trịnh vào lấy Phú Xuân 4. Chúa Nguyễn vào Gia Định 5. Nguyễn Vương khởi binh đánh Tây Sơn 6. Nguyễn Vương định cầu viện nước Pháp Lan Tây 7. Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La

1. Trương Phúc Loan chuyên quyền.

Từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam: phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.

Năm ất dậu (1765) Vũ Vương mất. Bấy giờ thế tử đă mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hăy c̣n nhỏ, mà người con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Tờ di chiếu để lại định lập người con thứ hai lên nối nghiệp chúa 116 . Nhưng khi ấy người quyền thần là Trương Phúc Loan, ư muốn chuyên quyền làm bậy, bèn đổi tờ di chiếu đi mà lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi, lên làm chúa, gọi là Định Vương.

Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác, trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế cho nên, ở phía nam th́ có Tây Sơn dấy binh đánh phá tại đất Qui Nhơn; ở mặt bắc th́ có quân họ Trịnh vào lấy đất Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ vậy.  [116]

Tức là hoàng khảo vua Thế Tổ, sau truy tôn là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế. 2. Tây Sơn Dấy Binh.

Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly (nay đổi là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối với chúa Nguyễn.

Nguyên ông tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quư Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn 117

thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ.

Anh em ông Nhạc muốn khởi loạn, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, v́ rằng đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn.

Nguyễn Nhạc trước làm biện lại ở Vân Đồn, cho nên sau người ta thường gọi là biện Nhạc. Nhưng v́ tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào rừng làm giặc. Đến năm tân măo (1771) mới lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người theo về càng ngày càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cho nên những kẻ nghèo khổ theo phục rất nhiều.

Thế Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh, quân nhà chúa đánh không được. Vả lại Nhạc là một người có can đảm và lắm cơ trí; một hôm định vào lấy thành Qui Nhơn, bèn lập mưu, ngồi vào trong cái cũi, cho người khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy là Nguyễn Khắc Tuyên. Nguyễn Khắc Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành. Đến nửa đêm, Nhạc phá cũ ra, mở cửa thành cho quân ḿnh vào đánh đuổi quan quân đi, giữ lấy thành Qui Nhơn làm chỗ căn bản. Bấy giờ lại có mấy người khách buôn tên là Tập Đ́nh và Lư Tài cũng mộ quân nổi lên theo giúp Tây Sơn. Nguyễn Nhạc chia quân ra làm 5 đồn là: trung, tiền, hậu, tả, hữu, rồi tiến lên đánh lấy đất Quảng Nam. Chẳng bao lâu từ đất Quảng Nghĩa bây giờ vao cho đến B́nh Thuận đều thuộc về Tây Sơn cả.

3. Quân Họ Trịnh vào lấy Phú Xuân.

Đang khi trong Nam có quyền thần chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh Sâm biết t́nh trạng như vậy, bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ hơn 3 vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng  [117]

Ấp Tây Sơn nay là đất thôn An Khà và thôn Cửu An thuộc phủ Hoài Nhân. V́ anh em Nguyễn Nhạc khởi nghiệp ở chỗ ấy, nên mới gọi là Tây Sơn. Đ́nh Thể, Hoàng Đ́nh Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả nói là vào đánh Trương Phúc Loan.

Đến tháng 10 năm giáp ngọ (1774) quân Hoàng Ngũ Phúc sang sông Linh Giang, sai Hoàng Đ́nh Thể đem binh đến đánh lấy lũy Trấn Ninh, nhờ có nội ứng, cho nên không đánh mà lấy được lũy. Trịnh Sâm được tin Hoàng Ngũ Phúc đă phá được thành Trấn Ninh rồi, bèn quyết kế đem đại binh đi vào tiếp ứng. Đến tháng chạp th́ quân của Ngũ Phúc tiến lên đóng ở làng Hồ Xá (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị) rồi truyền hịch đi nói rằng quân Bắc chỉ vào đánh Trương Phúc Loan mà thôi, chứ không có ư ǵ khác cả. Các quan ở Phú Xuân bèn mưu bắt Phúc Loan đem nộp.

Hoàng Ngũ Phúc bắt được Trương Phúc Loan rồi, lại tiến binh đến huyện Đăng Xương, sai người đưa thư đến Phú Xuân nói rằng Phúc Loan tuy đă trừ, nhưng mà Tây Sơn hăy c̣n, vậy xin đem binh đến hội tại Phú Xuân để cùng đi đánh giặc.

Chúa Nguyễn biết mưu Hoàng Ngũ Phúc chực đánh lừa để lấy kinh thành, bèn sai Tôn Thất Tiệp cùng với quan Chưởng cơ là Nguyễn Văn Chinh đem thủy bộ quân ra án ngữ ở sông Bái Đáp Giang (nay gọi là Phu lệ ở huyện Quảng Điền). Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đ́nh Thể đem binh đi lên đường núi rồi tiến binh hai mặt đánh ập lại, quân họ Nguyễn vỡ tan bỏ chạy cả, quân Bắc tiến lên lấy thành Phú Xuân, chúa Nguyễn và các quan chạy vào Quảng Nam.

Bấy giờ Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung, được tin Hoàng Ngũ Phúc đă lấy được Phú Xuân rồi, mừng lắm, sai quan đưa cho Ngũ Phúc 100 lạng vàng, và cho các tướng sĩ 5000 lạng bạc, lại phong cho Ngũ Phúc làm Đại Trấn Phủ, đất Thuận Hóa để lo việc lấy đất Quảng Nam. Đoạn rồi Trịnh Sâm rút quân về Bắc.

4. Chúa Nguyễn vào Gia Định.

Chúa Nguyễn vào đến Quảng Nam đóng ở Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm đông cung, để lo việc đánh giặc. Được mấy tháng quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa Nguyễn đánh không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn.

Chúa Nguyễn liệu chừng không chống giữ được, bèn cùng người cháu là ông Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định, để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống giữ với giặc. Đông cung đóng đồn ở làng Câu Để (thuộc huyện Ḥa Vinh).

Nguyễn Nhạc biết Đông cung yếu thế, và lại muốn lấy tiếng để mà sai chúng, bèn sai người đi rước Đông cung về đóng ở phố Hội An (Faifo, thuộc Quảng Nam).

Ngay lúc ấy quân của Hoàng Ngũ Phúc đă qua Hải Vân Sơn vào lấy đồn Trung Sơn và đồn Câu Để ở huyện Ḥa Vinh, Nguyễn Nhạc sai người khác là Tập Đ́nh làm tiên phong, Lư Tài làm trung quân, tự ḿnh làm hậu tập ra đánh nhau với quân họ Trịnh ở làng Cẩm Sa (thuộc Ḥa Vinh). Quân của Tập Đ́nh đều là người khách Quảng Đông và những người mọi to lớn, ai nấy cởi trần ra đội khăn đỏ cầm phang, đeo khiên, đánh thật là hung mạnh. Quân tiền đội của Ngũ Phúc đương không nội, Ngũ Phúc mới sai Hoàng Đ́nh Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh vào xông trận, rồi bộ binh đánh tràn vào. Tập Đ́nh thua chạy. Nguyễn Nhạc và Lư Tài phải lùi về giữ bến Bản rồi đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tập Đ́nh vốn là người bạo ngược, Nguyễn Nhạc muốn nhân dịp thua trận bắt giết đi. Tập Đ́nh biết ư bỏ chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt được đem chém.

Lúc bấy giờ ở phía nam có quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống Phúc Hợp đem quân đánh lấy lại được ba phủ là B́nh Thuận, Diên Khánh và B́nh Khánh, rồi lại tiến binh ra đánh đất Phú Yên; ở phía bắc th́ có quân họ Trịnh đóng ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc liệu thế chống không nổi, bèn sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa ra nói với Hoàng Ngũ Phúc xin nộp đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu đi đánh họ Nguyễn.

Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn dùng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Định, bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm tiên phong tướng quân, Tây Sơn Hiệu trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Nhạc không lo mặt bắc nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái ḿnh là Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoảng đăi một cách rất tôn kính, rồi sai người giả đến nói với Tống Phúc Hợp xin về hàng để lo sự khôi phục lại đất Phú Xuân. Tống Phúc Hợp cho sứ đến xem hư thực, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, rồi viết thư cho sứ đưa về nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xă tắc, Tống Phúc Hợp tin là thực t́nh, không pḥng bị ǵ nữa.

Nguyễn Nhạc biết rơ t́nh h́nh, sai em là Nguyễn Huệ đem quân đến đánh Tống Phúc Hợp. Quân họ Nguyễn thua to bỏ chạy về giữ Vân Phong. Nguyễn Nhạc cho người đưa tin thắng trận ra cho Hoàng Ngũ Phúc biết. Ngũ Phúc xin chúa Trịnh phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu Tiên Phong Tướng Quân.

Quân Hoàng Ngũ Phúc đóng ở Châu Ổ, giáp đất Quảng Nghĩa, đến tháng chạp năm ấy là năm ất tị (1775) bị dịch chết mất nhiều. Ngũ Phúc viết thư ra xin chúa Trịnh cho rút về giữ Thuận Hóa. Trịnh Sâm thuận cho. Hoàng Ngũ Phúc về đến Phú Xuân th́ mất, chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào thay, và sai Lê Quư Đôn vào làm Tham Thị cùng giữ đất Thuận Hóa.

Đất Thuận Hóa bấy giờ kể từ đất Nam bố chính trở vào là 2 phủ: Triệu Phong và Quảng B́nh 118 , 2 huyện, 8 châu. Số nhân đinh được 126.857, số ruộng đất rộng được 265.508 mẫu, nhưng mà trừ đất rừng và các thứ đi, th́ c̣n được 153.181 mẫu phải đóng thuế.

Từ khi quân họ Trịnh lui về Thuận Hóa rồi, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây Sơn. Năm bính thân (1776) Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ đem thủy quân vượt bể vào đánh Gia Định, lấy được thành Sài Côn. Chúa Nguyễn phải chạy về Trấn Biên (tức là Biên Ḥa).

Bấy giờ ở Đông Sơn có Đỗ Thành Nhân khởI binh chống với Tây Sơn lấy lại thành Sài Côn. Nguyễn Lữ lấy thóc gạo rồi rút quân về Quy Nhơn.

Nguyễn Nhạc thấy thế ḿnh một ngày một mạnh, bèn sai sửa lại thành Đồ Bàn (là kinh thành cũ của Chiêm Thành ngày trước) rồi đến tháng ba năm bính thân (1776) tự xưng làm Tây Sơn Vương và phong chức tước cho mọi người. Bấy giờ Tây Sơn đem Đông Cung ra ở chùa Thập Tháp. Đông Cung bèn trốn xuống thuyền chạy về Gia Định.

Người khách Lư Tài trước đă bỏ Nguyễn Nhạc theo giúp chúa Nguyễn, rồi sau lại phản lại, đánh chúa Nguyễn, nay nghe Đông cung trốn về, lại đem binh rước về Sài Côn lập lên làm Tân Chính Vương, tôn Định Vương làm Thái Thượng Vương để cùng lo sự khôi phục.

Năm đinh dâu (1777) Nguyễn Nhạc sai người ra xin với chúa Trịnh cho trấn thủ đất Quảng Nam, Trịnh Sâm bấy giờ cũng chán sự dụng binh, bèn nhân dịp phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên Úy đại sứ, Cung Quận Công.

Nguyễn Nhạc được phong rồi, không phải pḥng giữa mặt bắc nữa, bèn sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem thủy bộ quân vào đánh Gia Định. Lư Tài chống khôngh nổi phải bỏ chạy. Tân Chính Vương chạy về bến Trà (thuộc Định Tường) rồi lại chạy về Ba vát (thuộc Vĩnh Long), c̣n Thái [118]

Triệu Phong phủ có 5 huyện; Quảng B́nh phủ có 3 huyện 1 châu. Thượng Vương th́ chạy về Long Xuyên. Nhưng chẳng bao lậu Nguyễn Huệ đem quân đuổi bắt được cả Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương, đem giết đi.

Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lấy xong đất Gia Định, để tổng đốc Chu ở lại trấn thủ, rồi đem quân về Quy Nhơn. Qua năm sau là năm mậu tuất (1778) Nguyễn Nhạc tự xưng đế hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là Hoàng Đế Thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng Quân.

5. Nguyễn Vương Khởi Binh Đánh Tây Sơn.

Khi Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị bắt, th́ người cháu Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh, chạy thoát được. Đến khi Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ tập những tôi tớ cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên, tiến lên đến Sa đéc, và cùng với quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu 119

và các tướng là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại Nguyên Súy, Nhiếp Quốc Chính.

Được ít lâu vua Tây Sơn lại sai tổng đốc Chu, tư khấu Uy, và quan hộ giá Phạm Ngạn đem quân thủy vào đánh Trấn Biên và Phan trấn cùng các miền ở mặt bể. Đỗ Thanh Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được tư khấu Uy, đuổi được quân Tây Sơn đi, ông Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Quân đem binh ra đánh lấy thành B́nh Thuận và thành Diên Khánh.

Từ khi khôi phục được đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh sai sứ sang thông với nước Tiêm La, và lại sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi đánh Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ. Ở đất Gia Định th́ ngài sửa sang mọi việc: đặt quan cai trị các dinh, định lệ thu thuế để nuôi binh lính, làm chiến thuyền, tập binh mă để pḥng bị việc chiến tranh.

Năm canh tí (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu rồi phong cho Đỗ Thanh Nhân làm chức Ngoại Hữu, Phụ Chính, Thượng Tướng Công, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Nhưng sau v́ Đỗ Thanh Nhân cậy công lộng quyền, cho nên Nguyễn Vương mới giết đi. Cũng v́ việc ấy cho nên Đông Sơn trước đă hết ḷng giúp Nguyễn Vương, sau đều bỏ cả, và lại phản lại, thành ra lôi thôI phải đánh dẹp măi. [119]

Lê Văn Câu là người ở Vĩnh Tường đất Gia Định, trước theo Châu Văn Tiếp sau làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân.

Tháng 10 năm tân sửu (1781) vua nước Tiêm La là Trịnh Quốc Anh sai tướng là Chất Tri (Chakkri) và Sô Si, hai anh em sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai quan Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3000 quân sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Tiêm La c̣n đang chống giữ nhau ở Chân Lạp, th́ ở Vọng Các vua nước Tiêm La bắt giam cả vợ con của hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới giao kết với Nguyễn Hữu Thoại thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Đoạn rồi Chất Tri đem quân về Tiêm La. Ngay lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi lên, vua nước ấy bị ngươi Phan Nha Văn Sản đuổi đi cướp mất ngôi. Chất Trí về đến Vọng Các, sai người đi t́m quốc vương là Trịnh Quốc Anh đem giết đi, và bắt giết cả Phan Nha Văn Sả, rồi tự lập làm vua, xưng là Phật Vương, phong cho em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là Ma Lạc làm đệ tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hăy c̣n, và các vua đều xưng là Rama.

Tháng ba năm nhâm dần (1782) vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiếc thuyền vào cửa Cần Giờ, đánh nhau với quân Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang (tức Ngả Bảy). Trận ấy quân Nguyễn Vương thua to, có người nước Pháp tên là Mạn Ḥe (Manuel) làm chủ một chiếc tàu phải đốt tàu mà chết. Nguyễn Vương phải bỏ thành Sài g̣n chạy về đất Tam phụ (Ba giồng), rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc.

Vua Tây Sơn b́nh xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ thành Sài Côn (tức Sài G̣n).

Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, các tướng nhà Nguyễn lại nổi lên đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có Châu Văn Tiếp là người ở Quy Nhơn, nhân lúc loạn, tụ chúng giữ núi Trà Lang (thuộc Phú Yên). Đến khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định, Châu Văn Tiếp đem binh ra giúp. Sau chẳng may chúa Nguyễn thất thế ngộ hại, Nguyễn Vương lên nối nghiệp. Văn Tiếp theo giúp, được phong làm chức chưởng cơ, đem binh ra đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ Trà Lang. Nay được tin Gia Định lại thất thủ, Văn Tiếp bèn đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại được thành Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn Vương về.

Nguyễn Vương về sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn, nhưng qua năm quư măo (1783) vua Tây Sơn lại sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh. Nguyễn Vương lại phải rước vương mẫu và cung quyến ra Phú Quốc. Đến tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc. Nguyễn Vương chạy về Côn Nôn; quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Nôn; nhưng may nhờ có cơn băo đánh đắm cả thuyền của Tây Sơn, cho nên Nguyễn Vương mới ra khỏi trùng vi, chạy về đảo Cổ Cốt, rồi lại trở về Phú Quốc.

6. Nguyễn Vương Định Cầu Viện Nước Pháp Lan Tây.

Lúc bấy giờ lương thực hết sạch, Nguyễn Vương cùng với những người đi theo phải hái rau và t́m củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, thật là nguy nan quá. Nhân v́ khi trước Nguyễn Vương có quen một người nước Pháp làm giám mục đạo Gia Tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine, évêque d'Adran) khi ấy đang ở đất Chantaboun (thuộc nước Tiêm La), ngài bèn sai người đến bàn việc. Ông Bá Đa Lộc nói nên sang cầu cứu nước Pháp, nhưng phải cho Hoàng Tử đi làm tin th́ mới được.

Nguyễn Vương theo lời ấy, ben giao Hoàng Tử Cảnh và cái quốc ấn cho ông Bá Đa Lộc, lại làm tờ quốc thư cho ông ấy được quyền tự tiện sang thương nghị với chính phủ Pháp để xin viện binh.

Tờ quốc thư ấy có 14 khoản, đại lược nói nhờ ông Bá Đa Lộc sang xin nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ mọi cả thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo), đảo Côn Nôn và để riêng cho người nước Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam 120 .

Nguyễn Vương lại làm một cái thư riêng để dâng cho vua nước Pháp, và sai quan phó vệ úy là Phạm Văn Nhân, quan cai cơ là Nguyễn Văn Liêm theo hộ vệ Hoàng Tử Cảnh bấy giờ mới có 4 tuổi.

Mọi sự đă xếp đặt cả rồi, nhưng v́ c̣n trái mùa gió cho nên ông Bá Đa Lộc chưa khởi hành được. Nguyễn Vương tuy đă nghe lời ông Bá Đa Lộc định sang cầu cứu nước Pháp, nhưng trong bụng chưa quyết hẳn, c̣n có ư muốn nhờ nước Tiêm La.

Nguyên lúc đánh thua ở Sài Côn, Châu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu cứu. Đến tháng 2 năm giáp th́n (1784) vua Tiêm La sai tướng là Chất Si Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, t́m Nguyễn Vương để mời sang bàn việc. Nguyễn Vương lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp, cho nên mới đến hội với tướng nước Tiêm, rồi cùng sang Vọng Các xin binh cứu viện.

Tiêm Vương tiếp đăi Nguyễn Vương rất hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền sang [120]

Tờ quốc thư này và cái thư của Nguyễn Vương viết cho vua nước Pháp nay hăy c̣n ở Ngoại Giao Bộ tại Paris. giúp Nguyễn Vương. Quân Tiêm La sang lấy được Rạch Giá, Ba thắc, Trà Ôn, Mân thít, Sa đéc. Khi đánh ở Mân thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng mà mất. Từ đó quân Tiêm ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn ác, cho nên ḷng người oán hận lắm.

7. Nguyễn Huệ Phá Quân Tiêm La.

Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh phá, thế lực mạnh lắm, bèn sai người về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.

Nguyễn Huệ vào đến Gia Định nhử quân Tiêm La đến gần Rạch Gầm và Xoài mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh phá một trận, giết quân Tiêm chỉ c̣n được vài ngh́n người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Tiêm La rồi, đem binh đuổi đánh Nguyễn Vương. Nguyễn Vương bấy giờ hết cả lương thực, cùng với mấy người chạy về Trấn Giang, ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Tiêm La.

Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Chân ở lại trấn đất Gia Định.

Nguyễn Vương biết thế không mong cậy được người Tiêm La, bèn giục ông Bá Đa Lộc đem Hoàng tử đi sang nước Pháp cầu viện. Ông Bá Đa Lộc đi rồi, Nguyễn Vương rước vương mẫu và cung quyến sang trú ở Vọng Các để chờ có cơ hội lại về khôi phục.

 

CHƯƠNG IX

Họ Trịnh Mất Nghiệp Chúa

1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ 2. Kiêu binh 3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa 4. Tây Sơn dứt họ Trịnh

1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.

Từ khi quân chúa Trịnh lấy được đất Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng thêm kiêu hănh, lại có ư muốn cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu nói rằng con cháu họ Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại sai quan nội giám đi với Vũ Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong làm vua. Nhưng sang đến Động Đ́nh Hồ, th́ Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi uống thuốc độc mà chết, bởi vậy việc cầu phong lại bỏ, không nói đến.

Sau Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập người con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm thế tử. Từ đó người th́ theo Đặng Thị, người th́ pḥ Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.

Tháng chín năm nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đ́nh Bảo làm phụ chính. Trịnh Cán c̣n ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.

2. Kiêu Binh.

Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quan túc vệ.

Những lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép. Năm giáp dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh, lính Nghệ đă giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm tân dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và chực giết quan Tham Tụng Nguyễn Quư Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà chúa có bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đă quen thói, về sau hễ hơi có điều ǵ bất b́nh, th́ lại nổi lên làm loạn.

Đến năm nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị và Hoàng Đ́nh Bảo lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu với quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đ́nh Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa.

Trịnh Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không ai kiềm chế được. Năm giáp th́n (1784) quân tam phủ lại phá nhà quan tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương Khuông và giết Nguyễn Triêm ở trước cửa phủ chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy thoát được lên Sơn Tây cùng với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài, rồi gọi binh các trấn về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh vào canh giữ phủ chúa, Trịnh Khải không ra được. Quân ấy lại chia nhau ra giữ các cửa ô. Quân các trấn cũng sợ chúa bị hại đều phải rút về. Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng ngh́n đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi th́ dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch, mà các văn thần vơ tướng cũng bó tay mà chịu không làm sao được. Sau có quan tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ dành măi mới dần dần hơi yên.

Lúc bấy giờ ở trong đang có kiêu binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân dịp đem quân vào đánh phá, bởi thế cho nên cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát vậy.

3. Tây Sơn Lấy Thuận Hóa.

Nguyên khi trước Hoàng Đ́nh Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi, mà trong bọn ấy có một người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ An, tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm, gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đ́nh Bảo.

Đến khi kiêu binh đă giết Hoàng Đ́nh Bảo rồi, có người đem tin Hữu Chỉnh biết, Hữu Chỉnh vào bàn với quan trấn thủ Nghệ An là Vơ Tá Giao để tự lập ở xứ Nghệ, nhưng mà Vơ Tá Giao sợ không dám làm, Hữu Chỉnh bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc.

Nguyên khi trước Nguyễn Hữu Chỉnh theo Hoàng Ngũ Phúc vào đánh Quảng Nam thường vẫn đi lại quen Nguyễn Nhạc, cho nên Nguyễn Nhạc tin dùng, đăi làm thượng tân. Từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu định kế xin vua Tây Sơn ra đánh Thuận Hóa và đất Bắc Hà.

Vả, từ khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay Bùi Thế Đạt. Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược vô mưu, mà lại có tính tham lam, chỉ lo việc làm giàu, chứ không nghĩ ǵ đến việc binh. Quan phó đốc thị là Nguyễn Lệnh Tân đă viết thư về bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho tướng khác vào thay Phạm Ngô Cầu. Trịnh Sâm không nghe, lại đ̣i Nguyễn Lệnh Tân về.

Vua Tây Sơn biết đất Thuận Hoá không pḥng bị, bèn sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.

Một hôm Phạm Ngô Cầu thấy một người khách buôn nói thuật số, đến bảo Ngô Cầu rằng: "Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ có lẽ phải ốm đau, nên lập đàn làm chay mới được yên lành". Phạm Ngô Cầu nghe lời ấy lập đàn cầu khấn bảy đêm ngày, bắt quân sĩ phải phục dịch không được nghỉ ngơi chút nào. Chợt nghe tin quân Tây Sơn đă lấy được đồn Hải Vân, tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ đă tử trận, lại thấy báo rằng thủy quân của Tây Sơn đă vào cửa bể, thủy bộ hai mặt đều kéo đến đánh. Ngô Cầu hốt hoảng, từ ở đàn chạy về dinh, gọi binh tướng để chống giữ, nhưng quân lính đều mỏi mệt cả, không ai có ḷng muốn đánh.

Phạm Ngô Cầu lại có tính đa nghi. Nguyễn Hữu Chỉnh bèn làm một cái thư đề ngoài gửi cho phó tướng là Hoàng Đ́nh Thể, rủ về hàng Tây Sơn, rồi giả tảng sai người đưa nhầm sang cho Ngô Cầu. Ngô Cầu bắt được thư ấy nghi cho Hoàng Đ́nh Thể nhị tâm. Đến khi quân Tây Sơn đến đánh, Hoàng Đ́nh Thể đem quân bản bộ ra trận đối địch bắn hết thuốc đạn. Ngô Cầu đóng cửa thành lại không ra tiếp ứng. Hoàng Đ́nh Thể cùng hai con và t́ tướng là Vũ Tá Kiên đều tử trận cả.

Khi quân Tây Sơn kéo đến đánh thành, Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành ra hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều tan vỡ bỏ chạy. Trong mấy ngày mà đất Thuận hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về Tây Sơn cả. Bấy giờ là tháng năm năm bính ngọ (1786) đời Cảnh hưng năm thứ 47.

4. Tây Sơn Dứt Họ Trịnh.

Nguyễn Huệ lấy được đất Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới, và định giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh ra đánh một trận mà b́nh được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái phép dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng th́ lười, quân th́ kiêu, triều đ́nh không có kỷ cương ǵ cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh th́ làm ǵ mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ, cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi làm thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có một ḿnh Chỉnh, nay Chỉnh đă bỏ đi, th́ nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại ǵ!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: " Ấy! người khác th́ không ngại, chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh thất sắt đi rồi nói rằng: " Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói thế là có ư tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên ḷng Hữu Chỉnh và bảo rằng: " Nhà Lê làm vua đă mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc ḷng người đă theo ḿnh." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm ǵ để giúp nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh th́ thiên hạ ai chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh th́ làm thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?"

Nguyễn Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu.

Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đi qua Nghệ An, Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy không ai dám ra cự địch; khi ra đến Vị Hoàng, quan coi đồn ở đấy bỏ chạy. Hữu Chỉnh lấy được hơn trăm vạn hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu, quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ ở đấy.

Trước kia thành Phú Xuân đă vỡ rồi, tin báo đến Thăng Long, các quan bàn rằng: xứ ấy vẫn không là đất của triều đ́nh, bây giờ mất cũng không hại ǵ. V́ thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ vào giữ đất Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong, đến khi đi được độ 30 dặm th́ đă có tin báo Tây Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền bèn đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem bộ binh xuống đóng ở xă Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ cửa Luộc Bấy giờ gió Đông Nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để lên trên mấy chiếc thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng trông thấy tưởng là quân Tây Sơn đến đánh, giàn thuyền ra trận thành chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Bắn măi, sau mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến lên đánh, th́ Đinh Tích Nhưỡng hết cả thuốc đạn, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả. Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam rồi, rồi một mặt truyền hịch đi các lộ nói lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.

Bấy giờ ở kinh thành th́ quân kiêu binh không sai khiến được, mà quân Tây Sơn th́ đă đến nơi rồi. Trịnh Khải mới cho gọi Hoàng Phùng Cơ, ở Sơn Tây về, đem quân đóng ở hồ Vạn Xuân (xă Vạn Phú, Thanh Tŕ) c̣n thủy binh th́ đóng ở bến Tây Long (Thọ Xương) để pḥng giữ. Quân Tây Sơn tiến lên đánh tan thủy quân của nhà Trịnh, Hoàng Phùng Cơ phải bỏ chạy. Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ lên voi thúc quân vào đánh, nhưng thế Tây Sơn mạnh lắm, đánh không được, Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi, huyện Yên Lăng, gặp tên Nguyễn Trang đánh lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trịnh Khải về đến làng Nhất Chiêu lấy gươm cắt cổ tự tận. Bấy giờ là năm bính ngọ (1786). Nguyễn Huệ cho lấy vương lễ mà tống táng cho chúa Trịnh, rồi vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê.

Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570- 1786) đến đấy là hết.

 

CHƯƠNG X

Nhà Hậu Lê Mất Ngôi Vua

1. Tây Sơn rút quân về Nam 2. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc 3. Tây Sơn lấy đất Bắc Hà

1. Tây Sơn Rút Quân Về Nam.

Nguyễn Huệ đă dứt được họ Trịnh rồi, vào thành Thăng Long, xuống lệnh cấm quân lính không được cướp phá dân gian, và định ngày xin yết kiến vua Lê ở đền Vạn Thọ.

Bấy giờ vua Hiển Tông đang đau, không ngồi dậy tiếp được, ngài mời Nguyễn Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu bày cái lẽ đem binh rà phù Lê diệt Trịnh, chứ không dám có ư ḍm ngó ǵ. Vua mừng rỡ mà tạ Nguyễn Huệ.

Khi quân Tây Sơn ra đến Thăng Long, các quan triều thần chạy trốn cả, chỉ c̣n có mấy người nội giám ở lại hầu hạ vua. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy vào tâu với vua xin xuống chiếu tuyên triệu các quan về triều; được mấy hôm có độ mươi người lục tục kéo nhau trở về. Vua bèn định đến ngày mồng 7 tháng 7 lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng và lạy và dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rơ cái nghĩa tôn phù nhất thống, nghĩa là tự đó về sau nhà Lê có quyền tự chủ.

Vua phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công, và lại gả cho bà Ngọc Hân Công Chúa là con gái của ngài. Chẳng bao lâu vua Hiển Tông mất, Hoàng Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.

Nguyên lúc trước vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vốn không có ư ra đánh Bắc Hà, đến khi tiếp được thư của Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài Bắc, Nguyễn Nhạc vội vàng sai người ra Thuận Hóa ngăn lại. Nhưng khi sứ thần ra đến nơi, th́ Nguyễn Huệ đă cử binh đi rồi. Sau lại tiếp được thư nói rằng quân Tây Sơn đă lấy được Thăng Long rồi, và c̣n phải ở lại để giúp nhà Lê. Nguyễn Nhạc sợ em ở lâu ngoài Bắc Hà có sự biến chăng, bèn đem 500 quân ra Thuận Hóa, rồi lấy thêm 2000 quân, đi không kỳ ngày đêm ra Thăng Long.

Vua Chiêu Thống được tin vua Tây Sơn ra Bắc, bèn đem bách quan ra đón ở ngoài Nam Giao. Nhưng Nguyễn Nhạc cứ đi thẳng, rồi cho người đến nói rằng: xin để ngày khác tiếp kiến. Được mấy hôm Nguyễn Nhạc mời vua Chiêu Thống sang phủ đường là lễ tương kiến. Nguyễn Nhạc ngồi giữa, vua Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn vơ đứng hầu hai bên.

Khi vào làm lễ xong rồi, vua Chiêu Thống xin nhường mấy quận để khao quân. Nguyễn Nhạc nói rằng: "V́ họ Trịnh hiếp chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh th́ một tấc cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê th́ một tấc cũng không dám lấy. Xin mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cơi đất, để đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy."

Đoạn rồi vua Chiêu Thống về điện, hôm sau anh em Tây Sơn bàn rút quân về Nam, và thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt, định bỏ lại ở Bắc Hà, bèn mật truyền cho các tướng thu xếp quân thủy bộ, kho tàng có ǵ lấy hết, rồi đến nửa đêm ngày 17 tháng 8, kéo quân về Nam. Sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh biết Tây Sơn về rồi, sợ hăi lắm, hoảng hốt bỏ cả đồ đạc, chạy xuống chiếc thuyền buôn vào Nghệ An, theo vua Tây Sơn. Nguyễn Nhạc thấy Hữu Chỉnh lại theo về, không nỡ bỏ, cho ở lại cùng với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An.

Bấy giờ quyền bính ở đất Bắc Hà về cả vua nhà Lê, thật là một cơ hội ít có để lập lại cái nền tự chủ của nhà Lê, nhưng tiếc v́ vua Chiêu Thống không có tài quyết đoán, mà đ́nh thần lúc bấy giờ không có ai là người biết kinh luân: hễ thấy có giặc th́ bỏ chạy, giặc đi rồi th́ kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người th́ định lập lại nghiệp chúa, kẻ th́ muốn tôn phù nhà vua. Lại có ḍng dơi họ Trịnh là Trịnh Lệ và Trịnh Bồng chia đảng ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ Chúa. Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế nhà vua, vua Chiêu Thống phải xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp.

2. Nguyễn Hữu Chỉnh Chuyên Quyền ở Đất Bắc.

Nguyễn Hữu Chỉnh từ khi trở về Nghệ An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm luyện tập, nhân có chiếu nhà vua gọi vào, bèn thu xếp được hơn một vạn quân ra giúp vua Lê. Trịnh Bồng đem quân ra chống giữ, đánh thua phải bỏ chạy. Hữu Chỉnh vào yết kiến vua Chiêu Thống và chuyên giữ binh quyền.

Trịnh Bồng có khởi binh mấy lần để toan sự khôi phục, nhưng không thành co6ng, cho nên cũng chán sự đời bèn bỏ đi tu, về sau không biết chết ở đâu. Họ Trịnh mất từ đấy.

Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi họ Trịnh đi rồi, vua phong cho chức Đại Tư Đồ Bằng Trung Công. Từ đó Hữu Chỉnh cậy công khinh người, làm lắm điều trái phép, vua cũng lấy làm lo. Nhưng không biết trông cậy vào ai, cho nên đành phải chịu vậy.

3. Tây Sơn Lấy Đất Bắc Hà.

Ở trong Nam th́ từ khi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn rồi, tự xưng làm Trung ương Hoàng Đê, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, cho Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh Vương, ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân Sơn làm giới hạn.

Được ít lâu Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn Huệ đem binh vào vây đánh thành Qui Nhơn, ngặt đế nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: " Nỡ ḷng nào lại nồi da nấu thịt như thế" 121

- Nguyễn Huệ động ḷng mới giải vây rút quân về Thuận Hóa.

Trong khi anh em Tây Sơn đánh nhau, th́ Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc Hà, đến khi anh em Tây Sơn đă giảng ḥa rồi, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân thấy Hữu Chỉnh lừng lẫy ở đất Bắc, bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt.

Tháng 11 năm đinh tị (1787) Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thanh Quyết Giang (làng Thanh Quyết, huyện Gia Viễn), và ở Châu Cầu ( phủ Lư Nhân) rồi đánh đuổi ra đến Thăng Long.

Vua Chiêu Thống thấy quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đă thua rồi, bèn bỏ Kinh đô, chạy sang Kinh bắc, và sai Lê Quưnh cùng với hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái Hậu, bà Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. C̣n vua th́ cùng với Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn ở đất Yên Thế.

Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Ḥa đem binh lên đánh bắt được Hữu Chỉnh đem về làm tội ở Thăng Long.

Vũ Văn Nhậm giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, cho đi t́m vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Sùng Nhượng Công tên là Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc để thu phục ḷng người.

Bấy giờ các quan không ai theo, Sùng Nhượng Công ở trong điện chỉ có vài người hoàng thân và mấy viên vơ tướng, sớm tối hầu hạ, c̣n th́ [121]

Tục người trong B́nh Định hễ ai đi săn được hươu nai ǵ th́ lột da ra làm nồi mà nấu thịt: ở đây Nguyễn NHạc có ư nói rằng cùng da cùng thịt nỡ nào hại lẫn nhau vậy. không ai tâu hỏi việc ǵ cả. Ngày ngày cứ đi bộ sang chầu chực bên dinh Vũ Văn Nhậm. Văn Nhậm cũng không biết xử làm sao. Người kinh thành thấy vậy gọi Sùng Nhượng Công là thầy đề lại giám quốc. Khi Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh th́ đă có ḷng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy được Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh rồi, có ư cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở đem ư ấy viết thư về nói Vũ Văn Nhậm muốn làm phản. Bắc B́nh Vương lập tức truyền lện kéo quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn vơ nhà Lê cho vào yết kiến, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm giám quốc, chủ trương việc tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị Lang. C̣n các quan nhà Lê th́ có người ở lại nhận chức, có người trốn đi, cũng có người tuẩn tiết.

Bắc B́nh Vương đă đổi đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc xong cả rồi, chọn ngày về Nam, để bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà.

Vua Chiêu Thống từ khi thua trận Mục Sơn chạy về núi Bảo Lộc, rồi nay ở Hải Dương, mai ở Sơn Nam, cùng với mấy người trung nghĩa lo sự khôi phục, nhưng v́ thế lực mỗi ngày một kém, bề tôi như bọn Đinh Tích Nhưỡng th́ giở mặt làm phản, c̣n th́ ai nấy trốn tránh đi mất cả, bởi thế cho nên cơ nghiệp nhà Lê đổ nát vậy.

Nhà Lê kể từ vua Thái Tổ khởi nghĩa, đánh đuổi quân nhà Minh về Tàu, lập lại cái nền tự chủ cho nước nhà, truyền đến vua Chiêu Tông th́ họ Mạc cướp mất ngôi. Sau nhờ có họ Nguyễn và họ Trịnh giúp đỡ, nhà Hậu Lê lại trung hưng lên, truyền đến vua Chiêu Thống tức là Mân Đế th́ hết.

Nhà Lê làm vua, kể cả Tiền Lê và Hậu Lê, được 360 năm (1428- 1788), trước sau sửa sang được nhiều việc: sự học hành, việc luật pháp, việc canh nông đều được mở mang ra hơn trước. Nhưng từ khi trung hưng lên trở về sau nhà vua bị họ Trịnh hiếp chế thành ra có vua lại có chúa. Vua ngồi làm v́, chúa giữ cả quyền chính trị. Đến khi nghiệp chúa suy th́ ngôi vua cũng đổ vậy.

 

CHƯƠNG XI

Nhà Nguyễn Tây Sơn

 

1. Nhà Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp 2. Vua Quang Trung 3. Tôn Sĩ Nghị đem quân sang Việt Nam 4. Vua Quang Trung đại phá quân nhà Thanh 5. Vua Quang Trung cầu phong 6. Vua Chiêu Thống nhà Lê bị nhục bên Tàu 7. Đức độ vua Quang Trung 8. Chính Trị của vua Quang Trung 9. Quan Chế 10. Việc Dinh Điền 11. Việc Học Hành 12. Việc làm chùa chiền 13. Việc định đánh Tàu 14. Vua Quang Trung mất 15. Vua Cảnh Thịnh

1. Nhà Nguyễn Tây Sơn Dấy Nghiệp.

Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, th́ cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, th́ cho là ngụy triều.

Vậy nay lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây Sơn làm chính thống hay ngụy triều, để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng cái danh hiệu những người anh hùng đă qua.

Nguyên nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thế mà từ khi nhà Lê trung hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy c̣n tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đă có vua lại có chúa, làm thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam th́ có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc th́ có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún ḿnh mà chiều đăi, đ́nh thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.

Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, th́ chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi.

C̣n như Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, th́ trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm La, chỉ c̣n được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rơ ràng. Ấy là đă có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.

Nhưng v́ vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc ḷng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế th́ cách ở với nhà Lê không lấy ǵ làm bạc.

Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiến cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh th́ nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đă vào tay người Tàu rồi.

Vậy nước đă mất, th́ phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có vơ công nào lẫm liệt như vậy.

Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua th́ có điều ǵ mà trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lư, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy th́ lấy lẽ ǵ mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế th́ nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác ǵ nhà Đinh và nhà Lê không?

Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc lại làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét th́ nhà Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lư mà suy th́ vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.

2. Vua Quang Trung (1788-1792).

Ông Nguyễn Huệ (sau đổi tên là Nguyễn Quang B́nh) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, B́nh Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc B́nh Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân.

Năm mậu thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng Long, có ư muốn lấy đất An Nam, Bắc B́nh Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem binh đi đánh giặc.

3. Tôn Sĩ Nghị Đem Quân Sang An Nam.

Nguyên vua Chiêu Thống đă mấy lần toan sự khôi phục, nhưng không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; c̣n bà Hoàng Thái Hậu th́ đem hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, t́nh cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường."

Vua Càn Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quư Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quư Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang 122 , sai Sầm Nghi Đống là tri phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam. [122]

Khi xưa đất Hà Giang, Lao Kay, Yên Báy thuộc về địa hạt tỉnh Tuyên Quang.

Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu đă sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp 123

ra đến bờ bể, rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp.

Tôn Sĩ Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa băi, về mé nam sông Nhị Ha, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra giữ các mặt.

Ngày hôm sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.

Vua Chiêu Thống tuy đă thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị th́ ngạo nghễ, tự đắc, ư tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc quân quốc ǵ, xin ngày hăy về cung nghỉ.

Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc ǵ cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế th́ có khác ǵ đă là nội thuộc rồi không?"

Vua và triều thần bấy giờ việc ǵ cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đă đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị th́ càng ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm sự nhũng nhiễu. V́ thế cho nên ḷng người mất cả trông cậy.

4. Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh.

Bắc B́nh Vương được tinh quân nhà Thanh đă sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hăy chính ngôi tôn, để yên ḷng người rồi sẽ khởi binh.

Bắc B́nh Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự ḿnh  [123]

Núi Tam Điệp trước gọi là đèo Ba Dội ở chỗ phân biệt địa giới tỉnh Ninh B́nh và tỉnh Thanh Hóa. thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.

Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ nhủ bảo mọi người phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp th́ đến núi Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Th́ Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu.

Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đă định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế th́ đánh nhau măi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Th́ Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đ́nh chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, th́ ta không cần phải sợ chúng nữa."

Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch th́ cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng th́ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển.

Đại tư mă Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến.

Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết th́ kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc th́ kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.

Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mă đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu th́ xuyên ra huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Tŕ, đánh quân Điền Châu; Bảo th́ thống suất quân tượng mă theo đường huyện Sơn Lăng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Tŕ tiếp ứng cho mặt tả.

Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy 124 , cánh nghĩa quân của nhà Lê  [124]

Giản Thủy chắc là bến đ̣ Giản ở giáp giới tỉnh Ninh B́nh và Hà Nam bây giờ. tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được; v́ thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết ǵ cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hăi thất thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa 125

bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết 126 .

Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan ră chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây người chết.

Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu.

Đạo quân Vân Nam và Quư Châu đóng ở miền Sơn Tây 127

nghe tin Tôn Sĩ Nghị đă thua, cũng rút quân chạy về.

Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa th́ vào thành Thăng Long, sai  [125]

Ở cạnh Thái Hà Ấp, gần Hà Nội.  [126]

Về sau bọn khách trú ở Thăng Long làm cái đền thờ Sầm Nghi Đống ở ngơ Sầm Công, sau Hàng Buồm, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có vịnh bài tuyệt cú rằng: Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Ḱa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Th́ sự anh hùng há bấy nhiêu?  [127]

Trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc về địa hạt tỉnh Sơn Tây. tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người nào?

Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: " Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hăy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, t́m tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu ḷng người nước Nam c̣n nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, th́ Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hăy đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, th́ cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc th́ phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau".

Vua Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Th́ Nhiệm rằng: " Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đă bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau th́ chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ trương cho mới được".

Ngô Th́ Nhiệm vâng lệnh làm thư đại khái nói rằng: "Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ v́ Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng ḥa."

Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh đă bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; c̣n những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu th́ ủy thác cho Ngô Th́ Nhiệm và Phan Huy Ích cho được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc ǵ quan hệ th́ bất tất phải đi tâu báo mà làm ǵ.

5. Vua Quang Trung Cầu Phong.

Vua nhà Thanh nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, nổi giận đùng đùng, lập tức giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang An 128

ra thay Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh mă chín tỉnh, sang kinh lư việc An Nam.

Phúc Khang An ra đến Quảng Tây nghe tiếng quân An Nam thế mạnh trong bụng đă sợ, có ư muốn ḥa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.

Vua Quang Trung bèn cho người đưa vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai người cháu là Nguyễn Quang Hiển và quan là Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu vua nhà Thanh và dâng biểu xin phong.

Bấy giờ quan ngoài th́ có Phúc Khang An đề đạt giúp đỡ, quan trong th́ có các thần là Ḥa Thân 129

làm chủ trương, cho nên vua nhà Thanh mới thuận cho giảng ḥa. Ḥa Thân được tiền bạc của vua Quang Trung đút lót, rồi dùng lời nói khéo, điều ǵ cũng hợp ư vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, và lại giáng chỉ vời quốc vương vào chầu.

Vua Quang Trung bèn chọn một người h́nh dung giống ḿnh, tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương, rồi sai Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vơ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh, vào chầu Càn Long. Ngoài những phẩm vật phải đem cống, vua Quang Trung lại đem cống thêm đôi tượng đực, làm cho các cung trạm ở dọc đường bên Tàu phảI phục dịch đưa đón thật là vất vả. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa Quốc Vương An Nam vào Kinh.

Sang đến Yên Kinh, vua Càn Long nhà Thanh tưởng là Nguyễn Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối, như là t́nh cha con một nhà, và cho ăn yến với các thân vương. Đến lúc về nước, vua lại sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho ân lễ thật là hậu.  [128]

Phúc Khang An là người Măn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn là người t́n dùng của vua nhà Thanh. 129

Ḥa Thân cũng là người Măn Châu về dinh Hoàng Kỳ, cùng với Phúc Khang An coi việc phiên viễn. 6. Vua Chiêu Thống Nhà Lê bị nhục bên Tàu.

Vua Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị vào thành Nam Kinh ở Quảng Tây, được ít lâu th́ vua nhà Thanh sai các thần là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị. Khang An muốn giảng ḥa với Tây Sơn, bèn mời vua Chiêu Thống về Quế Lâm. Bấy giờ những quan cựu thần nhà Lê là: Hoàng thúc Lê Duy Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doăn, Lê Dĩnh, Phan Khải Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doăn, đều lục tục sang theo vua Chiêu Thống, vào ra mắt Khang An.

Khang An dùng Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm chức đô tư Liễu Châu, c̣n th́ tùy tiện an trí mỗi người một nơi. Duy chỉ có Lê Duy Án, Trần Huy Lâm, Lê Doăn, Lê Dĩnh về Quế Lâm theo vua nhà Lê.

Đến tháng tư năm kỷ dậu (1789), vua tôi nhà Lê vào thành Quế Lâm, Khang An nói thác ra bảo với vua Chiêu Thống rằng: Trời đang mùa hè nắng nóng, sang đánh phương nam không tiện, nên để đến mùa thu mát mẻ sẻ khởi binh. Vậy nhà vua nên gióng giả dần bọn tướng thuộc đi trước. Nhưng nhà vua hăy nên gọt đầu thay áo, làm như dáng người Tàu, để khi về nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá, đợi khi thành công rồi lại theo tục nước mà ăn mặc. Vua Chiêu Thống không ngờ là Khang An đánh lừa ḿnh, bèn cùng với các quan cạo đầu gióc tóc và đổi y phục.

Phúc Khang An bèn làm một tờ biểu tâu với vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ không có ư xin viện binh nữa, vua tôi hiện đă gióc tóc, thay áo, xin yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy xin băi binh đánh An Nam". Ở trong lại có Ḥa Thân tán thành, bởi vậy vua nhà Thanh mới xuống chỉ băi binh.

Vua nhà Thanh đă nghe lời bọn Phúc Khang An và Ḥa Thân, và đă phong vương cho vua Quang Trung rồi, lại giáng chỉ triệu vua tôi nhà Lê về Yên Kinh  [130] .

Bọn Lê Quưnh, Trịnh Hiến cả thảy đến 10 người sau cũng bị Phúc Khang An gọi về Quảng Tây, rồi bắt đổi áo gióc tóc như mọi người. Lê Quưnh nói rằng: "Ông cho gọi chúng tôi đến chẳng bàn được điều ǵ, lại dỗ chúng tôi đổi áo, gióc tóc, ấy là nghĩa ǵ? Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc, da có thể lột được, chứ áo không đổi!". Phúc Khang An tức giận cho giải về cả Yên Kinh, đi đến Sơn Đông gặp vua Càn Long đi chơi, vua đ̣i vào hỏi sao vua An Nam đă chịu đổi áo gióc tóc theo nhà Thanh mà bọn ấy lại c̣n không chịu ? Lê Quưnh tâu rằng: " Chúng tôi muôn dặm ṭng vong, xin cứ theo tục bản quốc vào ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ vâng chỉ" Vua nhà Thanh khen là trung. Nhưng về sau Lê Quưnh không chịu gióc tóc, chiếu tội vi mệnh phải giam măi.

Mùa xuân năm canh tuất (1790), vua Chiêu Thống cùng với các quan ṭng vong vào kinh. Vua Càn Long để vua Chiêu Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở ngơ Hồ Đồng, Ṭa Quốc Tử Giám, cửa Tây Định ở Yên Kinh, ngoài cửa đề chữ "Tây An Nam Dinh". C̣n các quan An Nam đi theo, th́ cho ở ngơ Hồ Đồng, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề chữ: "Đông An Nam Dinh".

Vua Chiêu Thống đến Yên Kinh được mấy hôm, th́ thấy quan Đô Thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản phụng chỉ vua nhà Thanh ra phong cho chức Tá Lĩnh, và ban cho áo măo quan tam phẩm. C̣n các quan đi theo th́ cấp cho mỗi người ba lạng bạc và một thạch gạo.

Vua Chiêu Thống giận v́ bị người Tàu đánh lừa, bèn cùng với bề tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiển, Lễ Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quư Thích, Nguyễn Đ́nh Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức uống máu ăn thề, định sống chết thế nào th́ cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho th́ xin đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên để phụng thờ tông tự; mà không nữa, th́ xin cho về nước vào đất Gia Định với chúa Nguyễn để đồ việc khôi phục.

Văn biểu làm xong, đến nói lót trước với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua tôi nhà Lê phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giảng bất đắc dĩ mời vào an ủi, rồi nói rằng: hăy xin về quán nghỉ ngơi, đợi để thương lượng thế nào, sau sẽ cho biết.

Kim Giản bèn mưu với Ḥa Thân phân trí vua tôi An Nam đi ở mỗi người một nơi, để cho khỏi kêu ca khó chịu.

Đến tháng tư năm tân hợi (1791) Hoàng Ích HIểu phải đày sang I-lê (thuộc Hồi-bộ ở Tây-vực, phía Tây nước Tàu); Lê Hân đày đi Phụng Thiên (Măn Châu); Phạm Như Tùng đày lên Hắc Long Giang (Măn Châu); Nguyễn Viết Triệu, Lê Quư Thích, Nguyễn Đ́nh Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương đày ra bến Trương-gia ở Nhiệt-hà (thuộc tỉnh Trực-lệ). Chỉ để Phạm Đ́nh Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê.

Vua Chiêu Thống nghe chuyện ấy lo lắng chua xót, ruột nóng như lửa đốt, sáng hôm sau cưỡi ngựa đế nhà Kim Giản, để kêu oan cho mấy người phải đi đày, gặp Kim Giản vào chầu vua nhà Thanh ở vườn Viên Minh, vua Chiêu Thống đi vào cửa vường, bị lính giữ vường ngăn cấm không cho đi. Bấy giờ có Nguyễn Văn Quyên đi theo hầu vua, thấy lũ lính vô lễ, mới nổi giận lên mà chửi mắng rằng: "Lũ chó Ngô kia sao chúng bay được làm nhục đến vua tao!" Rồi lấy gạch ném vào chúng nó. Chúng nó xúm nhau lại đánh Văn Quyên về thành bệnh mà chết.

Tự đó vua Chiêu Thống trong bụng buồn bă rầu rĩ, không dám nói đến việc xin binh nữa. Qua tháng năm năm nhâm tí (1792) hoàng tử lên đậu mất. Vua nhân dịp đó phải bệnh một ngày một nặng, đến tháng mười năm quư sửu (1793) th́ mất, thọ được 28 tuổi.

Vua nhà Thanh sai theo lễ tước công mà táng ở ngoài cửa Đông Trực.

Tháng 11 năm kỷ mùi (1799) đời vua Gia Khánh th́ bà Hoàng Thái Hậu mất.

Đến năm nhâm tuất (1802) nhân khi bên Việt Nam ta vua Thế Tổ nhà Nguyễn đă thống nhất cả nam bắc, và có sứ ta sang cầu phong, các quan nhà Lê mới nhân dịp dâng biểu xin đem ma Thái Hậu và Cố Quân về nước. Vua Gia Khánh cho tất cả những người Việt Nam theo vua Lê sang Tàu về nước.

Sử chép rằng khi đào đất lên để cải táng mả Cố Quân, th́ thấy da thịt đă tiêu cả, chỉ c̣n có quả tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động ḷng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư thế nào mặc ḷng, nhưng tưởng đến t́nh cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, th́ ai cũng ái ngại thay cho ông vua một nước, phải đày đọa đến nỗi như thế, có thể làm được một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên tránh vua quan nhà Thanh xử tệ, bạc đăi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ nước ḿnh. Ấy cũng là một thời dă man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về sau không tiêu thoát đi được.

Khi đem ma bà Thái Hậu và vua Chiêu Thống về đến Việt Nam th́ bà Hoàng Phi trước phải ẩn nấp ở đất Kinh Bắc, nay lên đến Ải quan đón rước, rồi về đến Thăng Long cũng nhịn ăn mà tự tử.

Ngày 24 tháng 11, rước ma Cố quân, Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng tử về táng ở lăng Bàn Thạch ở Thanh Hóa.

7. Đức Độ Vua Quang Trung.

Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy vơ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc hà, những người như Ngô Th́ Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiệp th́ thật là khác thường.

Ông Nguyễn Thiệp, tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh hay là La sơn phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc hà, biết tiếng Nguyễn Thiệp, đă mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi ngài đă đăng cực, lại mấy lần cho người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ư nghĩa của ông đă tŕnh bày.

8. Chính Trị của vua Quang Trung.

Vua Quang Trung tuy đă thụ phong nhà Thanh, nhưng vẫn tự xử theo cách Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Hiển Tông nhà Lê làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lại lấy thành Nghệ An là đất giữa nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền tải vận đá, gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào lấy đá ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành Thăng Long là Bắc Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ  [131] .

Mỗi trấn đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn th́ đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, vơ th́ đặt chức phân suất để coi việc binh lương.

9. Quan Chế.

Quan Chế thời bấy giờ th́ không thấy sử chép rơ, nhưng xem các dă sữ th́ thấy có tam co6ng, tam thiếu, có Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư mă, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, Thái Úy, Đại tổng quản, Đại đổng lư, Đại đô đốc, Đại đô hộ, v.v... Lại có Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm, v.v....

Về đường quân binh th́ đặt ra tiền quân, hậu quân, trung quân, tả quân, hữu quân, v.v...

Trấn lị Sơn Nam Thượng ở Châu Cầu, trấn lị Sơn Nam Hạ ở Vị Hoàng. 10. Việc Đinh Điền.

Đinh th́ chia ra làm ba hạng: từ 2 tuổi đến 17 tuổi làm hạn "vị cập cách"; từ 18 đến 55 tuổi làm tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi làm lăo hạng; từ 61 trở lên làm lăo nhiêu.

Ruộng cũng chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu phải nộp 150 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 80 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 50 bát. Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng.

Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, c̣n tiền khoán khố th́ mỗi mẫu phải nộp 30 đồng.

11. Việc Học Hành.

Đời Tây Sơn việc cai trị thường hay dùng chữ nôm. Nhà vua muốn rằng người Việt Nam th́ phải dùng tiếng Việt Nam, để gây thành cái tinh thần của nước nhà, và cái văn chương đặc biệt, không phải đi mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử thường bắt quan ra bài chữ nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ nôm. Thời bấy giờ nhiều người không hiểu rơ cái ư nghĩa sâu xâ ấy, cho là vua Tây Sơn dùng hà chính mà ức hiếp nhân dân.

12. Việc Làm Chùa Chiền.

Vua Quang Trung thấy làng nào cũng có chùa chiền, mà những người đi tu hành th́ ngu dốt, không mấy người đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa kẻ ngu dân, ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ mỗi huyện một cái chùa thật to, rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. C̣n những người không xứng đáng th́ bắt về làm ăn. Ư vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải cho tôn nghiêm, mà những người đi tu hành th́ phải là người chân tu mộ đạo mới được.

Những việc cải cách ấy rất có nghĩa lư, nhưng v́ thủa ấy có nhiều sự chiến tranh, vả nhà Tây Sơn cũng không làm vua được bao lâu, cho nên thành ra không có công hiệu ǵ cả.

13. Việc Định Đánh Tàu.

Trước vua Quang Trung cầu ḥa với nước Tàu và chịu phong là cốt để đợi ngày có đủ sức mà đánh báo thù, cho nên từ khi trong nước đă dẹp yên rồi, ngày đêm trù tính việc đánh Tàu. Đ́nh thần ai cũng bàn nên xét số dân đinh cho đích thực để kén lấy lính. Vua bèn xuống lệnh cho các trấn bắt dân xă làm lại sổ đinh, ai ai cũng phải biên vào sổ, rồi cấp cho mỗi người một cái thẻ bài, khắc bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tính", chung quanh ghi tên họ quê quán, và phải điểm chỉ làm tin. Người nào cũng phải đeo thẻ ấy gọi là tín bài. Ai không có thẻ là dân lậu, bắt sung vào quân pḥng, và bắt tội tổng trưởng, xă trưởng. Nhân có việc ấy, những kẻ lại dịch hiệp với xă trưởng đi lại làm bậy: thường vào làng vây bắt hỏi thẻ, làm cho dân gian nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng mà ở.

Sổ đinh làm xong rồi cứ ba tên đinh kén lấy một người lính.

Quân th́ chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo th́ thống các cơ, cơ th́ thống các đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, bắt phải diễn tập luôn luôn.

Bấy giờ ở bên Tàu có những giặc Tàu ô, quấy nhiễu ở miền bể bị quân nhà Thanh đánh đuổi, chạy sang xin phụ thuộc nước ta, vua Quang Trung cho người tướng Tàu-ô làm chức tổng binh, sai sang quấy nhiễu ở mặt bể nước Tàu. Lại có người thuộc về đảng Thiên Địa Hội làm giặc ở Tứ Xuyên, vua cũng thu dùng cho làm tướng.

Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản ư nhưng muốn mượn chuyện để thử ư vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải bệnh mất, các quan d́m việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh triều biết.

14. Vua Quang Trung mất.

Vua Quang Trung mất năm nhâm tí (1792), làm vua được 4 năm, thọ được 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vơ Hoàng Đế.

Triều thần bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu 132 , Vũ Văn Dũng lập thái tử là Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi làm vua, rồi sai sứ sang Tàu dâng biểu cáo tang và cầu phong. Trong biểu nói dối rằng khi vua Quang Trung mất có dặn lại rằng phải đem chôn ở Tây Hồ gần Bắc Thành, để tỏ cái bụng quyến luyến trông về Thiên triều. Vua nhà Thanh xem biểu tưởng là thật, khen là trung, đặt tên thụy cho là Trung Thuần, lai ngự chế một bài thơ sang viếng, sai quan án sát Quảng Tây là Thành Lâm sang tế, và phongcho Quang Toản làm An Nam Quốc Vương. Trong bài văn tế có câu rằng:

Chầu ngô Nam cực,

Ḷng trung nghĩa hết đạo thờ vua

Chôn đất Tây hồ  [132]

Có sách chép là Nguyễn Quang Diệu.

Nghĩa thần tử vẫn c̣n mến chúa.

15. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802).

Khi vua Quang Trung mất th́ Thái Tử là Nguyễn Quang Toản mới lên 10 tuổi, triều đ́nh tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh, sau thành Phú Xuân thất thủ, vua tôi nhà Tây Sơn chạy ra Bắc hà lại đổi niên hiệu là Bảo Hưng.

Vua Cảnh Thịnh tuy đă lên ngôi nhưng mà việc ǵ cũng do ở thái sư là Bùi Đắc Tuyên quyết đoán cả. Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái Hậu, cho nên uy quyền lại càng hống hách lắm. Các quan văn vơ có nhiều người không phục, bởi vậy cho nên về sau trong Triều phân ra bè đảng; các đại thần giết hại lẫn nhau. Vả lại lúc bấy giờ có vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn là một bậc có tài trí, quyết chí phục thù, cho nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn không được bao lâu mà đổ nát vậy.

 

 Phần V

Cận Kim Thời Đại

 

CHƯƠNG XII

Nguyễn Vương Nhất Thống Nước Nam

 

11. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La 12. Nguyễn Vương về lấy Gia Định 13. Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định 14. Việc khai khẩn điền thổ 15. Việc buôn bán 16. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về 17. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất 18. Thế lực Tây Sơn 19. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ hai 20. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất 21. Quân Tây Sơn vây thành B́nh Định 22. Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân 23. Vơ Tính tử tiết 24. Nguyễn Vương lên ngôi tôn 25. Quân Nam ra lấy bắc hà

1. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La.

Tháng tư năm ất tị (1785), ông Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ tho, Nguyễn Vương thế cô, lại phải sang nương nhờ nước Tiêm. Đến khi các tướng sĩ đă biết ngài ở Tiêm La, đều lục tục kéo sang bái yết, bấy giờ có quan cũ là Lê Văn Câu (c̣n gọi Quân hay Duân) đem 600 người sang theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người Việt Nam ở riêng một chỗ gọi là Long Kỳ, ở ngoài thành Vọng Các (Bangkok) . [ 133 ]

Nguyễn Vương bèn phân trí mọi người đi làm các việc: người th́ đi làm ruộng để lấy thóc gạo nuôi quân, người th́ đi ra các đảo làm sẵng chiến

Nay ở Bangkok có một chỗ gọi là làng Gia Long tức là chỗ Nguyễn Vương ở ngày trước. thuyền, người th́ đi lẻn về Gia Định, chiêu tập những kẻ nghĩ dũng để đợi ngày khôi phục.

Lúc bấy giờ nhân có quân Diến Điện sang đánh Tiêm La, Nguyễn Vương cùng với bọn Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Thành đem quân bản bộ đi đánh giúp nước Tiêm. Nguyễn Vương lại có công trừ được những giặc Mă Lai thường vẫn hay đến quấy nhiễu ở mặt bể. Bởi vậy cho nên nước Tiêm lại càng trọng đăi vua tôi nhà Nguyễn.

2. Nguyễn Vương Về Lấy Gia Định.

Trong khi Nguyễn Vương c̣n phải nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải, tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc B́nh Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ đất Gia Định.

Nhưng chẳng được bao lâu, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ không ḥa với nhau. Nguyễn Nhạc đem quân Phú Xuân vào vây thành Quy Nhơn nguy cấp lắm. Nguyễn Nhạc phải vời đô đốc Đặng Văn Chân đem quân ở Gia Định ra cứu.

Từ đó quân thế của Tây Sơn ở Gia Định đă kém, ở các nơi lại có nhiều đảng theo về chúa Nguyễn, rồi nổi lên đánh phá, làm cho quân Tây Sơn càng ngày càng khó giữ. Vả trong mấy anh em Tây Sơn chỉ có Nguyễn Huệ là anh hùng kiệt hiệt hơn cả, mà đă ra chuyên giữ mặt bắc, th́ công việc mặt nam phó mặc Nguyễn Lữ là người tầm thương, cho nên thế Tây Sơn ở mặt ấy thành ra suy nhược.

Lúc bấy giờ Nguyễn Vương ở Tiêm La vẫn có người đi về tin tức, biết có cơ hội lấy được đất Gia Định, mà cũng biết rằng người Tiêm La vẫn không giúp được cho ḿnh lại c̣n có bụng ghen ghét: như năm đinh mùi (1787) có người Bồ Đào Nha đưa quốc thư cho Nguyễn Vương xin đem binh và thuyền ở thành Goa 134

lại giúp. Vua Tiêm La biết việc ấy làm không bằng ḷng, Nguyễn Vương phải từ chối và tạ ơn người Bồ Đào Nha.

Đến khi được tin rằng đất Gia Định có thể lấy được, Vương bèn để thư lại từ tạ vua Tiêm La, rồi nửa đêm đem vương mẫu và cung quyến xuống thuyền về nước. Bấy giờ là tháng bảy năm đinh mùi (1787).

Nguyễn Vương đi qua đảo Cổ cốt có người nhà Thanh tên là Hà Hỉ Văn thuộc về Thiên Địa Hội đem mấy người đến xin theo giúp. Vương về [ 134 ]

Đất thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ đến Hà Tiên cho người đưa vương mẫu và cung quyến ra ở Phú Quốc, rồi cùng mọi người về đóng ở Long Xuyên.

Lúc bấy giờ Nguyễn Vương đi đến đâu, những người hào kiệt ra theo rất nhiều lại có tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15 chiếc thuyền ra hàng. Qua tháng 6, vương vào cửa Cần Giờ, quân thế to lắm, Đông Định Vương Nguyễn Lữ khiếp sợ để quan thái phó Phạm Văn Tham ở lại giữ thành Sài G̣n rồi lui về đóng ở Lạng Phụ, thuộc Biên Ḥa.

Nguyễn Vương sai người trá làm một cái thư của Nguyễn Nhạc gửI cho Nguyễn Lữ, trong thư bảo phải giết Phạm Văn Tham đi, rồi vương sai người giả tảng đưa lầm cho Phạm Văn Tham, Phạm Văn Tham bắt được cái thơ ấy sợ hăi, lập tức về Lạng Phụ để phân giải t́nh oan với Nguyễn Lữ, nhưng Nguyễn Lữ thấy tự nhiên Phạm Văn Tham kéo quân đến, lại có cờ trắng đi trước, tưởng là Văn Tham đă hàng nhà Nguyễn rồi, vội vàng bỏ thành chạy về Quy Nhơn, được ít lâu th́ mất.

Phạm Văn Tham trở về giữ thành Gia Định đánh phá được quân nhà Nguyễn. Nguyễn Vương phải rút quân về miền Mỹ Tho, chỉ c̣n được 300 quân và vài mươi chiếc thuyền, thế lực đă núng lắm. Nhưng nhờ có mộ thêm được mấy ngh́n quân Cao Miên và lại có mấy toán quân Tây Sơn về hàng, cho nên quân thế mới hơi vững.

Bấy giờ lại nhờ có Vơ Tính là tướng giỏi ra giúp, cho nên Nguyễn Vương lại tiến lên đánh Nước Xoáy, Phạm Văn Tham lùi về đóng ở Ba Thắc.

Vơ Tính là người ở Biên Ḥa, có người anh tên là Vơ Nhân làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân. Sau Đỗ Thanh Nhân bị giết, Vơ Nhân tụ quân Đông Sơn làm phản, đánh lại chúa Nguyễn, nhưng chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải giết. Vơ Tính mới đem dư đảng Đông Sơn của anh về giữ Vườn Trầu (thuộc Gia Định), rồi sau lại về đóng ở G̣ Công, xưng là Tổng Nhung, thủ hạ có mấy vạn người, quân Tây Sơn đă bị đánh phá nhiều lần, thường nói rằng: "Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Vơ Tính là anh hùng bậc nhất, không nên phạm đến". Khi Nguyễn Vương ở Tiêm La về có sai Nguyễn Đức Xuyên đến dụ Vơ Tính về giúp. Đến khi Nguyễn Vương về đóng ở Nước Xoáy, Vơ Tính đem bộ hạ đi đuổi đánh Phạm Văn Tham, rồi đến tháng tư năm mậu thân (1788) mới đem Vơ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái kiến Nguyễn Vương. Nguyễn Vương mừng rỡ, phong cho làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và lại gả cho bà Ngọc Du Công Chúa là em gái. Bọn Vơ Văn Lượng đều được phong làm cai cơ.

Qua tháng 7 năm ấy (1788) Nguyễn Vương đem quân về đóng ở Ba Giồng, rồi sai Tôn Thất Hội và Vơ Tính đem binh vào đánh quan đốc chiến Tây Sơn là Lê Văn Minh ở đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại, bắt được tướng sĩ rất nhiều. Lại có tướng là Nguyễn Văn Nghĩa phá được quân Tây Sơn ở Lộc Dă (tức là Đồng Nai). Tháng tám th́ Nguyễn Vương vào thành Gia Định, chiêu yên trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các tướng sĩ.

Bấy giờ quan thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham vẫn đóng ở Ba Thắc; vương sai giữ các cửa bể không cho quân Tây Sơn chạy thoát, rồi sai Nguyễn Văn Nhàn sang Tiêm La báo tiệp; sai Nguyễn Văn Nhân và Trương Phúc Giáo ra Phú Quốc đón vương mẫu và cung quyến về Gia Định.

Sang năm kỷ dậu (1789) Phạm Văn Tham ở Ba Thắc đem binh xuống thuyền định ra bể về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Vương đă sai Lê Văn Câu (c̣n gọi Duân), Tôn Thất Hội, Vơ Tính, Nguyễn Văn Trương hợp binh lại đánh ở Hỗ Châu, quân Phạm Văn Tham không phá được vây, lại phải lui về Ba Thắc. Văn Tham chờ không thấy viện binh, liệu thế giữ không nổi, bèn đem binh ra hàng, được ít lâu bị tội phải giết.

Từ đó toàn đất Gia Định thuộc về chúa Nguyễn cả.

3. Nguyễn Vương Sửa Sang Mọi Việc ở Gia Định.

Nguyễn Vương thu phục được đất Gia Định rồi, lập ra luật pháp, khôNg cho dân gian đánh cờ bạc, lại nghiêm cấm phù thủy và đồng bóng để giữ phong tục cho khỏi sự mê hoặc.

Trước hết vương lo chỉnh đốn những việc thuế khóa, việc canh nông, để lấy lương tiền nuôi tướng sĩ và tu bổ việc vũ bị. Lại đặt ra các sở công đồng để các quan văn vơ hội nghị mọi việc quốc quân, và lo sự tiến binh đánh Tây Sơn.

4. Việc Khai Khẩn Điền Thổ.

Đất Gia Định lúc bấy giờ chi ra làm 4 doanh là: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, và Trấn Định, nhưng v́ phải loạn lạc măi, dân sự đói khổ, ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ. Nguyễn Vương bèn sai văn thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Chu, Hoàng Minh Khánh cả thảy là 12 người làm điền tuấn quan để khuyên nhủ quân dân cố sức làm ruộng. Từ lính phủ binh cho đến người cùng cố đều bắt phải làm ruộng cả. Hễ ai không chịu th́ bắt phải làm lính để thay cho phủ binh. [ 132 ]

Đến mùa lúa chín, th́ cứ mỗi người cày ruộng đồng bằng phải nộp 100 cơ 135 , mà ai cày ruộng núi th́ phải nộp 60 cơ trở lên. Ai nộp đủ lệ ấy, như phủ binh th́ được miễn cho một năm không phải đi đánh giặc, mà dân đinh th́ được miễn cho một năm giao dịch. Ai không nộp đủ th́ không được dự vào lệ miễn ấy.

Lại mộ những dân ở các nơi đến làm ruộng, gọi là điền tốt. Quan điền tuấn lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho để cày cấy. Ai không có đủ trâu ḅ mà cày bừa, th́ quan cũng cấp cho, rồi đến mùa phải trả bằng thóc.

Nguyễn Vương lại phát trâu ḅ và điền khí cho quân dân, bắt đi khai khẩn những nơi rừng núi để làm ruộng gọi là đồn điền, rồi đến mùa lấy thóc để vào kho, gọi là đồn điền khố.

Các quan văn vơ đều phải mộ người lập thành đội, gọi là đồn điền đội, mỗi năm mỗi người phải nộp 6 hộc thóc. C̣n dân mà ai mộ được 10 người trở lên, th́ cho làm cai trại và được trừ sưu tịch.

Cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt trước là một chỗ đất bỏ hoang, không có người ở, mà sau thành ra một nơi rất đông người và rất trù phú trong nước Nam ta. Ấy cũng là một cái công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh vậy.

5. Việc Buôn Bán.

Nguyễn Vương lập lệ: phàm những thuyền của khác mà có chỡ những đồ gang, sắt, kẽm và lưu hoàng, th́ quan mua để làm binh khí, và cho cứ theo số hàng nhiều ít, được chở thóc gạo về nước. Bởi vậy những khách buôn bán cũng vui ḷng đem đồ hàng đến bán. Vương lại sai quan ở doanh Trấn Biên cứ theo giá chợ mà mua lấy đường cát để đổi cho những người Tây Dương mà lấy đồ binh khí.

6. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về.

Từ mùa đông năm giáp th́n (1784), ông Bá Đa Lộc đem Hoàng Tử Cảnh cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm xuống tàu sang Tây; đi qua Ấn Độ Dương và thành Phong ti thê ri (Pondichéry) đất Ấn Độ, ở lại gần 20 tháng, rồi đến mùa xuân năm đinh mùi (1787), th́ chiếc tàu chở ông Bá Đa Lộc mới vào cửa Lorient ở phía tây nước Pháp Lan Tây.

Ông Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh vào yết kiến Pháp Hoàng Louis XVI. Pháp Hoàng lấy vương lễ tiếp đăi Hoàng Tử, và giao cho thượng thư [ 135 ]

Mỗi một cơ là 42 bát. ngoại giao bộ là De Montmorin Bá Tước, thương nghị với ông Bá Đa Lộc việc sang giúp Nguyễn Vương.

Đến ngày 28 tháng 11 năm 1787 th́ ông Bá Đa Lộc và De Montmorin bá tước kư tờ giao ước, đại lược nói rằng:

1. Vua nước Pháp thuận giúp cho Nguyễn Vương 4 chiếc tàu chiến và một đạo binh: 1.200 lục quân, 200 pháo binh, 250 hắc binh ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn. 2. V́ vua nước Pháp có ḷng giúp như thế, Nguyễn Vương phải nhường đứt cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore). 3. Nguyễn Vương phải để cho người nước Pháp ra vào buôn bán tự do ở trong nước, ngoại giả không cho người nước nào ở Âu Châu sang buôn bán ở nước Nam nữa. 4. Khi nào nước Pháp có cần đến lính thủy, lính bộ, lương thực, tàu bè ở phương đông, th́ Nguyễn Vương phải ứng biện cho đủ giúp nước Pháp. 5. Khi Nguyễn Vương đă khôi phục được nước rồi, th́ phải cứ mỗi năm làm một chiếc tàu, y như tàu của nước Phám đă cho sang giúp, để đem sang trả cho Pháp Hoàng 136 .

Tờ giao ước kư xong rồi, Pháp Hoàng xuống chiếu giao cho quan tổng trấn thành Pondichéry ở đất Ấn Độ, tên là De Conway bá tước, kinh lư việc sang giúp Nguyễn Vương.

Ngày mồng 8 tháng chạp tây, năm 1787, ông Bá Đa Lộc vào bái tạ Pháp Hoàng Louis XVI, rồi đem Hoàng Tử Cảnh xuống tàu về nước Nam. Nhưng đến khi sang tới thành Pondichéry, v́ De Conway bá tước có chuyện bất ḥa với ông Bá Đa Lộc, cho nên bá tước mới t́m cách ngăn trở việc giúp Nguyễn Vương, rồi làm sớ về tâu Pháp Hoàng xin băi việc ấy đi, lấy cớ rằng sự đem binh sang cứu viện Nguyễn Vương là việc rất khó mà không có lợi ǵ.

Pháp Đ́nh thấy sớ của De Conway bá tước nói như vậy cũng lấy làm nản; vả lại lúc bấy giờ chính phủ c̣n đang bối rối về việc trong nước dân cách mệnh đă rục rịch cả mọi nơi, cho nên bỏ việc ấy không nói đến nữa.

Ấy cũng v́ có De Conway bá tước, cho nên việc sang cứu viện Nguyễn Vương không thành, bởi vậy sau ông Faure chép truyện ông Bá Đa [ 136 ]

Tờ giao ước này hiện c̣n ở Ngoại Giao Bộ ở Paris, và đă biên rơ ở sách ông Gosselin. 163 Lộc, có tiếc rằng: "Ví bằng lúc bấy giờ chính phủ nước Phám mà sẵn ḷng giúp ông Bá Đa Lộc, th́ có lẽ ông ấy đă lập nên cho nước Pháp thành cuộc bảo hộ ở An Nam ngay từ cuối đời thập bát thế kỷ, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự chiến tranh mới xong công việc".

Ông Bá Đa Lộc thấy De Conway bá tước không chịu xuất binh thuyền, bèn đứng lên đi mộ người, mua tàu và súng ống khí giới để đem sang giúp Nguyễn Vương.

Đến tháng 6 năm kỷ dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi chiếc tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống thuốc đạn cũng lục tục sang sau.

Bấy giờ những người Pháp tên là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), túc là chúa tàu Long, Vannnier, (Nguyễn Văn Chấn), tức là chúa tàu Phụng, De Forcant (Lê Văn Lăng), Victor Ollivier (ông Tín), Dayot v.v... cả thảy đến non 20 người theo ông Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Vương; vương phong quan tước cho cả mọi người để luyện tập quân sĩ, làm tàu, đúc súng, và chỉnh đốn mọi việc vũ bị.

Từ đó, thế lực của Nguyễn Vương mỗi ngày một mạnh, tướng tá mỗi ngày một đông, lương thực nhiều, quân sĩ giỏi, việc đánh phá Tây Sơn đă chắc lắm rồi.

Tháng tư năm tân hợi (1791), bà thứ phi sinh ra hoàng tử thứ tư lên là Đảm, tức là vua Thánh Tổ ở làng Tân Lộc, gần Sài G̣n bây giờ. Đến tháng ba năm quư sửu (1793), th́ vương lập hoàng tử Cảnh làm Đông Cung, phong chức nguyên súy, lĩnh tả quân doanh.

7. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Nhất.

Nguyễn Vượng đă khôi phục được đất Gia Định rồi, nghỉ ngơi hơn một năm để chỉnh đốn mọi việc. Đến tháng tư năm canh tuấn (1790) mới sai quan chưởng tiền quân là Lê Văn Câu đem 5.000 quân thủy và quân bộ ra đánh lấy B́nh Thuận, sai Vơ Tính và Nguyễn Văn Thành đem quân đi làm tiên phong. Chẳng bao lâu nhà Nguyễn lấy được đất Phan Rí và hạ được thành B́nh Thuận. Nhưng v́ Lê Văn Câu và Vơ Tính hai người không chịu nhau, Nguyễn Vương bèn lưu Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí, triệu Vơ Tính và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu đem quân ra đóng ở Phan Rang bị quân Tây Sơn đến vây đánh, phải cho người đi gọi Vơ Tính và Nguyễn Văn Thành trở lại cứu, nhưng Vơ Tính không chịu trở lại, chỉ có Nguyễn Văn Thành đưa binh đến đánh giải vây rồi cùng Lê Văn Câu về giữ Phan Rí.

Lê Văn Câu lấy điều bại binh ấy làm thẹn, xưng bệnh không ra coi việc binh nữa. Đến khi về Gia Định nghị tội phải cách hết chức tước, Lê Văn Câu uống thuốc độc tự tử 137 .

Quân nhà Nguyễn ra đánh Tây Sơn lần ấy không lợi; vả bấy giờ là mùa tháng 7, gió bắc thổi mạnh, cho nên Nguyễn Vương truyền rút quân về Gia Định để đợi mùa gió thuận th́ mới đem quân đi đánh nhau, cho nên người đời bấy giờ gọi là giặc mùa.

Năm nhâm tí (1792) tháng ba, nhân khi mùa gió nam thổi mạnh, Nguyễn Vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng với Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại (cửa Quy Nhơn) rồi lại về.

Tháng ba năm quư sửu (1793) Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ đất Gia Định, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh Phan Rí. Nguyễn Vương cùng với Nguyễn Văn Trương và Vơ Tính đem thủy sư đi đánh mặt bể. Đến tháng năm th́ chiến thuyền của Nguyễn Vương vào cửa bể Nha Trang rồi lên đánh lấy phủ Diên Khánh và phủ B́nh Khang, sau lại ra đánh lấy phủ Phú Yên.

Mặt thủy, Nguyễn Vương được toàn thắng, c̣n mặt bộ, th́ Tôn Thất Hội chỉ lấy được phủ B́nh Thuận mà thôi. Vương bèn sai người đưa thư giục Tôn Thất Hội phải kíp tiến binh lên hội với thủy sư, để hai mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.

Khi quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai thái tử là Nguyễn Bải, đem binh ra chống giữ. Nguyễn Vương bèn mật sai Vơ Tính đem binh lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Thành để đánh tập hậu. Quân của Nguyễn Bảo bị hai mặt đánh lại, chống không nổi, phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó quân thủy và quân bộ của Nguyễn Vương tương thông được với nhau. Vương bèn sai Tôn Thất Hội, Vơ Tính, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành đem binh tiến lên đánh thành Quy Nhơn.

Nguyễn Nhạc phải sai người ra cầu cứu ở Phú Xuân.

Bấy giờ vua Quang Trung đă mất rồi, vua Cảnh Thịnh, tức là Nguyễn Quang Toản, sai quan thái úy là Phạm Công Hưng, quan hộ giá là Nguyễn [ 137 ]

Lê Văn Câu là một người công thần đă theo pḥ Nguyễn chủ trong lúc gian nan, nay cũng bất đắc kỳ tử. 164 Văn Huấn, quan đại tư lệ là Lê Trung và quan đại tự mă là Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và sai quan đại thống lĩnh là Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn.

Nguyễn Vương thấy viện binh đă đến, liệu thế chống không nổi, rút quân về Diên Khánh (tức là Khánh Ḥa bây giờ) rồi về Gia Định. Để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại giữ B́nh Thuận.

Đến tháng 11, Nguyễn Vương lại sai Đông Cung Cảnh và ông Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.

8. Thế Lực Tây Sơn.

Bọn Phạm Công Hưng giải được vây rồi, kéo quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lấy thành tŕ và tịch biên cả các kho tàng.

Nguyễn Nhạc thấy vậy, tức giận đến nỗI thổ huyết ra mà chết. Ông làm vua được 16 năm.

Vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân thấy Nguyễn Nhạc mất rồi, phong cho Nguyễn Bảo làm Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi là tiểu triều rồi để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.

Từ đó các tướng Tây Sơn mới hoạt động hơn trước. Tháng ba năm giáp dần (1794) Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, và Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh.

Đông Cung Cảnh cho người về Gia Định cầu viện, NguyễN Vương bèn đem đại binh đến đánh giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.

Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn c̣n mạnh và lại đến mùa gió bắc, cho nên vương đem Đông Cung về Gia Định; để Vơ Tính ở lại giữ thành Diên Khánh.

Tháng giêng năm ất măo (1795) Trần Quang Diệu lại đem quân vào đánh Diên Khánh, Vơ Tính hết sức chống giữ, Quang Diệu đánh măi không được. Đến tháng hai, Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ Gia Định, đem thủy sư ra cứu Diên Khánh.

Trong khi hai bên c̣n đang chống giữ nhau ở đất Diên Khánh, th́ ở Phú Xuân các quan đại thần nhà Tây Sơn giết hại lẫn nhau, gây thành mối loạn.

Nguyên từ khi vua Quang Trung mất rồi, vua Cảnh Thịnh lên ngôi, nhưng quyền về cả Thái sư Bùi Đắc Tuyên, các quan có nhiều người oán giận. Năm ất măo (1795) Bùi Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc hà thay cho Vũ Văn Dũng. Văn Dũng về Phú Xuân, đi đến trạm Hoàng Giang 138

gặp quan trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ phải tội đày ra ở đấy. Văn Kỷ nhân đang căm tức Bùi Đắc Tuyên, bèn xui Vũ Văn Dũng rằng: "Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết; nếu mà không sớm trừ đi, th́ rồi có chuyện bất lợi cho nhà nước. Ông nên liệu sớm đi".

Vũ Văn Dũng xưa nay vẫn tin trọng Văn Kỷ, nay thấy nói như vậy, bèn nghe lời ấy, về mưu với Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn, lừa đến đêm đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên bắt bỏ ngục, rồi sai Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là Bùi Đắc Trụ, và cho người đưa thư ra Bắc Hà truyền cho quan tiết chết là Nguyễn Quang Thùy (em Nguyễn Quang Toản) bắt giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân.

Bọn Vũ Văn Dũng bèn đặt chuyện ra vu cho nhữNg người ấy làm phản, đem d́m xuống sông giết đi. Vua Cảnh Thịnh không sao ngăn giữ được, chỉ gạt nước mắt khóc thầm mà thôi.

Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu đang vây thành Diên Khánh, nghe tin ấy, thất kinh, nói với các tướng rằng: "Chúa thượng không phải là người cứng cỏi, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong mà không yên, th́ ngoài đánh người ta thế nào được?"

Quang Diệu bèn giải vây rút quân về. Khi về đến Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn đến tạ tội trước. Trần Quang Diệu không hỏi đến, rồi dẫn quân về đến làng An cựu đóng bên bờ sông mé nam.

Vũ Văn Dũng cùng với nội hậu Tứ cũng đem quân bản bộ ra đóng ở mé bắc bờ sông, ỷ mệnh vua ra cự nhau với Trần Quang Diệu.

Vua Cảnh Thịnh sợ hăi sai quan ra khuyên giải cả hai bên, Trần Quang Diệu mới đem các tướng vào chầu, rồi với bọn Vũ Văn Dũng giảng ḥa.

Từ đó Trần Quang Diệu làm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mă, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng chẳng được bao lâu có người [ 138 ]

Có nơi chép là trạm Hán Xuyên 165 gièm pha, Trần Quang Diệu bị thu hết cả binh quyền, chỉ được giữ chức tại trièu mà thôi. Thế lực Tây Sơn từ đấy về sau mỗi ngày một kém: trên vua th́ c̣n nhỏ dại, không có đủ uy quyền để sai khiến các quan, dưới tướng tá th́ v́ ḷng ghen ghét rồi cứ t́m cách mà giết hại lẫn nhau. Bởi vậy cho nên đến khi quân Nguyễn Vương ở Nam ra đánh, chẳng phải mất bao nhiêu công phu mà lập nên công lớn vậy.

9. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Hai.

Từ khi quân của Trần Quang Diệu giải vây Diên Khánh về Phú Xuân rồi, Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định sửa soạn việc quân lương, và sai người đi do thám mọi nơi để chiêu mộ người về đánh Tây Sơn.

Đến năm đinh tị (1797) Nguyễn Vương để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Định, rồi cùng Đông Cung Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Lại sai Nguyễn Văn Thành và Vơ Tính ra đánh Phú Yên.

Quân thủy của Nguyễn Vương ra đến Quy Nhơn, thấy Tây Sơn đă pḥng bị, liệu đánh không đổ được, Nguyễn Vương bèn ra đánh Quảng Nam. Được vài tháng quân nhu không đủ, lại phải đem quân về Gia Định, sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ thành Diên Khánh.

10. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Ba.

Nguyễn Vương về Gia Định rồi, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Tiêm La xin với quốc vương nước ấy đem quân đi đường Vạn Tượng, hoặc sang đánh Thuận Hóa, hoặc sang đánh Nghệ An, để chận đường quân ở Bắc hà vào. Một mặt sai quan binh bộ tham tri là Ngô Nhân Tĩnh sang sứ nhà Thanh, để do thám mọi việc.

Năm mậu ngọ (1798) Tiểu triều là Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn Quang Toản chiếm giữ mất đất Quy Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn Triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng vào bắt Nguyễn Bảo đưa về d́m xuống sông giết đi.

Lại có người nói gièm rằng việc Tiểu Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về Phú Xuân, sai vơ sĩ bắt chém đi. Được ít lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó quân Tây Sơn ai cũng nản ḷng, có nhiều người bỏ theo về Nguyễn Vương.

Bấy giờ có người con rễ Lê Trung là Lê Chất vốn là người đánh trận giỏi có tiếng, quan làm đến chức đại đô đốc; đến khi thấy vua Tây Sơn hay nghi kỵ mà giết hại các công thần như vậy, bèn bỏ trốn sang hàng nhà Nguyễn. Nguyễn Vương trọng dụng cho làm chức Tướng Quân.

Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn đă suy nhược, đến tháng ba năm kỷ mùi (1799) bèn củ đại binh ra đánh Quy Nhơn. Đến tháng tư thủy quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, rồi Nguyễn Vương sai quan hậu quân Vơ Tính, hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở Trúc Khê. Ngay lúc bấy giờ quan Khâm sai tiền quân chưởng cơ Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân Vơ Tính.

Đến tháng năm, th́ quân của Nguyễn Vương đến vây thành Quy Nhơn. Ở Phú Xuân sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đm binh vào cứu. Nhưng mà vào đến Quảng Nghĩa gặp quân của Nguyễn Văn Thành giữ ở Thạch Tân, cho nên không cứu được Quy Nhơn.

Sử chép rằng khi đạo quân của Vũ Văn Dũng vào đến Chung Xá, đóng lại ở đấy, đến đêm có con nai ở trong rừng chạy ra, có người trông thấy kêu to lên rằng: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm là quân Đồng Nai! Mọi người luống cuống bỏ chạy. Các quân đội Tây Sơn tưởng là quân nhà Nguyễn đă vây đánh, đều vỡ tan cả. Quân nhà Nguyễn thừa thế đánh đuổi, thành ra quân Tây Sơn thua to.

Quan trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến, mà lương thực ở trong thành th́ hết cả, bèn cùng các tướng mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đem quân vào thành rồi đổi tên Quy Nhơn gọi là B́nh Định.

Vua Tây Sơn được tin Quy Nhơn thất thủ, liền cử đại binh vào đóng ở Trà Khúc (thuộc Quảng Nghĩa) để đốc các tướng tiến binh đánh quân nhà Nguyễn. Nhưng v́ phải độ trái mùa gió, thủy chiến không tiện, cho nên các quan đều can xin rút quân về. Vua Cảnh Thịnh bèn sai Nguyễn Văn Giáp ở lại giữ Trà Khúc, sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam.

Nguyễn Vương cũng đem quân về Gia Định, để Vơ Tính và Ngô Ṭng Chu ở lại giữ thành B́nh Định. Năm ấy (1899) ông Bá Đa Lộc đi ṭng chinh, mất ở cửa Thị Nại. Nguyễn Vương đem về hậu táng ở Gia Định, tặng phong làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công.

11. Quân Tây Sơn Vây Thành B́nh Định.

Khi quân nhà Nguyễn ra vây đánh thành Quy Nhơn, vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu, nhưng v́ quân cuả Văn Dũng không đánh 166 mà tan, đến nỗi bại binh. Việc ấy là tội Văn Dũng, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi, cho nên không ai biết. Văn Dũng cảm ơn ấy, cho nên mới kết nghĩa sinh tử với Quang Diệu.

Bấy giờ ở Phú Xuân có nhiều người ghét Quang Diệu, nhân dịp ấy mà đổ tội cho Quang Diệu, bèn tâu vua xin sai người đưa mật thư ra cho Vũ Văn Dũng để giết Quang Diệu. Vũ Văn Dũng tiếp được thư ấy đưa cho Trần Quang Diệu xem. Trần Quang Diệu sợ hăi, lập tức đem quân về Phú Xuân, đóng ở mé nam sông Hương Giang, nói rằng về bắt những người loạn thần. Vua Tây Sơn sai người ra giảng ḥa. Không ai dám đi, sau phải bắt mấy người nộp cho Quang Diệu. Quang Diệu mới vào chầu. Vua Cảnh Thịnh cũng t́m lời giảng dụ, khuyên phải hết sức giúp đỡ nhà nước.

Quang Diệu khóc lạy rồi xin cùng Văn Dũng đem thủy bộ quân vào lấy lại thành Quy Nhơn.

Đến tháng giêng năm canh thân (1800), quân của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng tiến đến gần thành Quy Nhơn. Vơ Tính giữ vững, không ra đánh. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân ra vây bốn mặt. Văn Dũng th́ đem hai chiếc tàu lớn và hơn 100 chiến thuyền ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại bác ở hai bên cửa bể, để pḥng ngự thủy quân nhà Nguyễn.

Nguyễn Vương được tin quân Tây Sơn ra vây thành B́nh Định, liền cử đại binh ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đ́nh Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dă (thuộc B́nh Định). Nguyễn Vương đem thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho nên sự cứu viện không có công hiệu ǵ cả.

Đến tháng giêng năm tân dậu (1801), Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem quân tiền đạo đến đánh đồn thủy của Tây Sơn, và sai Lê Văn Duyệt, Vũ Di Nguy đem thủy quân vào đánh cửa Thị Nại. Vũ Di Nguy trúng đạn chết, c̣n Lê Văn Duyệt ra sức xông đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây Sơn.

Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại đem binh về hợp với Trần Quang Diệu để pḥng giữ mọi nơi.

Nguyễn Vương lấy được cửa Thị Nại rồi, cho người đưa tin về Gia Định báo cho tướng sĩ các nơi đều biết.

Năm ấy Đông Cung Cảnh lên đậu, mất ở Gia Định, thọ được 22 tuổi. Được một tháng hoàng tử thứ hai tên là Hi cũng mất ở Diên Khánh, đem về táng ở Gia Định.

12. Nguyễn Vương Thu Phục Phú Xuân.

Nguyễn Vương đánh được trận thủy ở Thị Nại rồi, bèn sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam, Quảng Nghĩa, và lại thấy quân Tây Sơn vây thành Quy Nhơn một cách cẩn mật lắm, đánh phá không được. Vương cho người lẻn vào thành bảo Vơ Tính và Ngô Ṭng Chu bỏ thành mà ra. Nhưng Vơ Tính phúc thư lại rằng: quân tinh binh của Tây Sơn ở cả Quy Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây vội, hăy nên kíp ra đánh lấy Phú Xuân th́ hơn.

Nguyễn Vương bèn để Nguyễn Văn Thành ở lại chống giữ với Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, rồi đem đại quân ra đánh Phú Xuân.

Bấy giờ nhà Tây Sơn cũng bối rối lắm: ở Nghệ An th́ có tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá; ở Thanh Hóa th́ có phiên thần là Hà Công Thái khởi binh giúp nhà Nguyễn; ở Hưng Hóa th́ có thổ ti là Phan Bá Phụng nổi lên quấy nhiễu. C̣n các trấn ở Bắc Hà th́ rối v́ những việc tông giáo; các đạo trưởng và đạo đồ đạo Thiên Chúa cũng nổi lên, có ư giúp nhà Nguyễn; dân t́nh th́ bị quan quân nhũng lạm hà hiếp, ai ai cũng có ḷng oán giận. Ở Phú Xuân, vua th́ hèn, các quan đại thần th́ cứ ghen ghét nhau rồi t́m kế giết hại lẫn nhau, việc chính trị không sửa sang ǵ cả. Bởi vậy nhân dân đều mong mỏi chúa Nguyễn, cho nên có câu hát rằng: "Lạy trời cho chóng gió nồm, để cho chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra".

Nguyễn Vương thấy ḷng người đă không theo Tây Sơn nữa, bèn đem binh ra đánh Phú Xuân, đến tháng năm (1801), thủy sư vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là pḥ mă Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập đồn giữ ở núi Quy Sơn. Tiền quân nhà Nguyễn đánh không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem thủy binh ra đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị bỏ đồn mà chạy. Quân Nguyễn Vương vào cửa Nguyễn Hải (cửa Thuận An) rồi kéo lên đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn phải ngự giá đem quân ra chống giữ, hai bên đánh nhau đến giữa trưa, th́ quân Tây Sơn vỡ tan. Quân Nguyễn Vương tiến lên đuổi đánh, thu phục được đô thành. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm tân dậu (1801).

Nguyễn Vương vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh quân Tây Sơn, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, để đánh quân Tây Sơn chạy ra Bắc. Lại sai Phạm Văn Nhân ra giữ cửa Nguyễn Hải, sai Lưu Phúc Tường đem quân đi 167 đường Cam Lộ sang Vạn Tượng truyền bảo các Mường giữ đường yếu lộ không cho quân Tây Sơn chạy tràn sang.

13. Vơ Tính Tử Tiết.

Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn, được tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng Nam, gặp quân của Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường, quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực, không thể chống giữ được nữa, quan trấn thủ là Vơ Tính bèn viết thư sai người đưa ra cho Trần Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng, th́ đành liều chết ở dưới cờ. C̣n các tướng sĩ không có tội ǵ, không nên giết hại".

Đoạn rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết. Quan hiệp trấn là Ngô Tùng Chu cũng uống thuốc độc tự tử.

Trần Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng Vơ Tính và Ngô Ṭng Chu, rồi sai đại đô đốc Trương Phúc Thượng và tư khấu Định, đem binh đi đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân. Đi được nửa đường th́ quân hết lương. Trương Phúc Thượng về hàng nhà Nguyễn, c̣n tư khấu Định th́ đánh thua chạy vào chết ở trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên, cũng không được.

Bấy giờ Trần Quang Diệu tuy đă lấy được thành Quy Nhơn, nhưng một mặt th́ có quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh vào, một mặt th́ quân của Nguyễn Văn Thành ở cửa Thị Nại đánh lên, c̣n ở phía nam, lại có quân của Tống Viết Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú Yên đánh ra. Ba mặt thụ địch, quân Tây Sơn phải hết sức chống giữ, để chờ quân ở Bắc Hà vào cứu viện.

11. Trận Trấn Ninh.

Từ khi thất thủ Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh ngày đêm kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch đi các trấn để lấy viện binh rồi sai em là Nguyễn Quang Thùy đem binh mă vào giữ Nghệ An. Đến tháng 11, vua Tây Sơn đem quân 4 trấn ở xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An, cả thảy được non 3 vạn người, sang sông Linh Giang. Lại sai tướng đem hơn 100 chiếc chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Bấy giờ có vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cũng đem 5.000 thủ hạ đi ṭng chinh.

Quan Chưởng Trung Quân B́nh Tây Đại Tướng Quân Nguyễn Văn Trương, cùng với Tống Phúc Lương, Đặng Trần Thương giữ ở Linh Giang, thấy quân Tây Sơn thế mạnh phải lui về giữ Đồng Hới. Nguyễn Vương được tin ấy, liền thân chinh đem đại binh ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.

Tháng giêng năm nhâm tuất (1802), vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến quân lên đánh lũy Trấn Ninh; đánh măi không đổ. Vua Tây Sơn đă toan rút quân về, nhưng Bùi Thị Xuân không chịu, xin cho ra đốc quân đánh trận. Đánh từ sáng sớm đến chiều tối, chưa bên nào được thua. Bỗng có tin rằng thủy quân của Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) đă bị Nguyễn Văn Trương phá tan cả. Quân Tây Sơn khiếp sợ bỏ chạy, tướng là Nguyễn Văn Kiên về hàng nhà Nguyễn.

Vua Tây Sơn đem tàn quân chạy về Bắc, để Nguyễn Văn Thận ở lại giữ Nghệ An.

Nguyễn Vương phá được quân Tây Sơn ở thành Trấn Ninh rồi đem quân về Phú Xuân, để trung quân Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới, để Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường giữ Linh Giang.

Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn được tin quân Tây Sơn thua ở Trấn Ninh, liệu chống không nổi, bèn đến tháng 3 năm nhâm tuất (1802) bỏ thành Quy Nhơn, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, để hội với vua Tây Sơn mà lo sự chống giữ.

15. Nguyễn Vương Lên Ngôi Tôn.

Nguyễn Vương từ khi khởi binh ở Gia Định tuy đă xưng vương, nhưng vẫn theo các chúa đời trước không đặt niên hiệu. Đến nay khôi phục được Phú Xuân, thanh thế lừng lẫy, bắc phá đại quân của Tây Sơn, nam lấy lại thành Quy Nhơn; đất An Nam bấy giờ từ sông Linh Giang vào đến Gia Định lại thuộc về nhà Nguyễn như trước. Các quan thân thuộc đều xin Nguyễn Vương đặt niên hiệu và lên ngôi tôn.

Tháng 5 năm nhâm tuất (1802) ngài lập đàn tế cáo trời đất, rồi thiết triều để các quan chầu mừng, và đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên.

16. Quân Nam Ra Lấy Bắc Hà.

Nguyễn Vương đă lên ngôi làm vua rồi, sai Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh đem các đồ phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh phong cho Tây Sơn sang nộp cho Thanh Triều và xin phong. Ngài lại định ngự giá đi đánh Bắc Hà, bèn sai Nguyễn Văn 168 Trương lĩnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lĩnh bộ binh, hai mặt thủy bộ cùng tiến.

Tháng 6, th́ quân bộ sang sông Linh Giang tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống rồi lên đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Quan Trấn Thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lư ở Diễn Châu.

Bấy giờ Trần Quang Diệu đi đường Ai Lao ra đến châu Quư Hợp, xuống huyện Hương Sơn thấy quân nhà Nguyễn đă lấy được Nghệ An rồi, bèn cùng với Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương, bao nhiêu quân sĩ đều bỏ cả, được mấy hôm hai vợ chồng cùng bị bắt. C̣n Vũ Văn Dũng chạy ra đến Nông Cống cũng bị dân bắt được đem nộp.

Quân Nguyễn Triều kéo tràn ra lấy Thanh Hóa, đi đến đâu quân Tây Sơn chưa đánh đă tan, chỉ trong một tháng đă ra đến Thăng Long.

Vua Tây Sơn thấy thế ḿnh không chống giữ được nữa, bèn cùng với các em là Nguyễn Quang Thùy, Nguyễn Quang Thiệu, và mấy người bề tôi là bọn đô đốc Tú, và Nguyễn Văn Tứ sang sông Nhị Hà chạy về phía Bắc, nhưng lên đến địa hạt Phượng Nhỡn, bị dân ở đấy bắt được. Nguyễn Quang Thùy tự tử, đô đốc Tú và vợ cũng tự vẫn. C̣n vua tôi nhà Tây Sơn mấy người đều bị đóng cũi đem về nộp ở Thăng Long.

Nhà Tây Sơn khởi đầu từ năm mậu tuất (1778), Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn, đến năm Nhâm Tuất (1802), cả thảy được 24 năm. Nhưng Nguyễn Nhạc chỉ làm vua từ đất Quảng Nam, Quảng Nghĩa trở vào mà thôi, c̣n từ Phú Xuân trở ra, th́ thuộc về nhà Lê. Đến năm mậu thân (1788), vua Quang Trung xưng đế hiệu, rồi ra đánh giặc Thanh, lấy lại đất Bắc Hà, sửa đổi việc chính trị. Từ đó nước Nam mới thuộc về nhà Nguyễn Tây Sơn.

Vậy kể từ năm mậu thân (1788) đến năm nhâm tuất (1802) th́ hà Tây Sơn chỉ làm vua được có 14 năm mà thôi.

Trong bấy nhiêu năm phải đánh nam dẹp bắc luôn, không mấy lúc nghỉ việc chiến tranh, cho nên nhà Tây Sơn không sửa sang được việc ǵ. Vả sau khi vua Quang Trung mất rồi, vua th́ hèn, quan th́ nhũng, chính trị bỏ nát, ḷng người oán giận, ai cũng mong mỏi được thời thịnh trị để yên nghiệp mà làm ăn. Bởi vậy cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn cất quân ra Bắc, ḷng người theo phục, chỉ một tháng trời mà b́nh được đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam vậy. [ 169 ]

PHẦN V

Cận Kim Thời-Đại

Nhà Nguyễn (1802-1945)

CHƯƠNG I

Thế Tổ (1802-1819)

Niên hiệu: Gia Long

26. Thế Tổ xưng đế hiệu 27. Việc triều chính 28. Binh chế 29. Việc tài chánh 30. Công vụ 31. Pháp luật 32. Việc học hành 33. Việc giao thiệp với nước Tàu 34. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La 35. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao 36. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây 37. Sự giết hại công thần 38. Xét công việc của vua Thái Tổ

1. Thế Tổ xưng đế hiệu.

Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.

Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con 170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho ḍng dơi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên.

Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào Binh, tào H́nh, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.

Đến tháng bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, c̣n đầu th́ đem bỏ giam ở trong ngục tối.

Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Th́ Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Th́ Nhiệm v́ trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.

Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để lập thường triều, đền Thái Ḥa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành tŕ ở ngoài các doanh trấn.

Tuy rằng ngài đă đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Ḥa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 th́ thiết tiểu triều.

Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, th́ chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc ǵ cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong th́ ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài th́ ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.

2. Việc Triều Chính.

Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, th́ tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v.....

Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại v.v....

Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v...

Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần nhân v.v.....

Bộ Binh: coi việc thuyên bổ vơ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.

Bộ H́nh: coi việc h́nh danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.

Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....

Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.

Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.

Các địa phương th́ lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh b́nh bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ B́nh Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Ḥa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên. 171

C̣n ở quăng giữa nước, th́ đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, B́nh Định trấn, Phú Yên trấn, B́nh Ḥa trấn (tức là Khánh ḥa) và B́nh Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng b́nh doanh, Quảng Nam doanh.

Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn th́ đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan kư lục để coi việc cai trị trong trấn.

Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị.

Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, th́ dùng những quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. C̣n 6 ngoại trấn ở Bắc Thành, th́ giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.

3. Binh Chế.

Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những người tử trận. C̣n những quân lính già nua th́ cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh: lệ định các trấn, tự Quảng B́nh vào đến B́nh Thuận th́ cứ ba tên đinh kén lấy một tên lính; tự Biên Ḥa trở vào th́ cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành th́ cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính. C̣n 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên th́ cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.

Ở chỗ Kinh thành th́ đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn th́ đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, c̣n một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho nhau.

Những binh khí th́ dùng gươm giáo, mă tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn th́ mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn.

Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để pḥng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại.

Nước Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ ǵn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. C̣n ở các hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần pḥng ở miền bể.

4. Việc Tài Chính.

Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền th́ chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. C̣n thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.

Thuế đinh th́ lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:

Thuế thân 1 quan 2 tiền

Mân tiền 1 tiền

Cước mễ 2 bát

5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên 139 , mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:

Thuế thân 1 quan 2 tiền

Mân tiền 1 tiền

Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền

Cước mễ 2 bát

6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:

Thuế thân 6 tiền

Mân tiền 1 tiền

Điệu tiền 3 tiền

Cước mễ 1 bát

Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... th́ nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần th́ khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần th́ giảm cho 3; thiệt hại 6 phần th́ giảm cho 4; thiệt hại 7 phần th́ giảm cho 5; thiệt hại 8 phần th́ giảm cho 6; thiệt hại 9 phần th́ giảm cho 7; thiệt hại hết cả th́ giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v... th́ cũng được giảm thuế. [ 139 ]

Tức là phủ Hoài Đức bây giờ. 172

Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng B́nh đến B́nh Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 th́ hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ th́ khởi tự tháng 4 đến tháng 6 th́ hết; mùa đông th́ khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 th́ hết.

Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.

Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rơ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại bộ, để pḥng khi xét đến; c̣n hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, c̣n một bản gia trả dân xă lưu thủ.

Cấm bán ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xă có nơi th́ đem công điền đổi ra tư điền, có nơi th́ đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xă không được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xă thôn có công dụng điều ǵ, th́ mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy th́ phải tội.

Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người t́m được cây quế, phải tŕnh quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người t́m được.

Năm Gia long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.

C̣n những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.

Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.

Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.

Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.

Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.

Giá vàng ở Bắc Thành th́ định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.

Về sau mở thêm ḷ đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.

Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo".

Phép cân: Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên b́nh, cấp cho các doanh các trấn, để cân đồng, sắt, ch́, thiếc và các sản vật. C̣n vàng và bạc th́ dùng cân trung b́nh.

5. Công Vụ.

Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ng̣i, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.

Đường Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường th́ phát cho dân 10.000 phương gạo.

Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến B́nh Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.

C̣n từ B́nh Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên th́ đi đường thủy.

Sông ng̣i và đê điều: Những sông ng̣i và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ng̣i và các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ ǵn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có th́ đắp thêm, chỗ nào hư hỏng th́ phải sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để pḥng khi mất mùa đói kém th́ lấy mà phát cho dân.

6. Pháp Luật.

Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đă nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho đ́nh thần lập ra pháp luật rơ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều.

Đến năm ất hợi (1815), th́ in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.

7. Việc Học Hành.

Thời bấy giờ nhờ có vơ công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan vơ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết rằng sự trị nước cần phải có vơ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ư về việc học hành thi cử trong nước.

Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ ḷng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học hành ra là quan.

Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.

Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đựng sá xa gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những ǵ làm thành sách "Nhất Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển.

Năm tân mùi (1811), ngài sai quan t́m những sách dă sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.

Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rơ ai làm, nhưng thật là một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra thời bấy giờ.

"Truyện Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân t́nh thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhă, lời lẽ cũng lư thú. Nói theo tiếng đời nay th́ "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy.

8. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.

Khi vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng v́ đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.

Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ ba năm một lần sang cống.

Đồ cống phẩm là:

Vàng 200 lượng

Bạc 1000 lượng

Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây

Sừng tê giác 2 bộ

Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân

9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.

Nguyên lúc c̣n Lê Triều th́ chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn 141

bị anh em hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua đầu, ḿnh làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền làm vua một ḿnh.

Lúc bấy giờ Nguyễn Vương c̣n ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn Lân ở lại [ 140 ]

Ông Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141

Xem ở chương VI 174 bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.

Năm bính th́n (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần phục vua Tiêm La.

Đến năm đinh măo (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.

Đồ cống vật là:

Voi đực cao 5 thước 2 con

Sừng tê giác 2 chiếc

Ngà voi 2 cái

Hột sa nhân 50 cân

Đậu khấu 50 cân

Hoàng lạp 50 cân

Cánh kiến 50 cân

Sơn đen 20 lọ

Nặc Ông Chân có ba người em tên là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn, muốn tranh quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc Ông Chân không chịu, quân Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành bấy giờ là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đ́nh.

Năm tân mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm La sai sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng ḥa cho anh em Nặc Ông Chân, chứ không có ư ǵ cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế nào, Tiêm La 142

cũng xin thuận.

Qua năm quư dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân, hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước.

Nước Tiêm La tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon (Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân Tiêm mới rút về. [ 142 ]

Tức là Thái Lan ngày nay

Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành ấy xây xong, th́ vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.

10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao.

Năm quư hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert đem đồ phương vật sang dân và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng Mao c̣n đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngày vẫn một niềm từ chối không chịu.

11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lan Tây.

Đối với nước Pháp th́ vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là v́ khi ngài c̣n gian truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy người sang giúp ngày. Đến khi xong việc đánh dẹp rồi, c̣n có Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có ḷng trọng đăi, cho mỗi người 50 lính hầu, và đến buổi chầu th́ không bắt lạy.

Vả trong khi vua Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, th́ Nă Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm vua bên nước Pháp, đang c̣n phải đánh nhau với các nước, cho nên tàu Pháp cũng không hay đi lại ở phía Viễn Đông này. Đến khi Nă Phá Luân thất thế, ḍng dơi nhà vua cũ lại trung hưng lên, bấy giờ sự chiến tranh đă yên, th́ mới có tàu sang buôn bán ở phương Á đông. Năm đinh sửu (1817), có chiếc tàu "La Paix" của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng mà những đồ hàng ấy, người Việt Nam ta không dùng được, lại phải chở về. Vua Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc kư năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đă không thi hành th́ nay bỏ, không nói đến nữa.

Năm kỷ măo (1819), có chiếc tàu buôn ba cột tên là "Rose" và "Le Henri" vào cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba năm, đem vợ con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.

175 12. Sự giết hại công thần.

Những người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ c̣n đang trị v́.

Nguyễn Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đă hai ba đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được công lớn, đứng đầu hàng công thần.

Khi vua Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung quân.

Ông có học thức, cho nên triều đ́nh cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử.

Nguyễn Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi.

Bài thơ rằng:

Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt

Hư hoài trắc tịch dục cầu ty

Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác

Thiện tường phương tri Kư bắc kỳ

U cốc hữu hương thiên lư viễn

Cao cương minh phượng cửu thiên tri

Thư hồi nhược đắc sơn trung tể

Tá ngă kinh luân chuyển hóa ky

Dịch nôm là :

Ái châu nghe nói lắm người hay

Ao ước cầu hiền đă bấy nay

Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó

Ngựa kỳ Kư bắc biết lâu thay

Mùi hương hang tối xa ngh́n dặm,

Tiếng phượng g̣ cao suốt chín mây

Sơn tể phen này dù gặp gỡ

Giúp nhau xoay đổi hội cơ này

Tưởng bài thơ này chẳng qua là lời lẽ của người thiếu niên nói ngông mà thôi, không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn Văn Thuyên đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một hôm băi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng: "Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội ǵ mà bị người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ ḷng nào ngồi nh́n để người ta giết thần mà không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm không co ông Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết, c̣n Nguyễn Thuyên th́ phải chém.

Đặng Trần Thường người ở Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây giờ) có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau v́ làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đ́nh làm án phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với Lê Chất, cho nên Lê Chất mới bới những việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền, v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo.

Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn Phú" bằng quốc âm để ví ḿnh như Hàn Tín đời Hán.

13. Xét công việc của vua Thế Tổ.

Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngă ḷng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức ḷng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.

Công nghiệp của ngài th́ to thật, tài trí của ngài th́ cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.

Vua Thế Tổ mất năm kỷ măo (1819), trị v́ được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176

 

CHƯƠNG I

Thánh Tổ (1820-1840)

Niên hiệu: Minh Mệnh

1. Đức độ vua Thánh Tổ 2. Việc chính trị trong nước 3. Nội các 4. Cơ mật viện 5. Tôn nhân phủ 6. Quan chế 7. Đặt tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh 8. Lương bổng của các quan 9. Tiền dưỡng liêm 10. Sự học hành thi cử 11. Sách vở 12. Việc sửa sang phong tục 13. Nhà dưỡng tế 14. Việc dinh điền và thuế má 15. Việc vơ bị

1. Đức Độ Vua Thánh Tổ.

Tháng giêng năm canh th́n (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.

Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc ǵ, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành.

Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc ḷng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Gia Tô.

Về sau có nhiều nhà làm sử, v́ ư riêng mà cho ngài là bạo quân, th́ thiết tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng. [ 177 ]

Phải biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều ǵ cũng theo Nho Giáo, lấy tam cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái khóa luân lư củ xă hội ḿnh. Ai tháo cái khóa ấy ra th́ cho là không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém giết.

Lúc trong nước ḿnh từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lư tưởng ấy làm phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói những chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rơ ra thế nào th́ tất cho là theo tả đạo làm hư hỏng cái phong tục hay của ḿnh. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước đi theo đạo mới.

Một ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, th́ tất là phải giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng ḿnh làm bổn phận làm vua của ḿnh, chớ có biết đâu là ḿnh làm sự thiệt hại cho dân cho nước.

Vả, bao giờ cũng vậy, hễ người ta đă sùng tín một tông giáo nào, th́ tất cho cái tông giáo của ḿnh là hay hơn, và cho người theo tông giáo khác là thù nghịch với ḿnh, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng cách ấy mà hà hiếp người khác đạo với ḿnh. Cũng v́ lẽ ấy, cho nên ngày trước Vua Phillippe II nước I Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy giờ các ông ấy cũng tưởng là ḿnh làm điều phải, chớ có biết đâu là ḿnh làm điều trái lẽ.

Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái trí năo người Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rơ cái tông chỉ đạo Thiên Chúa ra thế nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh Tổ nữa, th́ ông vua khác cũng không chắc đă tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.

Nhà làm sử lại đổ cho vua Thánh Tổ giết Nguyễn Văn Thành, song xét trong các truyện như sách Thực Lục Chính Biên và sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện th́ chỉ thấy chép rằng Nguyễn Văn Thành bị tội phải uống thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ 15 mà thôi. C̣n như vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất th́ có hẹp ḥi thật, nhưng khi các ông ấy đă mất rồi, và lại v́ có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy mà làm án, chứ lúc hai ông ấy c̣n sống, th́ vua Thánh Tổ, tuy có bụng nghi ngờ, nhưng vẫn không bạc đăi.

Việc ngài giết chị dâu là bà vợ Hoàng Tử Cảnh và các cháu, th́ không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rơ.

C̣n việc không biết giao thiệp với các nước ngoại dương, th́ không phải là cái lỗi riêng một ḿnh ngài. Lúc bấy giờ người ḿnh ai cũng chỉ biết có nước Tàu là văn minh hơn, c̣n th́ cho là man di cả. Phỏng sử có ai là người biết mà nói ở thiên hạ c̣n có nhiều nước văn minh hơn nữa cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước ḿnh, th́ không những là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi, lại c̣n sợ lây phải cái phong tục dă man nữa, cho nên không muốn giao thông với ngoại quốc làm ǵ. Như thế th́ có nên riêng trách một ḿnh ai không ?

Cái nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ không nên lấy ḷng yêu ghét của ḿnh mà xét đoán. Dẫu người ḿnh ghét mà có làm điều phải, ḿnh cũng phải khen; người ḿnh yêu mà có làm điều trái, ḿnh cũng phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, th́ thật ngài cũng có ḷng v́ nước lắm. Trong, lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài, đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.

Vậy cứ b́nh t́nh mà xét, th́ dẫu ngài không được là ông anh quân nữa, th́ cũng không phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm th́ hiểu rơ.

2. Việc Chính Trị Trong Nước.

Vua Thánh Tổ đă 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đă am hiểu lắm. Việc ǵ ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đ̣i một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lư và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Ḷng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, th́ rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt c̣n làm ǵ được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào [143]

Ở trong triều, th́ ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.

3. Nội Các.

Đời vua Thế Tổ đă đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều ǵ th́ vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo,

Minh Mệnh Chính Yếu, quyển Cần Chính. 178 chương, tấu, sắc, mệnh, v.v.... Đại khái cũng tự hồ pḥng bí thư của vua vậy.

Năm canh th́n (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn Thư Pḥng; đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.

4. Cơ Mật Viện.

Năm giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân v́ việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy th́ dùng 4 viên, văn vơ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên th́ có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.

5. Tôn Nhân Phủ.

Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.

Nhà vua thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía hữu gọi là mục. Con cháu các ḍng chiêu hay là mục phải phân biệt chi nào ra chi ấy.

Đặt tôn nhân lệnh một người, tả hữu tôn chính hai người, tả hữu tôn nhân hai người, để coi việc hoàng tộc và việc phân biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép hàng lượt người thân người sơ, việc nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong hoàng tộc; lại đặt ra hữu tôn khanh hai người, tả hữu tá lư hai người, để coi thứ trật mọi người tôn thất và việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang hôn v.v....

6. Quan Chế.

Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và ṭng hai bậc.

Văn Vơ Chánh Nhất Phẩm Cần chính điện đại học sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ, Vơ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống chưởng phủ sự. Ṭng Nhất Phẩm Hiệp biện đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống. Chánh Nhị Phẩm Thượng thư, tổng đốc, tả hữu đô ngự sử. Thống chế, đề đốc. Ṭng Nhị Phẩm Tham tri, tuần phủ, tả hữu phó đô ngự sử. Chưởng vệ, khinh xa đô úy,đô chỉ huy sứ,phó đề đốc. Chánh Tam Phẩm Chưởng viện học sĩ, thị lang, đại lư tự khanh, thái thường tự khanh, bố chính sứ, trực học sứ, thông chính sứ, thiêm sự, phủ doăn. Nhất đẳng thị vệ, chỉ huy sứ, thân cấm binh vệ úy, lănh binh. Ṭng Tam Phẩm Quang Lộc tự khanh, thái bộc tự khanh, thông chính phó sứ. Binh mă sứ, tinh binh vệ úy, thâm cấm binh phó vệ úy, phó lănh binh, kiêu kỵ đô úy, pḥ mă đô úy. Chánh Tứ Phẩm Hồng lô tự khanh, đại lư tự thiếu khanh, thái thường tự thiếu khanh, tế tửu, lang trung, thị độc học sĩ, thiếu thiêm sự, thái y viện sứ, tào chính sử, phủ thừa, án sát sứ. Quản cơ, nhị đẳng thị vệ, binh mă phó sứ, tinh binh phó vệ úy, thành thủ úy. Ṭng Tứ Phẩm Quang Lộc tự thiếu khanh, thái bộc tự thiếu khanh chưởng ấn, cấp sự trung, thị giảng học sĩ, kinh kỳ đạo ngự sử, tư nghiệp, từ tế sứ, quản đạo. Phó quản cơ, tuyên úy sứ, kị đô úy. Chánh Ngũ Phẩm Hồng lô tự thiếu khanh, giám sát ngự sử, hàn lâm viện thị độc, viên ngoại lang, trưởng sử, từ tế phó sứ,ngự y, giám chánh, tào chánh phó sứ,đốc học,phó quản đạo. Tam đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng, pḥng thủ úy. Ṭng Ngũ Phẩm Hàn lâm viện thị giảng, hàn lâm viện thừa chỉ, miếu lang, giám phó, phó trưởng sử, phó ngự y, tri phủ. Tinh binh chánh đội, tứ đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng suất đội, tuyên phó sứ, phi kị úy. Chánh Lục Phẩm Hàn lâm việc trước tác, chủ sự, đồng tri phủ, kinh huyện, tri huyện, y tả viện phán, ngũ quan chánh. Ngũ đẳng, thị vệ, cẩm y hiệu úy, tinh binh chánh đội trưởng suất đội, thổ binh chánh đội, trợ quốc lang. Ṭng Lục Phẩm Hàn Lâm Viện tu soạn, tri huyện, tri châu, miếu thừa, Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh 179 học chánh, thông phán, thổ tri phủ, y hữu viện phán. chánh đội trưởng suất đội. Chánh Thất Phẩm Hàn lâm viện biên tu, tư vụ, lục sự, giám thừa, giám linh đài lang, giáo thụ, kinh lịch. Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội. Ṭng Thất Phẩm Hàn lâm viện kiểm thảo, y chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu. Tinh binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, ṭng thất phẩm thiên hộ, nội tạo phó tư tượng. Chánh Bát Phẩm Hàn lâm viện điển tịch, huấn đạo, chánh bát phẩm thơ lại. Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng. Ṭng Bát Phẩm Hàn lâm viện điển bạ, y phó, ṭng bát phẩm thơ lại. Ṭng bát phẩm đội trưởng, ṭng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, ṭng bát phẩm phó tư tượng. Chánh Cửu Phẩm Hàn lâm viện cung phụng, chánh cửu phẩm thơ lại, thái y y chánh, tự thừa, phủ lại mục. Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục. Ṭng Cửu Phẩm Hàn lâm viện đăi chiếu, ṭng cửu phẩm thơ lại, tỉnh y sinh, huyện lại mục, chánh tổng. Ṭng cửu phẩm đội trưởng, ṭng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, ṭng cửu phẩm tượng mục. 7. Đặt Tổng Đốc, Tuần Phủ ở các tỉnh.

Nguyên trước nước Nam ta chia ra làm từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi việc trong trấn. Từ đời Gia Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp Trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.

Đến năm tân măo (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính sứ, án sát sứ và lĩnh binh.

Tổng đốc th́ coi việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cơi ở trong hạt; tuần phủ th́ coi việc chính trị, giáo dục và giữ ǵn phong tục; bố chính sứ th́ coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng và triều đ́nh có ân trạch hay là cấm lệnh điều ǵ, th́ phải tuyên cho mọi nơi biết; án sát sứ th́ coi việc h́nh luật và kiêm cả việc trạm dịch bưu chính; lĩnh binh th́ chuyên coi binh lính.

Từ tuần phủ trở xuống đều phải theo lệnh quan tổng đốc. Thường th́ tỉnh nào lớn, có lắm việc quan trọng mới đặt tổng đốc để quản trị cả hai ba tỉnh. C̣n những tỉnh nhỏ th́ chỉ đặt tuần phủ là quan đầu tỉnh 144 .

8. Lương bổng của các quan viên.

Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.

Chánh nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Ṭng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan. Ṭng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan. Ṭng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan. Chánh tứ phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Ṭng tứ phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền 40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Ṭng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân phục 7 quan. Ṭng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền xuân phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Ṭng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan. Ṭng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Ṭng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan.

Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.

Từ nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ tŕnh giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, tŕnh giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, th́ cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.

Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, th́ thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thủa trước rẻ rúng không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm. [144]

Đời vua Thế Tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là Hưng Yên, Ninh B́nh, Hà tĩnh và An Giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh. 180

9. Tiền Dưỡng Liêm.

Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.

Đồng tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.

Tri huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.

10. Sự Học Hành Thi Cử.

Việc trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đă lưu ư về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ th́ ngài lại trọng sự văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước th́ trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có ḷng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được lương bổng ở ăn học.

Đời vua Thế Tổ th́ chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đ́nh để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.

Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm tí, ngọ, măo, dậu, thi Hương; năm th́n, tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi Đ́nh.

Phép thi th́ vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường gọi là hương cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.

Vua Thánh Tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm, những sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện với các quan rằng: "Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tráng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế th́ trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại". Vua Thánh Tổ thật là biết rơ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ v́ thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, th́ dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của ḿnh vẫn nguyên như cũ.

11. Sách Vở.

Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đă lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ư về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai t́m được sách cũ, hay làm ra sách mới, th́ được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đ́nh Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.

Vua Thánh Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, c̣n sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu B́nh Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế Thi Tập.

12. Việc Sửa Sang Phong Tục.

Mấy năm về cuối đời vua Thánh Tổ trong nước lắm giặc giă, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân. 1. Đô Nhân Luân: trọng tam cương ngũ thường. 2. Chính Tâm Thuật: làm việc ǵ cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đính trong sạch. 3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của ḿnh. 4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết kiệm. 5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần hậu. 6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em. 7. Sùng Chính Học: chuộng học đạo chính. 8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục. 9. Thận Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật. 10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm lành.

Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: "Các làng ở ngoài Bắc Thành nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân th́ biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỷ thần th́ hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế th́ chuộng đường xa hoa, 181 thậm chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân".

Vua Thánh Tổ bèn xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đă ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lư: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, th́ phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ b́nh dân, th́ phải theo phép mà trừng trị. C̣n những lệ thờ thần và lễ tang tế th́ Lễ Bộ đă định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo th́ phải tội.

13. Nhà Dưỡng Tế.

Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, th́ mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.

14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.

Thuế đinh và thuế điền th́ đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đă định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. C̣n như số dân đinh và điền thổ trong nước, th́ cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.

Những dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh Hương, th́ có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao dịch. Những người lăo hạng và tàn tật th́ phải chịu một nửa.

C̣n những người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực th́ đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật lực th́ phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, th́ chiếu lệ thu cả thuế.

Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.

Mỗi phương nộp bằng tiền th́ phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.

C̣n các thứ thuế mỏ, thuế sản vật, v.v... th́ đại khái cũng theo lệ đời vua Thế Tổ đă định, chứ không thay đổi mấy đi.

15. Việc Vơ Bị.

Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, th́ trong nước đă được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có vơ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh mă để pḥng khi hữu sự.

Ở những nơi hiểm yếu th́ lập đồn ải, ở các cửa bể và các đảo th́ lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để pḥng giữ mặt bể.

Binh chế th́ có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh.

Bộ binh th́ có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất đội và đội trưởng cai quản.

Những binh khí của mỗi vệ, th́ có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ.

Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ th́ có quản cơ, mà đội th́ có suất đội cai quản.

Tượng quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150 con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở B́nh Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng B́nh, Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, B́nh Thuận, Ninh B́nh mỗi nơi 7 con.

Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh.

Vua Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở dọc bờ bể, thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự pḥng bị. Thường ngài bắt quan đem binh thuyền ra để luyện tập.

Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo dưỡng binh, để cho con các quan vơ, từ suất đội trở lên ai muốn t́nh nguyện vào học, th́ cho lương bổng, và cử quan đại thần ra dạy vơ nghệ.

C̣n như khi nào có quân lính đi đâu, th́ nhà vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ. [182]

Tuy nhà vua muốn lưu ư về việc binh lính, nhưng người ḿnh lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh vơ, b́nh nhật không có ai lo ǵ đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự th́ mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc ḷng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào th́ làm. Thành ra quân số ở trong sổ sách th́ nhiều, mà thế lực th́ vẫn không đủ: ấy là đời vua Thánh Tổ mà c̣n thế, huống chi đến những đời sau, lại c̣n suy nhược hơn nữa.

 

CHƯƠNG III

Thánh Tổ (1820-1840) (tiếp theo)

1. Sự giặc giă 2. Giặc ở Bắc kỳ 3. Phan Bá Vành 4. Lê Duy Lương 5. Nông Văn Vân 6. Giặc ở Nam Kỳ 7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất 8. Giặc Tiêm La 9. Việc Ai Lao 10. Việc Chân Lạp 11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương 12. Sự cấm đạo 13. Vua Thánh Tổ mất

1. Sự Giặc Giă.

Vua Thánh Tổ thật là hết ḷng lo việc chính trị, điều ǵ ngài cũng xem xét đến, việc ǵ ngài cũng sửa sang lại, có ư muốn cho nước thịnh dân giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giă, quan quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân sự không được yên nghiệp mà làm

Xét sự giặc giă về đời vua Thánh Tổ là do ở ba lẽ cốt yếu:

Một là khi nhà Nguyễn thất thế ở Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn Tây Sơn c̣n phải lo việc trong nước, lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân lấy dịp ấy mà giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp thế các nước ở đất Lào. Đến khi vua Thế Tổ nhất thống nam bắc, thanh thế lừng lẫy, nước Chân Lạp lại xin về thần phục nước Nam, và các nước Ai Lao, Vạn Tượng, đều sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La đối với nước Nam, bề ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ t́m cách mà sinh sự để cướp lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các nước Lào. Bởi vậy cho nên 183 về phía tây và phía nam bao giờ cũng có giặc Tiêm và giặc Lào quấy nhiễu măi.

Hai là ở Bắc Kỳ tuy đă là thống thuộc về nhà Nguyễn rồi, nhưng c̣n có người mong nhớ nhà Lê, thỉnh thoảng lại có nơi nổi lên, hoặc muốn khôi phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà Nguyễn, bởi thế cho nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.

Ba là quan lại cứ hay nhũng nhiễu, làm cho ḷng người không được thỏa thuận, và trong đám quan trường thường hay có thói bới móc nhau để tâng công tâng cán. Nhà vua lại có tính hẹp ḥi, không bao dong cho những kẻ công thần, hay t́m chuyện làm uất ức mọi người, mà ở với thần dân th́ nghiêm khắc quá, cho nên mới thành ra nhiều sự rối loạn.

Bởi những lẽ ấy, cho nên ở ngoài th́ có giặc Tiêm đánh phá, ở trong th́ có ngụy Khôi dấy loạn ở phía nam. Lê Duy Lương và Nông văn Vân dấy binh ở phía bắc. Lúc bấy giờ cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi như Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ v.v.... đều ra công đánh dẹp, cho nên không những là giặc trong nước dẹp yên, mà lại thêm được bờ cơi rộng răi hơn cả những đời trước.

2. Giặc ở Bắc Kỳ.

Sự giặc giă ở đất Bắc th́ từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện. C̣n những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc, th́ có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh B́nh và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.

3. Phan Bá Vành.

Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Vơ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lư và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đ́nh Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Vơ Đức Cát. C̣n tên Vành và dư đảng th́ chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.

Nhà vua thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh giặc.

Tháng giêng năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn Lư và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được Vành và cả đảng hơn 765 người.

4. Lê Duy Lương.

Khi dẹp xong giặc Vành th́ trong xứ yên được một độ, nhưng c̣n có ḍng dơi nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quư tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh B́nh có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.

Vua Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh B́nh cùng với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê Duy Lương.

Lê Duy Lương ở Ninh B́nh thế cô lắm, chống không nổi mấy đạo quan quân, chỉ đương được vài ba tháng th́ bị bắt, đóng cũi giải về Kinh trị tội. C̣n bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế th́ chẳng được bao lâu mà tan.

V́ có chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt ḍng dơi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, B́nh Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn.

5. Nông Văn Vân.

Ở Bắc c̣n đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, th́ ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan t́m bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quư tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm trời, làm cho quan quân thật là vất vả.

Nông Văn Vân làm Tri châu châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân t́m bắt họ hàng Lê Văn Khôi, bèn nổi lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng 184 Quân, và bắt viên tỉnh phái thích chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền của dân", rồi đuổi về.

Nông Văn Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem quân hội với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đ́nh Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.

Quân giặc vây đánh Cao Bằng và Lạng Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là Tạ Quang Cự làm tổng thống đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng và Lạng Sơn.

Nông Văn Vân nhận được chỗ mường mán lắm núi nhiều rừng, bèn chia quân đi tản ra mọi nơi, t́m chỗ hiểm yếu mà ẩn nấp, hễ có quan quân đến, đánh được th́ tiến, không đánh được th́ lui, cứ ra vào bất trắc, lui tới không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và lại hao binh tổn tướng rất nhiều.

Tháng chạp năm quư tị (1833) đạo quân của Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao bằng. Đạo quân của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo Lạc) là chỗ sào huyệt của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.

Nhưng mà khi quan quân rút về, th́ Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên pḥng giữ các tỉnh mạn ngược.

Đến tháng 9 năm giáp ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng; Nguyễn Đ́nh Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu. Quan quân đi đường sá khó khăn, lương thực vận tải không tiện, nhưng mà quân sĩ đều cố hết sức, đi đến đâu quân giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh pḥng giữ, đừng cho quân giặc chạy sang bên ấy. Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy sang Tàu, bị quân Tàu đuổi bắt, lại phải trở về Tuyên Quang.

Tháng 3 năm ất mùi (1835), Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển bèn vây 4 mặt, rồi phóng hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy. Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.

6. Giặc ở Nam Kỳ.

Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ư vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.

Nguyên mấy năm trước, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy quyền lắm, mà ḷng người ai cũng kính phục. Chỉ v́ ông ấy là quan vơ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ triều đường tấu đối không được hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng ḷng, nhưng ông ấy là bậc khai quốc công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ đi. Đến khi ông ấy mất, th́ vua Thánh Tổ băi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở ngoài Bắc.

Tỉnh Phiên An (tức là tỉnh Gia Định) có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn là người tham lam tàn ác; khi đến làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đ̣i hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước.

Trong bọn ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên trước tên ấy gọi là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, nó xin ra thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy.

Bấy giờ Lê Văn Khôi bị bắt giam, phần th́ tức giận, phần th́ sợ tội, bèn mưu với mấy người đảng của nó để dấy loạn; ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo tên Khôi cả.

Đến đêm ngày 18 tháng năm, năm quư tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng với 27 người lính hồi lương vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, rồi ra gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt. C̣n quan Án và quan Lănh th́ chạy thoát được.

Bấy giờ những quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng ḿnh là bọn Thái Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn 185 Đà và Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Vơ Vĩnh Tiền và Vơ Vĩnh Tài quản hữu quân, Vơ Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng quân, v.v.... Lại đặt các quan chức như một triều đ́nh riêng vậy. Đoạn rồi Lê Văn Khôi sai bọn Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.

Triều đ́nh được tin ấy, liền sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với B́nh Khấu tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi.

Khi quan quân vào đến Gia Định không biết tại cớ ǵ, mà trung quân của ngụy là Thái Công Triều xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên, trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên Khôi làm phản. Nay lại trở về với triều đ́nh, đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các tỉnh.

Lê Văn Khôi biết thế không chống nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân ra chống giữ, và lại sai người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo sang đánh nước Nam. Việc ấy sẽ nói ở mục sau.

Quan quân một mặt th́ đánh đuổi quân Tiêm, một mặt th́ vây đánh thành Phiên An, Lê Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy th́ phải bệnh chết. Tuy vậy, quân ngụy ở trong thành cứ chống giữ măi, non ba năm trời quan quân mới hạ được thành.

 

Thành Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy được. Măi đến tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đă mỏi mệt lắm rồi, tướng quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được thành và vào bắt giết quân giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào một chỗ, nay gọi là "mả ngụy". C̣n những người thủ phạm th́ đóng cũi đem về Kinh trị tội.

Ông J. Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định

nói rằng trong 6 người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục [145]

Xem tập tạp chí "Revue Indochinoise" số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử Lược "Abrégé de l'histoire d'Annam" của ông A. Schreiner. người nước Pháp tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch Tấn Gia, và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi.

Việc ông cố Marchand th́ đă nhiều người bàn đi bàn lại: người th́ bảo ông ấy có ư muốn làm như ông Bá Đa Lộc, để giúp Lê Văn Khôi lập nên một nước theo đạo Thiên Chúa ở Gia Định, người th́ bảo ông ấy bị Lê Văn Khôi bắt vào trong thành. Việc ấy vẫn phân vân không rơ hẳn ra thế nào.

Đến khi về đến Huế th́ ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng tŕ. Thiết tưởng dẫu thế nào mặc ḷng, đem một đứa con vô tội và 2 người ngoại quốc ra làm cái tội thảm h́nh ấy, th́ thật gớm ghê quá. Tục Á Đông ta trước hay dùng những nhục h́nh như là tội lăng tŕ, tội ngựa xé, tội voi dày v.v... th́ thật là dă man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng phải ghê ḿnh.

7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất: - Lê Văn Duyệt.

Quan quân b́nh xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội Lê Chất.

Cứ b́nh tỉnh mà xét, th́ chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn có ư không ưa hai ông ấy, rồi đ́nh thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ư ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.

Nay cứ theo trong sách "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện" mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công bằng mà phán đoán.

Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn.

Năm ất mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhă, làm trảo nha, lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương 146

làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân hung ác, không phải là người lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhă, đă đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng với bọn thủ hạ giữ thành làm phản; lại làm phiến hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, mà khó nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu phục rồi, song thành Phiên An tặc đảng vẫn c̣n thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu không có thể tường cứu được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào ra trong thành, nhập đảng với [146]

Bắc Thuận, Hồi Lương là những người ở Bắc Kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ. 186 nghịch Khôi, và đem Bạch Xuân Nguyên làm đuốc để tế từ đường, th́ tâm tích của Duyệt tưởng không phải xét cũng đă rơ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, c̣n vợ con th́ giao về H́nh Bộ tra minh nghiêm nghị, để tỏ phép nước".

Vua dụ Nội Các rằng: "Lê Văn Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh dẹp Tây Sơn, cũng dự có phần công lao. Đức hoàng khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai khiến ở trong cung, mới đem ḷng tin cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh tâm phản nghịch, sinh chí làm càn, ăn nói hỗn xược. V́ nó c̣n e Hoàng Khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có ḷng gian mà chưa dám lộ. Mà hoàng khảo ta đến văn niên cũng đă biết rơ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có ḷng gian, song thiên hạ đă yên rồi, thần dân ai c̣n theo kẻ thị hoạn đó, th́ chắc hắn cũng chẳng làm ǵ được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần không c̣n mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đă già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc là hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, th́ cũng là việc hay. Không ngờ kẻ kia ḷng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày càng sinh kiêu ngạo, dám nói xấu triều đ́nh trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của ḿnh. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung ác, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu xin ghép vào trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi là quân vô lại, th́ tiến cử đến chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ hào như bọn Dương Văn Nhă, Đặng Vĩnh Ưng th́ hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân thích như bọn Vơ Vĩnh Tiền, Vơ Vĩnh Lộc th́ hắn âm thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc Kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn trú; vét lấy những thuyền bè khí giới trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào thành Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật Vĩnh mà hút hết cao huyết của dân Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng Kinh thành, hào th́ đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để pḥng giặc Tiêm, th́ đường bể phải pḥng ở Hà Tiên, đường bộ phải pḥng ở Chân Lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên An hay sao? Thế là rơ rằng pḥng Triều đ́nh, chứ không phải pḥng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, th́ ruột gan hắn, dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm tức, chỉ giận v́ ai không chịu nói rơ cho Triều đ́nh biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu tội minh tru, mà bọn nhỏ nhặt c̣n dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị không hèn đốn như Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, th́ chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏI được. V́ bọn tiêu hạ hắn toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đă quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt chước hắn. Thậm chí hắn nói với người tra rằng hắn vào trấn Gia Định, vốn là phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng trấn tầm thường khác. Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê Văn Duyệt mà không biết đến triều đ́nh. Thầy Hữu tử nói rằng: "Không ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chứ có lẽ ấy bao giờ". Vậy th́ ưa phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đă lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê Văn Khôi đă khởi loạn, cháu hắn cũng đồng t́nh tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng lại nhiều, kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan óc lầy đường, nói ra đau xót đến gốc nguồn th́ tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hăY đem những công việc của hắn làm, rơ ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn loạn, hiểu thị cho ai nấy đều biết. C̣n như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử tội thế nào, th́ giao cho đ́nh thần nghị xử".

Vài hôm sau, nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quưnh tâu rằng: Duyệt che chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích lại đă lâu. Nay xét những giấy má của y ngày trước, rơ ra h́nh tích bội nghịch, có 6 điều: 1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y tự tiện sai người riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến Điện. Trong thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa "làm tôi không có phép được giao thông với nước ngoài", th́ tâm sự của y đă rơ, ấy là một tội. 2) Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành, mới tâu vào Triều Đ́nh. Đă có chỉ dụ nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không nên khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ t́nh ḥa hiếu, gây việc cừu thù. Vậy mà y cố xin dung nạp. May mà triều đ́nh trả đồ cống vật cho sứ Diến Điện về nước, th́ danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra thiên hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra ǵ, mà lại cố giữ lấy ư riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội. 3) Năm Minh Mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước Anh Cát Lợi đậu vào cửa B́nh Thuận, đă có chỉ sai sở tại hộ tống, mà y cố xin đưa vào Gia Định, và nói rằng: "Quan trấn kiềm thúc, không bằng thần có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng lệnh và biết binh oai". Hai chữ "có quyền" từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu tứ dường nào, ấy là ba tội. 4) Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn T́nh nhân việc công sai ở Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng phố ngói, 187 mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt Trần Văn T́nh giao cho y để y chém, nếu không giao th́ y xin trả chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ư trêu quân như vậy, tội ǵ c̣n to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần Văn T́nh, thế là bắt người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham hiểm, ấy là bốn tội. 5) Trần Nhật Vĩnh đă có chỉ bổ thụ kư lục Vĩnh Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê Đại Cương có chỉ tuyên triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc Hóa, đều là có ư vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: "Chuẩn cho thần cầu xin việc ấy, th́ hầu có ích cho việc ngoài biên cương"; lại ở trong tập tâu xin chi bổng cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: "Lăo thần xa ở ngoài biên khổn, chỉ e triều đ́nh tin dùng không được vững bền". Trong lời lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội. 6) Năm Minh Mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: "Ấy là vị thánh dược khởi tử hồi sinh, tiếc ǵ mà không làm". Y là chức biên khổn dám kết đảng tư t́nh như thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y b́nh nhật thường khoe chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:

Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng Phù Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái ngộ Trần kiều sự Nhất đán hoàng báo bức thử thân

Dịch Nôm Giúp Hán há thua cùng tướng Hán Pḥ Chu nào kém bọn tôi Chu Trần kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!

Giá y không phải là người sẵn có bụng bất trung, th́ không khi nào dám khoe bài ấy với người ta. Bởi vậy bọn tiêu hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh mà đă có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đ́nh thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.

Đến khi nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm: 1. Sai người đi riêng sang Diến Điện, âm kết ngoại giao. 2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến thành, để tỏ có quyền. 3. Xin giết thị vệ là Trần Văn T́nh, để khóa miệng người ta. 4. Kháng sớ xin lưu quan viên bổ đi chỗ khác. 5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất. 6. Giấu chứa giấy ngự bảo. 7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng là Cô.

Có 2 tội nên giảo: 1. Cố xin dung nạp Diến Điện để che chở cái lỗi của ḿnh. 2. Nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng báo.

Một tội nên phát quân: 1. Tự tiện sai biền binh tu tạo tàu thuyền.

Sự biến Phiên An, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng tri; song y đă chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. C̣n như tằng tổ, tổ phụ của y được phong tặng cáo sắc, th́ xin truy đoạt cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào th́ tước hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều phân biệt nghị tội; tài sản th́ tịch biên hết.

Án ấy đệ lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hăy nghiêm cấm; trẻ thơ ấu chưa biết ǵ th́ tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục th́ cũng thôi.

Lại sai H́nh bộ sao bản văn án phát cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ ư kiến riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng B́nh là Trần Huy Phác xin điều phép tội trảm quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều chém, c̣n th́ đều y như đ́nh nghị. Tổng đốc B́nh Phú là Vơ Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều xin y đ́nh nghị. Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm chước ít nhiều th́ tự Thiên Ân.

Dụ rằng: "Xem vậy th́ đủ biết lẽ Trời không sai, mà công đạo ở ḷng người không ai giấu được. Kẻ quyền gian kia gây vạ, thiên hạ ai cũng căm tức luôn, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt ngh́n xưa. Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau ḷng, dù có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đă lâu, và đă truy đoạt quan tước, xương khô trong mă, không bơ gia h́nh. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ "Chỗ này là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp", để chính tội danh cho kẻ đă chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời.

188 Không những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn Hán cũng giao thông với giặc, th́ thân thuộc phải tội, trong luật đă có điều nói rơ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đă xử cực h́nh, cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai nấy đều biết Triều Đ́nh xử rất công, rơ ràng cái cân ba thước mà nghiêm như ŕu búa ngh́n thu".

Án Lê Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước th́ năm sau có quan Lại bộ tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê Chất, có 6 tội nên chết: 1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc (phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng, là một tội. 2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm con nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội. 3. Muốn cho con gái chính vị trong cung, không được thỏa chi, nói ra những lời oán vọng, là ba tội. 4. Thường nói chuyện với Lê Văn Duyệt rằng: "Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều bất b́nh, cũng không dám giận, mà một ḿnh tôi dám giận" là bốn tội. 5. Lại nói rằng: "Vua cậy có Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm ǵ ta làm" là năm tội. 6. Lại nói rằng quốc tính đổi làm tôn thất, đều là bọn Hoài Đức a dua xui giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.

Lại có 10 tội tiếm loạn: 1. Khi y ở Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ môn ngồi chính giữa. 2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền công. 3. Cùng với Lê Văn Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua. 4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện. 5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến ngh́n vạn. 6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới thôi. 7. Nuôi những cung nữ tiên triều, không biết kiêng nể ǵ. 8. Nơi công sảnh tiếm làm gác chuông, gác trống. 9. Tội án Lê Duy Thanh đă thành, lại c̣n cùng với Lê Văn Duyệt cố xin nghị lại. 10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà thi hành.

Vậy xin giao cho đ́nh nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.

Vua dụ rằng: "Chất, tính vốn sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi th́ bất trung, bất chính, xử việc th́ đại ác đại gian, việc nào cũng càn rỡ, ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê Văn Duyệt, dẫu mang ḷng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, th́ chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất phẩm đại thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, th́ không nỡ bắt tội. Kể đến hắn lại chịu tội minh tru rồi th́ lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên cũng chẳng kể làm ǵ nữa. Nay đă có người tham hạch, vậy th́ phải trái công, đă có triều đ́nh pháp luật. Chuẩn cho đ́nh thần đem 16 điều tội của hắn mà định rơ tội danh, vợ con cũng án luật mà nghị xử, duy con gái nào đă xuất giá, cùng là cháu trai c̣n nhỏ th́ tha".

Đ́nh thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng tŕ, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm mưu điều bất quỷ, th́ khép vào tội bạn nghịch mà xử lăng tŕ. Song y đă chịu tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục thây, khiêu thủ để thị giới. C̣n cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo văn án, để cho đem ư riêng bày tỏ tâu về, cho công ḷng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y đ́nh nghị.

Ngài dụ rằng: "Như vậy đủ rơ lẽ trời ở tại ḷng người, công luận không bao giờ mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đă không bổ áo quan giết thây, th́ nắm xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc B́nh Phú Vơ Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ: "Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục pháp" để làm gương cho kẻ gian tặc muôn đời. C̣n vợ hắn là Lê Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn nghịch, xử vào cực h́nh, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê Cẩn, Lê Trương, Lê Thường, Lê Kỵ, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch biên gia sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho [147]

Đến năm Tự đức nguyên niên (1847) quan đông các đại học sĩ là Vơ Xuân Cẩn làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng: "Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đều có ḷng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên ḥn đạn, thân làm đại tướng, tước đến quận công, sau hoặc v́ con dại, hoặc v́ cậy công mà làm thành tội ..... Dù bọn Nguyễn Văn Thành có tội, th́ tội đă trị rồi, mà công th́ không hỏi đến, 189

8. Giặc Tiêm La.

Nước Tiêm La tự khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp, vẫn có ư muốn sinh sự với nước Nam, nhưng c̣n sợ thế lực Nguyễn Triều chưa dám làm ǵ, chỉ thỉnh thoảng sang sinh sự với những nước ở Lào. Hễ khi nào Tiêm và Lào đánh nhau, th́ nhà vua sai quan quân pḥng giữ những chỗ biên thùy, và sang cứu viện những nước bị người Tiêm bắt nạt. Như năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước Tiêm đánh lấy nước Vạn Tượng (Vientiane), quốc trưởng nước ấy là A Nỗ chạy sang cầu cứu, vua Thánh Tổ sai quan thống chế là Phan Văn Thúy làm kinh lược biên vụ đại thần đem binh tượng sang cứu A Nỗ.

Tháng chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi h́nh thế hiểm trở rồi gửi về Kinh.

A Nỗ mất nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi, đưa A Nỗ về Trấn Ninh.

Đến Trấn Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều, rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh.

Vua Thánh Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự đánh nhau mà không được việc ǵ, bèn không cho quân sang cứu, chỉ xuống lệnh truyền cho các hạt ở Lào phải pḥng giữ những chỗ biên thùy. A Nỗ không có quân cứu viện, bị quân Tiêm đến đánh, lại phải bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được ít lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.

Quân Tiêm La phá được Vạn Tượng rồi, lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về nước Nam, ở mạn gần Quảng Trị. Vua Thánh Tổ sai thống chế Phạm Văn Điển, kinh lư mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ.

chẳng hóa ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỷ Mạc Ngao không ai thờ cúng không?" Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm động bèn truy phong cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con cháu.

Phạm Văn Điển, một mặt th́ cho người đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, một mặt th́ chia quân, làm ba đạo tiến lên đánh.

Tướng Tiêm la viết thư trả lời một cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về. Từ đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự ḥa hiếu, nhưng ngấm ngầm cứ t́m cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam, người Tiêm vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở phía tây bắc th́ vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Dù thế mặc ḷng, vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc.

Đến cuối năm quư tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi loạn ở đất Gia Định và tên Khôi lại cho người sang cầu cứu vua Tiêm La bèn sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh Việt Nam.

Đạo thứ nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ nh́ bộ quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.

Tuy rằng quân nghịch năm đạo cùng tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt đánh Chân Lạp và Nam Kỳ, c̣n các đạo khác là để phân quân lực của nước Nam mà thôi.

Vua Thánh Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân pḥng ngự các nơi. Phía tây nam th́ sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc th́ sai Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân 148

làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.

Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ đánh phá. Chỗ nào quân nghịch cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan quân lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cơi, rồi tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước. [148]

Nguyễn Xuân th́ làm tham tán đại thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Xuân th́ làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng đốc đi đánh mặt Trấn Ninh. 190

Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá mấy trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không biết ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhă Chất Tri đem bại binh chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu th́ làm đồn đắp lũy, để pḥng ngự quân giặc.

Những đạo quân Tiêm và quân Lào sang đánh ở mặt Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng được toàn thắng, giữ được bờ cơi nguyên như chỗ cũ cả.

Quân Tiêm sang đánh từ tháng giêng năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy, th́ quan quân đă b́nh xong cả mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.

9. Việc Ai Lao.

Nước Nam ta về đời vua Thánh Tổ th́ to rộng hơn cả, là v́ quân Tiêm La cứ hay sang quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta.

Năm đinh hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh pḥng ngự sứ cai quản cả 7 huyện, lại phong cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng.

Lại có đất Tam động và Lạc Phàn ( trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc. Triều đ́nh chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Tŕnh Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam- neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.

Phủ Trấn biên có bốn huyện là Xa hổ, Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn định 149

có 3 huyện là Cam cát, Cam môn, và Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc về Nghệ An. C̣n phủ Trấn Nam có 3 huyện là Tŕnh Cố, Sầm nứa, Man Duy th́ thuộc về Thanh Hóa.  [149]

Ở gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.

Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná bi (?), Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba lan (?), Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm 9 châu, cho chiếu lệ triều cống.

Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.

10. Việc Chân Lạp.

Ở nước Chân Lạp th́ từ khi quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân là Trương minh Giảng và tham tán là Lê Đại Cương lập đồn An Nam ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.

Cuối năm giáp ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm ất mùi (1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là Angmey lên làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để pḥng ngự.

Năm canh tí (1840), nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doăn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lư mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo ruộng đất, định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.

Nhưng v́ quan lại Việt Nam ta sang làm nhiều điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự, lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán giận, chỗ nào cũng có giặc giă nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ, thành ra quan quân đánh măi không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà rút về An Giang.

Ấy cũng là v́ người ḿnh không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem ḷng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên thành ra hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước ḿnh.

11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.

Việc giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi có 191 hai lẽ: một là v́ sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là v́ người nước ḿnh lúc bấy giờ không hiểu thời thế, cứ tự đắc ḿnh là văn minh hơn người, không chịu học tập như người ta mà theo đường tiến bộ.

Nước ta từ đời thập thất thế kỷ, về nhà Hậu Lê đă có người Âu-la-ba ra vào buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều không có việc ǵ ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và chúa Nguyễn đă có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn th́ trong nước rối loạn, c̣n phải lo việc chiến tranh, cho nên không nói đến việc cấm đạo. Về sau, khi vua Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, th́ ngài nhớ ơn bên đạo có công giúp rập trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được phép đi giảng đạo mọi nơi. Măi đến đời vua Thánh Tổ th́ việc nước đă yên, nhà vua lưu ư về sự giáo hóa, lấy Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tả đạo, bắt dân gian phải bỏ tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra nữa.

Mà cũng v́ sự cấm đạo, cho nên sự buôn bán của những người ngoại dương ở nước ta, thành ra ngăn trở. Bởi v́ Triều đ́nh thấy thỉnh thoảng có chiếc tàu buôn lại, th́ có một vài người giáo sĩ vào giảng đạo, ngăn cấm thế nào cũng không được, tưởng là có ư do thám ǵ chăng, cho nên lại càng nghi ngờ lắm.

Vả lại về đời nhà Nguyễn lúc bấy giờ, ở trong nước cũng không có người ngoại quốc ra vào buôn bán, chỉ có người Pháp Lan Tây trước đă theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở lại làm quan tại triều là Chaigneau và Vannier. Khi vua Thế Tổ hăy c̣n, th́ Chaigneau có xin về nước Pháp nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở sang th́ lại nhận chức lănh sự và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ phẩm vật và tờ quốc thư sang điều đ́nh việc thông thương với nước Nam. Chaigneau sang đến nơi, th́ vua Thế Tổ mất rồi, vua Thánh Tổ tiếp đăi Chaigneau cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho Pháp Hoàng rằng nước Nam và nước Pháp không việc ǵ mà phải làm điều ước về việc thương mại. Việc vào buôn bán ở nước Nam, th́ cứ theo luật nước Nam, không điều ǵ ngăn trở cả.

Năm nhâm ngọ (1822) có chiếc tàu chiến của Pháp tên là Cléopâtre vào cửa Đà nẵng, người quản tàu tên là Courson de La Ville Héllio nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến vua Thánh Tổ; ngài không cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà nẵng xin thông thương, nhà vua cũng không cho.

Chaigneau thấy nhà vua càng ngày càng nhạt nhẽo với ḿnh, và cũng không làm được công việc ǵ có ích, bèn cùng với Vannier xin từ chức, rồi đến cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống tàu đi qua Gia Định về Pháp.

Tháng giêng năm ất dậu (1825), lại có thủy quân đại tá nước Pháp là ông Bougainville đem hai chiếc tàu chiến là Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật và quốc thư, xin vào yết kiến vua Thánh Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh là hai nước cừu địch, mà nước ta trước đă không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay lại tiếp sứ nước Pháp. Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đă về cả rồi, ngài bèn sai quan đem đồ vật ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói rằng ở trong triều không có ai biết tiếng Pháp, cho nên không thể tiếp được.

Qua năm sau (1826) chính phủ Pháp lại sai cháu ông Chaigneau sang làm lĩnh sự thay cho chú, nhưng sang đến nơi, Triều đ́nh nước ta không nhận, đến năm kỷ sửu (1829) lại phải trở về.

Từ đó cho đến 10 năm về sau nước Pháp tuyệt giao với nước Nam ta. Mà lúc bấy giờ chỉ trừ mấy người giáo sĩ đi giảng đạo ở chỗ thôn dă ra, th́ trong nước cũng không có người ngoại dương nào ở nữa.

12. Sự Cấm Đạo.

Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi, ngài đă có ư không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc ḷng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo".

Ngài lại sai t́m bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ư là không phải v́ việc dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chốn hương thôn.

Lúc bấy giờ không phải là một ḿnh vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ư cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc ḷng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ ra lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp th́ được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn v́ sự bắt đạo và giết đạo. [192]

Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giă nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.

Nhà vua một mặt th́ cấm đạo, một mặt th́ ban những huấn điều ra đê/ khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, th́ dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ ḷng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy ḷng nhân ái, việc ǵ mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, th́ h́nh phạt cũng vô ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng không được những người đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang nước Pháp để điều đ́nh với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, th́ hội Ngoại Quốc Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp 150 . Sứ thần ta phải trở về không; khi về đến Huế th́ vua Thánh Tổ đă mất rồi.

Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng măi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.

13. Vua Thánh Tổ Mất.

Vua Thánh Tổ mất năm canh tí (1840), thọ được 50 tuổi, và trị v́ được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.

Trong đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều ǵ cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ v́ ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một ḿnh.

Đă hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đ́nh và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một ḿnh ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ b́nh t́nh mà xét, th́ chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền [150]

Sách Histore de la Cochinchine Francaise của ông Cultru. mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một ông anh quân th́ khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân th́ không công bằng. Dẫu thế nào mặc ḷng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết ḷng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài vậy.

 

CHƯƠNG IV

Hiến Tổ (1841-1847)

Niên hiệu: Thiệu Trị

1. Đức độ vua Hiến Tổ 2. Việc Chân Lạp 3. Việc Tiêm La 4. Việc giao thiệp với nước Pháp

1. Đức Độ Vua Hiến Tổ.

Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Ḥa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.

Tính vua Hiến Tổ thuần ḥa, không hay bày ra nhiều việc và cũng không được quả cảm như Thánh Tổ. Trong đời Ngài làm vua, học hiệu, chế độ, thuế mà, điều ǵ cũng theo như triều vua Thánh Tổ cả. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doăn Uẩn, Vơ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp rập. Nhưng mà đất Nam Kỳ có giặc giă, dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh dẹp măi mới xong.

2. Việc Chân Lạp.

Nguyên từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đă có giặc giă, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu trừ măi, đánh được chỗ này th́ chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp th́ những người bản xứ cùng với người Tiêm La đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều đ́nh lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang th́ mất. Bởi v́ việc kinh lư đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay v́ có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.

3. Việc Tiêm La.

Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, th́ quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cơi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu.

Nguyên là Nặc Ông Đôn 151

đem quân Tiêm La về cứu viện để đánh lấy lại nước. Nhưng khi đến Việt Nam rút về rồi, quân Tiêm La tàn bạo, người Chân Lạp lại không phục, có người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua bèn sai Vơ Văn Giải sang kinh lư việc Chân Lạp.

Tháng sáu năm ất tị (1845), là năm Thiệu Trị thứ năm, Vơ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doăn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người.

Đoạn rồi, Nguyễn Tri Phương và Doăn Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm La và quân Chân Lạp, vây Nặc Ông Đôn và tướng Tiêm La là Chất Tri ở Ô-Đông (Oudon).

Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin ḥa. Qua tháng mười th́ Nguyễn Tri Phương, Doăn Uẩn và Chất Tri kư tờ ḥa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành những điều ước đă định.

Tháng chạp năm bính ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống.

Tháng hai năm đinh mùi (1847) là năm Thiệu Trị thứ bảy, Triều đ́nh phong cho Nặc Ông Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và phong cho Mỹ Lâm Quận Chúa làm Cao Miên Quận Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang.

Từ đó nước Chân Lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên vậy. [151]

Nặc Ông Đôn là em Nặc Ông Chân, chú nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận chúa. 194 4. Việc Giao Thiệp với nước Pháp.

Từ khi vua Hiến Tổ lên trị v́, th́ sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều đ́nh vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn c̣n giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.

Qua năm ất tị (1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà Nẵng xin măi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.

Năm đinh mùi (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không c̣n giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.

Lúc hai bên c̣n đang thương nghị về việc ấy, th́ quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng ở gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản trắc ǵ chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

Vua Hiến Tổ thấy sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.

Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà nẵng xong được mấy ngày tháng, th́ vua Hiến Tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh mùi (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ Chương Hoàng Đế.

 

CHƯƠNG V

Dực Tông (1847-1883)

Niên hiệu: Tự Đức

1. Đức độ vua Dực Tông 2. Đ́nh thần 3. Việc ngoại giao 4. Việc cấm đạo 5. Việc thuế má 6. Việc văn học 7. Việc binh chế

1. Đức độ vua Dực Tông.

Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai húy là Hồng Nhậm. Bấy giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đă thông thái. Đến tháng 10 năm đinh mùi (1847), th́ ngài lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Ḥa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự Đức nguyên niên.

Vua Dực Tông đối với vận hội nước Nam ta thật là quan hệ, v́ là đến đời ngài th́ nước Pháp sang bảo hộ, đổi xă hội ḿnh ra một cảnh tượng khác. Bởi vậy cho nên ta cần phải biết rơ ngài là người thế nào, để xét đoán những công việc thời bấy giờ cho khỏi sai lầm. Quan tổng đốc Thân Trọng Huề đă được trông thấy dung nhan của ngài và đă tả rơ chân tượng của ngài ra như sau này: "Ngài h́nh dung như một người nho sĩ, không cao, không thấp, trạc người bậc trung, không gầy không béo, có một phần hơi gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài; cằm hơi nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tṛn, hai con mắt tinh mà lành.

Ngài hay chít cái khăn vàng mà nhỏ, và mặc áo vàng, khi ngài có tuổi th́ hay mặc quần vàng đi giày hàng vàng của nội vụ đóng. Ngài không ưa trang sức mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp.

Tính ngài thật là hiền lành. Những người được hầu gần ngài nói chuyện rằng: một hôm ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ngài cầm cái hoa 195 mai 152

sắp hút thuốc, tên thái giám đứng quạt hầu, vô ư quạt mạnh quá, lửa hoa mai bay vào tay ngài. Tên thái giám sợ xanh mặt lại, mà ngài chỉ xoa tay, chứ không nói ǵ cả.

Ngài thờ đức Từ Dụ rất có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn th́ chầu cung, ngày lẽ th́ ngự triều: trong một tháng chầu cung 15 lần, ngự triều 15 lần, trừ khi đi vắng và khi se yếu 153 . Trong 36 năm, thường vẫn như thế, không sai chút nào.

Khi ngài chầu cung th́ ngài tâu chuyện này chuyện kia, việc nhà việc nước, việc xưa việc nay. Đức Từ Dụ thuộc sử sách đă nhiều mà biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, th́ ngài biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.

Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực 154

gặp phải khi nướt lụt. C̣n hai ngày nữa th́ có kị đức Hiến Tổ, mà ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại thần là Nguyễn Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương đi được nữa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo lên, mà nước th́ chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngày lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đ̣n. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng:

- Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ th́ phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị.

Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó ngài phê thưởng cho các quan quân đi hầu ngự. Quan th́ mỗi người được một đồng tiền bạc, lớn nhỏ tùy theo phẩm, c̣n lính th́ mỗi tên được một quan tiền kẽm. Đến sáng ngài ngự ra điện Long An lạy kị. Xem cách ngài thờ mẹ như thế, th́ tự xưa đến nay ít có.

Tính ngài siêng năng, sáng chừng năm giờ, ngài đă ngự tánh, nghĩa là thức dậy, chừng sáu giờ, ngài đă ra triều. Cho nên các quan ở Kinh buổi ấy cũng phải dậy sớm để mà đi chầu. Thường thấy các quan thắp đèn ăn cháo để vào triều cho sớm.  [152]

Hoa mai là một sợi dây làm bằng chỉ để thắp lửa mà hút thuốc. 153

Se yếu là đau yếu. Tiếng se ở Huế nói cách tôn kính, như vua đau th́ nói vua se ḿnh. 154

Cách Kinh thành chừng độ 15 cây số, ở bên bờ sông Lợi Giang, có một cái rừng cấm gọi là Thuận Trực. Chỗ ấy nhiều chim, đức Dực Tông thường ngự đến bắn ở đấy.

Thường ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ở bên tả điện cần chính. Các quan đến sớm, quan văn th́ ngồi chực tại tả vu, quan vơ tại hữu vu. Khi ngài đă ngự ra, th́ thái giám tuyên triệu các quan vào chầu. Các quan đều mặc áo rộng xanh, đeo thẻ bài đi vào, quan văn bên hữu, quan vơ bên tả 155 .

Khi các quan theo thứ tự đứng yên rồi, quan bộ Lại hay là quan hộ Binh tâu xin cho mấy ông quan mới được thăng thuyên bái mạng. Các quan bái mạng th́ phải chực ở ngoài, đợi bộ Lại hay là bộ Binh tâu xong mới được vào. Quan văn thuộc bộ Lại, quan vơ th́ thuộc bộ binh. Bái mạng th́ phải mặc áo đại trào.

Các ông bái mạng xong rồi, bộ nào có việc ǵ tâu th́ đến chỗ tấu sự quỳ tâu. Như bộ nào có tâu việc ǵ th́ các quan ấn quan trong bộ ấy đều quỳ chỗ tấu sự, rồi ông nào tâu, th́ đọc bài diện tấu. Một bên các quan tấu sự lại có một ông quan nội các và một ông ngự sử đều quỳ. Quan nội các để biên lời ngài ban; quan ngự sử để đàn hạch các quan phạm phép.

Đức Dực Tông đă thuộc việc mà lại chăm cho nên nhiều bữa ngài ban việc đến chín mười giờ mới ngự vào nội.

Ngài thường làm việc ở chái đông điện Cần Chánh. Trong chái ấy lót ván đánh bóng. Gần cửa kính có mấy chiếc chiếu, trên trải một chiếu cạp bằng hàng vàng, để một cái yên với nghiên bút, một trái dựa (cái gối dựa), chứ không bày bàn ghế ǵ cả. Cách một khoảng có để một cái đầu hồ với thẻ. Ngày làm việc mỏi th́ đứng dậy đánh đầu hồ, hay là đi bách bộ. Ngài ngồi làm việc một ḿnh, vài tên thị nữ đứng hầu để mài son, thắp thuốc hay là đi truyền việc.

Lệ nước ta xưa nay các quan không được vào chỗ ngài ngự tọa làm giúp việc cho vua, cho nên việc lớn việc nhỏ, ngài phải xem cả.

Phiến sớ ác nơi đều gởi về nội các. Nội các đề trong tráp tấu sự, đưa cho giám, giám đưa cho nữ quan dâng lên ngài. Ngài xem rồi giao nội các. Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, lục bản phó ra cho các bộ nha.  [155]

Khi ngài ngự điện Thái Ḥa hay là điện Cần Chính, hay là đi hành lễ điện Phụng Tiên, th́ quan văn lại đứng bên tả, quan vơ bên hữu, duy ở điện Văn Minh th́ quan vơ bên tả, quan văn bên hữu, không biết tại làm sao? 196

Nay xem các nguyên bản trong Các, th́ thấy có nhiều tờ phiến ngài phê dài hơn của các quan tâu. Chữ đă tốt mà văn lại hay, ai cũng kinh cái tài của ngài.

Ngài vốn là người hiếu học. Đêm nào ngài cũng xem sách đến khuya. Có ba tập Ngự Chế Thi Văn của ngài đă in thành bản. Ngài lại làm sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu, như là sách Thập Điều, Tự Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca, v.v..."

Xem cái chân tượng của vua Dực Tông như thế, th́ ngài không phải là người to béo vạm vỡ 156 , mà cũng không phải là ông vua tàn ác bạo ngược như người ta thường nói. Chỉ v́ ngài làm vua về một thời đại khó khăn, trong nước lắm việc, mà những người pḥ tá th́ tuy có người thanh liêm như ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng B́nh, trung liệt như ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, v.v.... nhưng mà các ông ấy đều là người cũ, không am hiểu thời thế mới. Vả lại các thế lực lúc bấy giờ kém hèn quá, dẫu có muốn cải cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho nên mọi việc đều hỏng cả.

2. Đ́nh Thần.

Đ́nh thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ t́nh thế đă nguy ngập lắm, v́ từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đă tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước ḿnh, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự th́ phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy ngh́n năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng ḿnh hơn người, cho thiên hạ là dă man. Ấy, các đ́nh thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đă đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, th́ các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết th́ cứ một niềm tự đắc, người biết th́ phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay mà chịu.

Xem như mấy năm về sau, nhà vua thường có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc ǵ ra tṛ. Vả thời bấy giờ, cũng đă có người hiểu rơ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị. Như năm bính dần (1866) là  [156]

Ta thường trông thấy có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ không ra lối lăng ǵ cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái tranh ấy chắc là của một người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải là chân dung của ngài. V́ là thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và những người được vào hầu cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao giờ có h́nh ảnh ǵ cả. năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái t́nh thế nước ḿnh, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau mau cải cách mọi việc, không th́ mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy cho các quan duyệt nghị. Đ́nh thần đều lấy làm sự nói càn, không ai chịu nghe.

Năm mậu th́n (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh B́nh tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt để pḥng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân, bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những người bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều ích quốc lợi dân cả, thế mà đ́nh thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ không dùng.

Các quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đ́nh thần th́ mọi người đều bác đi, cái ǵ cũng cho là không hợp thời. Năm kỷ măo (1879) là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng khi người nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, th́ nước Tiê m La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ ǵ mà sinh sự để lấy đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ư, nước Mỹ v.v... đặt lĩnh sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có quyền lợi không ai hiếp chế được ḿnh. Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương Cảng về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và việc buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà nuôi binh lính.

Gần đây Nhật Bản theo các nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt chước cho người ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan, lại có lắm sản vật, nên theo người ta mà làm th́ cũng có thể giữ được quyền độc lập của nước nhà.

Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội, và xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đ́nh thần xét, các quan đều bàn rằng việc buôn bán không tiện, c̣n việc khác th́ xin đ̣i hỏi các tỉnh xem thể nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi chuyện, chứ không ai muốn thay đổi thói cũ chút ǵ cả. Nhân việc đó vua Dực Tông khuyên rằng các quan xét việc th́ nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, th́ tức là thoái vậy.  [197]

Xem lời ấy th́ không phải là vua không muốn thay đổi. Chỉ v́ vua ở trong cung điện, việc đời không biết rơ, phải lấy các quan làm tai làm mắt, mà các quan th́ lại số người biết th́ ít, số người không biết th́ nhiều. Những người có quyền tước th́ lắm người trông không rơ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc ḿnh. Lại có lắm người tự nghĩ rằng ḿnh đă quyền cả ngôi cao, th́ tất là tài giỏi hơn người, chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan to hay là quan nhỏ. Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ không phải ở tiền của hay là ở quyền tước.

Đến khi nước Pháp đă sang lấy đất Nam Kỳ, đă ra đánh Bắc Kỳ, t́nh thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự ǵ hơi mới một tí, th́ bác đi. Như thế th́ làm thế nào mà không hỏng việc được.

Đă hay rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, th́ cái lỗi của đ́nh thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy.

3. Việc Ngoại Giao.

Việc chính trị đời Dực Tông là nhất thiết không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông thương, nhà vua không tiếp thư.

Từ năm ất măo (1855) cho đến năm đinh sửu (1877) tàu Anh Cát Lợi ra vào mấy lần ở cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (B́nh Định) và ở Quảng Yên, để xin buôn bán, cũng không được. Người I Pha Nho và nước Pháp Lan Tây xin thông thương cũng không được.

Về sau đất Gia Định đă mất rồi, việc ngoại giao một ngày một khó, nhà vua mới đặt B́nh Chuẩn Ti để coi việc buôn bán, và Thương Bạc Viện để coi việc giao thiệp với người ngoại dương. Tuy vậy nhưng cũng không thấy ai là người hiểu việc buôn bán và biết cách giao thiệp cả.

4. Việc Cấm Đạo.

Việc cấm đạo th́ từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới lên ngôi, đă có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, th́ phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, th́ phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. C̣n những ngu dân th́ các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v.v....

Đến năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.

Sức đă không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đă không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước I Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.

5. Việc Thuế Má.

Thuế má trong nước đời bấy giờ, th́ đại khái cũng như đời vua Thánh Tổ và Hiến Tổ, duy chỉ từ khi nước Pháp và nước I Pha Nho vào đánh lấy mấy tỉnh Nam Kỳ rồi, lại phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu nguyên, nhà nước mới t́m cách lấy tiền, bèn cho người khách tên là Hầu Lợi Trịnh trưng thuế bán thuốc nha phiến từ Quảng B́nh ra đến Bắc Kỳ. Sử chép rằng đồng niên nhà vua thu được có 302.200 quan tiền thuế nha phiến.

Nhà vua lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên th́ được hàm cửu phẩm, lên đến 10.000 quan th́ được hàm lục phẩm, nghĩ là phải dùng lối đời trước bán quan để lấy tiền.

6. Việc Văn Học.

Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, cho nên ngài trọng sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang việc thi cử đặt ra Nhă Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn học ra làm quan.

Ngài lại đặt Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để ngài ngự ra cùng với các quan bàn sách vở, làm thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Lại sai quan soạn bộ Khâm Định Việt Sử , từ đời thượng cổ cho đến hết đời nhà Hậu Lê.

7. Việc Binh Chế.

Đời vua Dực Tông lắm giặc giă, nhà vua cần đến việc vơ, nên chỉ năm tân dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14 mới truyền cho các tỉnh chọn lấy những người khỏe mạnh để làm lính vơ sinh. Đến năm ất sửu (1865) là Tự Đức thứ 18 lại mở ra khoa thi vơ tiến sĩ.

Tuy rằng lúc bấy giờ nước ḿnh có lính vơ sinh, có quan vơ tiến sĩ, nhưng mà thời đại đă khác đi rồi, người ta đánh nhau bằng súng đạn nạp hậu, bằng đạn trái phá chứ không bằng gươm bằng giáo như trước nữa. Mà quân lính của ḿnh mỗi đội có 50 người th́ chỉ có 5 người cầm súng điểu thương cũ, phải châm ng̣i mới bắn được, mà lại không luyện tập, cả năm 198 chỉ có một lần tập bắn. Mỗi người chỉ được bắn có 6 phát đạn mà thôi, hễ ai bắn quá số ấy th́ phải bồi thường.

Quân lính như thế, binh khí như thế, mà quan th́ lại cho lính về pḥng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên tại ngũ mà thôi. Vậy nên đến khi có sự, không lấy ǵ mà chống giữ được.

 

CHƯƠNG VI

Chế độ và t́nh thế nước Việt Nam đến cuối đời Tự Đức

1. Cách tổ chức chính trị và xă hội. 2. Bốn hạng dân 3. Sự sinh hoạt của người trong nước.

1. Cách Tổ Chức Chính Trị và Xă Hội.

Nước Việt Nam tuy nói là một nước quân chủ chuyên chế 157 , nhưng theo cái tinh thần và cách tổ chức của xă hội th́ có nhiều chỗ rất hợp với cái tinh thần dân chủ. Nguyên Nho Giáo là cái học căn bản của nước ta khi xưa, mà về đường thực tế, th́ cái học ấy rất chú trọng ở sự trị nước. Trị nước th́ phải lấy dân làm gốc, nghĩa là phải lo cho dân được sung túc, phải dạy dỗ dân cho biết đạo lư và mở mang trí tuệ của dân. Những việc quan trọng như thế không phải bất cứ ai cũng làm được, tất là phải có những người có đủ đức hạnh, tài năng và uy quyền mới có thể đảm đang được. Bởi vậy cho nên mới cần có vua có quan.

Vua: Theo cái lư thuyết của Nho Giáo, th́ khi đă có quần chúng, là phải có quân. Quân là một đơn vị giữ cái chủ quyền để chịu hết thảy các trách nhiệm về sự sinh hoạt và tính mệnh của toàn dân trong nước. Cái đơn vị ấy gọi là đế hay là vương, được giữ cái chủ quyền cả nước. Cái chủ quyền ấy người ta c̣n gọi là cái thần khí, nghĩa là một vật thiêng liêng do trời cho, tức là dân thuận mới được giữ. Nói rằng những người làm những điều gian ác bạo ngược mà cướp lấy chủ quyền th́ sao ? Đó là sự tiếm đoạt chứ không phải là chính nghĩa. Ngay những người đă làm đế làm vương mà lạm dụng chủ quyền để làm những điều tàn bạo, th́ cũng chỉ là người tàn tặc mà thôi, chứ không phải là thật bậc đế bậc vương nữa.  [157]

Ta thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo cái nghĩa của các nước Âu Tây ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học nho giáo có nhiều chỗ khác nhau. 199 Triều đ́nh: Sở dĩ đời xưa quần chúng công nhận một ông vua giữ cái chủ quyền cả nước, là muốn cho có mối thống nhất để khỏi sự tranh dành và cuộc biến loạn. Song việc trị nước là việc chung cả nước, cho nên có vua là phải có triều đ́nh. Triều đ́nh không phải là một nhóm cận thần để hầu hạ và làm việc riêng cho nhà vua, chính là một hội nghị chung cả nước, do sự kén chọn những người xứng đáng bằng cách thi cử mà đặt ra. Cách thi cử không phân biệt sang hèn giàu nghèo ǵ cả, miễn là ai có học, có hạnh và có đũ tài năng th́ được ra ứng thí. Người nào đă đỗ rồi và đă ra làm quan là người ấy có chân ở trong triều đ́nh.

Lệ nhà vua, mỗi tháng phải mấy lần thiết đại triều, các quan tại kinh đều phải đến đủ mặt và theo phẩm trật mà đứng để tâu bày mọi việc. Bởi v́ khi có việc ǵ quan trọng, th́ vua hạ đ́nh nghị, nghĩa là giao cho đ́nh thần bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem ư kiến của ḿnh mà tŕnh bày. Việc ǵ đă quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành.

Vua tuy có quyền lớn thật, nhưng không được làm điều ǵ trái phép thường. Khi vua có làm điều ǵ lầm lỗi, th́ các quan Giám Sát Ngự Sử phải tâu bày mà can ngăn vua. Trừ những ông vua bạo ngược không kể, thường là vua phải nghe lời can ngăn của các quan.

Hễ triều đ́nh có những người ngay chính và sáng suốt, th́ việc nước được yên trị; nếu có những người gian nịnh mờ tối, th́ việc nước hư hỏng. Đó là lệ chung từ xưa đến nay như vậy.

Quan tư: mệnh lệnh của triều đ́nh đă phát ra, th́ quan tư ở các quận huyện phải theo mà thi hành. Các quan coi các quận huyện có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đừng để dân làm những điều trái luân thường đạo lư hay những việc phản loạn. Ngoài ra quan phải để cho dân được yên nghiệp làm ăn, không nên bày việc ra để nhiễu dân. Bởi vậy đời xưa ông quan nào cai trị một hạt mà dân hạt ấy được yên trị là ông quan giỏi.

Quyền Tự Trị của dân làng: Quan của triều đ́nh bổ ra chỉ có đến phủ huyện, c̣n từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Dân tự chọn lấy người của ḿnh mà cử ra coi mọi việc trong hạt. Tổng là một khu gồm có mấy làng hay xă, có một cai tổng và một phó tổng do hội đồng kỳ dịch các làng cử ra coi việc thuế khóa, đê điều và mọi việc trị an trong tổng.

Làng hay xă là phần tử cốt yết của dân. Phong tục, lệ luật của làng nào hay làng ấy, triều đ́nh không can thiệp đến, cho nên tục ngữ có câu: "Phép vua thua lệ làng". Làng có hội đồng kỳ dịch do dân cử ra để trông coi hết cả mọi việc. Hội đồng ấy có người tiên chỉ và thứ chỉ đứng đầu, rồi có lư trưởng và phó lư do hội đồng kỳ dịch cử ra để thay mặt làng mà giao thiệp với quan tư, có tuần đinh chuyên coi việc cảnh sát trong làng. Khi một người nào can phạm việc ǵ th́ quan trách cứ ở làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc ǵ cũng phải lấy làng làm gốc.

Ngày xưa các làng không có sổ khai sinh tử và giá thú, nhưng tục lệ của làng, cứ con trai đến 12 tuổi th́ phải vào làng, tức là vào sổ đinh của làng, con gái th́ không có lệ ấy. Lại v́ sự thờ cúng tổ tiên và sự tin số, tướng, v.v... cho nên nhà nào đẻ con ra, bất kỳ trai hay gái, cha mẹ phải nhớ cho đúng giờ, ngày tháng và năm sinh của đứa con ấy. Bởi vậy người nào cũng biết rơ ngày tháng sinh của con ḿnh.

Việc giá thú là việc quan hệ về gia tộc, phải làm đúng lệ thường, nhưng đối với làng, th́ tục lệ bắt người chồng khi cưới vợ, phải tŕnh làng và nộp cho làng một số mấy quan tiền, gọi là nộp tiền cheo. Như thế, thành ra theo tục lệ, tuy không có sổ khai sinh tử giá thú, mà mọi điều cũng đủ như là có vậy.

2. Bốn Hạng Dân.

Người trong nước chia ra làm bốn hạng là: sĩ, nông, công, thương.

Công: Công là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ ǵ để lấy lợi. Nhưng v́ nước ta khi xưa chỉ có những tiểu công nghê, như quây tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v.v.... chứ không có đại công nghệ làm giàu như các nước khác. Đại công nghệ đă không có th́ những người làm thợ, ai chuyên tập nghề ǵ th́ lập thành phường, như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ gốm v.v.... mỗi phường có thợ cả, thợ phó và thợ, và phường nào có tục lệ của phường ấy. Những người làm thợ thường là người ít học, quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.

Thương: Thương là hạng người làm nghề buôn bán. Song việc buôn bán của ta ngày xưa kém cỏi lắm. Người thiên hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng, nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người ḿnh cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc thuyền mành chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, th́ đă cho là hạng cự phú.

Công nghệ như thế, buôn bán như thế, bảo nước ḿnh phú cường làm sao được? Rút cục lại, chỉ có nghề nông và nghề sĩ là trọng yếu hơn cả. 200

Nông: Nông là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Dân Việt Nam ta thường th́ ai cũng có ít ra là vài ba sào ruộng để cày cấy, nghĩa là nghề làm ruộng là nghề gốc của người ḿnh. Nhưng trừ những nơi ruộng nhiều người ít và đất lại ph́ nhiêu như đất ở Nam Việt, c̣n th́ đất xấu và lại v́ khí hậu không điều ḥa, nắng mưa thất thường, việc cày cấy gặp nhiều nỗi khó khăn. Dân ở nhà quê, phần nhiều ăn nhờ về ruộng nương, hễ năm nào mưa ḥa gió thuận, mùa màng tốt th́ năm ấy dân được no ấm, nhưng năm nào mưa lụt hay hạn hán, mùa màng mất hết, th́ dân đói khổ.

Sĩ: Sĩ là hạng người chuyên nghề đi học, hoặc để thi đỗ ra làm quan, hoặc để đi dạy học, làm thầy thuốc, thầy địa lư, thầy bói, thầy tướng, thầy số v.v.... là những nghề phong lưu nhàn hạ.

Sự học của nước ta ngày trước có bộ Lễ coi việc giáo hóa của toàn nước. Ở tỉnh có quan Đốc Học, ở phủ có quan Giáo Thụ, ở huyện và ở châu th́ có quan Huấn Đạo, là những người có khoa mục, triều đ́nh bổ ra coi việc giáo dục ở các hạt, và mỗi người coi một trường công ở trong hạt. Những sĩ tử học ở các trường tư thục đă khá khá đều được đến học tập ở các trường công của quan Đốc, quan Giáo hay quan Huấn, đợi đến khi có khoa thi Hương, th́ ra ứng thí. Năm nào có khoa thi, th́ các quan huấn đạo, giáo thụ và đốc học mở cuộc khảo học tṛ để lựa chọ những người có đủ sức mới cho ra ứng thí.

Lệ nhà vua cứ ba năm mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những người đỗ cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, những người đỗ thấp gọi là Tú Tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những người đỗ Cử Nhân năm trước vào ứng thí, ai trúng cách th́ được vào thi Đ́nh ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến Sĩ, là những bậc đại khoa, người trong nước rất lấy làm quư trọng.

Mỗi khi có khoa thi Hương, các quan ở kinh ra chấm thi có cái biển đề bốn chữ: Phụng Chỉ Cầu Hiền, nghĩa là: vâng chỉ vua ra t́m người giỏi. Vậy sự thi cử ngày trước có cái ư nghĩa khác sự thi cử ngày nay.

Đó là nói cách tổ chức việc giáo hóa của triều đ́nh. C̣n ở chỗ dân gian, th́ sự học tập rất tự do. Bất kỳ người nào có học lực kha khá cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học. Người Việt Nam ta vốn chuộng sự học, cho nên người đi học cũng nhiều.

Nguyên sự học ngày xưa có cái mục đích chân chính là học cho hiểu đạo lư, biết phải trái, và luyện tâm tính cho thành người có tiết tháo và có phẩm cách cao quư, để gặp thời th́ ra giúp nước giúp dân, nếu không, th́ làm người ngay chính trong xă hội. Sau dần dần v́ sự sanh hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên về mặt cử nghiệp, nghĩa là học chỉ cốt lấy đỗ để ra làm quan. Người đi học đă đỗ đạt rồi, tự tin ḿnh là tài giỏi, chỉ vụ lấy cái hoa mỹ bề ngoài để ḷe người, chứ không thiết ǵ đến sự thực học. Tựu trung cũng có người muốn thi đỗ để lấy chút danh phận rồi về ở nhà học thêm hay dạy học. Nhưng đại đa số chỉ mong đỗ để làm quan v́ làm quan là có địa vị tôn quư, ngoài ra không có ǵ hơn nữa.

Chương tŕnh sự học cử nghiệp có những ǵ ? Bao nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. C̣n sự luyện tập hàng ngày, th́ cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đă nghĩ ḿnh hơn người, ai tài thi phú đă tưởng ḿnh giỏi nghề trị nước. Việc đời th́ tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi ḿnh như thần thánh.

Sự học của ḿnh đă hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí năo, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được. May nhờ cái tinh thần học cũ, người đi học, kiến thức tuy không có cái ǵ mấy, nhưng thường có khí tiết, biết liêm sĩ và nhờ có cái thanh nghị của bọn sĩ phu ràng buộc, ngăn ngừa sự hành động bấ chính. Song chỉ có thế mà thôi, vẫn không đủ để sinh tồn trong cái thời đại quyền lợi cạnh tranh, quyền mưu quỷ quyệt, trí thuật gian trá. Cho nên trong khi người tiến th́ ta thoái, người thịnh th́ ta suy.

Đại khái, cái tŕnh độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà c̣n kém cơI như thế, th́ bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.

3. Sự Sinh Hoạt của người trong nước.

T́nh thế trong nước như đă nói trên, công nghệ không có, buôn bán không ra ǵ, trừ việc cày cấy làm ruộng ra th́ người nghèo đói không có nghề nghiệp ǵ mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một tiền được bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, v́ rằng giá gạo th́ rẻ, nhưng kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn khéo, th́ mới được một ngày một tiền, không th́ chỉ được 18 hay 30 đồng tiền mà thôi. Sự làm ăn ở chỗ thôn quê đă vất vă mà lại thường bị nhiều sự hà lạm, ai có đồng tiền ở trong nhà th́ lo sợ đủ mọi đường: nào sợ 201 kẻ gian phi trộm cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp phá, cho nên phải chôn phải giấu cho kín.

Nhà cửa phần nhiều là nhà tranh nhà lá, ít khi có nhà ngói nhà gạch. Kiểu nhà làm cũng phải theo kiểu thường mà làm, chứ không được làm nhà lầu và nhà kiểu chữ công hay kiểu chữ môn. Ai làm nhà cữa mà không theo đúng phép, th́ cho là lộng hành, phải tội.

 

Cách ăn mặc th́ chỉ có đồ vải đồ nâu, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường th́ đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người sung túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ không được mặc đồ gấm đồ vóc và đi giày. Nhà vua cấm như thế, là cũng có ư muốn cho dân không quen thói xa hoa hoang phí, chỉ trừ những người làm quan làm tư mới có cái đặc ân được ăn mặc hơn người. Cũng v́ thế cho nên người trong nước ai cũng mong được đi làm quan cho hiển đạt cái thân h́nh và cho rỡ ràng mẹ cha, chứ không lo nghĩ làm việc ǵ khác nữa. Hễ ai đi học mà v́ lẽ ǵ thi không đỗ, làm quan không được, th́ bức chí quay ra làm giặc để t́m cách hiển vinh, thành ra trong nước hay có giặc giă.

Nước nghèo, dân khổ, lại phải lúc có nhiều tai biến, người ngoài vào xâm lược, triều đ́nh ngơ ngác không biết xoay xở ra thế nào, ḷng người ly tán, phân ra bè nọ đảng kia, giết hại lẫn nhau. Ấy là cái t́nh thế nước Việt Nam ta và cuối đời Tự Đức là thế, cho nên sự nguy vong mới xảy ra vậy.

 

CHƯƠNG VII

Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ

1. Nước Pháp đánh Đà Nẵng. 2. Quân Pháp hạ thành Gia Định. 3. Mất tỉnh Định Tường. 4. Mất tỉnh Biên Ḥa và tỉnh Vĩnh Long 5. Ḥa ước năm nhâm tuất (1862) 6. Sứ Việt Nam ta sang Tây 7. Việc bảo hộ Cao Miên 8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía tây đất Nam Kỳ

1. Quân Pháp Đánh Đà Nẵng.

Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hóa dân trí, lại v́ sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, và đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại.

Nguyên từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy người giáo sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám mục I Pha Nho tên là Diaz bị giết. C̣n những giáo sĩ khác th́ phải đào hầm đào hố mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy về đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm trạng của các người giáo sĩ đi truyền đạo ở nước ta, ḷng người náo động cả lên.

Chính phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền "Catinat" vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều Đ́nh Việt Nam về việc giết đạo. Sau thấy quan ta lôi thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn lũy ở Đà Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm bính th́n (1856) là năm Tự Đức thứ 9.

Được 4 tháng sau th́ sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm La sang, để điều đ́nh mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho người nước Pháp 202 được tự do vào thông thương, đặt lĩnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, và cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Trong bấy nhiêu điều, triều đ́nh nước ta không chịu điều nào cả.

Bấy giờ bên nước Pháp đă lập lại đế hiệu, cháu ông Nă Phá Luân đệ nhất là Nă Phá Luân đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc bấy giờ th́ thuận đạo, lại có bà hoàng hậu Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi chiếc tàu "Catinat" vào cửa Đà nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp Hoàng, kể rơ t́nh cảnh các người giảng đạo ở Việt Nam.

Ông P. Cultru chép ở trong sách Nam Kỳ Sử Kư (Histore de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền thế như ông chủ giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà hoàng hậu cũng có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới quyết ư sai quan đem binh thuyền sang đánh nước ta. Lại nhân v́ những giáo sĩ nước I Pha Nho cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính việc sang đánh nước Việt Nam. Ấy cũng tại v́ vua quan ḿnh làm điều trái đạo, giết hại những người theo đạo Gia Tô cho nên mới có tai biến như vậy.

Tháng 7 năm mậu ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, hải quân Trung Tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I Pha Nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà nẵng, bắn phá các đồn lũy, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải.

Triều đ́nh được tin ấy liền sai ông Đào Trí ra cùng với quan tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi th́ hai cái hải thành đă mất rồi. Triều đ́nh lại sai quan hữu quân Lê Đ́nh Lư làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.

Ông Lê Đ́nh Lư vào đánh với quân Pháp một trận ở xă Cẩm Lệ bị đạn, về được mấy hôm th́ mất.

Vua Dực Tông lại sai quan Kinh Lược Sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I Pha Nho.

Ông Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Tŕ và đắp lũy dài từ Hải Châu cho đến Phúc Ninh, rồi chia quân ra pḥng giữ. Cứ như sách Nam Kỳ Sử của ông Cultru th́ ư quan trung tướng Rigault de Genouilly định lấy Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huê, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan quân pḥng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho trung tướng biết rằng có hơn 10.000 quân ở Huế sắp kéo xuống. Trung tướng không biết rơ t́nh thế ra làm sao, mà đường xá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.

Nhân v́ khi trước các giáo sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, th́ dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin tức ǵ, mà quân lính của trung tướng th́ tiến lên không được. Ở Đà Nẵng th́ chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch tả chết hại mất nhiều người, bởi vậy trung tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông giám mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, trung tướng cứ trách ông giám mục đánh lừa ḿnh, giám mục cũng tức giận bỏ về ở nhà tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mă Lai.

Được mấy tháng, trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia Định là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù phú của nước Nam ta.

2. Quân Pháp vào đánh Gia Định.

Trước đó đă có người bàn với trung tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc Kỳ, nói rằng ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm kỷ mùi (1859) là năm Tự Đức tháng 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn tại Đà Nẵng, rồi c̣n bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam Kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.

Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc vơ bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày th́ thành vỡ. Vũ Duy Ninh tự tận. Quân nước Pháp và nước I Pha Nho vào thành, lấy được 200 khẩu súng đại bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và độ chừng 18 vạn phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, c̣n các binh khí và thóc gạo th́ không biết bao nhiêu mà kể.

Trung tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia Định rồi, đốt cả thóc gạo và san phẳng thành tŕ làm b́nh địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thủy quân trung tá Jauréguiberry đem một đạo quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn Thất Hợp đóng ở đất Biên Ḥa.

Trung tướng lại đem quân trở ra Đà Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Tŕ. 203

Trung tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng ḥa, nhưng mà Triều đ́nh cứ để lôi thôi măi, người th́ bàn ḥa, kẻ th́ bàn đánh, thành ra không xong việc ǵ cả 158 . Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà Nẵng khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật; trung tướng Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.

Chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Page (Ba-du) sang thay cho trung tướng Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giảng ḥa cho xong. Đến tháng 10 năm kỷ mùi (1859) th́ thiếu tướng sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc ḥa, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để cho các giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn bán ở các cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để th́ cũng như những điều của ông Montigny đă bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính sách ngoại giao mà chủ trương việc ấy, hóa ra làm mất cái dịp hay cả cho hai nước.

Thiếu tướng thấy cuộc ḥa không xong bèn tiến binh lên đánh, trận ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung tá là Dupré Déroulède.

Khi quân Pháp và quân I Pha Nho sang đánh nước ta ở Đà Nẵng và Gia Định, th́ quân nước Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên Tàu, chính phủ nước Pháp mới truyền cho thiếu tướng Page phải rút quân ở Đà Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, c̣n bao nhiêu binh thuyền phải đem sang theo hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến tháng ba năm canh thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà Sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia Định, thiếu tướng Page để hải quân đại tá d'Ariès ở lại giữ Gia Định, c̣n bao nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh để đánh nước Tàu.

Triều đ́nh ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam Kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ.

Đến tháng 7 năm canh thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành. Lúc gần đi, ông ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gắp năm gấp bảy lúc trước,  [158]

Chỗ này sách tây có quyển chép rằng khi hai bên đang bàn việc ḥa, th́ vua Tự Đức sai ông Nguyễn Tri Phương đánh quân Pháp ở Gia Định. Vả xem sử ta lúc bấy giờ th́ ông Nguyễn Tri Phương đang c̣n ở Quảng Nam măI đến tháng 5 năm canh thân (1860), ông ấy mới vào Nam Kỳ. Vậy việc đánh ở Gia Định là ông Tôn Thất Hợp, chứ không phải là ông Nguyễn Tri Phương. nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, c̣n ở mặt Quảng Nam mà có việc ǵ, th́ ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được.

Quân Pháp và quân I Pha Nho ở Sài g̣n lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của Việt Nam ta th́ có đến hơn một vạn người. Nhưng mà quân ta đă không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Ḿnh chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300 thước tây là cùng; c̣n súng đại bác th́ toàn là súng nạp tiền mà bắn mười phát không đậu một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy mà đối địch với quân đă lập theo lối mới, th́ đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ của Việt Nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ có thế công, mà người Tây th́ lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách rất có quy cũ, đắp dăy đồn Kỳ Ḥa (người Pháp gọi là dăy đồn Chí Hóa) cũng hợp quy thức, để chống nhau với quân của đại tá d'Ariès. Hai bên đă từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.

Đến tháng 9 năm canh thân (1860), th́ nhà Thanh bên Tàu kư tờ ḥa ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên băi sự chiến tranh. Chính phủ nước Pháp sai hải quân trung tướng Charner đem binh thuyền về chủ trương việc lấy Nam Kỳ.

Tháng giêng năm tân dậu (1861) trung tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia Định 159 . Được 20 ngày th́ trung tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ Ḥa. Hai bên đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thu bỏ đồn chạy về Biên Ḥa.

Trận ấy bên Tây th́ có lục quân thiếu tướng Vassoigne, đại tá I Pha Nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà bên ta th́ ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan tham tán là Phạm Thế Hiển về đến Biên Ḥa được mấy hôm th́ mất, c̣n quân sĩ th́ chết hại rất nhiều.

3. Mất Tỉnh Định Tường.

Phá được đồn Kỳ Ḥa rồi, trung tướng Charner truyền cho quân thủy bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả.  [159]

Sử ta chép rằng quân Pháp lúc bấy giờ có hơn 1 vạn người, mà các sách chép việc lấy Nam Kỳ th́ chỉ nói có 3.500 người thôi và trong số ấy lại có mấy đội lính mộ An Nam nữa. Thiết tưởng số 3.500 có lẽ thật hơn. 204 Tàu thủy của Pháp lên lấy Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Trung tướng lại sai người đưa thư sang cho vua Cao Miên là Norodom (Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ư của Pháp định lấy đất Gia Định làm thuộc địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ Tho (Định Tường) để cho tiện đường lưu thông với nước Cao Miên.

Bấy giờ bại quân của Nguyễn Tri Phương rút về đóng ở Biên Ḥa, c̣n đang rối loạn, chưa dám làm ǵ, quân Pháp bèn quay về phía tây đánh tỉnh Định Tường. Trước trung tướng đă cho tàu đi ḍ các ngọn sông xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm tân dậu (1861), một mặt trung tướng sai trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên đánh các đồn, một mặt th́ sai thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê-kong vào, hai mặt cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ tho. Quan hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn phải bỏ thành chạy.

Từ khi hạ xong thành Mỹ Tho rồi, trung tướng đặt đồn lũy ở các nơi hiểm yếu, và có ư hoăn việc binh để sửa sang việc cai trị trong địa hạt đă lấy được, cho nên cũng không đánh các tỉnh khác.

Triều đ́nh ở Huế được tin quan quân thất thủ đại đồn Kỳ Ḥa, và thành Mỹ Tho cũng thất thủ rồi, sai quan thượng thư Hộ bộ là Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lư việc Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết thế chống không nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng ḥa. Nhưng ở trong triều lúc bấy giờ có bọn Trương Đăng Quế không chịu, bắt phải t́m kế chống giữ.

Có nhà chép sử trách Nguyễn Bá Nghi rằng tuy ông ấy muốn giảng ḥa, nhưng không chịu nhường đất, cứ lấy lư mà căi, chứ không biết rằng thời buổi cạnh tranh này, hễ cái sức đă không đủ, th́ không có cái lư ǵ là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đă sang đánh lấy mấy tỉnh ở Nam Kỳ, là cốt để làm thuộc địa, lẽ nào tự nhiên lại đem trả lại. Bởi vậy sự giảng ḥa cứ lôi thôi măi không xong. Mà ở trong địa hạt tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường lúc ấy lại có mấy người như tri huyện Toại, phó quản cơ Trương Định, Thiên hộ Dương rủ những người nghĩa dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp cứ đánh dẹp măi dân t́nh cũng bị lắm điều cực khổ.

Đến tháng 10 năm tân dậu (1861), chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Bonard sang thay cho trung tướng Charner về nghỉ.

4. Mất Tỉnh Biên Ḥa và Tỉnh Vĩnh Long.

Thiếu tướng Bonard thấy quan quân ta cứ chống giữ măi, bèn quyết ư đánh lấy tỉnh Biên Ḥa và tỉnh Vĩnh Long. Đến tháng 11 năm ấy, th́ quân Pháp chia ra làm 3 đạo, cùng tiến lên đánh lấy thành Biên Ḥa, rồi lại tiến lên mặt đông nam đánh lấy đồn Bà Rịa. Qua tháng 3 năm sau là năm nhâm tuất (1862), thiếu tướng Bonard lại đem 11 chiếc tàu và hơn 1.000 quân đi đánh Vĩnh Long. Tỉnh thần ở đấy chống giữ được 2 ngày th́ thành phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân lui về phía tây sông Mê-kong.

5. Ḥa Ước Năm Nhâm Tuất (1862).

Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có Nguyễn Văn Thịnh, tục gọi là Cai Tổng Vàng, quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ th́ lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đ́nh lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng ḥa.

Đến tháng 4 th́ sứ thần nước ta theo chiếc tàu Forbin 160

vào Sài g̣n. Đến hôm 9 tháng 5 th́ thiếu tướng Bonard và sứ thần nước Nam ta là ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp kư tờ ḥa ước.

Tờ ḥa ước ấy có 12 khoản, nhưng cốt có những khoản sau này là quan trọng hơn cả: 1. Nước Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I Pha Nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do theo Đạo. 2. Nước Nam phải nhường đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Ḥa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, và phải để cho chiến thuyền của Pháp được ra vào tự do ở sông Mékong. 3. Nước Nam không được đem binh khí, thuốc đạn đi qua những tỉnh đă nhường cho nước Pháp. 4. Hễ nước Nam có giao thiệp với nước nào khác th́ phải cho chính phủ Pháp biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào, th́ phải tùy ư nước Pháp có thuận cho mới được. 5. Người nước Pháp và nước I Pha Nho được ra vào buôn bán tự do ở cửa Đà Nẵng, cửa Ba Lạt và cửa bể ở Quảng Yên. 6. Nước Nam phải trả tiền binh phí 4.000.000 nguyên, chia làm mười năm, mỗi năm 40 vạn nguyên. 7. Nước Pháp trả tỉnh Vĩnh Long lại cho nước Nam, nhưng quân Pháp cứ đóng ở tỉnh lỵ cho đến khi dẹp yên giặc giă ở tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường th́ mới rút về.  [160]

Nguyên trước thiếu tướng Bonard có sai trung tá Simon đem chiếc tàu Forbin vào cửa Thuận An để đợi xem triều đ́nh ở Huế có xin ḥa không. Nay chiếc tàu ấy đem thuyền của sứ thần Việt Nam ta về Gia Định. 205 Sự giảng ḥa xong rồi th́ triều đ́nh sai ông Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, ông Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với quan nước Pháp ở Gia Định.

Bấy giờ nước I Pha Nho cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng đạo thôi.

Tháng 2 năm quư hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, thiếu tướng Bonard và đại tá nước I Pha Nho là Palanca vào Huế triều yết vua Dực Tông để công nhận sự giảng ḥa của ba nước. Đoạn rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghĩ. Hải quân thiếu tướng De la Grandière sang thay.

6. Sứ Việt Nam Sang Tây.

Vua Dực Tông tuy thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, v́ là đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên chi ḥa ước đă kư rồi, mà ngài vẫ sai quan thương nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ư người nước Pháp lúc bấy giờ th́ không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại c̣n định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho ḿnh?

Vua Dực Tông thấy việc bên này bàn không xong, bèn sai quan hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ và quan án sát sứ tỉnh Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và I Pha Nho. C̣n việc giao thiệp ở trong Nam Kỳ th́ giao lại cho quan tổng đốc tỉnh Vĩnh Long là Trương Văn Uyển.

Tháng 6, các sứ thần xuống tàu "Echo" vào Gia Định, rồi sang tàu "Européen" cùng với quan nước Pháp và quan nước I Pha Nho sang Tây. Đến tháng 8 th́ tàu "Européen" về tới nước Pháp, sứ thần nước ta lên Paris, xin vào triều yết Pháp Hoàng Nă Phá Luân đệ tam. Nhưng bấy giờ Pháp Hoàng sắp đi ngự mát, sứ thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng mới được yết kiến. Ông Phan Thanh Giản tây bày mọi lẽ về việc xin chuộc ba tỉnh Nam Kỳ. Pháp Hoàng ban rằng việc đó để đ́nh nghị xem thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều Đ́nh Huế.

Mấy hôm sau, bọn ông Phan Thanh Giản đi sang I Pha Nho, rồi đến cuối năm th́ các sứ thần xuống tàu "Japon" trở về.

7. Việc Bảo Hộ Cao Miên.

Trong khi sứ nước ta sang Tây lo việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam Kỳ, th́ ở bên này thiếu tướng De La Grandière một mặt cứ đánh dẹp mọi nơi, xếp đặt cách cai trị, định thuế lệ và mở trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ 161 , một mặt sai quan đi kinh doanh việc bảo hộ nước Cao Miên (Chân Lạp).

Nguyền từ năm kỷ mùi (1859), vua nước Cao Miên là An Dương (tức là Nặc Ông Tôn) mất rồi, người con trưởng tên là Norodom (Ông Lân) lên nối ngôi. Đến năm tân dậu (1861), th́ người em Norodom là Si-Vattha nổi lên tranh ngôi của anh. Norodom phải chạy sang Tiêm La. Sang năm nhâm tuất (1862) vua Tiêm La sai quân đem Norodom về nước, rồi đặt quan ở Ô- đông để bảo hộ Cao Miên.

Lúc bấy giờ ở Cao Miên có ông giám mục tên là Miche khuyên vua Norodom về với nước Pháp th́ Tiêm La không dám bắt nạt. Bên này thiếu tướng De La Grandière cũng sai đại úy Doudart de Lagrée sang kinh doanh việc bảo hộ Cao Miên. Ông Doudart de Lagrée sang Cao Miên trong một năm trời thu xếp mọi việc, đến năm giáp tí (1864) th́ nước Tiêm La phải rút quân về, nhường quyền bảo hộ cho nước Pháp.

8. Nước Pháp Lấy Ba Tỉnh Phía Tây Đất Nam Kỳ.

Ở bên Pháp lúc bấy giờ chính phủ cũng c̣n phân vân, chưa quyết hẳn lấy hay là trả đất Nam Kỳ, mà Pháp Hoàng th́ thấy đường xá xa xôi cũng ngại, bèn sai hải quân trung tá Aubaret (Ha-ba-lư) sang điều đ́nh với Triều đ́nh ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam Kỳ.

Vua Dực Tông lại sai quan Lại Bộ thượng thư là ông Phan Thanh Giản ra sung chức toàn quyền cùng với Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vịnh để thương nghị với sứ thần nước Pháp.

Ông Aubaret đưa bản thảo tờ ḥa ước, đại lược nói rằng: Nước Pháp trả lại ba tỉnh Gia Định, Biên Ḥa và Định Tường cho nước Nam, chỉ giữ Sàig̣n, Mỹ Tho và Thủ Dầu Một để đóng quân. Nhưng nước Nam phải để nước Pháp được quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Nước Nam lại phải chịu mỗi năm là 2.000.000 nguyên tiền thuế.  [161]

Nguyên người nuớc ta tự xưa tuy có tiếng nói riêng mà không có chữ viết. Học hành, văn chương, án từ, việc ǵ cũng làm bằng Hán tự cả. Từ đời nhà Trần về sau đă có người dùng Hán Tự mà đặt ra chữ Nôm để viết tiếng Quốc Ngữ. Nhưng mà những nhà văn học không hay dùng đến chữ nôm. Đến cuối đời nhà Lê có các giáo sĩ Bồ Đào Nha sang giảng đạo ở nước ta, thấy hán tự khó học và không mấy người hiểu, mới mượn chữ La Tinh mà đặt ra chữ quốc ngữ, để cho tiện sự giảng dạy. Ngày nay ta cũng nhờ có chữ quốc ngữ ấy mà làm thành ra nước ta có một lối chữ riêng rất tiện. 206

Sứ hai nước cứ bàn đi bàn lại măi không xon, mà ở bên Pháp th́ có nhiều người không muốn trả lại đất Nam Kỳ. Cuối năm giáp tí (1864) quan thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp Hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ ḥa ước năm nhâm tuất (1862) mà thi hành.

Năm ất sửu (1865), quan thượng thư De Chasseloup Laubat muốn biết rơ t́nh thế bên Việt Nam này, bèn gọi thiếu tướng De La Grandière về hội nghị và sai hải quân thiếu tướng Roze sang thay. Thiếu tướng De la Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh lư việc Nam Kỳ.

Lúc bấy giờ ở ba tỉnh của Pháp đă thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière ở Pháp sang đă quyết ư lấy nốt ba tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam Kỳ, người bản xứ thỉnh thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp măi không yên. Ở Cao Miên lại có tên sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc Ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom. Súy phủ ở Sài g̣n đổ cho quan Việt Nam xui giục và giúp đỡ những người làm loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang và tỉnh Hà Tiên.

Ở Huế tuy triều đ́nh c̣n cứ mong chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng vẫn biết ư súy phủ ở Sài g̣n rồi tất lấy cả ba tỉnh phía tây, cho nên năm bính dần (1866), lại sai ông Phan Thanh Giản vào làm kinh lược sứ để t́m kế chống giữ.

Ở bên Pháp, th́ từ năm đinh măo (1867), hải quân trung tướng Rigault de Genouilly lên làm thượng thư hải quân bộ 162

ra sức giúp thiếu tướng De la Grandière cho xong việc. Bởi vậy súy phủ ở Sài g̣n chỉ đợi dịp để khởi sự.

Tháng 6 năm đinh măo (1867) là năm Tự Đức thứ 20, thiếu tướng De la Grandière hội hơn 1.000 quân ở Mỹ Tho, rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành tŕ cho khỏi sự tai hại, rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan chức ǵ ở Nam Kỳ.

Bấy giờ ông đă già, đă ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm, nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế ḿnh không làm ǵ  [162]

Lúc bấy giờ Hải quân bộ kiêm cả Thuộc địa bộ được, đem tấm ḷng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi.

Từ đó đất Nam kỳ toàn cảnh thành ra đất thuộc địa của Pháp, thuế má, luật lệ, điều ǵ cũng do súy phủ ở Sài g̣n quyết định cả.

 

CHƯƠNG VIII

Giặc giă ở trong nước

1. Việc rối-loạn trong nước

2. Giặc Tam-đường

3. Giặc châu-chấu

4. Giặc tên Phụng

5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành

6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ

1. Việc rối-loạn trong nước.

 

Vua Dực-tông vốn là ông vua có ḷng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đă sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh-lược đại-sứ B́nh-định, Phú-yên, Khánh- ḥa và B́nh-thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An và Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm ăn của dân gian, có điều ǵ hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.

Tuy vậy mặc ḷng, không có đời nào lắm giặc giă bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu th́ c̣n có hơi yên trị, c̣n từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, th́ càng ngày càng nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi v́ đất Bắc-kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân t́nh cũng có nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là gịng dơi nhà Lê, hoặc t́m một người nào giả nhận ḍng dơi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.

 

Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan th́ dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. ở trong nước th́ thỉnh thoảng lại có tai biến, như nước lụt, đê vỡ, v. v. Ở Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn-giang thành băi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.

2. Giặc Tam-đường.

Năm Tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức thắng đường, v. v... tục gọi là giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái-nguyên, vua sai ông Nguyễn đăng Giai ra kinh lược Bắc-kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất, đất Bắc-kỳ lại có loạn.

3. Giặc châu-chấu.

Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy Cự là ḍng dơi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao bá Quát, người làng Phú- thụy, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn tây). Cao bá Quát có tiếng là người văn- học giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn-tây và Hà-nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh-binh tỉnh Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về chém tại làng.

Nhân v́ mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều châu-chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu-chấu.

Cao bá Quát chết đi rồi, Lê duy Cự c̣n quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượng- du.

4. Giặc tên Phụng.

Năm tân dậu (1861), quân nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ văn Phụng, trước đă theo giáo-sĩ ra ngoại-quốc đi học đạo, sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng-nam.

Đến tháng chạp th́ tên Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh ḍng dơi nhà Lê, rồi tự xưng là minh-chủ, cùng với một người đạo-trưởng tên là Trường làm mưu-chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hải- ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc-Kỳ.

Tháng ba năm nhâm-tuất (1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên-súy, lập tên Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, và vây thành Bắc-ninh.

Bấy giờ quan bố chính ở Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố- chính tỉnh Sơn-tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.

Phía đông th́ tên Phụng vây thành Hải-dương, tỉnh-thần dâng sớ cáo-cấp. Triều đ́nh bèn sai quan Thượng-thư bộ H́nh là Trương quốc Dụng ra làm tổng-thống Hải-an 163 quân-vụ, cùng với Phan tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra tiến-tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi làm Sơn-Hưng-Tuyên 164 tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc ở Bắc-kỳ.

Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên th́ có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang th́ có bọn tên Uẩn, tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao-bằng th́ bị tên Giặc Khách Lư hợp Thắng vây đánh, tỉnh Bắc-ninh th́ có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả lên. Vua Dực-tông sai Nguyễn tri Phương ra làm tây-bắc-tổng-thống quân-vụ đại-thần, cùng với Phan đ́nh Tuyển và Tôn thất Tuệ ra đánh mặt Bắc-ninh, Thái-nguyên và Tuyên-quang.

Tháng 3 năm quí-hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên-quang và bắt được tên Uẩn đóng củi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc-ninh, rồi đem binh lấy lại thành Thái-nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá được sào huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu Bạch-thông.

C̣n ở mặt Hải-dương và Quảng-yên, th́ tuy Trương quốc Dụng và Đào Trí đă giải được vây cho thành hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể c̣n mạnh lắm. Vua Dực-tông lại sai Nguyễn tri Phương làm tổng-thống hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm hiệp-thống đem quân ra đánh mặt ấy.

Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu- tướng Bonard ở trong Nam-kỳ, ước hễ lấy được Bắc-kỳ th́ xin để nước Pháp bảo-hộ. Nhưng v́ trong Nam-kỳ c̣n lắm việc, mà sự giảng ḥa với Triều- đ́nh ở Huế đă sắp xong, cho nên thiếu-tướng không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể, để làm sào huyệt,

Cuối năm quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Các-bà và ở núi Đồ-sơn, có ư muốn đem quân vào đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng may phải băo, thuyền đắm mất nhiều. Quan đề-đốc là Lê quang Tiến và quan bộ-phủ Bùi huy Phan được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.

Đến tháng 6 năm giáp-tí (1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp- thống Trương quốc Dụng, quan tán-lư Văn đức Khuê, quan tán-tương Trần huy Sách và quan chưởng-vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt hại rất nhiều.

Tháng 4 năm ất-sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan đề-đốc Mai Thiện quan tán-lư Đặng trần Chuyên, quan đốc-binh Ông ích Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về giữ mặt Hải-ninh.

Tháng 7 năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích Khiêm đem binh ra Quảng-yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm-châu để đánh lấy lại thành Hải-ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước th́ chạy vào mạn Quảng-b́nh, Quảng-trị, c̣n những đồ đảng, đứa th́ phải bắt, đưa th́ chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.

Giặc Phụng khởi từ cuối năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu (1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp gần xong, th́ ở mạn Cao-bằng đă có giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Vơ trọng B́nh và quan tuần-phủ Phạm chi Hương đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9 năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần (1866), th́ tướng giặc là Trương cận Bang mới xin về hàng, và mới thu phục lại được thành Cao-bằng.

Nguyễn tri Phương và Vơ trọng B́nh về Kinh coi việc triều-chính.

5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành.

Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, th́ Kinh-đô lại có việc làm cho náo động ḷng người.

Nguyên vua Dực-tông là con thứ mà được nối ngôi, là v́ người anh ngài là Hồng Bảo phóng đăng, không chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn đồ-mưu với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. C̣n con ông th́ được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo

Đến năm bính dần (1866) là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn-niên-cơ tức là Khiêm-lăng bây giờ, quân-sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn Trương trọng Ḥa, Phạm Lương kết làm " Sơn- đông-thi-tửu-hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn-niên-cơ và cùng với qua hữu-quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.

Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch, chực xông vào điện giết vua Dực-tông. May nhờ có quan chưởng-vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.

Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn thất Cúc th́ tự vẫn chết, c̣n các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.

Lúc ấy ngoài th́ có giặc cướp phá, trong th́ có nghịch-thần làm loạn. Ở mặt Quảng-nghĩa lại có giặc mọi Đá-vách cứ hay xuống quấy nhiễu dân- gian, may nhờ có quan tiểu-phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó. Ở Bắc-kỳ th́ có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đ́nh cũng bối rối không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.

6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ.

Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài th́ đánh nhau với nước Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều đ́nh phải bỏ Kinh-đô mà chạy; trong th́ có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.

Nguyên từ năm Đạo-quang thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng-tây có tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lư tú Thành, nổi lên xưng là Thái-b́nh thiên-quốc, rồi chiếm cứ đất Kim-lăng và các tỉnh phía nam sông Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lư hồng Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho đến năm Đồng-trị thứ hai là năm quí-hợi (1863) tức là bên ta năm Tự-đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái-b́nh, Hồng tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đ́nh nhà Thanh lại thu phục được các tỉnh phía nam nước Tàu.

Lúc ấy có dư đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang nước ta, trước c̣n nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh măi không được. Năm mậu-th́n (1868) là năm Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đ́nh sai quan tổng-đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu sang tiểu-trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí đem quân sang cùng với quan tiểu-phủ Ông ích Khiêm và quan đề-đốc Nguyễn viết Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn, quan tham-tán Nguyễn Lệ, quan phó đề-đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan thống-đốc Phạm chi Hương bị bắt.

Triều-đ́nh sai Vơ trọng B́nh ra làm Hà-ninh tổng-đốc kiêm chức Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ khâm-sai đại-thần, để hội với quan đề-đốc tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài mà đánh giặc Ngô Côn.

Quân hai nước cùng đồng sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869) th́ mới khôi phục lại được tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh- ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh-thành Bắc-ninh, quan tiểu- phủ Ông ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc.

Ngô Côn tuy chết, song c̣n có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi, hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả. Triều-đ́nh sai quan trung-quân Đoàn Thọ ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.

Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh-thành Lạng-sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, c̣n Vơ trọng B́nh th́ vượt thành chạy thoát được.

Tin ấy vào đến Huế, Triều-đ́nh vội vàng sai Hoàng kế Viêm 165 ra làm Lạng-B́nh-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại thần, cùng với quan tán-tương Tôn thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai quan H́nh-bộ thượng-thư là Lê Tuấn làm chức Khâm-sai thị-sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.

Tháng 11 năm tân-mùi (1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn-tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải-dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ-tỉnh Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm, dư-đảng giặc ấy đều tan cả. Ở mạn thượng-du th́ đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy-nhiễu ở đất Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn-hại, đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho đất ở Lao-kay, được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng ở mạn Hà-giang.

Đất Bắc-kỳ cứ giặc-giă măi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà không yên được. Đến tháng 7 năm nhâm-thân (1872), Triều-đ́nh lại sai Nguyễn tri Phương làm Tuyên-sát đổng-sức đại-thần ra thay mặt vua xem- xét việc đánh giặc ở Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở trong nước chưa xong, th́ sự giao-thiệp với nước Pháp đă sinh ra lắm nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.

 

Chương IX

Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ I

 

1. Người Pháp t́m đường sang Tàu

2. Đồ-phổ-Nghĩa

3. Đại-úy Francis Garnier ra Hà-nội

4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873)

5. Lấy mấy tỉnh ở Trung-châu

6. Đại-úy Francis Garnier chết

7. Ông Philastre ra Hà-nội

8. Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874)

 

1. Người Pháp t́m đường sang Tàu.

 

Từ khi nước Pháp lấy xong đất Nam-kỳ rồi, Súy-phủ ở Sài-g̣n sửa-sang mọi việc, và cho người đi xem xét t́nh thế và sông núi ở Trung-kỳ và Bắc-kỳ để mở mang sự giao- thông. Lại có ư muốn t́m đường thông sang nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm bính-dần (1866), thiếu-tướng De la Grandière sai trung-tá Doudart de Lagrée cùng với đại-úy Francis Garnier (Ngạc-nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông Mékong đi t́m đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm mậu-th́n (1868), non hai năm trời, ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân-nam. Nhưng chẳng may ông ấy phải bệnh đau gan mà chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi qua nước Tàu, rồi xuống Tàu thủy về Sài-g̣n.

Đến năm canh-ngọ (1870) là năm Tự-đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau với nước Phổ; quân Pháp thua, Pháp-hoàng là Nă-phá-luân đệ-tam bị bắt. Dân nước Pháp bỏ đế-quốc mà lập Dân-chủ cộng-ḥa. Tuy ở bên Pháp có sự chiến tranh, nhưng ở bên Viễn-đông này, quân Pháp vẫn giữ vững đất Nam-kỳ. Vả Triều-đ́nh ở Huế c̣n bận dẹp giặc Khách ở Bắc-kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi-thôi ǵ cả.

2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis).

Thuở ấy, có một người Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là Đồ-phổ-Nghĩa mấy năm trước đă đi du lịch ở các tỉnh bên Tàu, để t́m cách buôn-bán, biết có sông Hồng-hà từ đất Vân- nam chảy qua Bắc-kỳ ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở Vân-nam để chở đồ binh-khí sang bán.

Đồ-phổ-Nghĩa về cùng với một người Pháp nữa tên là Millot, buôn- bán ở Thượng-hải, trù-tính việc chở binh khí sang Vân-nam, đoạn rồi về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên này, Đồ-phổ-Nghĩa vào Sài-g̣n xin Súy-phủ giúp thanh-thế cho để đi qua Bắc-kỳ. Viên thống-đốc Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng d'Arhaud, có hứa với Đồ-phổ-Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.

Đồ-phổ-Nghĩa sang Hương-cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu con là Hồng-giang, Lao-kay và Sơn-tây chở đồ binh-khí và hàng-hóa vào Quảng-yên. Trong lúc ấy hải-quân trung-tá Sénès đă đem tàu Bourayne ra Bắc-kỳ, rồi lên Hải-dương, Hà-nội, Bắc-ninh đi xem các nơi.

Trung-tá ở Bắc-ninh nghe tin bọn Đồ-phổ-Nghĩa đă đến Quảng-yên, liền trở ra để cùng bàn với quan Khâm-sai Lê Tuấn về việc thông-thương ở sông Hồng-hà.

Ông Lê Tuấn không có lệnh Triều-đ́nh, không dám tự-tiện, nói xin đợi vài mươi hôm để có mệnh nhà vua ra sẽ hay.

Đồ-phổ-Nghĩa và Millot thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà- nội, rồi thuê thuyền chở đồ lên Vân-nam. Bấy giờ là cuối năm nhâm-thân (1872), là năm Tự-đức thứ 25. Thuyền của Đồ-phổ-Nghĩa đi qua những đồn của quan ta, của giặc cờ vàng và giặc cờ đen đều vô sự cả. Khi lên dến Vân- nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật xuống, đến thánh tư năm quí- dậu (1873), th́ Đồ-phổ-Nghĩa và Millot lại trở về đến Hà-nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. Millot th́ vào Sài-g̣n cho Súy-phủ biết t́nh-thế ở Bắc- kỳ, và nhân thể đem đồ khoáng-vật sang bán ở Hương-cảng. C̣n Đồ-phổ- Nghĩa th́ ở lại Hà-nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người Khách là Bàng lợi Kư, Quan tá Đ́nh mua gạo, mua muối chở lên Vân-nam.

Bấy giờ luật nước ta cấm không cho chở muối sang Tàu, mà việc thông-thương ở sông Hồng-hà cũng chưa định rơ thế nào, nhưng Đồ-phổ- Nghĩa tự xưng là có lệnh quan Tàu cho, th́ không cần phải theo luật nước Nam, v́ nước Nam là một nước phải thần-phục nước Tàu.

Đồ-phổ-Nghĩa không hiểu rơ sự giao-thiệp nước Tàu và nước ta ngày trước. Đối với Tàu th́ bề ngoài nước ta tuy xưng cống-thần, nhưng kỳ thực vẫn là độc-lập. Khi có việc ǵ, phải có sứ hai nước sang thương-nghị rồi mới thi hành. Mà có khi sứ nước Tàu bàn sang điều ǵ, nước ta không thuận cũng thôi, chứ không có phép tự-tiện mà làm được. Chỉ trừ lúc nào nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt-nạt, như đời nhà Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh, th́ lại có ông Trần hưng Đạo, ông Lê thái Tổ và ông Nguyễn quang Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước Nam vốn không phải đất thuộc-địa của Tàu.

Tuy vậy, quan ta phải nể Đồ-phổ-Nghĩa là người nước Pháp, sợ có việc ǵ, th́ thành ra bất-ḥa với Súy-phủ ở Sài-g̣n, cho nên cứ dùng lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm điều trái với luật nước. Nhưng ông ấy cứ một niềm tự ư ḿnh mà làm. Quan ta nhờ cả Giám-mục Puginier là Kẻ-sở lên can cũng không được.

Sau quân ta có bắt mấy tên Khách Bành lợi Kư và Quan tá Đ́nh về sự đem thuyền chở muối và gạo lên Vân-nam, th́ Đồ-phổ-Nghĩa đem người đi bắt quan pḥng-thành Hà-nội và quan huyện Thọ-xương, đem xuống thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không biết ra thế nào. Một bên th́ cố t́nh sinh sự, một bên th́ mệnh nhà vua ra không được lôi thôi điều ǵ.

Bấy giờ Triều-đ́nh sai quan hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đ́nh B́nh làm khâm-phái ra giao cho ông Nguyễn tri Phương phải thu-xếp cho yên chuyện ấy. Ông Nguyễn tri Phương mới sai quan bố-chính là Vũ Đường định ngày mời Đồ-phổ-Nghĩa đến hội-quán Quảng-đông, để hội nghị. Khi hai bên đến hội-đồng, quan ta nói rằng sự giao-thiệp nước Pháp với nước Nam đă có tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất (1862), và sự đem muối và gạo lên bán ở Vân- nam là trái với tờ ḥa-ước ấy, và lại trái với luật bản-quốc. Đồ-phổ-Nghĩa căi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là đủ, không cần phải xin phép ǵ nữa, rồi đứng dậy ra về.

Triều-đ́nh ở Huế thấy việc lôi thôi măi, sợ để lâu thành ra nhiễu sự, mới sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường và ông Nguyễn tăng Doăn vào sứ Sài-g̣n, để thương-nghị về việc ba tỉnh phía tây đất Nam-kỳ và nhân thể nhờ Súy-phủ phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa cho xong.

3. Đại-úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà-nội.

Viên Thống-đốc Nam-kỳ bấy giờ là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn đă lưu ư về việc Bắc-kỳ. Trước đă viết thư về cho Thượng-thư thuộc-địa-bộ ở Paris nói rằng: " Đất Bắc-kỳ là đất tiếp-giáp với những tỉnh tây-nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy th́ sự cai-trị của ta ở Viễn-đông này mới được chắc chắn " .

Nhưng bên Pháp bấy giờ mới đang đánh nhau với nước Phổ vừa xong, không muốn gây chuyện khác, bèn điện sang cho thiếu-tướng rằng: "Không được sinh sự ở Bắc-kỳ." Đến khi Millot về Sài-g̣n kể công việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói rằng: " Việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ đă thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc-kỳ và giữ lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành công chắc lắm ". Ngay hôm ấy, thiếu-tướng lại viết thêm một cái thư về nói rơ mọi lẽ, và quyết rằng xin chính-phủ để cho thiếu-tướng được tự tiện, hễ có việc ǵ th́ thiếu-tướng xin chịu lỗi166.

Đang lúc ấy th́ Triều-đ́nh ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin thiếu- tướng ra điều-đ́nh việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ.

Cứ như ư của thiếu-tướng Dupré điện về cho chính-phủ Pháp th́ thiếu-tướng chỉ mong có cái cơ-hội ǵ để đem quân ra Bắc-kỳ. Nay thấy Triều-đ́nh ta vào nhờ Súy-phủ ở Sài-g̣n phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa, thật là gặp được cái dịp ḿnh đang mong, thiếu-tướng liền gọi quan hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, rồi sai ra Hà-nội, nói rằng ra phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa167.

Đại-úy Francis Garnier đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra đến cửa Thuận, nghỉ lại mấy hôm để đợi quan khâm-sai cùng ra Bắc-kỳ. Đến tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ các quan ra đến Hà-nội.

Bấy giờ ai cũng tưởng là đại-úy Francis Garnier ra chuyến này th́ mọi việc xong cả, cho nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp-đăi rất trọng-hậu. Nhưng xem những thư-từ của đại-úy lúc bấy giờ, th́ cốt ra có chủ ư khác. Khi ở Sài-g̣n sắp đi, đại-úy viết thư về cho người anh ở bên Pháp nói rằng: " Lệnh của Súy-phủ cho, là được tự tiện. Việc ǵ hải-quân thiếu-tướng cũng ủy-thác cho tôi cả. Vậy v́ nước Pháp mà tôi phải cố sức." Đến khi ra đến Hải-dương, đại-úy vào ở Kẻ-sặt, rồi viết thư sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho ông ấy biết cái chủ đích của ḿnh, và lại nói rằng trăm sự đại-úy trông-cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi v́ ông ấy đă quen biết mọi việc ở Bắc-kỳ.

Đồ-phổ-Nghĩa tiếp được thư, liền đem chiếc tàu Man-hao đi đón đại- úy. Lên đến Hà-nội, đại-úy đem mấy người đi thẳng vào thành ra mắt ông Nguyễn tri Phương, và đ̣i đem quân ra đóng ở trong thành. Quân ta nói măi, Đại-úy mới thuận ra đóng ở Trường-thi. Đoạn rồi đại-úy viết thư mời giám-mục Puginier ở Kẻ-sở lên Hà-nội, để nhờ làm thông-ngôn. Đại-úy lại làm tờ hiểu-dụ, cho dân biết, nói rằng: " Bản-chức ra Bắc-kỳ cốt để dẹp cho yên giặc-giă, và để mở-mang sự buôn-bán.

4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873).

Quan ta thấy đại- úy không nói ǵ đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói những việc dẹp-giặc và mở sự buôn-bán, th́ đều lấy làm phân-vân. Sau lại thấy tàu và quân ở Sài- g̣n tiến ra, quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi ǵ đến quan ta, tự-tiện làm tờ tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho và nước Tàu được ra vào buôn-bán.

Quan ta lúc bấy giờ cũng bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buôn- bán với nước Pháp th́ đă định rơ trong tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất (1862), nay thấy đại-úy Francis Garnier đường đột làm như thế, th́ cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách pḥng-bị. Mà đại-úy cũng đă biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đă định kế đánh thành Hà-nội.

Đến đầu tháng 10, một mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri Phương, trách quan ta làm ngăn-trở việc buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa; vậy v́ sự văn-minh và cái quyền-lợi của nước Pháp, cho nên Súy-phủ ở Sài-g̣n sai đại-úy ra mở sự buôn-bán ở Bắc-kỳ. Dẫu quan Việt-nam có thuận hay không cũng mặc, đại-úy cứ theo lệnh của Súy-phủ mà thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh thành và bắt ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-g̣n.

Cứ như sách của Đồ-phổ-Nghĩa, th́ lúc bấy giờ có cả những người mạo xưng là đảng nhà Lê, cũng xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.

Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ quân Pháp phát súng bắn vào thành Hà-nội. Ông Nguyễn tri Phương cùng với con là pḥ-mă Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được non một giờ đồng hồ th́ thành vỡ, pḥ-mă Lâm trúng đạn chết, ông Nguyễn tri Phương th́ bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông Nguyễn tri Phương và quan khâm-phái Phan đ́nh B́nh đem xuống tàu.

Ông Nguyễn tri Phương nghĩ ḿnh là một bậc lăo-thần thờ vua đă trải ba triều, đánh nam dẹp bắc đă qua mấy phen, nay chẳng may v́ việc nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông quyết chí không chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà chết.

Ông Nguyễn tri Phương là người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh-bạch, chỉ đem chí-lự mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất v́ việc nước. thật là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy.

5. Lấy mấy tỉnh ở Trung-châu.

Thành Hà-nội thất thủ rồi, quan ta th́ trốn-tránh đi cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại-úy Francis Garnier lại cho những người theo với ḿnh đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi lại sai người đi đánh lấy tỉnh Ninh-b́nh, Nam-định và Hải-dương.

Quan ta ở các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và 7 người lính tây mà hạ được thành Ninh-b́nh, và chỉ trong 20 ngày mà 4 tỉnh ở Trung-châu mất cả.

6. Đại-úy Francis Garnier chết.

Triều-đ́nh được tin biến ở Bắc- kỳ, vội-vàng sai ông Trần đ́nh Túc, ông Nguyễn trọng Hợp, ông Trương gia Hội cùng với giám-mục B́nh (Mgr Bohier) và linh-mục Đăng ( Dangelger) ra Hà-nội, để điều đ́nh mọi việc và sai ông Hoàng kế Viêm ở Sơn-tây làm tiết- chế quân-vụ, để pḥng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn-quyền, ông Nguyễn văn Tường làm phó, vào thương-thuyết với Súy-phủ ở Sài-g̣n về việc đại-úy Francis Garnier đánh Bắc-kỳ.

Lúc bấy giờ ông Hoàng kế Viêm đóng ở Sơn-tây, có đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho Lưu vĩnh Phúc làm đề-đốc, để cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu vĩnh Phúc đem quân về đóng ở mạn phủ Hoài-đức. Khi ông Trần đ́nh Túc và ông Nguyễn trọng Hợp đang thương-thuyết với đại-úy Francis Garnier, th́ quân cờ đen về đánh Hà- nội. Đại-úy đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu-giấy th́ bị phục quân giết chết.

7. Ông Philastre ra Hà-nội.

Nguyên khi thiếu-tướng Dupré sai đại-úy Francis Garnier ra Bắc-kỳ là tự ư ḿnh chứ chính-phủ nước Pháp vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin đại-úy đă khởi sự đánh Hà-nội, thiếu- tướng liền sai hải-quân đại-úy, khiêm chức thống-soái việc h́nh-luật ở Nam- kỳ, là ông Philastre (ta gọi là Hoắc-đạo-sinh) cùng với qua phó-sứ nước ta là ông Nguyễn văn Tường ra điều-đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ.

Đến Cửa-cấm th́ ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường mới biết rằng đại-úy Francis Garnier đă bị quân cờ đen giết mất rồi. Sử chép rằng khi được tin ấy, ông Philastre tức giận vỗ bàn mà bảo ông Nguyễn văn Tường rằng: " Việc không xong rồi, phải trở về đợi lệnh súy-phủ mới được. " Ông Nguyễn văn Tường sợ ông Philastre giận quá mà nhỡ việc, mới ung-dung mà nói rằng: " Việc đánh lấy thành Hà-nội súy-phủ bảo không phải là bản-ư, mà quân bản-quốc ở 4 tỉnh Bắc-kỳ cũng không tranh dành ǵ cả. Vậy hai bên không có làm điều ǵ trái nhau. Nay đại-úy Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là v́ dân nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rơ. Huống chi trả thành lại để định ḥa-ước cho xong, ấy là lệnh của súy-phủ; mà thu lấy thành rồi mới nghị-ḥa, ấy là mệnh của bản-quốc. C̣n như việc Hà-nội giết đại-úy Francis Garnier th́ cũng như đại-úy Francis Garnier giết ông Nguyễn tri Phương, việc đó xuất ư ư ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc ǵ cả, mới nghe thấy tin báo mà đă bỏ về, thế chẳng hóa ra ḿnh đi uổng mất công hay sao ? chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà-nội bảo đem tàu xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà làm, hoặc là xét rơ duyên-do tại sao mà đại-úy Francis Garnier chết, rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao ? " Ông Philastre nghe lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà-nội biết.

Ngay lúc ấy có tàu " Decrès " c̣n đóng ở gần Đồ-sơn, ông Philastre muốn sang tàu ấy để cho chiếc tàu ḿnh đi là "D'Estrées " trở về báo tin cho Sài-g̣n biết. Nguyễn văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của ḿnh đă vào cửa rồi lại trở ra, nhỡ sĩ-dân biết, lại bắt chước Hà-nội mà làm bậy, th́ làm thế nào mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn-hại, th́ lấy lẽ ǵ mà bẩm với quí súy. Vậy nay xin sai chiếc tàu "Decrès" ra bể, đuổi đánh những giặc Tàu-ô, c̣n cứ đem tàu "D'Estrées" vào đến Hải-pḥng, rồi ta lên Hải-dương, đem trả tỉnh-thành lại cho bản-triều, để tỏ cái ḷng tin cho sĩ-dân biết, sau ta lên Hà- nội, trả nốt cả mấy thành kia, và tra-hỏi việc đại úy Francis Garnier chết ra thế nào sẽ bẩm cho quí-súy biết " .

Ông Philastre vốn là một người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn văn Tường nói hợp-lẽ, bèn thuận nghe, và lên Hải-dương truyền trả thành lại cho quan ta, rồi lên Hà-nội làm tờ giao-ước trả lại cả 4 thành cho quan ta coi giữ. C̣n những tàu bè và quân lính của Pháp ở các tỉnh th́ thu cả về Hà- nội, rồi đinh ngày rút quân ra đóng ở Hải-pḥng đợi đến ngày kư tờ ḥa-ước xong th́ rút về. Bấy giờ là tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự- đức thứ 27.

Đồ-phổ-Nghĩa thấy ông Philastre phá mất cả những việc của ḿnh đă làm với đại-úy Francis Garnier, bèn vào Sài-g̣n kêu với súy-phủ và đ̣i tiền phí-tổn non một triệu nguyên

8. Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).

Mọi việc ở Hà-nội xếp-đặt xong rồi, súy-phủ ở Sài-g̣n sai ông Rheinart (Lê Na) ra thay cho ông Philastre cùng với ông Nguyễn văn Tường về Nam-kỳ, định sự ḥa-ước cho kịp ngày thiếu-tướng Dupré về Pháp.

Ngày 27 tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải-quân thiếu-tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường kư tờ ḥa-ước cả thảy 22 khoản, đại-lược có những khoản này là quan trọng hơn cả.

Khoản II. Quan thống-lĩnh nước Pháp nhận quyền độc-lập của vua nước Nam không phải thần phục nước nào nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc ǵ để đánh dẹp giặc giă, th́ nước Pháp sẵn ḷng giúp mà không yêu-cầu điều ǵ.

Khoản III. Vua nước Nam phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp, và chính-lược ngoại-giao hiện lúc bấy giờ thế nào th́ phải để nguyên như thế, không được đổi khác đi

Quan thống-lĩnh nước Pháp tặng vua nước Nam:

1. 5 chiếc tàu có đủ máy-móc súng-ống

2. 100 khẩu súng đại-bác, và mỗi khẩu có 200 viên đạn

3. 1000 khẩu súng tay và 5000 viên đạn

Khoản IV. Quan thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy tập lính thủy, lính bộ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và cho những người giỏi việc tài chính sang tổ-chức việc thuế-má và việc thương-chính v. v.

Khoản V. Vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ cho nước Pháp.

Khoản IX. Vua nước Nam phải để cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng-đạo, và cho dân trong nước được tự-do theo đạo.

Khoản XI. Vua nước Nam phải mở cửa Thị-nại ( Qui-nhơn ), của Ninh-hải ( Hải-pḥng ), thành Hà-nội và sông Hồng-hà, cho ngoại quốc vào buôn-bán.

Khoản XIII. Nước Pháp được quyền đặt lĩnh-sự ở các cửa bể và các thành- thị đă mở ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.

Khoản XV. Người nước Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của quan lĩnh-sự Pháp và có chữ quan Việt-nam phê nhận th́ được phép đi xem các nơi ở trong nước.

Khoản XVI. Người nước Pháp và người ngoại quốc có điều ǵ kiện tụng tại đất Việt-nam, th́ do lĩnh-sự Pháp phân-xử.

Khoản XX. Khi nào tờ ḥa-ước này kư xong, th́ quan thống-lĩnh nước Pháp đặt sứ-thần ở Huế để chiếu những điều đă giao-ước mà thi hành. Vua nước Nam cũng được quyền đặt sứ-thần ở Paris và ở Sài-g̣n.

Tờ ḥa-ước ấy kư xong, th́ quan chánh-sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn văn Tường về Huế. Thiếu-tướng Dupré giao mọi việc ở Nam-kỳ cho hải-quân thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.

Tháng 6, Triều-đ́nh ở Huế lại sai quan h́nh-bộ Thượng-thư là Nguyễn văn Tường và quan lại-bộ thị-lang là Nguyễn tăng Doăn, vào Sài-g̣n cùng với thiếu-tướng Krantz định các lệ về sự buôn-bán ở nước Nam. Đến 20 tháng 7, th́ tờ thương-ước lập xong.

 

CHƯƠNG X

T́nh thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau

 

1. Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh

2. Giặc ở Bắc-kỳ

3. Sự giao-thiệp với Tàu

4. T́nh-thế nước Tàu

5. Sự giao-thiệp với nước Pháp

 

1. Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh.

Nhờ có ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong, th́ ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.

Nguyên lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi sảy ra việc đại-úy Francis Garnier lấy Hà-nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ-tĩnh thấy giáo-dân có nhiều người theo giúp ông ấy, th́ lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.

Tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai người tú-tài là Trần Tấn và Đặng như Mai hội-tập cả các văn- thân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là " B́nh Tây sát tả ", đại lược nói rằng " Triều-đ́nh dẫu ḥa với với Tây mặc ḷng sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn-hóa của ta đă hơn 1000 năm nay, v. v..." Bọn Văn- thân cả thảy độ non hơn ba ngh́n người, kéo đi đốt phá những làng có đạo.

 

Nước ta mà không chịu khai-hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ-phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy-nhược của ḿnh đă sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nh́n, lại v́ sự tức giận một lúc mà việc nông-nỗi càn-rỡ, để cho thiệt hại thêm, như thế th́ cái tội trạng của bọn sĩ-phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru!

Lúc bấy giờ quan tổng-đốc Nghệ-an là ông Tôn thất Triệt lại có ư dung-túng bọn Văn-thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều-đ́nh thấy vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn-thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần quang Hoán, Trương quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành Hà-tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn-châu.

Triều-đ́nh thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn Tường ra làm khâm-sai và ông Lê bá Thận làm tổng-thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.

2. Giặc ở Bắc-kỳ.

Thuở ấy ở mạn Thượng-du đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh măi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.

Mạn Hải-dương và Quảng-yên th́ vẫn có những người mạo xưng là con-cháu nhà Lê, cứ quấy-rỗi măi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà-nội, những người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng v́ sau nước Pháp trả lại các tỉnh ở Bắc-kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đă kư ḥa-ước rồi, quan Pháp có đem binh-thuyền đi đánh giúp, cho nên mới diệt được đảng ấy.

C̣n ở mạn Tuyên-quang, th́ có giặc cờ vàng nhũng-nhiễu đă lâu. Quan quân phải đánh dẹp măi không được. Đến tháng 8 năm ất-hợi (1875), là năm Tự-đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu-thượng, thuộc phủ Vĩnh-tường. Bấy giờ quan quân tán-dương quân-vụ tỉnh Sơn-tây là Tôn thất Thuyết về đánh một trận. Giặc ấy từ đó tan dần.

Năm sau Tôn thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ-loa, và dẹp yên được ở mạn Sơn-tây. Nhưng đến năm mậu-dần (1878), ở Lạng- sơn lại có tên giặc Khách là Lư dương Tài nổi lên.

Lư dương Tài trước làm quan hiệp-trấn ở Tầm-châu, thuộc tỉnh Quảng-tây, sau bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh Lạng-sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan đề-đốc Quảng-tây là Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta hội- tiễu. Đến tháng 9 năm kỷ-măo (1879), quan quân mới bắt được Lư dương Tài ở núi Nghiêm-hậu thuộc tỉnh Thái-nguyên đem giải sang Tàu.

V́ đất Bắc-kỳ cứ có giặc giă luôn cho nên Triều-đ́nh đặt ra chức Tĩnh-biên-sứ để giừ các nơi về đường ngược. Năm canh-th́n (1880), đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai viên Tĩnh-biên phó-sứ là Trương quang Đản đóng ở Lạng-giang và Nguyễn hữu Độ đóng ở Đoan-hùng, lại phong cho Hoàng kế Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai đạo .

3. Sự giao-thiệp với Tàu.

Nước ta từ xưa đến nay tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, th́ rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm tự-nhiên v́ rằng triều-cống cũng không tổn hại ǵ mấy, mà nước vẫn độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng mạnh hơn ḿnh. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.

Các vua đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước th́ vua phải ra Hà-nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong cho. Đến đời vua Dực- tông th́ sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài.

C̣n những cống phẩm th́ cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng-đốc Lưỡng-Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên-kinh. Trong đời vua Dực-tông th́ sử chép rằng năm mậu-th́n (1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục, ông Hà văn Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc-kỳ.

Từ năm giáp-tuất (1874) trở đi, Triều-đ́nh ở Huế đă kư tờ ḥa-ước với Pháp, công nhận nước Nam độc-lập, không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ v́ thế bất-đắc-dĩ mà kư tờ ḥa-ước, cứ trong bụng vua Dực-tông vẫn không phục, cho nên ngài vẫn cứ theo lệ cũ mà triều-cống nước Tàu, có ư mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp ḿnh. Bởi vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên tức là ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm canh-th́n (1880), lại sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn Hoang sang Yên-kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống-phẩm. Năm sau, Triều-đ́nh nhà Thanh sai Đường đ́nh Canh sang Huế bàn việc buôn-bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ư là để thông tin cho chính phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.

Một bên đă ḥa với nước Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp mà độc-lập 168 , một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ư để cầu viện, bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đ́nh ta vậy.

4. T́nh-thế nước Tàu.

Xưa nay ta vẫn công nhận nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống. Hễ khi nào trong nước có việc biến- loạn và vẫn trông mong nước Tàu sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước bên Tây-âu mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà t́nh thế nước Tàu th́ rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19 (1839) tức là năm Minh-mệnh thứ 20 bên ta, v́ việc cấm thuốc nha- phiến ở Quảng-đông thành ra có chiến-tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước Anh đánh phá thành Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Vua Đạo Quang phải nhận những điều ḥa-ước năm nhâm-dần (1842) làm tại Nam-kinh, nhường đảo Hương-cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng-châu, Hạ-môn, Phúc-châu, Ninh-ba và Thương-hải ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.

Cuộc ḥa-ước ở Nam-kinh định xong, các nước ngoại-dương vào buôn-bán ở nước Tàu và đặt lĩnh-sự ở Quảng-châu, Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Đến năm Hàm-phong thứ 8 (1858), tức là năm Tự-đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp kư tờ ḥa-ước với nước Tàu, đặt sứ-thần ở Bắc-kinh. Đoạn nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến-tranh với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải-khẩu, rồi kéo lên đánh lấy Bắc-kinh. Vua Hàm-phong phải nhận những điều ḥa-ước năm canh-thân (1860) làm tại Thiên-tân.

Từ đó nước Tàu bị các nước khác sách-nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác ǵ cái nhà lớn đă bị hẩm-nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê-mộng là nước ấy c̣n cường thịnh, có thể giúp ta được trong khi nguy-hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp đă lấy Bắc-kỳ rồi, người ḿnh c̣n trông cậy ở quân cứu-viện của nước Tàu. Phương-ngôn ta có câu rằng " Chết đuối vớ phải bọt " thật là đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, th́ trước hết họ hăy cứu lấy họ đă. Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ-phu trong nước ta, ai là người hiểu rơ cái t́nh-thế ấy ? Cho nên không những là ta không chịu cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại c̣n làm những điều ngang-ngạnh để cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ lúc ấy cũng không so tránh được cái lỗi của ḿnh vậy.

5. Sự giao-thiệp với nước Pháp.

Từ khi ông Philastre ra điều- đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà-nội, đợi cho đến ngày kư ḥa-ước th́ chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài-g̣n, giao quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La- Đăng). Thiếu-tá có đem binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương và Quảng-yên.

Đến khi tờ ḥa-ước và tờ thương-ước đă kư xong th́ Triều-đ́nh sai ông Nguyễn tăng Doăn ra Bắc-kỳ để cùng thiếu-tá Dujardin chọn đất ở Hà- nội và ở Ninh-hải (Hải-pḥng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp đóng, và lại sai quan thượng-thư bộ Hộ là ông Phạm phú Thứ ra làm Hải-an tổng-đốc sung chức tổng-lư thương-chánh đại-thần, cùng với ông Nguyễn tăng Doăn và ông Trần hi Tăng bàn định việc thương-chánh ở Bắc- Kỳ.

Tháng 6 năm ất-hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm-sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh-sự ở Hải-pḥng, và ông Kergaradec (Kê-la-đích) làm lĩnh-sự ở Hà-nội. Triều-đ́nh sai ông Nguyễn thành Ư vào làm lĩnh sự ở Sài-g̣n.

Ông Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm bính-tí (1876), th́ cáo bịnh xin về, ông Philastre ra thay.

Triều-đ́nh lúc bấy giờ cũng đă hiểu rằng hễ không theo tân-học th́ không tiến-hóa được, cho nên mới định cho người đi du học. Năm mậu-dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu-xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn thành Ư và ông Nguyễn tăng Doăn đem đồ đi đấu-xảo và cho người sang học ở Toulon.

Nhưng v́ năm tân-tị (1881), Triều-đ́nh lại sai quan Lễ-bộ thị-lang là Phạm Bính sang Hương-cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát- lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm-la và sang Tàu mà không cho sứ-thần nước Pháp biết, bởi vậy chính-phủ Pháp lấy những điều đó mà trách Triều-đ́nh ở Huế không theo ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).

Khi ông Philastre c̣n ở Huế, v́ ông ấy là một người công chính và lại có học chữ Nho, cho nên Triều-đ́nh ta trọng-đăi và có điều ǵ trang-trải cũng c̣n dễ. Từ năm kỷ-măo (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự giao- thiệp càng ngày càng khó thêm: phần th́ v́ người ḿnh không biết cách giao thiệp với ngoại-quốc, phần th́ cái quyền-lợi nước ta và nước Pháp lúc bấy giờ tương-phản với nhau, cho nên hai bên không có ḷng tin-cậy nhau, thành ra sự giao-thiệp không được thân-thiết lắm.

Vả về sau, sự cai-trị ở Nam-kỳ đă thành nếp, giặc giă đă yên cả; ở bên Pháp th́ thế lực đă mạnh, và đă có nhiều người bàn đến việc bên Viễn- đông này và việc bảo-hộ ở Bắc-kỳ. Lại nhân có những nước I-ta-ly. I-pha- nho, Anh-cát-lợi và Hoa-kỳ muốn sang thông-thương với nước Nam, mà có ư không muốn chịu để quan nước Pháp phân-xử những việc can-thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn lập hẳn cuộc bảo-hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan hải-quân khiêm lĩnh chức thống-đốc ở Nam-kỳ, mà sai quan văn sang sung chức ấy để trù-tính mọi việc.

Tháng 6 năm kỷ-măo (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang nhận chức ở Sài-g̣n và ông Rheinart lại sang làm khâm-sứ ở Huế để thay cho ông Philastre.

Bắc-kỳ th́ người Pháp đă ra vào buôn-bán, nhưng v́ quan ta không biết lo sự khai hóa, việc thông thương không được tiện-lợi, và ở mạn thượng-du th́ có quân cờ đen tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ thực chúng nó làm ǵ cũng không ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính-phủ Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra Bắc- kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn-bán, kỳ thực là ra kinh-doanh việc ở vùng ấy.

 

CHƯƠNG XI

Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ II

 

1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội

2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai

3. Việc cầu cứu nước Tàu

4. Quân Pháp lấy Nam Định

 

1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội.

- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169, nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882), một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng : đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của quân An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế th́ quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của người nước Pháp.

Được ít lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải Pḥng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.

2. Hạ thành Hà-nội lần thứ hai.

Quan tổng đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đăi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo, cho nên mới sai sửa dọn thành tŕ để pḥng bị. Đại tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ư không bằng ḷng, bèn quyết ư đánh thành.

Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan vơ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8 giờ th́ quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ th́ thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, c̣n các quan th́ bỏ chạy cả.

Lúc tiếp được thư của đại tá, th́ ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, th́ quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai t́m ông Tôn Thất Bá về quyền lĩnh mọi việc 170.

Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm t́m cách chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ư của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành tŕ. Triều đ́nh bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng đốc là Trần Đ́nh Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Hai bên thương nghị măi. Đại tá đ̣i 4 khoản :

1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ

2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước Pháp

3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ

4 - sửa lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người Pháp cai quản.

Bọn ông Trần Đ́nh Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đ́nh hội nghị, các quan có nhiều người nói rằng : nước ta trong c̣n có Lưu Vĩnh Phúc, ngoài c̣n có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả lời không chịu.

Đến tháng 10 th́ ông Trần Đ́nh Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại làm Hà Ninh tổng đốc.

3. Việc cầu-cứu nước Tàu.

Triều đ́nh ta bấy giờ nghĩ nước Pháp cố ư chiếm đoạt, và lại tưởng rằng nước Tàu có thể bênh vực được ḿnh, cho nên mới sai ông Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua

là người ḿnh có hay có tính ỷ lại, cho nên mới đi kêu cầu người ta, chứ không biết rằng người Tàu giữ nước Tàu không xong c̣n đi cứu ai được. Tuy vậy, không những người Tàu không cứu được ḿnh mà lại c̣n muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước ḿnh. Xem như khi thành Hà nội thất thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng : "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến th́ ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà". Bởi vậy triều đ́nh nhà Thanh mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.

4. Quân Pháp lấy Nam-định.

Chính phủ Pháp trước cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đ́nh ở Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam Kỳ, để thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá Henri Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.

Nguyên trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại tiếp được 750 người nữa, đại tá bèn để đại úy Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà Nội, c̣n bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày 28 tháng 2 năm Quư Mùi (1883), th́ quân Pháp khởi sự đánh thành. Đánh từ sáng dến trưa th́ quân Pháp vào thành; quan tổng đốc Vũ Trọng B́nh bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ Hồ Bá Ôn bị thương.

5. Đại tá Henri Rivière bị chết.

Quan ta thấy quân Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu, bèn quyết ư đổi thế ḥa ra thế công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chực sang đánh Hà Nội. Đại úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh đuổi, quan quân phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan tiết chế Hoàng Kế Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức, để đánh quân Pháp.

Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 th́ đại tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.

Sài G̣n được tin đại tá Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson liền điện về cho chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris hạ nghị viện c̣n đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo ở Sài G̣n về, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu rưỡi phật lăng để chi tiêu về việc binh phí, và lại thuận cho một viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lư mọi việc ở Bắc Kỳ.

Chính phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục quân thiếu tướng Bouet ở Nam Kỳ ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Hải quân thiếu tướng Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và lại cử ông Harmand là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.

Ngày mồng 3 tháng 5, th́ thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến Hải Pḥng. Lập tức thiếu tướng sửa sang sự chống giữ ở Hà Nội và Nam Định, và lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm tiền quân.

Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, Hải Pḥng và ở Nam Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.

Quân ta bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái phá th́ xô đẩy nhau mà chạy; c̣n quân của nhà vua th́ không có luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay th́ ít và xấu. Như thế th́ chống làm sao được với quân Pháp là quân đă quen đánh trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?

Bấy giờ cuộc ḥa đổi ra chiến, súy phủ ở Sài G̣n đuổi quan lĩnh sự Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ư về Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, th́ vua Dực Tông mất.

Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm Quư Mùi (1883), trị v́ được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng Đế.

 

CHƯƠNG XII

Cuộc Bảo Hộ Của Nước Pháp

 

1. Sự phế lập ở Huế : vua Hiệp Ḥa.

2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An

3. Ḥa ước năm Quư Mùi (1883).

4. Việc ở Bắc Kỳ.

5. Vua Hiệp Ḥa bị giết.

6. Vua Kiến Phúc.

7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.

8. Lấy tỉnh Sơn Tây.

9. Lấy thành Bắc Ninh.

10. Lấy Hưng Hóa.

11. Lấy Tuyên Quang.

12. Ḥa ước Fournier.

13. Ḥa ước Patenôtre tháng 6 năm Giáp Thân.

14. Việc Triều chính ở Huế.

15. Vua Hàm Nghi.

 

1. Sự phế lập tại Huế: Vua Hiệp Ḥa.

Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông th́ mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn c̣n, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp đặt.

Ấy cũng v́ thời đại biến đổi mà người ḿnh không biết biến đổi, cho nên nước ḿnh mới thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc Kỳ th́ rối loạn, ở trong Triều th́ quyền thần chuyên chế, bởi vậy cho nên lại sinh ra lắm việc khó khăn 171 .

Vua Dực Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông Dục Đức 172, phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên giang quận công, ba là ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di chiếu nói rằng : đức tính ông Dục Đức không đáng làm vua, mà ư ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng v́ ông ấy c̣n bé, mà việc nước cần phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài lại cho Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.

Được ba ngày th́ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều thần ngơ ngác, không ai dám nói ǵ, chỉ có quan ngự sử Phan Đ́nh Phùng đứng dậy can rằng : "Tự quân chưa có tội ǵ mà làm sự phế lập như thế th́ sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền đem bắt giam Phan Đ́nh Phùng, rồi cách chức đuổi về.

Lạng quốc công, húy Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Ḥa. C̣n ông Dục Đức th́ đem giam ở Dục Đức giảng đường.

2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An.

Vua Hiệp Ḥa vừa lập xong, th́ viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải Pḥng, rồi hội hải quân thiếu tướng Courbet và lục quân thiếu tướng Bouet, để bàn định mọi việc.

Định một mặt th́ thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài; một mặt th́ thiếu tướng Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để bắt triều đ́nh phải nhận nước Pháp bảo hộ.

Ngày 12 tháng 7, thiếu tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Ṿng. Hai bên đánh nhau non ba ngày trời. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở Đồn Phùng. Nhưng v́ lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp không tiến lên được.

Ngày 16, lục quân trung tá Brionval ở Hải Pḥng đem quân lên lấy thành Hải Dương.

Quân Pháp tuy thắng, nhưng quân Cờ Đen c̣n mạnh, nên chi thiếu tướng Bouet phải điện về Paris xin thêm quân tiếp ứng.

Trong khi lục quân thiếu tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc Kỳ, th́ hải quân thiếu tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy th́ thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân th́ nhảy xuống sông tự tử.

3. Ḥa ước năm quư-mùi (1883).

Triều đ́nh thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin ḥa. Viên toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị ḥa. Triều đ́nh sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đ́nh Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.

Ngày 23 tháng 7 th́ tờ ḥa ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De Champeaux, ông Trần Đ́nh Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng kư.

Tờ Ḥa ước có 27 khoản : - Khoản thứ nhất nói rằng : Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc ǵ giao thiệp với ngoại quốc th́ phải do nước Pháp chủ trương. - Khoản thứ hai : Tỉnh B́nh Thuận thuộc về Nam Kỳ. - Khoản thứ ba : Quân Pháp đóng giữ ở núi đèo Ngang và ở Thuận An. - Khoản thứ sáu : Từ tỉnh Khánh Ḥa ra đến đèo Ngang th́ quyền cai trị thuộc về Triều đ́nh.

Những khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. C̣n đất Bắc Kỳ kể từ đèo Ngang trở ra th́ nước Pháp đặt công sứ 173 ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.

Từ ḥa ước kư xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao, nghĩa là mới tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ, viên toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ để kinh lư việc đánh dẹp.

4. Việc ở Bắc Kỳ.

Triều đ́nh ở Huế nhận ḥa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và băi quân thứ ở các nơi.

Bấy giờ ở Bắc Kỳ có quan nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng ở Bắc Ninh, lại có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn Phùng.

Triều đ́nh tuy có chỉ ra truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng quan ta c̣n nhiều người muốn ỷ nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp, cho nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ măi không xong được.

5. Vua Hiệp Ḥa bị giết.

Trong Huế th́ vua Hiệp Ḥa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết.

Hai người thấy vua có ḷng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi bắt vua Hiệp Ḥa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Ḥa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.

Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đă giết vua Hiệp Ḥa rồi, lại thấy quan Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ư ḿnh, cũng sai người giết nốt.

6. Vua Kiến Phúc.

Ngày mồng 7 tháng 10 năm Quư Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc ǵ cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định cả.

Bắc Kỳ th́ Hoàng Kế Viêm c̣n đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản c̣n đóng tại Bắc Ninh, cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở Huế lấy điều đó trách Triều đ́nh. Triều đ́nh lại có dụ ra truyền cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về kinh.

Các quan bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đ́nh, rồi hoặc đi chiêu mộ những người nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri phủ Kiến Xương Hoàng Văn Ḥe bỏ chức mà đi; quan tán tương quân vụ ở Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống giữ với quân Pháp.

7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.

Viên Toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính khố xanh, để pḥng giữ các nơi, và băi lính cờ vàng của thiếu tướng Bouet đă cho mộ được mấy trăm, v́ những lính ấy hay cướp phá dân gian. Nhưng v́ viên Toàn quyền xâm vào quyền quan binh, cho nên thiếu tướng Bouet lấy làm bất b́nh.

Ngày mồng một tháng 8, thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai bên đánh nhau rất dữ. Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa được và lại có ư bất ḥa với viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền lại cho đại tá Bichot.

Được ít lâu, có quân tiếp ở Sài G̣n ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh B́nh.

8. Lấy Sơn Tây.

Ngày 25 tháng 9, chính phủ Pháp điện sang cho hải quân thiếu tướng Courbet làm thống đốc quân vụ, kiêm chức Toàn quyền ở Bắc Kỳ. Viên nguyên Toàn Quyền Harmand xin về Pháp.

Từ đó việc binh nhung, việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay thiếu tướng Courbet. Trong khi thiếu tướng c̣n phải sửa sang mọi việc và đợi quân tiếp ở Pháp sang th́ quan ta đem quân về đánh Hải Dương, đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân, bèn bắt đầy vào Côn Lôn.

Đến khi thiếu tướng tiếp được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ bấy giờ được hơn 9000 người, thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả thủy bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ Đen chống giữ hăng lắm, nhưng quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, đều bỏ thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng phải chạy theo. Trận ấy quân Pháp bị 83 người tử trận và 319 người bị thương.

9. Lấy thành Bắc Ninh.

Quân Pháp tuy đă lấy dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông, thiếu tướng phải chờ có quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên Pháp lại sai một lữ đoàn174 sang Bắc Kỳ và sai lục quân trung tướng Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho hải quân thiếu tướng Courbet.

Ngày 16 tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức, thiếu tướng Courbet được thăng lên hải quân trung tướng và lại ra coi hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn 6 ngh́n người và 10 đội pháo thủ, chia làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà th́ đóng ở Hà Nội, có thiếu tướng Brière de l'Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà, th́ đóng ở Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier coi.

Bấy giờ con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân ta đóng. Thống tướng Millot bèn truyền lệnh cho thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân qua sông Hồng Hà, rồi theo sông Đuống (tức là sông Thiên Đức) đi về phía đông. C̣n toán quân của thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, để tiếp vào với toán quân của thiếu tướng Brière de l'Isle, rồi cả thủy bộ theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.

Hai bên khởi sự đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, th́ lấy được Đáp Cầu. Quân Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày 16, th́ quân Pháp vào thành Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 bị thương mà thôi.

Thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23 th́ lên lấy thành Thái Nguyên.

10. Lấy Hưng Hóa. Hạ dược thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp quay về mạn sông Hồng Hà để đánh lấy Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière de l'Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên khởi sự đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều ngày hôm ấy th́ quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng ngày 16, th́ thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nh́ tiếp đến, cả hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy thế không chống được, bèn đốt cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hóa rút lên mạn ngược. C̣n bọn ông Hoàng Kế Viêm th́ kéo lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 th́ quân Pháp vào thành Hưng Hóa. Lập tức thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.

11. Lấy Tuyên Quang.

Lấy xong Hưng Hóa rồi, chỉ c̣n có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen c̣n đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi ḍ xem sông Lô Giang tàu thủy lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Tŕ khởi hành từ hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 th́ đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ đồng hồ th́ quân Cờ Đen bỏ thành chạy.

12. Ḥa ước Fournier.

Bấy giờ tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản cả, nhưng quân Tàu c̣n đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp tên là Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc Trực lệ là Lư Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện việc ḥa với nước Tàu. Détring điện về cho Lư Hồng Chương biết. Hai bên đều có ư muốn ḥa cho êm chuyện.

Chính phủ Pháp bèn sai trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lư Hồng Chương nghị ḥa. Đến ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), th́ lập xong tờ ḥa ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân đóng ở Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận nhận tờ giao ước của nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam.

13. Ḥa ước Patenôtre tháng 5 Giáp Thân (1884).

Tờ giao ước kư xong th́ trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc Kỳ biết sự ḥa ước đă xong, mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.

Lúc bấy giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang, đi qua đến Sài G̣n, chính phủ ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế sửa lại tờ ḥa ước của ông Harmand đă kư ngày 23 tháng 7 năm Quư Mùi (1883).

Ông Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đ́nh thương nghị mấy ngày, rồi đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thuận Duật và ông Tôn Thất Phan kư tờ ḥa ước mới. Cả thảy có 19 khoản, đại để th́ cũng như tờ ḥa ước của ông Harmand, chỉ đổi có mấy khoản nói về tỉnh B́nh Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.

Tờ ḥa ước kư xong, ông Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre hội cả các quan, bắt đem cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam thụt, bễ nấu lên mà hủy đi, nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.

Ḥa ước kư năm Giáp Thân là năm 1884, là ḥa ước của Triều đ́nh ở Huế kư với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần ḥa ước năm 1884 cũng mất cả ư nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đ́nh ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.

Nước Việt Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các nước khác. Văn hóa, lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi kỳ có một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là nước.

Một nước mà tam phân ngũ liệt ra như thế, thật là một mối đau ḷng cho người Việt Nam là dân một nước đă có một lịch sử vẻ vang hàng mấy ngh́n năm.

14. Việc Triều Chính ở Huế.

Triều đ́nh lúc bấy giờ việc ǵ cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.

Tôn Thất Thuyết là người tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài năng th́ kém, mà lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết. Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng Trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có tính tham lam và lại tàn nhẫn.

Hai ông ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại th́ ở tay ông Tường, binh quyền th́ ở tay ông Thuyết. Nhưng mà thường việc ǵ cũng do ở ông Thuyết xui khiến cả. Trong Triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan, ai có điều ǵ trái ư hai ông ấy là bị giam ở chấp hay là chém giết cả.

Ông Thuyết th́ mộ quan phản nghĩa để giữ ḿnh, và thường hay tiếm dụng nghi vệ của vua; ông Tường th́ chịu tiền hối lộ của những người Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không tiêu th́ phải tội. Vả lúc ấy vua hăy c̣n trẻ tuổi chưa biết ǵ, cho nên hai ông ấy lại càng chuyên chế lắm nữa.

Vua Kiến Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) th́ phải bệnh mất 175, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng Đế.

15. Vua Hàm Nghi.

Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh Mông lên nối ngôi th́ phải. Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập người lớn tuổi, sợ ḿnh mất quyền, bèn chọn người con ông Chánh Mông là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.

Viên Khâm sứ Rheinart trước đă tư giấy sang cho Triều đ́nh Huế rằng : Nam triều có lập ai làm vua, th́ phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết.

Viên Khâm sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức tham mưu là đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế, bắt Triều đ́nh phải xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua. Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ. Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng 6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Xong rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.

CHƯƠNG XIII

Chiến Tranh Với Nước Tàu

1. Trận Bắc Lệ.

2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.

3. Trận đồn Chữ và đồn Kép.

4. Trận Yên Bạc.

5. Lấy thành Lạng Sơn.

6. Thành Tuyên Quang bị vây.

7. Mất thành Lạng Sơn.

8. Ḥa ước Thiên Tân.

 

1. Trận Bắc Lệ.

Tại Bắc Kỳ th́ quân Pháp tưởng là việc ḥa ước với nước Tàu đă xong, chỉ c̣n đợi ngày quân Tàu rút về, th́ lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ ḥa ước của trung tá Fournier kư ở Thiên Tân, th́ vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, th́ thống tướng Millot sai trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng một tháng 5 nhuận th́ quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp sang sông Thương, th́ quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị thương. Được một chốc bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đă biết có ḥa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoăn lại 6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng : trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về th́ quân Pháp cứ việc tiến lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, th́ quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, c̣n những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.

Thống tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá rồi, thiếu tướng Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và quân ở bên Pháp sang.

2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.

Chính phủ bên Pháp tiếp được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải quân trung tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc Kinh đ̣i nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết măi, đến ngày 29 tháng 6, th́ chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đ̣i nước Tàu 80 triệu phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba tháng 7 năm Giáp Thân (1884), th́ hải quân trung tướng được lệnh khởi sự đánh Phúc châu.

Trung tướng truyền lệnh cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá các xưởng làm binh khí ở Phúc Châu, và lại đánh cả chiến thuyền của Tàu đóng ở trong sông Mân Giang. Trung tướng bắn phá ở Phúc Châu rồi đem binh thuyền ra vây đánh đảo Đài Loan.

Hải quân của Pháp vây Đài Loan và các cửa bể măi đến tháng 6 năm Ất Dậu (1885), nước Tàu kư ḥa ước rồi, mới thôi.

3. Trận Đồn Chũ và Đồn Kép.

Trong khi hải quân của Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp măi không thấy sang, đến trung tuần tháng 7, thống tướng Millot bèn cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l'Isle.

Được ít lâu, thiếu tướng Brière de l'Isle tiếp được 6 ngh́n quân ở Pháp sang, số quân bấy giờ cả thảy được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn chia ra làm 4 đạo để đi đánh quân Tàu và quân ta; thiếu tá Servière đem một đạo quân lên mạn Đông Triều; trung tá Donnier đem một đạo quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung tá Defoy đem một đạo quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu tướng De Négrier th́ đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8, quân Pháp tiến lên đóng đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu chống lại được một ngày, mà quân hai bên đánh nhau ở đồn Kép hăng hơn cả. Quân Tàu chết có đến 2 000 người; c̣n bên quân Pháp th́ thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân, 27 người tử trận và 100 người bị thương. Quân Tàu chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép, đồn Bảo Lạc và đồn Chũ chạy lui trở về.

Mạn đông bắc, quân Tàu đă lui, thiếu tướng Brière de l'Isle bèn sai đại tá Duchesne đem 700 quân lên đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn Tuyên Quang và lại sai trung tá Berger đem quân lên giữ Thái Nguyên.

4. Trận Yên Bạc.

Quân Tàu tuy đă thua ở đồn Chũ và đồn

Kép, nhưng vẫn c̣n đóng ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung tuần tháng 11, quân Tàu lại về đóng ở An Châu, thiếu tướng De Négrier đem quân bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn sông Lục Nam lên đánh quân Tàu ở núi Bóp. Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân Pháp thiệt hại mất 19 người tử trận và 65 người bị thương.

5. Lấy thành Lạng Sơn.

Đầu năm 1885 là quăng tháng 11 năm Giáp Thân, thiếu tướng Brière de l'Isle được thăng chức trung tướng và lại tiếp tục được hơn 1 000 quân ở bên Pháp sang. Qua tháng chạp ta, trung tướng mộ non 7 000 phu để tải đồ và đem 7 500 quân, chia ra làm 2 đạo để đánh Lạng Sơn. Đạo thứ nhất th́ thuộc quyền thiếu tướng De Négrier, đạo thứ nh́ th́ thuộc quyền đại tá Giovanninelle.

Con đường đi từ Kép đến Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, mà chỗ nào cũng có quân Tàu đóng, cho nên quân Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ đánh lại, để lấy đồn Tuần Muội 176. Thiếu tướng De Négrier trước đă lên đồn Kép, dương thanh thế tiến binh, rồi lẻn về đồn Chũ đem quân qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn Sung, rồi sang lấy đồn Tuần Muội. Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân Pháp đă chặn mất đường về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh tràn lên đến Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp th́ lấy được thành. Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử trận và 22 người bị thương.

Lấy xong thành Lạng Sơn, quân Pháp nghỉ ngơi mấy ngày, rồi lại tiến lên đánh Đồng Đăng. Quân Tàu chạy phân làm hai ngả : một ngả chạy lên Thất khê, một ngả chạy lên ải Nam Quan về Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885), th́ thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.

6. Thành Tuyên Quang bị vây.

Khi quân Pháp đi đánh mặt Lạng Sơn, th́ quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng Hà và sông Lô Giang lại kéo về đánh Tuyên Quang. Bấy giờ quân Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600 người, thuộc quyền thiếu tá Dominé. Từ đầu tháng mười năm Giáp Thân (1884), quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đă kéo về đóng ở gần phủ Yên B́nh và phủ Đoan Hùng. Đến tháng 11 th́ quân Tàu giữ các chỗ hiểm yếu, để chặn đường không cho quân Pháp ở trung châu lên tiếp ứng, rồi Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên đánh thành Tuyên Quang; đánh măi đến 15 tháng chạp mới vây được thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế dể phá thành, mà quân Pháp ở trong thành cũng cố hết sức để chống giữ.

Lúc ấy quân Pháp đă lấy được thành Lạng Sơn rồi, trung tướng Brière de l'Isle liền để thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng 2 tết đem quân đi đường đồn Chũ về Hà Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên Quang. Ngày 13 tháng giêng năm Ất Dậu th́ lên đến Đoan Hùng rồi sang sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho đến ngày 16, mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng nhiều, nhưng quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút lên mạn ngược.

7. Mất thành Lạng Sơn.

Thành Tuyên Quang vừa giải vây xong, th́ ở Lạng Sơn lại khởi sự giao chiến. Quân Tàu tuy đă thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng đại đồn ở Long Châu, chực sang đánh lấy lại Lạng Sơn.

Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu. Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8, thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, c̣n những người bị thương th́ đem về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35 000 người.

Ngày 13 th́ quân Tàu tràn sang đánh Kỳ Lừa, thiếu tướng De Négrier bị thương nặng, phải giao quyền lại cho trung tá Herbinger để chống với quân địch. Nhưng bấy giờ quân Tàu sang đông quá, trung tá phải bỏ thành Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và đồn Kép.

Trung tướng Brière de l'Isle tiếp được tin bại trận ở Lạng Sơn, liền điện cho chính phủ Pháp để xin tiếp quân sang cứu viện, và lập tức đi tàu lên đồn Chũ để pḥng sự chống giữ.

Quân Tàu lấy được Lạng Sơn rồi chia quân giữ các chỗ hiểm yếu, chứ không dám đuổi xa. C̣n ở mạn sông Hồng Hà, th́ quân Cờ Đen và quân của các quan cựu thần th́ về đánh phá ở mạn gần Hưng Hóa và Lâm Thao.

8. Ḥa Ước Thiên Tân.

Bên Pháp tiếp được điện tín của trung tướng Brière de l'Isle đánh về nói quân Pháp phải bỏ thành Lạng Sơn, th́ ḷng người náo động cả lên. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn kư tờ giao ước đ́nh chiến với nước Tàu. Rồi một mặt th́ truyền lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre lập tờ ḥa ước với chính phủ Tàu; một mặt th́ cho quân sang tiếp ứng Bắc Kỳ và sai trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân sự vụ, trung tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với thiếu tướng Jamont và thiếu tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.

Chính phủ Tàu thấy chiến tranh không có lợi, bèn thuận kư tờ ḥa ước, và lập tức sai quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu (1883) là năm Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre và ông Lư Hồng Chương kư tờ ḥa ước, đại lược nói rằng nước Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt Nam, và lại ḥa thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp th́ trả lại các chỗ mà hải quân đă chiếm giữ ở mặt bể, và thuận bỏ cái khoản tiền binh phí không đ̣i nữa. Ngày hôm quan hai nước kư tờ ḥa ước ở Thiên Tân, th́ hải quân trung tướng Courbet phải bệnh mất ở gần đảo Đài Loan. Hải quân của Pháp cũng chiếu theo điều ước mà rút quân về.

 

CHƯƠNG IV

Loạn ở Trung Kỳ

1. Thống tướng De Courcy vào Huế.

2. Triều đ́nh chạy ra Quảng Trị.

3. Nguyễn Văn Tường ra thú.

4. Xa giá các bà Thái hậu về Khiêm Lăng.

5. Quân Cần vương.

6. Vua Đồng Khánh.

7. Thống tướng De Courcy phải triệt về.

8. Vua Hàm Nghi ở Quảng B́nh.

9. Ông Paul Bert.

10. Lập Tổng đốc Toàn Quyền.

1. Thống Tướng De Courcy vào Huế.

 

Việc đánh nhau với Tàu xong, th́ tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành. Nhưng ở các nơi, những quan cũ ta c̣n chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế th́ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường.

Tháng 9 năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, pḥng khi có việc ǵ th́ đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng v́ các ông ấy có ư muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đă chiếm giữ Mang Cá ở thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.

Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự ḥa ước với Tàu đă xong, bởi vậy thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đ́nh ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đă nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp, đă biết t́nh h́nh ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5 th́ thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đ́nh cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đ̣i hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.

Hai ông ấy lúc bấy giờ c̣n đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay ḿnh cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đă tức giận lắm, lại cứ như lời mấy ông quan cựu thần nói chuyện, th́ ông Thuyết là quan văn làm tướng vơ, nhưng h́nh dáng th́ không được thanh tú : đầu th́ trọc, người th́ béo mà đen, cách đi đứng th́ không được chững chạc, sự giao thiệp và đối đáp th́ không sành. Xưa nay th́ chỉ lấy quyền thế mà đè nén người ta, hơi một tí th́ lấy sự chém giết làm oai. Đến khi phải ra theo lễ bang giao mà đối với một người tướng ngoại quốc như ông De Courcy th́ trong bụng khiếp sợ không biết ra thế nào.

Ông Tường th́ là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ có một ḿnh ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy mà thôi, c̣n ông Thuyết th́ cáo bệnh không sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.

Tôn Thất Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần th́ tức giận, phần th́ sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xuôi khiến bèn quyết ư sửa soạn để đánh nhau.

Thống tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, th́ phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đ́nh thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, c̣n quân lính th́ xin đi cửa hai bên, thống tướng nhất định không chịu.

2. Triều đ́nh chạy ra Quảng Trị.

Trưa hôm 22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận.

Các quan thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ư tứ ǵ mà khinh mạn Triều đ́nh đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi th́ sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn ǵ chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho đến mới định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.

Chiều hôm ấy thống tướng làm tiệc đăi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, th́ súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất th́nh ĺnh nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, th́ quân ta thua chạy177. Nguyễn Văn Tường cho người vào điện tâu xin rước vua và các bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng 178. Khi xa giá ra gần đến cửa hữu th́ gặp Nguyễn Văn Tường đă chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa Thiên Mụ, th́ Tôn Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá quay trở về Trường Thi 179.

Lúc bấy giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian th́ trẻ cơng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng t́m đường tránh cho khỏi chỗ binh đao.

Xa giá đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, th́ Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường, nói rằng quân Pháp đă sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản 180 ra rước xa giá vào Hành cung và đặt quân lính để pḥng giữ.

Trận đánh nhau ở Huế, quân Pháp mất 16 người và 80 người bị thương. Sách tây chép rằng quân ta chết đến vài ngh́n người, c̣n bao nhiêu khí giới lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.

3. Nguyễn Văn Tường ra thú.

Tại Huế, cả buổi sáng hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành tŕ và giữ ǵn các nơi. C̣n quan ta, người th́ đi theo xa giá, người th́ ẩn nấp một nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard, rồi nhờ ông ấy đưa ra thú với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn Tường ra ở Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi việc.

4. Xa giá các bà thái hậu về Khiêm Lăng.

Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh để cho yên ḷng người. Nhưng lúc ấy vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng thái phi là vợ thứ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết ǵn giữ, sớ của Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho vua biết. Ai cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi phục. Đức Từ Dụ và hai bà Thái hậu nhất định không chịu đi.

Ngày 27, Tôn Thất Thuyết nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại Quảng Trị và xin rước vua lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào lạy ba bà Thái hậu : t́nh ly biệt, nỗi sầu thảm, kể sao cho xiết ! Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, th́ bọn nội giám đều trở lại nói rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, th́ tam cung mới tiếp được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về Huế, mọi việc đă thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua trở lại để cùng về Huế, nhưng t́m măi không biết vua ở đâu, chỉ tiếp được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói Nguyễn Văn Tường phản trắc nọ kia, xin đừng có nghe. Nguời bàn đi, kẻ bàn lại, ai nấy phân vân chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn Tường ra giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ư về Kinh, định ngày mồng 4 th́ lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ giá. Đến chiều tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm cung. Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và kể t́nh mọi việc.

Trong khi vua c̣n đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc, giao quyền binh bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux, để băi việc binh lính của ta đi, và gọi quan kinh lược ở Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là Phan Đ́nh B́nh về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. V́ hai ông ấy ở Bắc Kỳ đă hiểu mọi việc và đă biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên thống tướng đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp ư nhau, Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.

5. Quân Cần Vương.

Tôn Thất Thuyết ở Quảng B́nh làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, c̣n tự B́nh Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo. Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.

Thống tướng De Courcy thấy chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội các tướng lại để bàn sự đánh dẹp. Thống tướng đỉnh sai đại tá Pernot đem 1 500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết, lại sai thiếu tướng De Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa dánh vào. Nhưng chính phủ ở Paris điện sang không cho thống tướng khởi sự dùng đại binh, và lại nhân lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp chết hại đến ba bốn ngh́n người, bởi vậy cho nên việc dùng binh phải đ́nh lại.

Tại Huế th́ măi không ai biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đ́nh th́ mỗi ngày một rối, việc lập vua mới th́ tuy rằng đă định rồi, nhưng c̣n lôi thôi chưa xong.

Đến ngày 27 tháng 7, vừa hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường, vả bấy giờ ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn Văn Tường xin thống tướng đem trị tội. Bởi vậy sang ngày 28 thống tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất Thuyết, đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu th́ mất, phải ném xuống bể. Nguyễn Văn Tường th́ sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở Thái B́nh Dương, được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê nhà.

6. Vua Đồng Khánh.

Thống tướng De Courcy đày bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ về cùng với Phan Đ́nh B́nh coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng lại sai ông De Champeaux lên Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông Chánh Mông là Kiên giang quận công lên làm vua.

Ngày mồng 6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.

Vua Đồng Khánh tính hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được ḷng người Pháp; đ́nh thần th́ nhiều người đă biết theo chính sách của bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn. Nhưng vua Hàm Nghi c̣n ở mạn Quảng B́nh, kéo cờ nghĩa để chống nhau với quân Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ, ḷng người c̣n tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh B́nh Thuận trở ra, chỗ nào cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.

Tại Quảng Nam th́ bọn thân hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn pḥng sứ là Trần Văn Dự làm chủ, rồi những tỉnh Phú Yên, B́nh Định, B́nh Thuận đều noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có các ông Trương Đ́nh Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng B́nh có quan nguyên tri phủ là Nguyễn Phạm Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh 181; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn Xuân Ôn và

quan sơn pḥng sứ Lê Doăn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người ấy đều xướng lên việc cần vương. đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện, và đốt phá những làng có đạo. Tại ngoài Bắc th́ các quan cựu thần là quan đề đốc Tạ hiện, quan tán tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Băi Sậy, rồi đi đánh phá ở mạn trung châu, c̣n ở mạn thượng du, th́ ở chỗ nào cũng có quân giặc Tàu quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.

7. Thống tướng De Cource phải triệt về.

Thống tướng De Courcy thấy ở ngoài Bắc có lắm việc, bên để thiếu tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội kinh lư mọi việc. Nhưng v́ thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, cho nên công việc càng ngày càng khó thêm. Tại Pháp th́ có nhiều người không muốn giữ đất Bắc Kỳ, có ư muốn băi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, thủ tướng nước Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75 triệu phật lăng để chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng để xét việc ấy. Hội đồng định rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu th́ đảng theo chính phủ được 274 phiếu, và đảng phản đối với chính phủ được 270, nghĩa là đảng muốn giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong nghị viện có nhiều người không hợp ư ḿnh bèn xin từ chức.

Ông Freycinet lên làm thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn điện sang triệt về Pháp, giao binh quyền lại cho trung tướng Warnel, và sai ông Paul Bert là quan văn sang sung chức thống đốc, để kinh lư mọi việc ở nước Nam.

8. Vua Hàm Nghi ở Quảng B́nh.

Bấy giờ tuy ở Huế đă lập vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần c̣n có nhiều người theo pḥ vua Hàm Nghi, quyết chí chống lại với quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem quân ra đóng ở thành Quảng B́nh, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết thông với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá rất dữ. Đại tá Chaumont bèn để đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng B́nh, rồi trở về Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở thành Nghệ An, chia quân đi tuần tiễu các nơi.

Tôn Thất Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng B́nh, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu 182.

Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân183, hết sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.

Tháng giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ vào Nghệ An, rồi chia làm hai đạo : một đạo th́ thiếu tá Pelletier đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn Tuyên Hóa; một đạo th́ trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi vào đóng ở sông Gianh.

Tại Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở Minh Cầm, rồi trung tá Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân chống lại không nổi, phải tan cả.

Nhưng qua sang tháng hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống dốc Paul Bert đă sang đến nơi, chính sách đổi lại cả, cho nên mới triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng Khê, ở Roon và ở chợ Đồn mà thôi. Quân văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở về đóng ở các đồn cũ.

9. Ông Paul Bert.

Ngày mồng 5 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát về việc tài chính. Đến cuối tháng 3 th́ thống đốc vào yết kiến vua Đồng Khánh ở Huế, và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh lược đại sứ được quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc. V́ rằng ở ngoài Bắc vào đến Huế đường xá xa xôi, có việc ǵ phải tâu bẩm vào Bộ mất nhiều ngày giờ lắm, bởi vậy xin cho được tự tiện làm việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu về vua biết.

Thống đốc Paul Bert ở Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà Nội, rồi một mặt th́ lo đánh dẹp, một mặt th́ mở Pháp Việt học đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ư của thống dốc là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Nhưng cũng v́ thống đốc phải lo nghĩ

Chính phủ Pháp sai ông Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay ông Paul Bert.

10. Lập Tổng Đốc Toàn Quyền Phủ.

Nước Pháp đă lấy đất Nam Kỳ, lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở ra một cuộc thuộc địa lớn ở Viễn đông này; nhưng buổi đầu th́ mỗi xứ có một chức thủ hiến để coi riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ nước Pháp mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy xứ ở nước ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh Hợi (15 tháng 11 - 1887), th́ viên Tổng đốc toàn quyền mới, tức là viên Tổng đốc toàn quyền trước nhất, là ông Constant sang nhận chức ở Sài G̣n.

Từ đó ở các nơi như Nam Kỳ th́ có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao Miên th́ mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc kỳ và Lào th́ mỗi nơi có viên Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt; những việc ǵ quan hệ đến chính sách cả toàn cảnh th́ phải theo lệnh viên Tổng đốc toàn quyền mà thi hành.

 

CHƯƠNG XV

Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ

 

1. Việc đánh dẹp ở các nơi

2. Vua Đồng-khánh ra Quảng-B́nh

3. Hoàng kế Viêm ra quân thử mạn Quảng-B́nh

4. Lập đồn Minh-cầm

5. Vua Hàm-nghi bị bắt

6. Vua Thành-Thái

7. Sự đánh dẹp ở Bắc-kỳ

8. Việc Phan đ́nh Phùng

9. Ḷng yêu nước của người Việt-nam

 

1. Việc đánh dẹp ở các nơi.

Trong khi thống-đốc Paul Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, th́ ở Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải t́m cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn B́nh-thuận, Phú-yên th́ thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem lính tây và lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất B́nh-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng văn-thân ở Phú-yên và B́nh-định, bắt được cử-nhân Mai xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm bính-tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh-hợi (1887), th́ những tỉnh ở phía nam đất Kinh-kỳ đă dẹp yên.

2. Vua Đồng Khánh ra Quảng B́nh . Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.

Ngày 16 tháng 5 năm bính-tuất (1886), xa-gía ở Kinh đi ra, măi đến cuối tháng 7 mới tới Quảng-b́nh. Xa-gía đi đến đâu th́ đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống-cự, cho đến việc vua đi tuần-thú lần ấy, không có kết-qủa ǵ cả. Ra đến Quảng-b́nh th́ vua Đồng-khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường hải đạo trở về Huế.

3. Hoàng Kế Viêm Ra Quân Thử Mạn Quảng B́nh. Vua Đồng-khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục nguyên hàm cho Hoàng kế Viêm và phong cho làm Hữu-trực-kỳ An-phủ kinh-lược đại-sứ, được quyền tiện-nghi hành-sự, để ra Quảng-b́nh dụ vua Hàm-nghi và các quan cựu thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng-khánh ban cho Hoàng kế Viêm đại-lược nói rằng: Nếu vua Hàm nghi mà thuận về, th́ sẽ phong cho làm làm Tổng-trấn ba tỉnh Thanh-hóa, Nghệ-an và Hà-tĩnh, và lại cấp cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu-thần như các ông Trương văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê mô Khải, Nguyễn nguyên Thành, Phạm trọng Mưu, Nguyễn xuân Ôn, Lê doăn Nha, Ngô xuân Quỳnh, ai về thú th́ được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ Quảng-trị trở vào. C̣n như các ông Trần xuân Soạn, Nguyễn phạm Tuân, Phan đ́nh Phùng mà có chịu về th́ sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy đă bàn với viên Thống-đốc Paul Bert, hai bên đă thuận cho như thế, quyết không sai lời.

Bấy giờ quân của quan Đề-đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh-thủy , thuộc huyện Tuyên-chánh; quân của Tôn-thất Đạm là con Tôn-thất Thuyết th́ đóng ở ngàn Hà-tĩnh, về hạt Kỳ-anh và Cẩm-xuyên. C̣n Tôn-thất Thiệp và Nguyễn phạm Tuân th́ pḥ vua Hàm-nghi ở mạn huyện Thanh-hóa.

Ông Hoàng kế Viêm ra Quảng-b́nh, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu , chỉ có bọn thủ-hạ lác đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng kế Viêm ra kinh-lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm đinh-hợi (1887), lại phải triệt về.

4. Lập Đồn Minh Cầm.

Triều-đ́nh ở Huế thấy dùng cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền cho người Pháp t́m kế đánh-dẹp.

Người Pháp cũng biết là thế-lực của đảng vua Hàm-nghi chẳng được bao nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần địa-thế và mua chuộc những đứa làm tay trong, th́ tất thế nào rồi cũng trừ hết được, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.

Trước đại-úy Mouteaux ở Quảng-b́nh đă cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đành phá măi. Đến tháng giêng năm đinh-hợi (1887), đại-úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh-cầm đóng ở mé trên Thanh- thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có nghĩa-khí, và trong khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn-ác, cho nên đại- úy vẫn có ư trọng lắm. Trước đă cho người đưa thư lên dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: "Tôi v́ vua, v́ nước, chết sống cũng một ḷng làm cho hết việc bổn-phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc nghĩa".

Từ khi quân Pháp đóng đồn ở Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực th́ ra mạn Hà-tĩnh, Ông Nguyễn phạm Tuân th́ lên đóng ở làng Yên-lộc về phía sông Gianh.

Qua tháng 3, nhờ có do thám, biết chỗ ông Nguyễn phạm Tuân đóng, đại-úy Mouteaux bèn đem quân lên vây làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn phạm Tuân, trong khi bất ư, đều bị bắt cả. Ông Nguyễn phạm Tuân phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày th́ mất.

Quân Pháp tuy đă trừ được ông Nguyễn phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hăy c̣n, và vẫn chưa biết rơ vua Hàm-nghi ở chỗ nào, sau có những người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm-nghi th́ mưu với tên Trương quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở đấy và từ khi vua ra ở vùng ấy nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí-độ tiểu-nhân, th́ chắc có lẽ mua chuộc nó được. Đại-úy định t́m cách để thông với tên Ngọc, cho người đi do-thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc, bèn đem quân lên vây làng ấy. Nhưng khi lên đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được. Đại-úy sai t́m trong làng chỉ thấy có một bà lăo, đại-úy bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lăo ấy đưa cho nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.

Được mấy hôm kỳ-dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm, đại-úy đưa cho chánh-tổng những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy b́ gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua Hàm-nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết ḷng giúp người Pháp, nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra th́ không thành.

Từ đó việc bắt vua Hàm-nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy giờ có người con thứ Tôn-thất Thuyết là Tôn-thất Thiệp giữ-ǵn vua Hàm- nghi một cách nghiêm-mật qúa. Tôn-thất Thiệp thề sống chết không để cho quân Pháp bắt vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về thú th́ bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đă nhị tâm, nhưng chưa dám hạ thủ.

ở mé ngoài, th́ các ông Lê Trực và Tôn-thất Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại-úy Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc-mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.

5. Vua Hàm Nghi Bị Bắt . Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên đại-tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng-b́nh, rồi chia quân đi tuần-tiễu, để t́m vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành công được. Quân Pháp đă toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên suất-đội Nguyễn đ́nh Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả, phía trên đồn Minh- cầm, và khai rơ t́nh-cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về t́nh- nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.

Người Pháp truyền cho bọn tên Ngọc phải làm thế nào bắt sống được vua Hàm-nghi, c̣n những người khác hễ ai chống cự, th́ cứ giết đi.

Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh-lang và Thanh-cuộc lên vây làng Tả-bảo 184

là chỗ vua Hàm-nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó sông vào, th́ Tôn-thất Thiệp c̣n đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, th́ chúng đâm chết. Vua Hàm-nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết tao đi, c̣n hơn đưa tao về nộp cho Tây". Ngài vừa nói dứt lời, th́ bọn chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi dựt thanh gươm ra. Từ khi ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng ǵ nữa.

Sáng ngày hôm sau, bọn tên Ngọc vơng ngài ra đến bến Ngă-hai, rồi đem xuống cái bè, đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh-lang, nộp cho viên đại-úy coi đồn ấy là ông Boulangier. Đại-úy lập tức đem ngài về đồn Thuận- bài đóng ở tả-ngạn sông Gianh, gần chợ đồn.

Vua Hàm-nghi bấy giờ đă 18 tuổi, quan Pháp lấy vương- lễ mà tiếp- đăi. Tuy vậy ai hỏi ǵ, ngài cũng không nói, chỉ nhất-thiết chối rằng ḿnh không phải là vua.

Nhưng đến lúc vào trong buồng ngồi một ḿnh, th́ hai hàng nước mắt chứa-chan, buồn v́ nỗi nước đổ nhà tan, thân ḿnh phải nhiều nỗi gian- truân.

Người Pháp đem vua Hàm-nghi xuống tầu về Thuận-an, rồi đem sang để ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc-địa của nước Pháp, ở phía bắc châu A- phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi phật-lăng 185 .

Tên Trương quang Ngọc được hưởng hàm lĩnh-binh, tên Nguyễn đ́nh Tinh cũng được thưởng hàm quan vơ. C̣n bọn thủ-hạ, đứa th́ được thưởng hàm suất-đội, đứa th́ được thưởng mấy đồng bạc.

Tôn-thất Đạm ở ngàn Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm-nghi bị bắt, bèn hội cả bọn tướng sĩ lại, truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng vua Hàm-nghi, xin tha lỗi cho ḿnh làm tôi không cứu được vua, và một bức gửi cho thiếu-tá Dabat, đóng ở đồn Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư rồi, Tôn-thất Đạm nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta th́ vào t́m thấy mả ta ở trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận 186 .

Ông Tôn-thất Thuyết làm đại-tướng mà cư-xử ra một cách rất hèn- nhát không đáng làm người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người con th́ thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể che được cái xấu cho cha vậy.

Quan đề-đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận- bài. Triều-đ́nh ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời-lẽ của quan đề-đốc cũ nói khảng-khái, không được khiêm-tốn, có ư bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người trung-nghĩa, có ḷng qúi-trọng, tha cho về yên nghiệp ở nhà.

Ông Tôn-thất Đạm và ông Lê Trực là người phản-đối với nước Pháp lúc bấy giờ, nhưng các ông ấy v́ việc nước mà hết ḷng làm việc bổn-phận cho nên người Pháp cũng biết lượng t́nh mà thương-tiếc. Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc huyện tuyên-hóa, tỉnh Quảng-b́nh, người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ư kính-trọng lắm. Người bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.

6. Vua Thành Thái . Ngày 27 tháng chạp năm mậu-tí là ngày 28 tháng giêng năm 1888, vua Đồng-khánh phải bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh-tông Thuần-hoàng-đế.

Bấy giờ ông Rheinard lại sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua Đồng-khánh c̣n nhỏ, và lại nhớ ông Dục-đức ngày trước, khi vua Dực-tông hày c̣n, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viêm Khâm-xứ nghĩ đến t́nh cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông Dục-dức lên làm vua.

Ông Bửu Lân bấy giờ mới lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở trong ngục. Triều-đ́nh vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thành-thái, cử ông Nguyễn trọng Hợp và ông Trương quang Đản làm Phụ- chính.

7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ . Khi nhà Thanh bên Tầu đă kư ḥa-ước với nước Pháp ở Thiên-tân rồi, quân Tầu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu- thần như quan Tán-tương quân-vụ là Nguyễn thiện Thuật và quan Đề-đốc Tạ Hiện c̣n giữ ở vùng Băi-sậy thuộc Hải-dương cùng với các thổ-hào như Đốc Tít ở vùng Đông-triều; Đề Kiều ở vùng Hưng-hóa; Cai Kinh, Đốc Ngữ ở vùng Phủ-lạng-thương và Yên-thế; Lương tam Kỳ, dư đảng cờ đen, ở vùng chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc ấy quan quyền kinh-lược-sứ là ông Nguyễn trọng Hợp cử quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng cao Khải làm chức Tiểu-phủ-sứ đi đánh-dẹp ở vùng Băi-sậy.

Hoàng cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn-thân người th́ tử trận, người th́ bị bắt. Nguyễn thiện Thuật chạy sang Tầu, sau mất ở Nam-ninh, thuộc quảng-tây. Đốc Tít ra hàng, phải đầy sang ở thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, măi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết.

Hoàng cao Khải đi đánh-dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lănh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.

8. Việc Phan Đ́nh Phùng . Từ năm kỷ-sửu (1889) là năm Thành- thái nguyên-niên cho đến năm qúy-tị (1893) là năm Thành-thái ngũ-niên, đất Trung-kỳ không có việc ǵ quan-hệ lắm. Các quan cựu-thần, người th́ về thú, người th́ ẩn-nấp ở chỗ sơn-lâm. Riêng ông Phan đ́nh Phùng th́ về ở đồn điền ở Vũ-quang về phía bắc huyện Hương-khê, thuộc tỉnh Nghệ-tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày khởi sự.

Ông Phan đ́nh Phùng người tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ đ́nh-nguyên về đời vua Dục-tông, quan làm đến chức ngự-sử bị bọn quyền-thần là Nguyễn văn Tường và Tôn-thất Thuyết cách chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn-thân để chống cự với quân Pháp. Ông không những là một người có tài văn-chương mà thôi, mà lại là một nhà có thao-lược, sửa-sang quân-lính có cơ-ngũ, luyện-tập tướng-sĩ có kỷ-luật, cho nên đại-úy Gosselin làm quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan Đ́nh-nguyên Phan đ́nh Phùng có tài kinh-doanh việc quân-binh, biết luyện-tập sĩ-tốt theo phép Thái-tây, áo-quần mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan Đ́nh-nguyên đúc ra thật nhiều mà máy-móc cũng hệt như súng Pháp chỉ v́ ḷng súng không xẻ rănh, cho nên đạn không đi xa được".

Đến cuối trung-tuần tháng 11 năm qúi-tị (1893), ông sai người đến vây nhà tên Trương quang Ngọc ở làng Thanh-lang, huyện Tuyên-hóa, bắt tên Ngọc chém lấy đầu để báo-thù về việc tên ấy làm sự phản-ác. Từ đó quân của quan Đ́nh-nguyên vẫy-vùng ở mạn Hương-khê, đảng văn-thân cũ lại về tụ họp ở đấy.

Bấy giờ người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo-động ḷng người ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối năm qúi-tị (1893) cho đến cuối năm ất-mùi (1895) ngót 2 năm trời mà không dẹp yên được, quân-lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo-hộ cũng đă t́m đủ mọi cách, như bảo Hoàng cao Khải viết thư dụ Phan đ́nh Phùng về hàng cho xong cũng không được. Sau cùng Triều-đ́nh ở Huế thấy việc dai- dẳng măi không yên, mới xin chính-phủ Bảo-hộ để sai quan Tổng-đốc B́nh- định là Nguyễn Thân làm Khâm-mạng tiết-chế quân-vụ đem quân ra tiễu- trừ. Ông Phan đ́nh Phùng lúc bấy giờ tuổi đă già, mà thế-lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là lao-khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem quân ra đến Hà-tĩnh, th́ ông đă phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai người đuổi đánh t́m thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người nói rằng việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn, v́ muốn để làm cái tang-chứng cho đảng phản-đối với chính-phủ Bảo-hộ là quan Đ́nh Nguyên đă mất rồi. Từ đó đảng văn-thân tan-vỡ; ai trốn đi mất th́ thôi, ai ra thú th́ phải về Kinh chịu tội.

Nguyễn Thân về Kinh được thăng làm Phụ-chính thay ông Nguyễn trọng Hợp về hưu.

9. Ḷng yêu nước của người Việt Nam.

Người Việt-nam v́ hoàn-cảnh, v́ t́nh thế bắt-buộc phải im hơi lặng tiếng, nhưng ḷng ái quốc mỗi ngày một nồng-nàn, sự uất-ức đau-khổ mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ năm bẩy năm lại có một cuộc phiến-động, như sau việc Phan đ́nh Phùng rồi, có việc Kỳ-đồng và việc Thiên-binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái-b́nh, Hải-dương, Bắc-ninh v.v... Vào quăng năm 1907 ở Hà-nội có việc Đông-kinh nghĩa-thục. Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan bội Châu, Phan chu Trinh, người th́ không sợ tù tội, đứng lên tố-cáo sự tham- nhũng của bọn quan-lại, người th́ ra ngoại-quốc bôn-ba khắp nơi để t́m cách giải-phóng cho nước. Năm 1908, ở Trung-Việt vùng Nghệ-Tĩnh và Nam- Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. ở Hà-nội th́ có việc đầu-độc lính Pháp, rồi ở Thái-nguyên, Hoàng hoa Thám lại nổi lên đánh phá .

Khi bên Âu-châu có cuộc đại-chiến th́ bên ta lại có việc đánh-phá ở Sơn-la và Sầm-nứa và việc vua Duy-tân mưu sự độc-lập, bị bắt đầy sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt-nam bấy giờ có ba ông vua bị đầy: vua Hàm- nghi đầy sang xứ Algérie, vua Thành-thái và vua Duy-tân đầy sang ở đảo Réunion.

Sau cuộc chiến lần thứ nhất, có toàn lính khố xanh nổi lên đánh Thái-nguyên do Đội Cấn và ông Lương ngọc Quyến làm đầu. Năm 1927, ở vùng Nghệ-tĩnh có cuộc phiến-động gây ra bởi đảng Cộng-sản do Nguyễn ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có cuộc cách-mệnh của Quốc- dân-dảng, có Nguyễn thái Học điều-khiển ở Yên-bái và các nơi. Năm 1940, ở Nam-Việt có cuộc phiến-động ở vùng Gia-định, Hốc-môn v.v... Từ khi có cuộc đại-chiến lần thứ hai, nước Pháp bại trận, bị nước Đức chiếm cứ, quân Nhật-bản ở bên Tầu sang đánh Lạng-sơn rồi kư hiệp-ước với người Pháp cho người Nhật được đóng quân ở Đông-pháp. Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đánh quân Pháp và giao quyền nội-trị lại cho vua Bảo-đại. Được mấy tháng th́ quân Đồng-minh thắng trận, Nhật-bản đầu hàng. Đảng Việt-minh 187

dưới quyền lănh đạo của Nguyễn ái Quốc-đổi tên là Hồ chí Minh thừa cơ nổi lên cướp quyền, vua Bảo-đại phải thoái-vị và nhường quyền cho đảng Việt-minh.

Đây chỉ mới nói qua cái đại-lược một đoạn lịch-sử của nước Việt- nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ t́m đủ tài-liệu mà chép cho rơ-ràng và phê-b́nh cho chính-đáng.

 

CHƯƠNG XVI

Công Việc Của Người Pháp Tại Việt Nam

1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa

2. Việc kinh-doanh ở các xứ bảo-hộ

1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa.

Từ khi sự đánh-dẹp các nơi đă yên rồi, các viên Tổng-đốc toàn-quyền lần lượt sang kinh-doanh việc Đông-pháp và lo mở mang về đường chính-trị, kinh-tế và xă-hội theo chính-sách của nước Pháp.

Tháng 3 năm mậu-tí (1888) tức là năm Thành-thái nguyên-niên, ông Richaud sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Tháng tám năm ấy, Triều-đ́nh ở Huế kư giấy nhượng hải-cảng Đà-nẵng, thành-thị Hà-nội và Hải-pḥng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa từ đó là việc cai-trị và pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, th́ việc cai-trị ở các tỉnh trong toàn hạt Bảo-hộ vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do người Pháp điều-khiển và kiểm- duyệt.

2. Việc kinh doanh ở các xứ bảo hộ.

Cuộc Bảo-hộ đă lập xong, người Việt-nam v́ thế bất-đắc-dĩ phải chịu, nhưng phần nhiều người trong ḷng c̣n mong khôi-phục nước nhà, cho nên chính-phủ Bảo-hộ một mặt th́ lo việc pḥng giữ, một mặt lo mở-mang các công-cuộc kiến-thiết để gây thêm mối lợi. Về đường pḥng-giữ, th́ chính-phủ lập ra những đội binh bảo-an, lấy người bản-sứ làm lính. Những lính ấy đội một thứ nón dẹt có giải xanh và múi thắt lưng xanh, cho nên tục gọi là lính khố-xanh. Lính ấy do người Pháp cai-quản ở dưới quyền quan cai-trị người Pháp, cho đi canh giữ các dinh-thự, các công-sở, và cho đi đóng đồn ở các nơi trong vùng thôn-quê, để pḥng-giữ trộm cướp. ở những nơi hiểm-yếu th́ có lính Pháp và lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ là một thứ bộ binh người bản-xứ, cách ăn- mặc cũng như lính khố xanh, chỉ khác là quai nón đỏ mà múi thắt lưng đỏ. Những lính ấy có cơ, có đội do sĩ-quan Pháp cai-quản ở dưới quyền nhà binh Pháp. Khi có việc ǵ quan-hệ th́ đem lính Pháp và lính ấy ra đánh-dẹp.

Về việc hành binh và việc thương-mại, th́ chính-phủ Bảo-hộ trước hết phải lo sửa-sang và mở-mang thêm đường-sá cho tiện sự giao-thông. V́ rằng có đường th́ khi hữu sự, việc đánh-dẹp mới tiện-lợi và việc buôn-bán cũng nhân đó mà được dễ-dàng. Bởi vậy thoạt đầu tiên chính-phủ mở thương-cục, lập xưởng làm tầu thủy chở hàng-hóa và hành-khách đi trong các sông ở trong xứ.

Năm tân-măo (1891), ông De Lanessan sang làm Tổng-đốc toàn- quyền, mở đường xe lửa từ Phủ-lạng-thương lên đến Lơng-sơn, đến năm giáp-ngo (1894), con đường ấy mới xong. Chủ-đích là để cho tiện sự pḥng- giữ ở chỗ biên-thùy.

Chính-phủ Bảo-hộ lại lo mở-mang thêm bờ-cơi về phía Lào. Nguyên đất Lào ngày trước vẫn thần-phục nước Nam. Những nơi như Trấn-ninh, Cam-môn, Cam-cát, v.v. về đời vua Minh-mệnh đă lập thành phủ huyện và đặt quan cai-trị cả. Nhưng về sau nước ta suy-nhược lại có việc chiến-tranh với nước Pháp, cho nên nước Tiêm-la mới nhân dịp mà sang chiến-giữ lấy. Sau có người Pháp tên là Pavie sang dự nước Lào nhận sự bảo-hộ của nước Pháp, rồi đến đầu năm quí-tị (1893), quân Pháp sang lấy lại những đất cũ thuộc về nước Nam ta trước. Bấy giờ quân Tiêm-la ở mạn Cam-môn giết mất một người quan binh Pháp, người Pháp bèn sai hải-quân đem hai chiếc tầu chiến vào sông Mê-nam, lên đậu ở gần thành Băng-cốc (Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy, nước Tiêm-la phải kư, ḥa-ước, nhường những đất Lào cho nước Pháp bảo-hộ, hạn trong một tháng phải rút quân đóng ở bên tả-ngạn sông Mékong về, lại phải bồi thường 2 triệu phật-lăng, và phải trị tội những người dám chống-cự với người Pháp.

Người Pháp lập phủ Thống-sứ ở Vientiane để cai-trị các địa hạt bên Lào.

Năm ất-mùi (1895), viên Tổng-đốc toàn-quyền Rousseau sang thay ông De Lanessan, thấy c̣n nhiều nơi chưa yên bèn vay nước Pháp cho Bắc- kỳ 80 triệu phập-lăng , để chi-tiêu về việc đánh-dẹp và mở-mang.

Năm đinh-dậu (1897), ông Daumer sang làm Tổng-đốc toàn-quyền, chỉnh-đốn lại việc tài-chánh và việc chính-trị. Lập ra sổ chi-thu chung cả toàn cảnh Đông-pháp, định các thứ thuế: thuế đinh, thuế điền, thuế thổ, thuế xuất-cảng, nhập-cảng, v.v., và cho người được độc-quyền lĩnh trưng thuế rượu, thuế muối, thuế nha-phiến. Bỏ nha Kinh-lược ở Bắc-kỳ, giao quyền lại cho viên Thống-sứ (tháng 6 năm đinh-dậu 1897) 188 , vay nước Pháp 200 triệu phập-lăng, để mở đường hỏa-xa trong xứ Đông-pháp và mở-mang thêm việc canh-nông và việc công-nghệ.

Năm nhâm-dần (1902) ông Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Ông Beau chủ việc khai-hóa dân-trí, lo mở-mang sự học-hành và đặt ra Y-tế-cục, làm nhà bệnh-viện, để cứu-giúp những kẻ yếu- đau nghèo-khổ. Ấy là những công-việc làm của chính-phủ bảo-hộ vậy.

TỔNG KẾT

Sách Việt Nam Sử-Lược này chép đến đây hăy tạm ngừng, để sau có tài-liệu đầy-đủ và các việc biến-đổi ở nước Việt-Nam này được rơ-rệt hơn, sẽ làm tiếp thêm 189 .

Việc chép lịch-sử cũng như việc dệt vải dệt lụa, dệt xong tấm nào mới biết tấm ấy tốt hay xấu, c̣n tấm đang dệt, chưa biết thế nào mà nói được.

Ta chỉ biết rằng các dây sợi dệt tấm Nam-sử này c̣n dài, người dệt tuy phải lúc đau yếu, bỏ ngừng công-việc, nhưng c̣n mong có ngày khỏe- mạnh lại dệt thêm, có lẽ lại dệt được tốt đẹp hơn, cũng chưa biết chừng.

Mặc dù nước Việt-nam hiện nay được hoàn toàn độc-lập nhưng sự hay-dở tương-lai chưa biết ra thế nào? Song người bản-quốc phải biết rằng phàm sự sinh-tồn tiến-hóa của một nước, là ở cái chí-nguyện, sự nhẫn-nại và sự cố-gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết sức mà học-tập, mà giữ cái tâm-trí cho bền-vững th́ chắc tương-lai c̣n nhiều hi-vọng. Nước Việt-nam ta đă có cái văn-hóa chẳng thua-kém ǵ ai, và lại có một lịch-sử vẻ- vang, nếu ta biết lợi-dụng cái tiềm-lực cố hữu và cái tính thông-minh hiếu học của ta để theo thời mà tiến-hóa, th́ sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn lịch-sử mỹ-lệ hơn trươc?

Có một điều thiết-tưởng nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều hay của ta đă có, bỏ những điều hủ-bại đi, và bắt-chước lấy những điều hay của người, để gây lấy cái nhân-cách đặt-biệt của dân-tộc ta và cùng tiến với người mà không lẫn với người. Muốn được như thế, ta phải biết phân-biệt cái hay cái dở, không ham muốn những cái huyền-hăo bề ngoài, rồi đồng tân hiệp lực với nhau mà làm mọi việc cho thành cái hiệu-qủa mỹ-măn.

Nước nào cũng có lúc bĩ lúc thái, đó là cái công-lệ tuần-hoàn của tạo-hóa trong thế-gian. Tự xưa chưa thấy có nước nào cứ thịnh măi hay cứ suy măi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người trong nước cứ vững ḷng giữ được cái nghi-lực để sinh-tồn và tiến-hóa, th́ rồi thế nào cũng có ngày chấn-khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một ḍng-dơi nhà Hồng-Lạc, nếu ta biết kiên tâm bền chí, th́ há lại không có một ngày ta có cái địa-vị vẻ-vang với

 

Những Sách Soạn Giả Dùng Để Kê Cứu

A. Sách Chữ Nho Và Chữ Quốc Ngữ:

1. Đại-Việt sử-kư, của Ngô Sĩ-Liên

2. Khâm-định Việt-sử Thông-giám cương-mục

3. Trần-triều thế-phổ hành trạng

4. B́nh Nguyên công-thần thực lục

5. Hoàng Lê nhất thống chí

6. Lịch-triều hiến-chương, của Phan huy Chú

7. Đại Nam thực lục tiền biên

8. Đại Nam thực lục chính biên

9. Đại Nam thống chí

10. Đại Nam chính biên liệt truyện

11. Đại Nam điển lễ toát-yếu, của Đỗ văn Tâm

12. Minh-mệnh chính yếu

13. Quốc-triều sử toát-yếu, của Cao xuân Dục

14. Thanh-triều sử-kư

15. Trung-quốc lịch-sử

16. Hạnh-Thục ca, của bà Nguyễn nhược Thị

B. Sách Chữ Pháp :

1. Cours d'Histoire Annamite, par Trương vĩnh Kư

2. Notion d'Histoire d'Annam, par Maybon et Ruissier

3. Pays d'Annam, par E. Luro

4. L'Empire d'Annam, par Gosselin

5. Abrégé de l'Histoire d'Annam, par Shreiner

6. Histoire de la Cochinchine, par P.Cultru

7. Les Origines du Tonkin, par J. Dupuis

8. Le Tonkin de 1872 à 1886, par J. Dupuis

9. La Vie de Monseigneur Puginier, par E. Louvet

10. L'insurrection de Gia-định, par J. Silvestre

(Revue Indochinoise - Juillet-Aout 1915)

 

163 Hải Dương và Quảng An

164 Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang rồi cho binh thuyền đi cướp phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.

165 Có sách chép là Hoàng Tá Viêm.

166 Sách "L'Empire d'Annam" của capitaine Ch. Gosselin.

167 Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) có làm quyển sách "Le Tonkin de 1872 à 1886) kể những công việc của ông ấy ở Bắc Việt, và nói rơ t́nh ư của các quan coi việc Súy Phủ ở Sài G̣n lúc bấy giờ là thế nào. Ta cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra được nhiều việc rất là tường tận

168 Tờ ḥa ước năm giáp tuất 1874

169 Độc giả hiểu cho rằng những ngày tháng chép trong sách này là theo ngày tháng Việt Nam chứ không phải là theo ngày tháng Tây.

170 Về sau có bài Chính Khí Ca nói về việc quan ta giữ thành Hà Nội lúc bấy giờ, và ai hay ai dở cũng chép rơ ràng. Bài ca ấy không biết ai làm.

171 Những chuyện ở trong Triều lúc bấy giờ, phần nhiều là lấy ở quyển "Hạnh Thục Ca", của Lễ Tân Nguyễn Nhược thị. Bà ấy là một người cung phi của vua Dực Tông sau lại làm thư kư cho bà Từ Dụ, cho nên những việc trong triều bà ấy biết rơ được rơ.

172 Dục Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông Hoàng con nuôi vua Dực Tông gọi là Dục Đức đường, Chánh Mông đường, v.v.... Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong th́ người ta cứ lấy tên nhà học mà gọi.

173 Résident tức là lưu trú quan, nhưng lúc bấy giờ ta chưa quen dùng chữ ấy, và nhân có chữ consul cho nên mới dùng chữ công sứ.

174 Mỗi một lữ đoàn (brigade) có hai vệ quân, độ chừng bảy tám ngh́n người, có chức thiếu tướng coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn (division), có chức trung tướng coi.

175 Có chuyện nói rằng: Khi vua Kiến Phúc se ḿnh, nằm trong điện, đêm thấy Nguyễn Văn Tường vào trong cung, ngài có quở mắng. Đến ngày hôm sau, th́ ngài ngộ thuốc mà mất.

176 Tức là ải Chi Lăng ngày trước.

177 Việc Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp ở Huế, sử ta không nói rơ số quân ta là bao nhiêu. Mà sách Tây có nơi chép là 2 vạn, có nơi chép là 3 vạn. Nhưng cứ những người biết việc ở Huế lúc bấy giờ, th́ quân ta cả thảy độ chừng non 2 vạn trở lại, chứ không hơn.

178 Khiêm Lăng là lăng của vua Dực Tông, có khi gọi là Khiêm Cung cũng là đấy.

179 Trường Thi thủa ấy bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây số.

180 Trương Quang Đản trước làm tổng đốc Bắc Ninh, chống nhau với quân Pháp, sau về Kinh phải giáng xuống tuần phủ ra giữ thành Quảng Trị.

181 Người ở La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, con quan nguyên bố chính Lê Kiên.

182 Tôn Thất Thuyết đi đường thượng đạo ra vùng Hưng Hóa rồi theo thượng lưu sông Đà lên Lai Châu nương tựa vào họ Điêu. Đến lúc nghe tiếng quân Pháp lên đánh, liền bỏ họ Điêu mà trốn sang Tàu. Con cháu họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên đến Lai Châu c̣n có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần hết. Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một người như thế mà làm đại tướng để giữ nước, th́ tài ǵ mà nước không nguy được Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.

183 Sách ông Gosselin chép là Phạm Thuận. Nhưng xét trong sử nước th́ không có ai làm Phạm Thuận, chỉ có Nguyễn Phạm Tuân trước làm tri phủ, sau theo vua Hàm Nghi chống cự với quân Phá, rồi bị đạng phải bắt. Vậy Phạm Thuận tức là Nguyễn Phạm Tuân. nhiều việc, vả lại nay đi kinh lược chỗ này, mai đi kinh lược chỗ nọ, thành ra khí lược suy nhược đi, cho nên mới cảm bệnh nặng, đến ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất (11 tháng 11 năm 1886) th́ mất. Nhà nước đem linh cữu về Pháp mai táng.

184 Những chuyện nói về việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin, cho nên những tên làng tên đất nói ở đoạn này viết không được đúng dấu. Nhưng đại để là những làng mường ở vùng sông Giai, thuộc huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng B́nh.

185 Hiện nay vua Hàm Nghi c̣n ở Algérie, và đă lấy một người nước Pháp, được mấy đứa con.

186 Hai bức thư ấy dịch ra chữ Pháp in ở trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin. Lời lẽ th́ thật là cương nghị đáng bậc thiếu niên anh hùng. Nhưng v́ thư đă dịch ra chữ Pháp nếu nay lại theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta th́ sợ không đúng với bản chính, cho nên không đem vào đây.

187 Việt Minh là tên gọi tắt một đảng cách mệnh gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh do đảng Cộng sản lập ra khi c̣n ở bên Quảng Tây, bên Tàu, để tránh hai chữ Cộng sản cho người ta khỏi ngờ

188 Có một điều rất kỳ, là viên thống sứ Bắc Kỳ là người đại biểu chính phủ Bảo hộ mà lại kiêm chức Kinh Lược Sứ là một chức quan của Triều Đ́nh ở Huế.

189 Trước tôi đă dự bị viết một quyển sách nối theo sách này. Tôi đă thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Chẳng may đến cuối năm bính tuất (1946) có cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi bị đốt cháy, sách vỡ mất sạch, thành ra đành phải bỏ quyển sử ấy mà không làm được nữa. thiên-hạ hay sao? Sự ước-ao mong-mỏi như thế là cái nghĩa vụ chung cả chủng-loại Việt-nam ta vậy.

 

CHƯƠNG VIII

Giặc giă ở trong nước

1. Việc rối-loạn trong nước

2. Giặc Tam-đường

3. Giặc châu-chấu

4. Giặc tên Phụng

5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành

6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ

1. Việc rối-loạn trong nước.

 

Vua Dực-tông vốn là ông vua có ḷng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đă sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh-lược đại-sứ B́nh-định, Phú-yên, Khánh- ḥa và B́nh-thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An và Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm ăn của dân gian, có điều ǵ hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.

Tuy vậy mặc ḷng, không có đời nào lắm giặc giă bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu th́ c̣n có hơi yên trị, c̣n từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, th́ càng ngày càng nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi v́ đất Bắc-kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân t́nh cũng có nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là gịng dơi nhà Lê, hoặc t́m một người nào giả nhận ḍng dơi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.

 

Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan th́ dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. ở trong nước th́ thỉnh thoảng lại có tai biến, như nước lụt, đê vỡ, v. v. Ở Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn-giang thành băi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.

2. Giặc Tam-đường.

Năm Tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức thắng đường, v. v... tục gọi là giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái-nguyên, vua sai ông Nguyễn đăng Giai ra kinh lược Bắc-kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất, đất Bắc-kỳ lại có loạn.

3. Giặc châu-chấu.

Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy Cự là ḍng dơi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao bá Quát, người làng Phú- thụy, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn tây). Cao bá Quát có tiếng là người văn- học giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn-tây và Hà-nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh-binh tỉnh Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về chém tại làng.

Nhân v́ mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều châu-chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu-chấu.

Cao bá Quát chết đi rồi, Lê duy Cự c̣n quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượng- du.

4. Giặc tên Phụng.

Năm tân dậu (1861), quân nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ văn Phụng, trước đă theo giáo-sĩ ra ngoại-quốc đi học đạo, sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng-nam.

Đến tháng chạp th́ tên Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh ḍng dơi nhà Lê, rồi tự xưng là minh-chủ, cùng với một người đạo-trưởng tên là Trường làm mưu-chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hải- ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc-Kỳ.

Tháng ba năm nhâm-tuất (1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên-súy, lập tên Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, và vây thành Bắc-ninh.

Bấy giờ quan bố chính ở Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố- chính tỉnh Sơn-tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.

Phía đông th́ tên Phụng vây thành Hải-dương, tỉnh-thần dâng sớ cáo-cấp. Triều đ́nh bèn sai quan Thượng-thư bộ H́nh là Trương quốc Dụng ra làm tổng-thống Hải-an 163 quân-vụ, cùng với Phan tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra tiến-tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi làm Sơn-Hưng-Tuyên 164 tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc ở Bắc-kỳ.

Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên th́ có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang th́ có bọn tên Uẩn, tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao-bằng th́ bị tên Giặc Khách Lư hợp Thắng vây đánh, tỉnh Bắc-ninh th́ có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả lên. Vua Dực-tông sai Nguyễn tri Phương ra làm tây-bắc-tổng-thống quân-vụ đại-thần, cùng với Phan đ́nh Tuyển và Tôn thất Tuệ ra đánh mặt Bắc-ninh, Thái-nguyên và Tuyên-quang.

Tháng 3 năm quí-hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên-quang và bắt được tên Uẩn đóng củi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc-ninh, rồi đem binh lấy lại thành Thái-nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá được sào huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu Bạch-thông.

C̣n ở mặt Hải-dương và Quảng-yên, th́ tuy Trương quốc Dụng và Đào Trí đă giải được vây cho thành hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể c̣n mạnh lắm. Vua Dực-tông lại sai Nguyễn tri Phương làm tổng-thống hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm hiệp-thống đem quân ra đánh mặt ấy.

Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu- tướng Bonard ở trong Nam-kỳ, ước hễ lấy được Bắc-kỳ th́ xin để nước Pháp bảo-hộ. Nhưng v́ trong Nam-kỳ c̣n lắm việc, mà sự giảng ḥa với Triều- đ́nh ở Huế đă sắp xong, cho nên thiếu-tướng không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể, để làm sào huyệt,

Cuối năm quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Các-bà và ở núi Đồ-sơn, có ư muốn đem quân vào đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng may phải băo, thuyền đắm mất nhiều. Quan đề-đốc là Lê quang Tiến và quan bộ-phủ Bùi huy Phan được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.

Đến tháng 6 năm giáp-tí (1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp- thống Trương quốc Dụng, quan tán-lư Văn đức Khuê, quan tán-tương Trần huy Sách và quan chưởng-vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt hại rất nhiều.

Tháng 4 năm ất-sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan đề-đốc Mai Thiện quan tán-lư Đặng trần Chuyên, quan đốc-binh Ông ích Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về giữ mặt Hải-ninh.

Tháng 7 năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích Khiêm đem binh ra Quảng-yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm-châu để đánh lấy lại thành Hải-ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước th́ chạy vào mạn Quảng-b́nh, Quảng-trị, c̣n những đồ đảng, đứa th́ phải bắt, đưa th́ chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.

Giặc Phụng khởi từ cuối năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu (1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp gần xong, th́ ở mạn Cao-bằng đă có giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Vơ trọng B́nh và quan tuần-phủ Phạm chi Hương đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9 năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần (1866), th́ tướng giặc là Trương cận Bang mới xin về hàng, và mới thu phục lại được thành Cao-bằng.

Nguyễn tri Phương và Vơ trọng B́nh về Kinh coi việc triều-chính.

5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành.

Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, th́ Kinh-đô lại có việc làm cho náo động ḷng người.

Nguyên vua Dực-tông là con thứ mà được nối ngôi, là v́ người anh ngài là Hồng Bảo phóng đăng, không chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn đồ-mưu với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. C̣n con ông th́ được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo

Đến năm bính dần (1866) là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn-niên-cơ tức là Khiêm-lăng bây giờ, quân-sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn Trương trọng Ḥa, Phạm Lương kết làm " Sơn- đông-thi-tửu-hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn-niên-cơ và cùng với qua hữu-quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.

Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch, chực xông vào điện giết vua Dực-tông. May nhờ có quan chưởng-vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.

Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn thất Cúc th́ tự vẫn chết, c̣n các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.

Lúc ấy ngoài th́ có giặc cướp phá, trong th́ có nghịch-thần làm loạn. Ở mặt Quảng-nghĩa lại có giặc mọi Đá-vách cứ hay xuống quấy nhiễu dân- gian, may nhờ có quan tiểu-phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó. Ở Bắc-kỳ th́ có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đ́nh cũng bối rối không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.

6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ.

Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài th́ đánh nhau với nước Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều đ́nh phải bỏ Kinh-đô mà chạy; trong th́ có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.

Nguyên từ năm Đạo-quang thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng-tây có tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lư tú Thành, nổi lên xưng là Thái-b́nh thiên-quốc, rồi chiếm cứ đất Kim-lăng và các tỉnh phía nam sông Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lư hồng Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho đến năm Đồng-trị thứ hai là năm quí-hợi (1863) tức là bên ta năm Tự-đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái-b́nh, Hồng tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đ́nh nhà Thanh lại thu phục được các tỉnh phía nam nước Tàu.

Lúc ấy có dư đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang nước ta, trước c̣n nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh măi không được. Năm mậu-th́n (1868) là năm Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đ́nh sai quan tổng-đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu sang tiểu-trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí đem quân sang cùng với quan tiểu-phủ Ông ích Khiêm và quan đề-đốc Nguyễn viết Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn, quan tham-tán Nguyễn Lệ, quan phó đề-đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan thống-đốc Phạm chi Hương bị bắt.

Triều-đ́nh sai Vơ trọng B́nh ra làm Hà-ninh tổng-đốc kiêm chức Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ khâm-sai đại-thần, để hội với quan đề-đốc tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài mà đánh giặc Ngô Côn.

Quân hai nước cùng đồng sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869) th́ mới khôi phục lại được tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh- ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh-thành Bắc-ninh, quan tiểu- phủ Ông ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc.

Ngô Côn tuy chết, song c̣n có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi, hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả. Triều-đ́nh sai quan trung-quân Đoàn Thọ ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.

Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh-thành Lạng-sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, c̣n Vơ trọng B́nh th́ vượt thành chạy thoát được.

Tin ấy vào đến Huế, Triều-đ́nh vội vàng sai Hoàng kế Viêm 165 ra làm Lạng-B́nh-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại thần, cùng với quan tán-tương Tôn thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai quan H́nh-bộ thượng-thư là Lê Tuấn làm chức Khâm-sai thị-sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.

Tháng 11 năm tân-mùi (1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn-tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải-dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ-tỉnh Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm, dư-đảng giặc ấy đều tan cả. Ở mạn thượng-du th́ đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy-nhiễu ở đất Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn-hại, đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho đất ở Lao-kay, được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng ở mạn Hà-giang.

Đất Bắc-kỳ cứ giặc-giă măi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà không yên được. Đến tháng 7 năm nhâm-thân (1872), Triều-đ́nh lại sai Nguyễn tri Phương làm Tuyên-sát đổng-sức đại-thần ra thay mặt vua xem- xét việc đánh giặc ở Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở trong nước chưa xong, th́ sự giao-thiệp với nước Pháp đă sinh ra lắm nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.

 

Chương IX

Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ I

 

1. Người Pháp t́m đường sang Tàu

2. Đồ-phổ-Nghĩa

3. Đại-úy Francis Garnier ra Hà-nội

4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873)

5. Lấy mấy tỉnh ở Trung-châu

6. Đại-úy Francis Garnier chết

7. Ông Philastre ra Hà-nội

8. Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874)

 

1. Người Pháp t́m đường sang Tàu.

 

Từ khi nước Pháp lấy xong đất Nam-kỳ rồi, Súy-phủ ở Sài-g̣n sửa-sang mọi việc, và cho người đi xem xét t́nh thế và sông núi ở Trung-kỳ và Bắc-kỳ để mở mang sự giao- thông. Lại có ư muốn t́m đường thông sang nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm bính-dần (1866), thiếu-tướng De la Grandière sai trung-tá Doudart de Lagrée cùng với đại-úy Francis Garnier (Ngạc-nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông Mékong đi t́m đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm mậu-th́n (1868), non hai năm trời, ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân-nam. Nhưng chẳng may ông ấy phải bệnh đau gan mà chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi qua nước Tàu, rồi xuống Tàu thủy về Sài-g̣n.

Đến năm canh-ngọ (1870) là năm Tự-đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau với nước Phổ; quân Pháp thua, Pháp-hoàng là Nă-phá-luân đệ-tam bị bắt. Dân nước Pháp bỏ đế-quốc mà lập Dân-chủ cộng-ḥa. Tuy ở bên Pháp có sự chiến tranh, nhưng ở bên Viễn-đông này, quân Pháp vẫn giữ vững đất Nam-kỳ. Vả Triều-đ́nh ở Huế c̣n bận dẹp giặc Khách ở Bắc-kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi-thôi ǵ cả.

2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis).

Thuở ấy, có một người Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là Đồ-phổ-Nghĩa mấy năm trước đă đi du lịch ở các tỉnh bên Tàu, để t́m cách buôn-bán, biết có sông Hồng-hà từ đất Vân- nam chảy qua Bắc-kỳ ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở Vân-nam để chở đồ binh-khí sang bán.

Đồ-phổ-Nghĩa về cùng với một người Pháp nữa tên là Millot, buôn- bán ở Thượng-hải, trù-tính việc chở binh khí sang Vân-nam, đoạn rồi về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên này, Đồ-phổ-Nghĩa vào Sài-g̣n xin Súy-phủ giúp thanh-thế cho để đi qua Bắc-kỳ. Viên thống-đốc Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng d'Arhaud, có hứa với Đồ-phổ-Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.

Đồ-phổ-Nghĩa sang Hương-cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu con là Hồng-giang, Lao-kay và Sơn-tây chở đồ binh-khí và hàng-hóa vào Quảng-yên. Trong lúc ấy hải-quân trung-tá Sénès đă đem tàu Bourayne ra Bắc-kỳ, rồi lên Hải-dương, Hà-nội, Bắc-ninh đi xem các nơi.

Trung-tá ở Bắc-ninh nghe tin bọn Đồ-phổ-Nghĩa đă đến Quảng-yên, liền trở ra để cùng bàn với quan Khâm-sai Lê Tuấn về việc thông-thương ở sông Hồng-hà.

Ông Lê Tuấn không có lệnh Triều-đ́nh, không dám tự-tiện, nói xin đợi vài mươi hôm để có mệnh nhà vua ra sẽ hay.

Đồ-phổ-Nghĩa và Millot thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà- nội, rồi thuê thuyền chở đồ lên Vân-nam. Bấy giờ là cuối năm nhâm-thân (1872), là năm Tự-đức thứ 25. Thuyền của Đồ-phổ-Nghĩa đi qua những đồn của quan ta, của giặc cờ vàng và giặc cờ đen đều vô sự cả. Khi lên dến Vân- nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật xuống, đến thánh tư năm quí- dậu (1873), th́ Đồ-phổ-Nghĩa và Millot lại trở về đến Hà-nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. Millot th́ vào Sài-g̣n cho Súy-phủ biết t́nh-thế ở Bắc- kỳ, và nhân thể đem đồ khoáng-vật sang bán ở Hương-cảng. C̣n Đồ-phổ- Nghĩa th́ ở lại Hà-nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người Khách là Bàng lợi Kư, Quan tá Đ́nh mua gạo, mua muối chở lên Vân-nam.

Bấy giờ luật nước ta cấm không cho chở muối sang Tàu, mà việc thông-thương ở sông Hồng-hà cũng chưa định rơ thế nào, nhưng Đồ-phổ- Nghĩa tự xưng là có lệnh quan Tàu cho, th́ không cần phải theo luật nước Nam, v́ nước Nam là một nước phải thần-phục nước Tàu.

Đồ-phổ-Nghĩa không hiểu rơ sự giao-thiệp nước Tàu và nước ta ngày trước. Đối với Tàu th́ bề ngoài nước ta tuy xưng cống-thần, nhưng kỳ thực vẫn là độc-lập. Khi có việc ǵ, phải có sứ hai nước sang thương-nghị rồi mới thi hành. Mà có khi sứ nước Tàu bàn sang điều ǵ, nước ta không thuận cũng thôi, chứ không có phép tự-tiện mà làm được. Chỉ trừ lúc nào nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt-nạt, như đời nhà Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh, th́ lại có ông Trần hưng Đạo, ông Lê thái Tổ và ông Nguyễn quang Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước Nam vốn không phải đất thuộc-địa của Tàu.

Tuy vậy, quan ta phải nể Đồ-phổ-Nghĩa là người nước Pháp, sợ có việc ǵ, th́ thành ra bất-ḥa với Súy-phủ ở Sài-g̣n, cho nên cứ dùng lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm điều trái với luật nước. Nhưng ông ấy cứ một niềm tự ư ḿnh mà làm. Quan ta nhờ cả Giám-mục Puginier là Kẻ-sở lên can cũng không được.

Sau quân ta có bắt mấy tên Khách Bành lợi Kư và Quan tá Đ́nh về sự đem thuyền chở muối và gạo lên Vân-nam, th́ Đồ-phổ-Nghĩa đem người đi bắt quan pḥng-thành Hà-nội và quan huyện Thọ-xương, đem xuống thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không biết ra thế nào. Một bên th́ cố t́nh sinh sự, một bên th́ mệnh nhà vua ra không được lôi thôi điều ǵ.

Bấy giờ Triều-đ́nh sai quan hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đ́nh B́nh làm khâm-phái ra giao cho ông Nguyễn tri Phương phải thu-xếp cho yên chuyện ấy. Ông Nguyễn tri Phương mới sai quan bố-chính là Vũ Đường định ngày mời Đồ-phổ-Nghĩa đến hội-quán Quảng-đông, để hội nghị. Khi hai bên đến hội-đồng, quan ta nói rằng sự giao-thiệp nước Pháp với nước Nam đă có tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất (1862), và sự đem muối và gạo lên bán ở Vân- nam là trái với tờ ḥa-ước ấy, và lại trái với luật bản-quốc. Đồ-phổ-Nghĩa căi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là đủ, không cần phải xin phép ǵ nữa, rồi đứng dậy ra về.

Triều-đ́nh ở Huế thấy việc lôi thôi măi, sợ để lâu thành ra nhiễu sự, mới sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường và ông Nguyễn tăng Doăn vào sứ Sài-g̣n, để thương-nghị về việc ba tỉnh phía tây đất Nam-kỳ và nhân thể nhờ Súy-phủ phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa cho xong.

3. Đại-úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà-nội.

Viên Thống-đốc Nam-kỳ bấy giờ là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn đă lưu ư về việc Bắc-kỳ. Trước đă viết thư về cho Thượng-thư thuộc-địa-bộ ở Paris nói rằng: " Đất Bắc-kỳ là đất tiếp-giáp với những tỉnh tây-nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy th́ sự cai-trị của ta ở Viễn-đông này mới được chắc chắn " .

Nhưng bên Pháp bấy giờ mới đang đánh nhau với nước Phổ vừa xong, không muốn gây chuyện khác, bèn điện sang cho thiếu-tướng rằng: "Không được sinh sự ở Bắc-kỳ." Đến khi Millot về Sài-g̣n kể công việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói rằng: " Việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ đă thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc-kỳ và giữ lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành công chắc lắm ". Ngay hôm ấy, thiếu-tướng lại viết thêm một cái thư về nói rơ mọi lẽ, và quyết rằng xin chính-phủ để cho thiếu-tướng được tự tiện, hễ có việc ǵ th́ thiếu-tướng xin chịu lỗi166.

Đang lúc ấy th́ Triều-đ́nh ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin thiếu- tướng ra điều-đ́nh việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ.

Cứ như ư của thiếu-tướng Dupré điện về cho chính-phủ Pháp th́ thiếu-tướng chỉ mong có cái cơ-hội ǵ để đem quân ra Bắc-kỳ. Nay thấy Triều-đ́nh ta vào nhờ Súy-phủ ở Sài-g̣n phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa, thật là gặp được cái dịp ḿnh đang mong, thiếu-tướng liền gọi quan hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, rồi sai ra Hà-nội, nói rằng ra phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa167.

Đại-úy Francis Garnier đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra đến cửa Thuận, nghỉ lại mấy hôm để đợi quan khâm-sai cùng ra Bắc-kỳ. Đến tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ các quan ra đến Hà-nội.

Bấy giờ ai cũng tưởng là đại-úy Francis Garnier ra chuyến này th́ mọi việc xong cả, cho nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp-đăi rất trọng-hậu. Nhưng xem những thư-từ của đại-úy lúc bấy giờ, th́ cốt ra có chủ ư khác. Khi ở Sài-g̣n sắp đi, đại-úy viết thư về cho người anh ở bên Pháp nói rằng: " Lệnh của Súy-phủ cho, là được tự tiện. Việc ǵ hải-quân thiếu-tướng cũng ủy-thác cho tôi cả. Vậy v́ nước Pháp mà tôi phải cố sức." Đến khi ra đến Hải-dương, đại-úy vào ở Kẻ-sặt, rồi viết thư sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho ông ấy biết cái chủ đích của ḿnh, và lại nói rằng trăm sự đại-úy trông-cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi v́ ông ấy đă quen biết mọi việc ở Bắc-kỳ.

Đồ-phổ-Nghĩa tiếp được thư, liền đem chiếc tàu Man-hao đi đón đại- úy. Lên đến Hà-nội, đại-úy đem mấy người đi thẳng vào thành ra mắt ông Nguyễn tri Phương, và đ̣i đem quân ra đóng ở trong thành. Quân ta nói măi, Đại-úy mới thuận ra đóng ở Trường-thi. Đoạn rồi đại-úy viết thư mời giám-mục Puginier ở Kẻ-sở lên Hà-nội, để nhờ làm thông-ngôn. Đại-úy lại làm tờ hiểu-dụ, cho dân biết, nói rằng: " Bản-chức ra Bắc-kỳ cốt để dẹp cho yên giặc-giă, và để mở-mang sự buôn-bán.

4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873).

Quan ta thấy đại- úy không nói ǵ đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói những việc dẹp-giặc và mở sự buôn-bán, th́ đều lấy làm phân-vân. Sau lại thấy tàu và quân ở Sài- g̣n tiến ra, quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi ǵ đến quan ta, tự-tiện làm tờ tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho và nước Tàu được ra vào buôn-bán.

Quan ta lúc bấy giờ cũng bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buôn- bán với nước Pháp th́ đă định rơ trong tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất (1862), nay thấy đại-úy Francis Garnier đường đột làm như thế, th́ cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách pḥng-bị. Mà đại-úy cũng đă biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đă định kế đánh thành Hà-nội.

Đến đầu tháng 10, một mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri Phương, trách quan ta làm ngăn-trở việc buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa; vậy v́ sự văn-minh và cái quyền-lợi của nước Pháp, cho nên Súy-phủ ở Sài-g̣n sai đại-úy ra mở sự buôn-bán ở Bắc-kỳ. Dẫu quan Việt-nam có thuận hay không cũng mặc, đại-úy cứ theo lệnh của Súy-phủ mà thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh thành và bắt ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-g̣n.

Cứ như sách của Đồ-phổ-Nghĩa, th́ lúc bấy giờ có cả những người mạo xưng là đảng nhà Lê, cũng xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.

Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ quân Pháp phát súng bắn vào thành Hà-nội. Ông Nguyễn tri Phương cùng với con là pḥ-mă Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được non một giờ đồng hồ th́ thành vỡ, pḥ-mă Lâm trúng đạn chết, ông Nguyễn tri Phương th́ bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông Nguyễn tri Phương và quan khâm-phái Phan đ́nh B́nh đem xuống tàu.

Ông Nguyễn tri Phương nghĩ ḿnh là một bậc lăo-thần thờ vua đă trải ba triều, đánh nam dẹp bắc đă qua mấy phen, nay chẳng may v́ việc nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông quyết chí không chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà chết.

Ông Nguyễn tri Phương là người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh-bạch, chỉ đem chí-lự mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất v́ việc nước. thật là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy.

5. Lấy mấy tỉnh ở Trung-châu.

Thành Hà-nội thất thủ rồi, quan ta th́ trốn-tránh đi cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại-úy Francis Garnier lại cho những người theo với ḿnh đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi lại sai người đi đánh lấy tỉnh Ninh-b́nh, Nam-định và Hải-dương.

Quan ta ở các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và 7 người lính tây mà hạ được thành Ninh-b́nh, và chỉ trong 20 ngày mà 4 tỉnh ở Trung-châu mất cả.

6. Đại-úy Francis Garnier chết.

Triều-đ́nh được tin biến ở Bắc- kỳ, vội-vàng sai ông Trần đ́nh Túc, ông Nguyễn trọng Hợp, ông Trương gia Hội cùng với giám-mục B́nh (Mgr Bohier) và linh-mục Đăng ( Dangelger) ra Hà-nội, để điều đ́nh mọi việc và sai ông Hoàng kế Viêm ở Sơn-tây làm tiết- chế quân-vụ, để pḥng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn-quyền, ông Nguyễn văn Tường làm phó, vào thương-thuyết với Súy-phủ ở Sài-g̣n về việc đại-úy Francis Garnier đánh Bắc-kỳ.

Lúc bấy giờ ông Hoàng kế Viêm đóng ở Sơn-tây, có đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho Lưu vĩnh Phúc làm đề-đốc, để cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu vĩnh Phúc đem quân về đóng ở mạn phủ Hoài-đức. Khi ông Trần đ́nh Túc và ông Nguyễn trọng Hợp đang thương-thuyết với đại-úy Francis Garnier, th́ quân cờ đen về đánh Hà- nội. Đại-úy đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu-giấy th́ bị phục quân giết chết.

7. Ông Philastre ra Hà-nội.

Nguyên khi thiếu-tướng Dupré sai đại-úy Francis Garnier ra Bắc-kỳ là tự ư ḿnh chứ chính-phủ nước Pháp vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin đại-úy đă khởi sự đánh Hà-nội, thiếu- tướng liền sai hải-quân đại-úy, khiêm chức thống-soái việc h́nh-luật ở Nam- kỳ, là ông Philastre (ta gọi là Hoắc-đạo-sinh) cùng với qua phó-sứ nước ta là ông Nguyễn văn Tường ra điều-đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ.

Đến Cửa-cấm th́ ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường mới biết rằng đại-úy Francis Garnier đă bị quân cờ đen giết mất rồi. Sử chép rằng khi được tin ấy, ông Philastre tức giận vỗ bàn mà bảo ông Nguyễn văn Tường rằng: " Việc không xong rồi, phải trở về đợi lệnh súy-phủ mới được. " Ông Nguyễn văn Tường sợ ông Philastre giận quá mà nhỡ việc, mới ung-dung mà nói rằng: " Việc đánh lấy thành Hà-nội súy-phủ bảo không phải là bản-ư, mà quân bản-quốc ở 4 tỉnh Bắc-kỳ cũng không tranh dành ǵ cả. Vậy hai bên không có làm điều ǵ trái nhau. Nay đại-úy Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là v́ dân nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rơ. Huống chi trả thành lại để định ḥa-ước cho xong, ấy là lệnh của súy-phủ; mà thu lấy thành rồi mới nghị-ḥa, ấy là mệnh của bản-quốc. C̣n như việc Hà-nội giết đại-úy Francis Garnier th́ cũng như đại-úy Francis Garnier giết ông Nguyễn tri Phương, việc đó xuất ư ư ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc ǵ cả, mới nghe thấy tin báo mà đă bỏ về, thế chẳng hóa ra ḿnh đi uổng mất công hay sao ? chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà-nội bảo đem tàu xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà làm, hoặc là xét rơ duyên-do tại sao mà đại-úy Francis Garnier chết, rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao ? " Ông Philastre nghe lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà-nội biết.

Ngay lúc ấy có tàu " Decrès " c̣n đóng ở gần Đồ-sơn, ông Philastre muốn sang tàu ấy để cho chiếc tàu ḿnh đi là "D'Estrées " trở về báo tin cho Sài-g̣n biết. Nguyễn văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của ḿnh đă vào cửa rồi lại trở ra, nhỡ sĩ-dân biết, lại bắt chước Hà-nội mà làm bậy, th́ làm thế nào mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn-hại, th́ lấy lẽ ǵ mà bẩm với quí súy. Vậy nay xin sai chiếc tàu "Decrès" ra bể, đuổi đánh những giặc Tàu-ô, c̣n cứ đem tàu "D'Estrées" vào đến Hải-pḥng, rồi ta lên Hải-dương, đem trả tỉnh-thành lại cho bản-triều, để tỏ cái ḷng tin cho sĩ-dân biết, sau ta lên Hà- nội, trả nốt cả mấy thành kia, và tra-hỏi việc đại úy Francis Garnier chết ra thế nào sẽ bẩm cho quí-súy biết " .

Ông Philastre vốn là một người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn văn Tường nói hợp-lẽ, bèn thuận nghe, và lên Hải-dương truyền trả thành lại cho quan ta, rồi lên Hà-nội làm tờ giao-ước trả lại cả 4 thành cho quan ta coi giữ. C̣n những tàu bè và quân lính của Pháp ở các tỉnh th́ thu cả về Hà- nội, rồi đinh ngày rút quân ra đóng ở Hải-pḥng đợi đến ngày kư tờ ḥa-ước xong th́ rút về. Bấy giờ là tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự- đức thứ 27.

Đồ-phổ-Nghĩa thấy ông Philastre phá mất cả những việc của ḿnh đă làm với đại-úy Francis Garnier, bèn vào Sài-g̣n kêu với súy-phủ và đ̣i tiền phí-tổn non một triệu nguyên

8. Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).

Mọi việc ở Hà-nội xếp-đặt xong rồi, súy-phủ ở Sài-g̣n sai ông Rheinart (Lê Na) ra thay cho ông Philastre cùng với ông Nguyễn văn Tường về Nam-kỳ, định sự ḥa-ước cho kịp ngày thiếu-tướng Dupré về Pháp.

Ngày 27 tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải-quân thiếu-tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường kư tờ ḥa-ước cả thảy 22 khoản, đại-lược có những khoản này là quan trọng hơn cả.

Khoản II. Quan thống-lĩnh nước Pháp nhận quyền độc-lập của vua nước Nam không phải thần phục nước nào nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc ǵ để đánh dẹp giặc giă, th́ nước Pháp sẵn ḷng giúp mà không yêu-cầu điều ǵ.

Khoản III. Vua nước Nam phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp, và chính-lược ngoại-giao hiện lúc bấy giờ thế nào th́ phải để nguyên như thế, không được đổi khác đi

Quan thống-lĩnh nước Pháp tặng vua nước Nam:

1. 5 chiếc tàu có đủ máy-móc súng-ống

2. 100 khẩu súng đại-bác, và mỗi khẩu có 200 viên đạn

3. 1000 khẩu súng tay và 5000 viên đạn

Khoản IV. Quan thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy tập lính thủy, lính bộ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và cho những người giỏi việc tài chính sang tổ-chức việc thuế-má và việc thương-chính v. v.

Khoản V. Vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ cho nước Pháp.

Khoản IX. Vua nước Nam phải để cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng-đạo, và cho dân trong nước được tự-do theo đạo.

Khoản XI. Vua nước Nam phải mở cửa Thị-nại ( Qui-nhơn ), của Ninh-hải ( Hải-pḥng ), thành Hà-nội và sông Hồng-hà, cho ngoại quốc vào buôn-bán.

Khoản XIII. Nước Pháp được quyền đặt lĩnh-sự ở các cửa bể và các thành- thị đă mở ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.

Khoản XV. Người nước Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của quan lĩnh-sự Pháp và có chữ quan Việt-nam phê nhận th́ được phép đi xem các nơi ở trong nước.

Khoản XVI. Người nước Pháp và người ngoại quốc có điều ǵ kiện tụng tại đất Việt-nam, th́ do lĩnh-sự Pháp phân-xử.

Khoản XX. Khi nào tờ ḥa-ước này kư xong, th́ quan thống-lĩnh nước Pháp đặt sứ-thần ở Huế để chiếu những điều đă giao-ước mà thi hành. Vua nước Nam cũng được quyền đặt sứ-thần ở Paris và ở Sài-g̣n.

Tờ ḥa-ước ấy kư xong, th́ quan chánh-sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn văn Tường về Huế. Thiếu-tướng Dupré giao mọi việc ở Nam-kỳ cho hải-quân thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.

Tháng 6, Triều-đ́nh ở Huế lại sai quan h́nh-bộ Thượng-thư là Nguyễn văn Tường và quan lại-bộ thị-lang là Nguyễn tăng Doăn, vào Sài-g̣n cùng với thiếu-tướng Krantz định các lệ về sự buôn-bán ở nước Nam. Đến 20 tháng 7, th́ tờ thương-ước lập xong.

 

CHƯƠNG X

T́nh thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau

 

1. Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh

2. Giặc ở Bắc-kỳ

3. Sự giao-thiệp với Tàu

4. T́nh-thế nước Tàu

5. Sự giao-thiệp với nước Pháp

 

1. Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh.

Nhờ có ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong, th́ ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.

Nguyên lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi sảy ra việc đại-úy Francis Garnier lấy Hà-nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ-tĩnh thấy giáo-dân có nhiều người theo giúp ông ấy, th́ lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.

Tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai người tú-tài là Trần Tấn và Đặng như Mai hội-tập cả các văn- thân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là " B́nh Tây sát tả ", đại lược nói rằng " Triều-đ́nh dẫu ḥa với với Tây mặc ḷng sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn-hóa của ta đă hơn 1000 năm nay, v. v..." Bọn Văn- thân cả thảy độ non hơn ba ngh́n người, kéo đi đốt phá những làng có đạo.

 

Nước ta mà không chịu khai-hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ-phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy-nhược của ḿnh đă sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nh́n, lại v́ sự tức giận một lúc mà việc nông-nỗi càn-rỡ, để cho thiệt hại thêm, như thế th́ cái tội trạng của bọn sĩ-phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru!

Lúc bấy giờ quan tổng-đốc Nghệ-an là ông Tôn thất Triệt lại có ư dung-túng bọn Văn-thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều-đ́nh thấy vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn-thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần quang Hoán, Trương quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành Hà-tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn-châu.

Triều-đ́nh thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn Tường ra làm khâm-sai và ông Lê bá Thận làm tổng-thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.

2. Giặc ở Bắc-kỳ.

Thuở ấy ở mạn Thượng-du đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh măi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.

Mạn Hải-dương và Quảng-yên th́ vẫn có những người mạo xưng là con-cháu nhà Lê, cứ quấy-rỗi măi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà-nội, những người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng v́ sau nước Pháp trả lại các tỉnh ở Bắc-kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đă kư ḥa-ước rồi, quan Pháp có đem binh-thuyền đi đánh giúp, cho nên mới diệt được đảng ấy.

C̣n ở mạn Tuyên-quang, th́ có giặc cờ vàng nhũng-nhiễu đă lâu. Quan quân phải đánh dẹp măi không được. Đến tháng 8 năm ất-hợi (1875), là năm Tự-đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu-thượng, thuộc phủ Vĩnh-tường. Bấy giờ quan quân tán-dương quân-vụ tỉnh Sơn-tây là Tôn thất Thuyết về đánh một trận. Giặc ấy từ đó tan dần.

Năm sau Tôn thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ-loa, và dẹp yên được ở mạn Sơn-tây. Nhưng đến năm mậu-dần (1878), ở Lạng- sơn lại có tên giặc Khách là Lư dương Tài nổi lên.

Lư dương Tài trước làm quan hiệp-trấn ở Tầm-châu, thuộc tỉnh Quảng-tây, sau bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh Lạng-sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan đề-đốc Quảng-tây là Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta hội- tiễu. Đến tháng 9 năm kỷ-măo (1879), quan quân mới bắt được Lư dương Tài ở núi Nghiêm-hậu thuộc tỉnh Thái-nguyên đem giải sang Tàu.

V́ đất Bắc-kỳ cứ có giặc giă luôn cho nên Triều-đ́nh đặt ra chức Tĩnh-biên-sứ để giừ các nơi về đường ngược. Năm canh-th́n (1880), đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai viên Tĩnh-biên phó-sứ là Trương quang Đản đóng ở Lạng-giang và Nguyễn hữu Độ đóng ở Đoan-hùng, lại phong cho Hoàng kế Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai đạo .

3. Sự giao-thiệp với Tàu.

Nước ta từ xưa đến nay tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, th́ rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm tự-nhiên v́ rằng triều-cống cũng không tổn hại ǵ mấy, mà nước vẫn độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng mạnh hơn ḿnh. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.

Các vua đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước th́ vua phải ra Hà-nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong cho. Đến đời vua Dực- tông th́ sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài.

C̣n những cống phẩm th́ cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng-đốc Lưỡng-Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên-kinh. Trong đời vua Dực-tông th́ sử chép rằng năm mậu-th́n (1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục, ông Hà văn Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc-kỳ.

Từ năm giáp-tuất (1874) trở đi, Triều-đ́nh ở Huế đă kư tờ ḥa-ước với Pháp, công nhận nước Nam độc-lập, không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ v́ thế bất-đắc-dĩ mà kư tờ ḥa-ước, cứ trong bụng vua Dực-tông vẫn không phục, cho nên ngài vẫn cứ theo lệ cũ mà triều-cống nước Tàu, có ư mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp ḿnh. Bởi vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên tức là ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm canh-th́n (1880), lại sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn Hoang sang Yên-kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống-phẩm. Năm sau, Triều-đ́nh nhà Thanh sai Đường đ́nh Canh sang Huế bàn việc buôn-bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ư là để thông tin cho chính phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.

Một bên đă ḥa với nước Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp mà độc-lập 168 , một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ư để cầu viện, bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đ́nh ta vậy.

4. T́nh-thế nước Tàu.

Xưa nay ta vẫn công nhận nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống. Hễ khi nào trong nước có việc biến- loạn và vẫn trông mong nước Tàu sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước bên Tây-âu mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà t́nh thế nước Tàu th́ rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19 (1839) tức là năm Minh-mệnh thứ 20 bên ta, v́ việc cấm thuốc nha- phiến ở Quảng-đông thành ra có chiến-tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước Anh đánh phá thành Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Vua Đạo Quang phải nhận những điều ḥa-ước năm nhâm-dần (1842) làm tại Nam-kinh, nhường đảo Hương-cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng-châu, Hạ-môn, Phúc-châu, Ninh-ba và Thương-hải ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.

Cuộc ḥa-ước ở Nam-kinh định xong, các nước ngoại-dương vào buôn-bán ở nước Tàu và đặt lĩnh-sự ở Quảng-châu, Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Đến năm Hàm-phong thứ 8 (1858), tức là năm Tự-đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp kư tờ ḥa-ước với nước Tàu, đặt sứ-thần ở Bắc-kinh. Đoạn nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến-tranh với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải-khẩu, rồi kéo lên đánh lấy Bắc-kinh. Vua Hàm-phong phải nhận những điều ḥa-ước năm canh-thân (1860) làm tại Thiên-tân.

Từ đó nước Tàu bị các nước khác sách-nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác ǵ cái nhà lớn đă bị hẩm-nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê-mộng là nước ấy c̣n cường thịnh, có thể giúp ta được trong khi nguy-hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp đă lấy Bắc-kỳ rồi, người ḿnh c̣n trông cậy ở quân cứu-viện của nước Tàu. Phương-ngôn ta có câu rằng " Chết đuối vớ phải bọt " thật là đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, th́ trước hết họ hăy cứu lấy họ đă. Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ-phu trong nước ta, ai là người hiểu rơ cái t́nh-thế ấy ? Cho nên không những là ta không chịu cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại c̣n làm những điều ngang-ngạnh để cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ lúc ấy cũng không so tránh được cái lỗi của ḿnh vậy.

5. Sự giao-thiệp với nước Pháp.

Từ khi ông Philastre ra điều- đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà-nội, đợi cho đến ngày kư ḥa-ước th́ chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài-g̣n, giao quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La- Đăng). Thiếu-tá có đem binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương và Quảng-yên.

Đến khi tờ ḥa-ước và tờ thương-ước đă kư xong th́ Triều-đ́nh sai ông Nguyễn tăng Doăn ra Bắc-kỳ để cùng thiếu-tá Dujardin chọn đất ở Hà- nội và ở Ninh-hải (Hải-pḥng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp đóng, và lại sai quan thượng-thư bộ Hộ là ông Phạm phú Thứ ra làm Hải-an tổng-đốc sung chức tổng-lư thương-chánh đại-thần, cùng với ông Nguyễn tăng Doăn và ông Trần hi Tăng bàn định việc thương-chánh ở Bắc- Kỳ.

Tháng 6 năm ất-hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm-sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh-sự ở Hải-pḥng, và ông Kergaradec (Kê-la-đích) làm lĩnh-sự ở Hà-nội. Triều-đ́nh sai ông Nguyễn thành Ư vào làm lĩnh sự ở Sài-g̣n.

Ông Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm bính-tí (1876), th́ cáo bịnh xin về, ông Philastre ra thay.

Triều-đ́nh lúc bấy giờ cũng đă hiểu rằng hễ không theo tân-học th́ không tiến-hóa được, cho nên mới định cho người đi du học. Năm mậu-dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu-xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn thành Ư và ông Nguyễn tăng Doăn đem đồ đi đấu-xảo và cho người sang học ở Toulon.

Nhưng v́ năm tân-tị (1881), Triều-đ́nh lại sai quan Lễ-bộ thị-lang là Phạm Bính sang Hương-cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát- lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm-la và sang Tàu mà không cho sứ-thần nước Pháp biết, bởi vậy chính-phủ Pháp lấy những điều đó mà trách Triều-đ́nh ở Huế không theo ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).

Khi ông Philastre c̣n ở Huế, v́ ông ấy là một người công chính và lại có học chữ Nho, cho nên Triều-đ́nh ta trọng-đăi và có điều ǵ trang-trải cũng c̣n dễ. Từ năm kỷ-măo (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự giao- thiệp càng ngày càng khó thêm: phần th́ v́ người ḿnh không biết cách giao thiệp với ngoại-quốc, phần th́ cái quyền-lợi nước ta và nước Pháp lúc bấy giờ tương-phản với nhau, cho nên hai bên không có ḷng tin-cậy nhau, thành ra sự giao-thiệp không được thân-thiết lắm.

Vả về sau, sự cai-trị ở Nam-kỳ đă thành nếp, giặc giă đă yên cả; ở bên Pháp th́ thế lực đă mạnh, và đă có nhiều người bàn đến việc bên Viễn- đông này và việc bảo-hộ ở Bắc-kỳ. Lại nhân có những nước I-ta-ly. I-pha- nho, Anh-cát-lợi và Hoa-kỳ muốn sang thông-thương với nước Nam, mà có ư không muốn chịu để quan nước Pháp phân-xử những việc can-thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn lập hẳn cuộc bảo-hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan hải-quân khiêm lĩnh chức thống-đốc ở Nam-kỳ, mà sai quan văn sang sung chức ấy để trù-tính mọi việc.

Tháng 6 năm kỷ-măo (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang nhận chức ở Sài-g̣n và ông Rheinart lại sang làm khâm-sứ ở Huế để thay cho ông Philastre.

Bắc-kỳ th́ người Pháp đă ra vào buôn-bán, nhưng v́ quan ta không biết lo sự khai hóa, việc thông thương không được tiện-lợi, và ở mạn thượng-du th́ có quân cờ đen tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ thực chúng nó làm ǵ cũng không ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính-phủ Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra Bắc- kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn-bán, kỳ thực là ra kinh-doanh việc ở vùng ấy.

 

CHƯƠNG XI

Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ II

 

1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội

2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai

3. Việc cầu cứu nước Tàu

4. Quân Pháp lấy Nam Định

 

1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội.

- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169, nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882), một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng : đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của quân An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế th́ quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của người nước Pháp.

Được ít lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải Pḥng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.

2. Hạ thành Hà-nội lần thứ hai.

Quan tổng đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đăi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo, cho nên mới sai sửa dọn thành tŕ để pḥng bị. Đại tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ư không bằng ḷng, bèn quyết ư đánh thành.

Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan vơ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8 giờ th́ quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ th́ thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, c̣n các quan th́ bỏ chạy cả.

Lúc tiếp được thư của đại tá, th́ ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, th́ quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai t́m ông Tôn Thất Bá về quyền lĩnh mọi việc 170.

Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm t́m cách chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ư của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành tŕ. Triều đ́nh bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng đốc là Trần Đ́nh Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Hai bên thương nghị măi. Đại tá đ̣i 4 khoản :

1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ

2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước Pháp

3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ

4 - sửa lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người Pháp cai quản.

Bọn ông Trần Đ́nh Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đ́nh hội nghị, các quan có nhiều người nói rằng : nước ta trong c̣n có Lưu Vĩnh Phúc, ngoài c̣n có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả lời không chịu.

Đến tháng 10 th́ ông Trần Đ́nh Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại làm Hà Ninh tổng đốc.

3. Việc cầu-cứu nước Tàu.

Triều đ́nh ta bấy giờ nghĩ nước Pháp cố ư chiếm đoạt, và lại tưởng rằng nước Tàu có thể bênh vực được ḿnh, cho nên mới sai ông Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua

là người ḿnh có hay có tính ỷ lại, cho nên mới đi kêu cầu người ta, chứ không biết rằng người Tàu giữ nước Tàu không xong c̣n đi cứu ai được. Tuy vậy, không những người Tàu không cứu được ḿnh mà lại c̣n muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước ḿnh. Xem như khi thành Hà nội thất thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng : "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến th́ ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà". Bởi vậy triều đ́nh nhà Thanh mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.

4. Quân Pháp lấy Nam-định.

Chính phủ Pháp trước cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đ́nh ở Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam Kỳ, để thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá Henri Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.

Nguyên trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại tiếp được 750 người nữa, đại tá bèn để đại úy Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà Nội, c̣n bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày 28 tháng 2 năm Quư Mùi (1883), th́ quân Pháp khởi sự đánh thành. Đánh từ sáng dến trưa th́ quân Pháp vào thành; quan tổng đốc Vũ Trọng B́nh bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ Hồ Bá Ôn bị thương.

5. Đại tá Henri Rivière bị chết.

Quan ta thấy quân Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu, bèn quyết ư đổi thế ḥa ra thế công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chực sang đánh Hà Nội. Đại úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh đuổi, quan quân phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan tiết chế Hoàng Kế Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức, để đánh quân Pháp.

Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 th́ đại tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.

Sài G̣n được tin đại tá Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson liền điện về cho chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris hạ nghị viện c̣n đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo ở Sài G̣n về, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu rưỡi phật lăng để chi tiêu về việc binh phí, và lại thuận cho một viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lư mọi việc ở Bắc Kỳ.

Chính phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục quân thiếu tướng Bouet ở Nam Kỳ ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Hải quân thiếu tướng Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và lại cử ông Harmand là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.

Ngày mồng 3 tháng 5, th́ thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến Hải Pḥng. Lập tức thiếu tướng sửa sang sự chống giữ ở Hà Nội và Nam Định, và lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm tiền quân.

Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, Hải Pḥng và ở Nam Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.

Quân ta bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái phá th́ xô đẩy nhau mà chạy; c̣n quân của nhà vua th́ không có luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay th́ ít và xấu. Như thế th́ chống làm sao được với quân Pháp là quân đă quen đánh trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?

Bấy giờ cuộc ḥa đổi ra chiến, súy phủ ở Sài G̣n đuổi quan lĩnh sự Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ư về Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, th́ vua Dực Tông mất.

Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm Quư Mùi (1883), trị v́ được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng Đế.

 

CHƯƠNG XII

Cuộc Bảo Hộ Của Nước Pháp

 

1. Sự phế lập ở Huế : vua Hiệp Ḥa.

2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An

3. Ḥa ước năm Quư Mùi (1883).

4. Việc ở Bắc Kỳ.

5. Vua Hiệp Ḥa bị giết.

6. Vua Kiến Phúc.

7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.

8. Lấy tỉnh Sơn Tây.

9. Lấy thành Bắc Ninh.

10. Lấy Hưng Hóa.

11. Lấy Tuyên Quang.

12. Ḥa ước Fournier.

13. Ḥa ước Patenôtre tháng 6 năm Giáp Thân.

14. Việc Triều chính ở Huế.

15. Vua Hàm Nghi.

 

1. Sự phế lập tại Huế: Vua Hiệp Ḥa.

Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông th́ mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn c̣n, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp đặt.

Ấy cũng v́ thời đại biến đổi mà người ḿnh không biết biến đổi, cho nên nước ḿnh mới thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc Kỳ th́ rối loạn, ở trong Triều th́ quyền thần chuyên chế, bởi vậy cho nên lại sinh ra lắm việc khó khăn 171 .

Vua Dực Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông Dục Đức 172, phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên giang quận công, ba là ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di chiếu nói rằng : đức tính ông Dục Đức không đáng làm vua, mà ư ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng v́ ông ấy c̣n bé, mà việc nước cần phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài lại cho Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.

Được ba ngày th́ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều thần ngơ ngác, không ai dám nói ǵ, chỉ có quan ngự sử Phan Đ́nh Phùng đứng dậy can rằng : "Tự quân chưa có tội ǵ mà làm sự phế lập như thế th́ sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền đem bắt giam Phan Đ́nh Phùng, rồi cách chức đuổi về.

Lạng quốc công, húy Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Ḥa. C̣n ông Dục Đức th́ đem giam ở Dục Đức giảng đường.

2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An.

Vua Hiệp Ḥa vừa lập xong, th́ viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải Pḥng, rồi hội hải quân thiếu tướng Courbet và lục quân thiếu tướng Bouet, để bàn định mọi việc.

Định một mặt th́ thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài; một mặt th́ thiếu tướng Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để bắt triều đ́nh phải nhận nước Pháp bảo hộ.

Ngày 12 tháng 7, thiếu tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Ṿng. Hai bên đánh nhau non ba ngày trời. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở Đồn Phùng. Nhưng v́ lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp không tiến lên được.

Ngày 16, lục quân trung tá Brionval ở Hải Pḥng đem quân lên lấy thành Hải Dương.

Quân Pháp tuy thắng, nhưng quân Cờ Đen c̣n mạnh, nên chi thiếu tướng Bouet phải điện về Paris xin thêm quân tiếp ứng.

Trong khi lục quân thiếu tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc Kỳ, th́ hải quân thiếu tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy th́ thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân th́ nhảy xuống sông tự tử.

3. Ḥa ước năm quư-mùi (1883).

Triều đ́nh thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin ḥa. Viên toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị ḥa. Triều đ́nh sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đ́nh Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.

Ngày 23 tháng 7 th́ tờ ḥa ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De Champeaux, ông Trần Đ́nh Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng kư.

Tờ Ḥa ước có 27 khoản : - Khoản thứ nhất nói rằng : Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc ǵ giao thiệp với ngoại quốc th́ phải do nước Pháp chủ trương. - Khoản thứ hai : Tỉnh B́nh Thuận thuộc về Nam Kỳ. - Khoản thứ ba : Quân Pháp đóng giữ ở núi đèo Ngang và ở Thuận An. - Khoản thứ sáu : Từ tỉnh Khánh Ḥa ra đến đèo Ngang th́ quyền cai trị thuộc về Triều đ́nh.

Những khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. C̣n đất Bắc Kỳ kể từ đèo Ngang trở ra th́ nước Pháp đặt công sứ 173 ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.

Từ ḥa ước kư xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao, nghĩa là mới tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ, viên toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ để kinh lư việc đánh dẹp.

4. Việc ở Bắc Kỳ.

Triều đ́nh ở Huế nhận ḥa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và băi quân thứ ở các nơi.

Bấy giờ ở Bắc Kỳ có quan nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng ở Bắc Ninh, lại có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn Phùng.

Triều đ́nh tuy có chỉ ra truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng quan ta c̣n nhiều người muốn ỷ nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp, cho nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ măi không xong được.

5. Vua Hiệp Ḥa bị giết.

Trong Huế th́ vua Hiệp Ḥa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết.

Hai người thấy vua có ḷng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi bắt vua Hiệp Ḥa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Ḥa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.

Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đă giết vua Hiệp Ḥa rồi, lại thấy quan Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ư ḿnh, cũng sai người giết nốt.

6. Vua Kiến Phúc.

Ngày mồng 7 tháng 10 năm Quư Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc ǵ cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định cả.

Bắc Kỳ th́ Hoàng Kế Viêm c̣n đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản c̣n đóng tại Bắc Ninh, cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở Huế lấy điều đó trách Triều đ́nh. Triều đ́nh lại có dụ ra truyền cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về kinh.

Các quan bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đ́nh, rồi hoặc đi chiêu mộ những người nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri phủ Kiến Xương Hoàng Văn Ḥe bỏ chức mà đi; quan tán tương quân vụ ở Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống giữ với quân Pháp.

7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.

Viên Toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính khố xanh, để pḥng giữ các nơi, và băi lính cờ vàng của thiếu tướng Bouet đă cho mộ được mấy trăm, v́ những lính ấy hay cướp phá dân gian. Nhưng v́ viên Toàn quyền xâm vào quyền quan binh, cho nên thiếu tướng Bouet lấy làm bất b́nh.

Ngày mồng một tháng 8, thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai bên đánh nhau rất dữ. Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa được và lại có ư bất ḥa với viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền lại cho đại tá Bichot.

Được ít lâu, có quân tiếp ở Sài G̣n ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh B́nh.

8. Lấy Sơn Tây.

Ngày 25 tháng 9, chính phủ Pháp điện sang cho hải quân thiếu tướng Courbet làm thống đốc quân vụ, kiêm chức Toàn quyền ở Bắc Kỳ. Viên nguyên Toàn Quyền Harmand xin về Pháp.

Từ đó việc binh nhung, việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay thiếu tướng Courbet. Trong khi thiếu tướng c̣n phải sửa sang mọi việc và đợi quân tiếp ở Pháp sang th́ quan ta đem quân về đánh Hải Dương, đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân, bèn bắt đầy vào Côn Lôn.

Đến khi thiếu tướng tiếp được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ bấy giờ được hơn 9000 người, thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả thủy bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ Đen chống giữ hăng lắm, nhưng quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, đều bỏ thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng phải chạy theo. Trận ấy quân Pháp bị 83 người tử trận và 319 người bị thương.

9. Lấy thành Bắc Ninh.

Quân Pháp tuy đă lấy dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông, thiếu tướng phải chờ có quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên Pháp lại sai một lữ đoàn174 sang Bắc Kỳ và sai lục quân trung tướng Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho hải quân thiếu tướng Courbet.

Ngày 16 tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức, thiếu tướng Courbet được thăng lên hải quân trung tướng và lại ra coi hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn 6 ngh́n người và 10 đội pháo thủ, chia làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà th́ đóng ở Hà Nội, có thiếu tướng Brière de l'Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà, th́ đóng ở Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier coi.

Bấy giờ con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân ta đóng. Thống tướng Millot bèn truyền lệnh cho thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân qua sông Hồng Hà, rồi theo sông Đuống (tức là sông Thiên Đức) đi về phía đông. C̣n toán quân của thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, để tiếp vào với toán quân của thiếu tướng Brière de l'Isle, rồi cả thủy bộ theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.

Hai bên khởi sự đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, th́ lấy được Đáp Cầu. Quân Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày 16, th́ quân Pháp vào thành Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 bị thương mà thôi.

Thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23 th́ lên lấy thành Thái Nguyên.

10. Lấy Hưng Hóa. Hạ dược thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp quay về mạn sông Hồng Hà để đánh lấy Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière de l'Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên khởi sự đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều ngày hôm ấy th́ quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng ngày 16, th́ thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nh́ tiếp đến, cả hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy thế không chống được, bèn đốt cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hóa rút lên mạn ngược. C̣n bọn ông Hoàng Kế Viêm th́ kéo lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 th́ quân Pháp vào thành Hưng Hóa. Lập tức thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.

11. Lấy Tuyên Quang.

Lấy xong Hưng Hóa rồi, chỉ c̣n có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen c̣n đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi ḍ xem sông Lô Giang tàu thủy lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Tŕ khởi hành từ hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 th́ đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ đồng hồ th́ quân Cờ Đen bỏ thành chạy.

12. Ḥa ước Fournier.

Bấy giờ tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản cả, nhưng quân Tàu c̣n đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp tên là Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc Trực lệ là Lư Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện việc ḥa với nước Tàu. Détring điện về cho Lư Hồng Chương biết. Hai bên đều có ư muốn ḥa cho êm chuyện.

Chính phủ Pháp bèn sai trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lư Hồng Chương nghị ḥa. Đến ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), th́ lập xong tờ ḥa ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân đóng ở Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận nhận tờ giao ước của nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam.

13. Ḥa ước Patenôtre tháng 5 Giáp Thân (1884).

Tờ giao ước kư xong th́ trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc Kỳ biết sự ḥa ước đă xong, mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.

Lúc bấy giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang, đi qua đến Sài G̣n, chính phủ ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế sửa lại tờ ḥa ước của ông Harmand đă kư ngày 23 tháng 7 năm Quư Mùi (1883).

Ông Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đ́nh thương nghị mấy ngày, rồi đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thuận Duật và ông Tôn Thất Phan kư tờ ḥa ước mới. Cả thảy có 19 khoản, đại để th́ cũng như tờ ḥa ước của ông Harmand, chỉ đổi có mấy khoản nói về tỉnh B́nh Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.

Tờ ḥa ước kư xong, ông Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre hội cả các quan, bắt đem cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam thụt, bễ nấu lên mà hủy đi, nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.

Ḥa ước kư năm Giáp Thân là năm 1884, là ḥa ước của Triều đ́nh ở Huế kư với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần ḥa ước năm 1884 cũng mất cả ư nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đ́nh ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.

Nước Việt Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các nước khác. Văn hóa, lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi kỳ có một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là nước.

Một nước mà tam phân ngũ liệt ra như thế, thật là một mối đau ḷng cho người Việt Nam là dân một nước đă có một lịch sử vẻ vang hàng mấy ngh́n năm.

14. Việc Triều Chính ở Huế.

Triều đ́nh lúc bấy giờ việc ǵ cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.

Tôn Thất Thuyết là người tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài năng th́ kém, mà lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết. Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng Trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có tính tham lam và lại tàn nhẫn.

Hai ông ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại th́ ở tay ông Tường, binh quyền th́ ở tay ông Thuyết. Nhưng mà thường việc ǵ cũng do ở ông Thuyết xui khiến cả. Trong Triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan, ai có điều ǵ trái ư hai ông ấy là bị giam ở chấp hay là chém giết cả.

Ông Thuyết th́ mộ quan phản nghĩa để giữ ḿnh, và thường hay tiếm dụng nghi vệ của vua; ông Tường th́ chịu tiền hối lộ của những người Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không tiêu th́ phải tội. Vả lúc ấy vua hăy c̣n trẻ tuổi chưa biết ǵ, cho nên hai ông ấy lại càng chuyên chế lắm nữa.

Vua Kiến Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) th́ phải bệnh mất 175, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng Đế.

15. Vua Hàm Nghi.

Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh Mông lên nối ngôi th́ phải. Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập người lớn tuổi, sợ ḿnh mất quyền, bèn chọn người con ông Chánh Mông là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.

Viên Khâm sứ Rheinart trước đă tư giấy sang cho Triều đ́nh Huế rằng : Nam triều có lập ai làm vua, th́ phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết.

Viên Khâm sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức tham mưu là đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế, bắt Triều đ́nh phải xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua. Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ. Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng 6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Xong rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.

CHƯƠNG XIII

Chiến Tranh Với Nước Tàu

1. Trận Bắc Lệ.

2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.

3. Trận đồn Chữ và đồn Kép.

4. Trận Yên Bạc.

5. Lấy thành Lạng Sơn.

6. Thành Tuyên Quang bị vây.

7. Mất thành Lạng Sơn.

8. Ḥa ước Thiên Tân.

 

1. Trận Bắc Lệ.

Tại Bắc Kỳ th́ quân Pháp tưởng là việc ḥa ước với nước Tàu đă xong, chỉ c̣n đợi ngày quân Tàu rút về, th́ lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ ḥa ước của trung tá Fournier kư ở Thiên Tân, th́ vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, th́ thống tướng Millot sai trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng một tháng 5 nhuận th́ quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp sang sông Thương, th́ quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị thương. Được một chốc bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đă biết có ḥa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoăn lại 6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng : trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về th́ quân Pháp cứ việc tiến lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, th́ quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, c̣n những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.

Thống tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá rồi, thiếu tướng Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và quân ở bên Pháp sang.

2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.

Chính phủ bên Pháp tiếp được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải quân trung tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc Kinh đ̣i nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết măi, đến ngày 29 tháng 6, th́ chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đ̣i nước Tàu 80 triệu phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba tháng 7 năm Giáp Thân (1884), th́ hải quân trung tướng được lệnh khởi sự đánh Phúc châu.

Trung tướng truyền lệnh cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá các xưởng làm binh khí ở Phúc Châu, và lại đánh cả chiến thuyền của Tàu đóng ở trong sông Mân Giang. Trung tướng bắn phá ở Phúc Châu rồi đem binh thuyền ra vây đánh đảo Đài Loan.

Hải quân của Pháp vây Đài Loan và các cửa bể măi đến tháng 6 năm Ất Dậu (1885), nước Tàu kư ḥa ước rồi, mới thôi.

3. Trận Đồn Chũ và Đồn Kép.

Trong khi hải quân của Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp măi không thấy sang, đến trung tuần tháng 7, thống tướng Millot bèn cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l'Isle.

Được ít lâu, thiếu tướng Brière de l'Isle tiếp được 6 ngh́n quân ở Pháp sang, số quân bấy giờ cả thảy được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn chia ra làm 4 đạo để đi đánh quân Tàu và quân ta; thiếu tá Servière đem một đạo quân lên mạn Đông Triều; trung tá Donnier đem một đạo quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung tá Defoy đem một đạo quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu tướng De Négrier th́ đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8, quân Pháp tiến lên đóng đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu chống lại được một ngày, mà quân hai bên đánh nhau ở đồn Kép hăng hơn cả. Quân Tàu chết có đến 2 000 người; c̣n bên quân Pháp th́ thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân, 27 người tử trận và 100 người bị thương. Quân Tàu chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép, đồn Bảo Lạc và đồn Chũ chạy lui trở về.

Mạn đông bắc, quân Tàu đă lui, thiếu tướng Brière de l'Isle bèn sai đại tá Duchesne đem 700 quân lên đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn Tuyên Quang và lại sai trung tá Berger đem quân lên giữ Thái Nguyên.

4. Trận Yên Bạc.

Quân Tàu tuy đă thua ở đồn Chũ và đồn

Kép, nhưng vẫn c̣n đóng ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung tuần tháng 11, quân Tàu lại về đóng ở An Châu, thiếu tướng De Négrier đem quân bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn sông Lục Nam lên đánh quân Tàu ở núi Bóp. Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân Pháp thiệt hại mất 19 người tử trận và 65 người bị thương.

5. Lấy thành Lạng Sơn.

Đầu năm 1885 là quăng tháng 11 năm Giáp Thân, thiếu tướng Brière de l'Isle được thăng chức trung tướng và lại tiếp tục được hơn 1 000 quân ở bên Pháp sang. Qua tháng chạp ta, trung tướng mộ non 7 000 phu để tải đồ và đem 7 500 quân, chia ra làm 2 đạo để đánh Lạng Sơn. Đạo thứ nhất th́ thuộc quyền thiếu tướng De Négrier, đạo thứ nh́ th́ thuộc quyền đại tá Giovanninelle.

Con đường đi từ Kép đến Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, mà chỗ nào cũng có quân Tàu đóng, cho nên quân Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ đánh lại, để lấy đồn Tuần Muội 176. Thiếu tướng De Négrier trước đă lên đồn Kép, dương thanh thế tiến binh, rồi lẻn về đồn Chũ đem quân qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn Sung, rồi sang lấy đồn Tuần Muội. Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân Pháp đă chặn mất đường về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh tràn lên đến Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp th́ lấy được thành. Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử trận và 22 người bị thương.

Lấy xong thành Lạng Sơn, quân Pháp nghỉ ngơi mấy ngày, rồi lại tiến lên đánh Đồng Đăng. Quân Tàu chạy phân làm hai ngả : một ngả chạy lên Thất khê, một ngả chạy lên ải Nam Quan về Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885), th́ thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.

6. Thành Tuyên Quang bị vây.

Khi quân Pháp đi đánh mặt Lạng Sơn, th́ quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng Hà và sông Lô Giang lại kéo về đánh Tuyên Quang. Bấy giờ quân Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600 người, thuộc quyền thiếu tá Dominé. Từ đầu tháng mười năm Giáp Thân (1884), quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đă kéo về đóng ở gần phủ Yên B́nh và phủ Đoan Hùng. Đến tháng 11 th́ quân Tàu giữ các chỗ hiểm yếu, để chặn đường không cho quân Pháp ở trung châu lên tiếp ứng, rồi Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên đánh thành Tuyên Quang; đánh măi đến 15 tháng chạp mới vây được thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế dể phá thành, mà quân Pháp ở trong thành cũng cố hết sức để chống giữ.

Lúc ấy quân Pháp đă lấy được thành Lạng Sơn rồi, trung tướng Brière de l'Isle liền để thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng 2 tết đem quân đi đường đồn Chũ về Hà Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên Quang. Ngày 13 tháng giêng năm Ất Dậu th́ lên đến Đoan Hùng rồi sang sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho đến ngày 16, mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng nhiều, nhưng quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút lên mạn ngược.

7. Mất thành Lạng Sơn.

Thành Tuyên Quang vừa giải vây xong, th́ ở Lạng Sơn lại khởi sự giao chiến. Quân Tàu tuy đă thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng đại đồn ở Long Châu, chực sang đánh lấy lại Lạng Sơn.

Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu. Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8, thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, c̣n những người bị thương th́ đem về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35 000 người.

Ngày 13 th́ quân Tàu tràn sang đánh Kỳ Lừa, thiếu tướng De Négrier bị thương nặng, phải giao quyền lại cho trung tá Herbinger để chống với quân địch. Nhưng bấy giờ quân Tàu sang đông quá, trung tá phải bỏ thành Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và đồn Kép.

Trung tướng Brière de l'Isle tiếp được tin bại trận ở Lạng Sơn, liền điện cho chính phủ Pháp để xin tiếp quân sang cứu viện, và lập tức đi tàu lên đồn Chũ để pḥng sự chống giữ.

Quân Tàu lấy được Lạng Sơn rồi chia quân giữ các chỗ hiểm yếu, chứ không dám đuổi xa. C̣n ở mạn sông Hồng Hà, th́ quân Cờ Đen và quân của các quan cựu thần th́ về đánh phá ở mạn gần Hưng Hóa và Lâm Thao.

8. Ḥa Ước Thiên Tân.

Bên Pháp tiếp được điện tín của trung tướng Brière de l'Isle đánh về nói quân Pháp phải bỏ thành Lạng Sơn, th́ ḷng người náo động cả lên. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn kư tờ giao ước đ́nh chiến với nước Tàu. Rồi một mặt th́ truyền lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre lập tờ ḥa ước với chính phủ Tàu; một mặt th́ cho quân sang tiếp ứng Bắc Kỳ và sai trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân sự vụ, trung tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với thiếu tướng Jamont và thiếu tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.

Chính phủ Tàu thấy chiến tranh không có lợi, bèn thuận kư tờ ḥa ước, và lập tức sai quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu (1883) là năm Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre và ông Lư Hồng Chương kư tờ ḥa ước, đại lược nói rằng nước Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt Nam, và lại ḥa thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp th́ trả lại các chỗ mà hải quân đă chiếm giữ ở mặt bể, và thuận bỏ cái khoản tiền binh phí không đ̣i nữa. Ngày hôm quan hai nước kư tờ ḥa ước ở Thiên Tân, th́ hải quân trung tướng Courbet phải bệnh mất ở gần đảo Đài Loan. Hải quân của Pháp cũng chiếu theo điều ước mà rút quân về.

 

CHƯƠNG IV

Loạn ở Trung Kỳ

1. Thống tướng De Courcy vào Huế.

2. Triều đ́nh chạy ra Quảng Trị.

3. Nguyễn Văn Tường ra thú.

4. Xa giá các bà Thái hậu về Khiêm Lăng.

5. Quân Cần vương.

6. Vua Đồng Khánh.

7. Thống tướng De Courcy phải triệt về.

8. Vua Hàm Nghi ở Quảng B́nh.

9. Ông Paul Bert.

10. Lập Tổng đốc Toàn Quyền.

1. Thống Tướng De Courcy vào Huế.

 

Việc đánh nhau với Tàu xong, th́ tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành. Nhưng ở các nơi, những quan cũ ta c̣n chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế th́ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường.

Tháng 9 năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, pḥng khi có việc ǵ th́ đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng v́ các ông ấy có ư muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đă chiếm giữ Mang Cá ở thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.

Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự ḥa ước với Tàu đă xong, bởi vậy thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đ́nh ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đă nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp, đă biết t́nh h́nh ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5 th́ thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đ́nh cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đ̣i hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.

Hai ông ấy lúc bấy giờ c̣n đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay ḿnh cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đă tức giận lắm, lại cứ như lời mấy ông quan cựu thần nói chuyện, th́ ông Thuyết là quan văn làm tướng vơ, nhưng h́nh dáng th́ không được thanh tú : đầu th́ trọc, người th́ béo mà đen, cách đi đứng th́ không được chững chạc, sự giao thiệp và đối đáp th́ không sành. Xưa nay th́ chỉ lấy quyền thế mà đè nén người ta, hơi một tí th́ lấy sự chém giết làm oai. Đến khi phải ra theo lễ bang giao mà đối với một người tướng ngoại quốc như ông De Courcy th́ trong bụng khiếp sợ không biết ra thế nào.

Ông Tường th́ là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ có một ḿnh ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy mà thôi, c̣n ông Thuyết th́ cáo bệnh không sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.

Tôn Thất Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần th́ tức giận, phần th́ sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xuôi khiến bèn quyết ư sửa soạn để đánh nhau.

Thống tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, th́ phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đ́nh thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, c̣n quân lính th́ xin đi cửa hai bên, thống tướng nhất định không chịu.

2. Triều đ́nh chạy ra Quảng Trị.

Trưa hôm 22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận.

Các quan thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ư tứ ǵ mà khinh mạn Triều đ́nh đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi th́ sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn ǵ chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho đến mới định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.

Chiều hôm ấy thống tướng làm tiệc đăi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, th́ súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất th́nh ĺnh nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, th́ quân ta thua chạy177. Nguyễn Văn Tường cho người vào điện tâu xin rước vua và các bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng 178. Khi xa giá ra gần đến cửa hữu th́ gặp Nguyễn Văn Tường đă chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa Thiên Mụ, th́ Tôn Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá quay trở về Trường Thi 179.

Lúc bấy giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian th́ trẻ cơng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng t́m đường tránh cho khỏi chỗ binh đao.

Xa giá đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, th́ Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường, nói rằng quân Pháp đă sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản 180 ra rước xa giá vào Hành cung và đặt quân lính để pḥng giữ.

Trận đánh nhau ở Huế, quân Pháp mất 16 người và 80 người bị thương. Sách tây chép rằng quân ta chết đến vài ngh́n người, c̣n bao nhiêu khí giới lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.

3. Nguyễn Văn Tường ra thú.

Tại Huế, cả buổi sáng hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành tŕ và giữ ǵn các nơi. C̣n quan ta, người th́ đi theo xa giá, người th́ ẩn nấp một nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard, rồi nhờ ông ấy đưa ra thú với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn Tường ra ở Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi việc.

4. Xa giá các bà thái hậu về Khiêm Lăng.

Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh để cho yên ḷng người. Nhưng lúc ấy vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng thái phi là vợ thứ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết ǵn giữ, sớ của Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho vua biết. Ai cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi phục. Đức Từ Dụ và hai bà Thái hậu nhất định không chịu đi.

Ngày 27, Tôn Thất Thuyết nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại Quảng Trị và xin rước vua lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào lạy ba bà Thái hậu : t́nh ly biệt, nỗi sầu thảm, kể sao cho xiết ! Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, th́ bọn nội giám đều trở lại nói rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, th́ tam cung mới tiếp được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về Huế, mọi việc đă thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua trở lại để cùng về Huế, nhưng t́m măi không biết vua ở đâu, chỉ tiếp được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói Nguyễn Văn Tường phản trắc nọ kia, xin đừng có nghe. Nguời bàn đi, kẻ bàn lại, ai nấy phân vân chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn Tường ra giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ư về Kinh, định ngày mồng 4 th́ lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ giá. Đến chiều tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm cung. Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và kể t́nh mọi việc.

Trong khi vua c̣n đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc, giao quyền binh bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux, để băi việc binh lính của ta đi, và gọi quan kinh lược ở Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là Phan Đ́nh B́nh về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. V́ hai ông ấy ở Bắc Kỳ đă hiểu mọi việc và đă biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên thống tướng đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp ư nhau, Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.

5. Quân Cần Vương.

Tôn Thất Thuyết ở Quảng B́nh làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, c̣n tự B́nh Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo. Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.

Thống tướng De Courcy thấy chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội các tướng lại để bàn sự đánh dẹp. Thống tướng đỉnh sai đại tá Pernot đem 1 500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết, lại sai thiếu tướng De Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa dánh vào. Nhưng chính phủ ở Paris điện sang không cho thống tướng khởi sự dùng đại binh, và lại nhân lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp chết hại đến ba bốn ngh́n người, bởi vậy cho nên việc dùng binh phải đ́nh lại.

Tại Huế th́ măi không ai biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đ́nh th́ mỗi ngày một rối, việc lập vua mới th́ tuy rằng đă định rồi, nhưng c̣n lôi thôi chưa xong.

Đến ngày 27 tháng 7, vừa hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường, vả bấy giờ ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn Văn Tường xin thống tướng đem trị tội. Bởi vậy sang ngày 28 thống tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất Thuyết, đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu th́ mất, phải ném xuống bể. Nguyễn Văn Tường th́ sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở Thái B́nh Dương, được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê nhà.

6. Vua Đồng Khánh.

Thống tướng De Courcy đày bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ về cùng với Phan Đ́nh B́nh coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng lại sai ông De Champeaux lên Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông Chánh Mông là Kiên giang quận công lên làm vua.

Ngày mồng 6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.

Vua Đồng Khánh tính hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được ḷng người Pháp; đ́nh thần th́ nhiều người đă biết theo chính sách của bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn. Nhưng vua Hàm Nghi c̣n ở mạn Quảng B́nh, kéo cờ nghĩa để chống nhau với quân Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ, ḷng người c̣n tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh B́nh Thuận trở ra, chỗ nào cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.

Tại Quảng Nam th́ bọn thân hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn pḥng sứ là Trần Văn Dự làm chủ, rồi những tỉnh Phú Yên, B́nh Định, B́nh Thuận đều noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có các ông Trương Đ́nh Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng B́nh có quan nguyên tri phủ là Nguyễn Phạm Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh 181; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn Xuân Ôn và

quan sơn pḥng sứ Lê Doăn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người ấy đều xướng lên việc cần vương. đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện, và đốt phá những làng có đạo. Tại ngoài Bắc th́ các quan cựu thần là quan đề đốc Tạ hiện, quan tán tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Băi Sậy, rồi đi đánh phá ở mạn trung châu, c̣n ở mạn thượng du, th́ ở chỗ nào cũng có quân giặc Tàu quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.

7. Thống tướng De Cource phải triệt về.

Thống tướng De Courcy thấy ở ngoài Bắc có lắm việc, bên để thiếu tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội kinh lư mọi việc. Nhưng v́ thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, cho nên công việc càng ngày càng khó thêm. Tại Pháp th́ có nhiều người không muốn giữ đất Bắc Kỳ, có ư muốn băi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, thủ tướng nước Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75 triệu phật lăng để chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng để xét việc ấy. Hội đồng định rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu th́ đảng theo chính phủ được 274 phiếu, và đảng phản đối với chính phủ được 270, nghĩa là đảng muốn giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong nghị viện có nhiều người không hợp ư ḿnh bèn xin từ chức.

Ông Freycinet lên làm thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn điện sang triệt về Pháp, giao binh quyền lại cho trung tướng Warnel, và sai ông Paul Bert là quan văn sang sung chức thống đốc, để kinh lư mọi việc ở nước Nam.

8. Vua Hàm Nghi ở Quảng B́nh.

Bấy giờ tuy ở Huế đă lập vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần c̣n có nhiều người theo pḥ vua Hàm Nghi, quyết chí chống lại với quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem quân ra đóng ở thành Quảng B́nh, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết thông với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá rất dữ. Đại tá Chaumont bèn để đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng B́nh, rồi trở về Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở thành Nghệ An, chia quân đi tuần tiễu các nơi.

Tôn Thất Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng B́nh, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu 182.

Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân183, hết sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.

Tháng giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ vào Nghệ An, rồi chia làm hai đạo : một đạo th́ thiếu tá Pelletier đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn Tuyên Hóa; một đạo th́ trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi vào đóng ở sông Gianh.

Tại Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở Minh Cầm, rồi trung tá Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân chống lại không nổi, phải tan cả.

Nhưng qua sang tháng hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống dốc Paul Bert đă sang đến nơi, chính sách đổi lại cả, cho nên mới triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng Khê, ở Roon và ở chợ Đồn mà thôi. Quân văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở về đóng ở các đồn cũ.

9. Ông Paul Bert.

Ngày mồng 5 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát về việc tài chính. Đến cuối tháng 3 th́ thống đốc vào yết kiến vua Đồng Khánh ở Huế, và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh lược đại sứ được quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc. V́ rằng ở ngoài Bắc vào đến Huế đường xá xa xôi, có việc ǵ phải tâu bẩm vào Bộ mất nhiều ngày giờ lắm, bởi vậy xin cho được tự tiện làm việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu về vua biết.

Thống đốc Paul Bert ở Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà Nội, rồi một mặt th́ lo đánh dẹp, một mặt th́ mở Pháp Việt học đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ư của thống dốc là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Nhưng cũng v́ thống đốc phải lo nghĩ

Chính phủ Pháp sai ông Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay ông Paul Bert.

10. Lập Tổng Đốc Toàn Quyền Phủ.

Nước Pháp đă lấy đất Nam Kỳ, lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở ra một cuộc thuộc địa lớn ở Viễn đông này; nhưng buổi đầu th́ mỗi xứ có một chức thủ hiến để coi riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ nước Pháp mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy xứ ở nước ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh Hợi (15 tháng 11 - 1887), th́ viên Tổng đốc toàn quyền mới, tức là viên Tổng đốc toàn quyền trước nhất, là ông Constant sang nhận chức ở Sài G̣n.

Từ đó ở các nơi như Nam Kỳ th́ có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao Miên th́ mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc kỳ và Lào th́ mỗi nơi có viên Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt; những việc ǵ quan hệ đến chính sách cả toàn cảnh th́ phải theo lệnh viên Tổng đốc toàn quyền mà thi hành.

 

CHƯƠNG XV

Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ

 

1. Việc đánh dẹp ở các nơi

2. Vua Đồng-khánh ra Quảng-B́nh

3. Hoàng kế Viêm ra quân thử mạn Quảng-B́nh

4. Lập đồn Minh-cầm

5. Vua Hàm-nghi bị bắt

6. Vua Thành-Thái

7. Sự đánh dẹp ở Bắc-kỳ

8. Việc Phan đ́nh Phùng

9. Ḷng yêu nước của người Việt-nam

 

1. Việc đánh dẹp ở các nơi.

Trong khi thống-đốc Paul Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, th́ ở Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải t́m cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn B́nh-thuận, Phú-yên th́ thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem lính tây và lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất B́nh-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng văn-thân ở Phú-yên và B́nh-định, bắt được cử-nhân Mai xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm bính-tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh-hợi (1887), th́ những tỉnh ở phía nam đất Kinh-kỳ đă dẹp yên.

2. Vua Đồng Khánh ra Quảng B́nh . Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.

Ngày 16 tháng 5 năm bính-tuất (1886), xa-gía ở Kinh đi ra, măi đến cuối tháng 7 mới tới Quảng-b́nh. Xa-gía đi đến đâu th́ đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống-cự, cho đến việc vua đi tuần-thú lần ấy, không có kết-qủa ǵ cả. Ra đến Quảng-b́nh th́ vua Đồng-khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường hải đạo trở về Huế.

3. Hoàng Kế Viêm Ra Quân Thử Mạn Quảng B́nh. Vua Đồng-khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục nguyên hàm cho Hoàng kế Viêm và phong cho làm Hữu-trực-kỳ An-phủ kinh-lược đại-sứ, được quyền tiện-nghi hành-sự, để ra Quảng-b́nh dụ vua Hàm-nghi và các quan cựu thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng-khánh ban cho Hoàng kế Viêm đại-lược nói rằng: Nếu vua Hàm nghi mà thuận về, th́ sẽ phong cho làm làm Tổng-trấn ba tỉnh Thanh-hóa, Nghệ-an và Hà-tĩnh, và lại cấp cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu-thần như các ông Trương văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê mô Khải, Nguyễn nguyên Thành, Phạm trọng Mưu, Nguyễn xuân Ôn, Lê doăn Nha, Ngô xuân Quỳnh, ai về thú th́ được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ Quảng-trị trở vào. C̣n như các ông Trần xuân Soạn, Nguyễn phạm Tuân, Phan đ́nh Phùng mà có chịu về th́ sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy đă bàn với viên Thống-đốc Paul Bert, hai bên đă thuận cho như thế, quyết không sai lời.

Bấy giờ quân của quan Đề-đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh-thủy , thuộc huyện Tuyên-chánh; quân của Tôn-thất Đạm là con Tôn-thất Thuyết th́ đóng ở ngàn Hà-tĩnh, về hạt Kỳ-anh và Cẩm-xuyên. C̣n Tôn-thất Thiệp và Nguyễn phạm Tuân th́ pḥ vua Hàm-nghi ở mạn huyện Thanh-hóa.

Ông Hoàng kế Viêm ra Quảng-b́nh, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu , chỉ có bọn thủ-hạ lác đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng kế Viêm ra kinh-lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm đinh-hợi (1887), lại phải triệt về.

4. Lập Đồn Minh Cầm.

Triều-đ́nh ở Huế thấy dùng cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền cho người Pháp t́m kế đánh-dẹp.

Người Pháp cũng biết là thế-lực của đảng vua Hàm-nghi chẳng được bao nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần địa-thế và mua chuộc những đứa làm tay trong, th́ tất thế nào rồi cũng trừ hết được, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.

Trước đại-úy Mouteaux ở Quảng-b́nh đă cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đành phá măi. Đến tháng giêng năm đinh-hợi (1887), đại-úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh-cầm đóng ở mé trên Thanh- thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có nghĩa-khí, và trong khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn-ác, cho nên đại- úy vẫn có ư trọng lắm. Trước đă cho người đưa thư lên dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: "Tôi v́ vua, v́ nước, chết sống cũng một ḷng làm cho hết việc bổn-phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc nghĩa".

Từ khi quân Pháp đóng đồn ở Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực th́ ra mạn Hà-tĩnh, Ông Nguyễn phạm Tuân th́ lên đóng ở làng Yên-lộc về phía sông Gianh.

Qua tháng 3, nhờ có do thám, biết chỗ ông Nguyễn phạm Tuân đóng, đại-úy Mouteaux bèn đem quân lên vây làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn phạm Tuân, trong khi bất ư, đều bị bắt cả. Ông Nguyễn phạm Tuân phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày th́ mất.

Quân Pháp tuy đă trừ được ông Nguyễn phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hăy c̣n, và vẫn chưa biết rơ vua Hàm-nghi ở chỗ nào, sau có những người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm-nghi th́ mưu với tên Trương quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở đấy và từ khi vua ra ở vùng ấy nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí-độ tiểu-nhân, th́ chắc có lẽ mua chuộc nó được. Đại-úy định t́m cách để thông với tên Ngọc, cho người đi do-thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc, bèn đem quân lên vây làng ấy. Nhưng khi lên đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được. Đại-úy sai t́m trong làng chỉ thấy có một bà lăo, đại-úy bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lăo ấy đưa cho nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.

Được mấy hôm kỳ-dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm, đại-úy đưa cho chánh-tổng những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy b́ gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua Hàm-nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết ḷng giúp người Pháp, nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra th́ không thành.

Từ đó việc bắt vua Hàm-nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy giờ có người con thứ Tôn-thất Thuyết là Tôn-thất Thiệp giữ-ǵn vua Hàm- nghi một cách nghiêm-mật qúa. Tôn-thất Thiệp thề sống chết không để cho quân Pháp bắt vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về thú th́ bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đă nhị tâm, nhưng chưa dám hạ thủ.

ở mé ngoài, th́ các ông Lê Trực và Tôn-thất Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại-úy Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc-mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.

5. Vua Hàm Nghi Bị Bắt . Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên đại-tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng-b́nh, rồi chia quân đi tuần-tiễu, để t́m vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành công được. Quân Pháp đă toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên suất-đội Nguyễn đ́nh Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả, phía trên đồn Minh- cầm, và khai rơ t́nh-cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về t́nh- nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.

Người Pháp truyền cho bọn tên Ngọc phải làm thế nào bắt sống được vua Hàm-nghi, c̣n những người khác hễ ai chống cự, th́ cứ giết đi.

Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh-lang và Thanh-cuộc lên vây làng Tả-bảo 184

là chỗ vua Hàm-nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó sông vào, th́ Tôn-thất Thiệp c̣n đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, th́ chúng đâm chết. Vua Hàm-nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết tao đi, c̣n hơn đưa tao về nộp cho Tây". Ngài vừa nói dứt lời, th́ bọn chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi dựt thanh gươm ra. Từ khi ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng ǵ nữa.

Sáng ngày hôm sau, bọn tên Ngọc vơng ngài ra đến bến Ngă-hai, rồi đem xuống cái bè, đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh-lang, nộp cho viên đại-úy coi đồn ấy là ông Boulangier. Đại-úy lập tức đem ngài về đồn Thuận- bài đóng ở tả-ngạn sông Gianh, gần chợ đồn.

Vua Hàm-nghi bấy giờ đă 18 tuổi, quan Pháp lấy vương- lễ mà tiếp- đăi. Tuy vậy ai hỏi ǵ, ngài cũng không nói, chỉ nhất-thiết chối rằng ḿnh không phải là vua.

Nhưng đến lúc vào trong buồng ngồi một ḿnh, th́ hai hàng nước mắt chứa-chan, buồn v́ nỗi nước đổ nhà tan, thân ḿnh phải nhiều nỗi gian- truân.

Người Pháp đem vua Hàm-nghi xuống tầu về Thuận-an, rồi đem sang để ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc-địa của nước Pháp, ở phía bắc châu A- phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi phật-lăng 185 .

Tên Trương quang Ngọc được hưởng hàm lĩnh-binh, tên Nguyễn đ́nh Tinh cũng được thưởng hàm quan vơ. C̣n bọn thủ-hạ, đứa th́ được thưởng hàm suất-đội, đứa th́ được thưởng mấy đồng bạc.

Tôn-thất Đạm ở ngàn Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm-nghi bị bắt, bèn hội cả bọn tướng sĩ lại, truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng vua Hàm-nghi, xin tha lỗi cho ḿnh làm tôi không cứu được vua, và một bức gửi cho thiếu-tá Dabat, đóng ở đồn Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư rồi, Tôn-thất Đạm nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta th́ vào t́m thấy mả ta ở trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận 186 .

Ông Tôn-thất Thuyết làm đại-tướng mà cư-xử ra một cách rất hèn- nhát không đáng làm người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người con th́ thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể che được cái xấu cho cha vậy.

Quan đề-đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận- bài. Triều-đ́nh ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời-lẽ của quan đề-đốc cũ nói khảng-khái, không được khiêm-tốn, có ư bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người trung-nghĩa, có ḷng qúi-trọng, tha cho về yên nghiệp ở nhà.

Ông Tôn-thất Đạm và ông Lê Trực là người phản-đối với nước Pháp lúc bấy giờ, nhưng các ông ấy v́ việc nước mà hết ḷng làm việc bổn-phận cho nên người Pháp cũng biết lượng t́nh mà thương-tiếc. Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc huyện tuyên-hóa, tỉnh Quảng-b́nh, người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ư kính-trọng lắm. Người bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.

6. Vua Thành Thái . Ngày 27 tháng chạp năm mậu-tí là ngày 28 tháng giêng năm 1888, vua Đồng-khánh phải bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh-tông Thuần-hoàng-đế.

Bấy giờ ông Rheinard lại sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua Đồng-khánh c̣n nhỏ, và lại nhớ ông Dục-đức ngày trước, khi vua Dực-tông hày c̣n, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viêm Khâm-xứ nghĩ đến t́nh cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông Dục-dức lên làm vua.

Ông Bửu Lân bấy giờ mới lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở trong ngục. Triều-đ́nh vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thành-thái, cử ông Nguyễn trọng Hợp và ông Trương quang Đản làm Phụ- chính.

7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ . Khi nhà Thanh bên Tầu đă kư ḥa-ước với nước Pháp ở Thiên-tân rồi, quân Tầu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu- thần như quan Tán-tương quân-vụ là Nguyễn thiện Thuật và quan Đề-đốc Tạ Hiện c̣n giữ ở vùng Băi-sậy thuộc Hải-dương cùng với các thổ-hào như Đốc Tít ở vùng Đông-triều; Đề Kiều ở vùng Hưng-hóa; Cai Kinh, Đốc Ngữ ở vùng Phủ-lạng-thương và Yên-thế; Lương tam Kỳ, dư đảng cờ đen, ở vùng chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc ấy quan quyền kinh-lược-sứ là ông Nguyễn trọng Hợp cử quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng cao Khải làm chức Tiểu-phủ-sứ đi đánh-dẹp ở vùng Băi-sậy.

Hoàng cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn-thân người th́ tử trận, người th́ bị bắt. Nguyễn thiện Thuật chạy sang Tầu, sau mất ở Nam-ninh, thuộc quảng-tây. Đốc Tít ra hàng, phải đầy sang ở thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, măi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết.

Hoàng cao Khải đi đánh-dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lănh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.

8. Việc Phan Đ́nh Phùng . Từ năm kỷ-sửu (1889) là năm Thành- thái nguyên-niên cho đến năm qúy-tị (1893) là năm Thành-thái ngũ-niên, đất Trung-kỳ không có việc ǵ quan-hệ lắm. Các quan cựu-thần, người th́ về thú, người th́ ẩn-nấp ở chỗ sơn-lâm. Riêng ông Phan đ́nh Phùng th́ về ở đồn điền ở Vũ-quang về phía bắc huyện Hương-khê, thuộc tỉnh Nghệ-tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày khởi sự.

Ông Phan đ́nh Phùng người tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ đ́nh-nguyên về đời vua Dục-tông, quan làm đến chức ngự-sử bị bọn quyền-thần là Nguyễn văn Tường và Tôn-thất Thuyết cách chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn-thân để chống cự với quân Pháp. Ông không những là một người có tài văn-chương mà thôi, mà lại là một nhà có thao-lược, sửa-sang quân-lính có cơ-ngũ, luyện-tập tướng-sĩ có kỷ-luật, cho nên đại-úy Gosselin làm quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan Đ́nh-nguyên Phan đ́nh Phùng có tài kinh-doanh việc quân-binh, biết luyện-tập sĩ-tốt theo phép Thái-tây, áo-quần mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan Đ́nh-nguyên đúc ra thật nhiều mà máy-móc cũng hệt như súng Pháp chỉ v́ ḷng súng không xẻ rănh, cho nên đạn không đi xa được".

Đến cuối trung-tuần tháng 11 năm qúi-tị (1893), ông sai người đến vây nhà tên Trương quang Ngọc ở làng Thanh-lang, huyện Tuyên-hóa, bắt tên Ngọc chém lấy đầu để báo-thù về việc tên ấy làm sự phản-ác. Từ đó quân của quan Đ́nh-nguyên vẫy-vùng ở mạn Hương-khê, đảng văn-thân cũ lại về tụ họp ở đấy.

Bấy giờ người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo-động ḷng người ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối năm qúi-tị (1893) cho đến cuối năm ất-mùi (1895) ngót 2 năm trời mà không dẹp yên được, quân-lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo-hộ cũng đă t́m đủ mọi cách, như bảo Hoàng cao Khải viết thư dụ Phan đ́nh Phùng về hàng cho xong cũng không được. Sau cùng Triều-đ́nh ở Huế thấy việc dai- dẳng măi không yên, mới xin chính-phủ Bảo-hộ để sai quan Tổng-đốc B́nh- định là Nguyễn Thân làm Khâm-mạng tiết-chế quân-vụ đem quân ra tiễu- trừ. Ông Phan đ́nh Phùng lúc bấy giờ tuổi đă già, mà thế-lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là lao-khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem quân ra đến Hà-tĩnh, th́ ông đă phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai người đuổi đánh t́m thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người nói rằng việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn, v́ muốn để làm cái tang-chứng cho đảng phản-đối với chính-phủ Bảo-hộ là quan Đ́nh Nguyên đă mất rồi. Từ đó đảng văn-thân tan-vỡ; ai trốn đi mất th́ thôi, ai ra thú th́ phải về Kinh chịu tội.

Nguyễn Thân về Kinh được thăng làm Phụ-chính thay ông Nguyễn trọng Hợp về hưu.

9. Ḷng yêu nước của người Việt Nam.

Người Việt-nam v́ hoàn-cảnh, v́ t́nh thế bắt-buộc phải im hơi lặng tiếng, nhưng ḷng ái quốc mỗi ngày một nồng-nàn, sự uất-ức đau-khổ mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ năm bẩy năm lại có một cuộc phiến-động, như sau việc Phan đ́nh Phùng rồi, có việc Kỳ-đồng và việc Thiên-binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái-b́nh, Hải-dương, Bắc-ninh v.v... Vào quăng năm 1907 ở Hà-nội có việc Đông-kinh nghĩa-thục. Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan bội Châu, Phan chu Trinh, người th́ không sợ tù tội, đứng lên tố-cáo sự tham- nhũng của bọn quan-lại, người th́ ra ngoại-quốc bôn-ba khắp nơi để t́m cách giải-phóng cho nước. Năm 1908, ở Trung-Việt vùng Nghệ-Tĩnh và Nam- Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. ở Hà-nội th́ có việc đầu-độc lính Pháp, rồi ở Thái-nguyên, Hoàng hoa Thám lại nổi lên đánh phá .

Khi bên Âu-châu có cuộc đại-chiến th́ bên ta lại có việc đánh-phá ở Sơn-la và Sầm-nứa và việc vua Duy-tân mưu sự độc-lập, bị bắt đầy sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt-nam bấy giờ có ba ông vua bị đầy: vua Hàm- nghi đầy sang xứ Algérie, vua Thành-thái và vua Duy-tân đầy sang ở đảo Réunion.

Sau cuộc chiến lần thứ nhất, có toàn lính khố xanh nổi lên đánh Thái-nguyên do Đội Cấn và ông Lương ngọc Quyến làm đầu. Năm 1927, ở vùng Nghệ-tĩnh có cuộc phiến-động gây ra bởi đảng Cộng-sản do Nguyễn ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có cuộc cách-mệnh của Quốc- dân-dảng, có Nguyễn thái Học điều-khiển ở Yên-bái và các nơi. Năm 1940, ở Nam-Việt có cuộc phiến-động ở vùng Gia-định, Hốc-môn v.v... Từ khi có cuộc đại-chiến lần thứ hai, nước Pháp bại trận, bị nước Đức chiếm cứ, quân Nhật-bản ở bên Tầu sang đánh Lạng-sơn rồi kư hiệp-ước với người Pháp cho người Nhật được đóng quân ở Đông-pháp. Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đánh quân Pháp và giao quyền nội-trị lại cho vua Bảo-đại. Được mấy tháng th́ quân Đồng-minh thắng trận, Nhật-bản đầu hàng. Đảng Việt-minh 187

dưới quyền lănh đạo của Nguyễn ái Quốc-đổi tên là Hồ chí Minh thừa cơ nổi lên cướp quyền, vua Bảo-đại phải thoái-vị và nhường quyền cho đảng Việt-minh.

Đây chỉ mới nói qua cái đại-lược một đoạn lịch-sử của nước Việt- nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ t́m đủ tài-liệu mà chép cho rơ-ràng và phê-b́nh cho chính-đáng.

 

CHƯƠNG XVI

Công Việc Của Người Pháp Tại Việt Nam

1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa

2. Việc kinh-doanh ở các xứ bảo-hộ

1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa.

Từ khi sự đánh-dẹp các nơi đă yên rồi, các viên Tổng-đốc toàn-quyền lần lượt sang kinh-doanh việc Đông-pháp và lo mở mang về đường chính-trị, kinh-tế và xă-hội theo chính-sách của nước Pháp.

Tháng 3 năm mậu-tí (1888) tức là năm Thành-thái nguyên-niên, ông Richaud sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Tháng tám năm ấy, Triều-đ́nh ở Huế kư giấy nhượng hải-cảng Đà-nẵng, thành-thị Hà-nội và Hải-pḥng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa từ đó là việc cai-trị và pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, th́ việc cai-trị ở các tỉnh trong toàn hạt Bảo-hộ vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do người Pháp điều-khiển và kiểm- duyệt.

2. Việc kinh doanh ở các xứ bảo hộ.

Cuộc Bảo-hộ đă lập xong, người Việt-nam v́ thế bất-đắc-dĩ phải chịu, nhưng phần nhiều người trong ḷng c̣n mong khôi-phục nước nhà, cho nên chính-phủ Bảo-hộ một mặt th́ lo việc pḥng giữ, một mặt lo mở-mang các công-cuộc kiến-thiết để gây thêm mối lợi. Về đường pḥng-giữ, th́ chính-phủ lập ra những đội binh bảo-an, lấy người bản-sứ làm lính. Những lính ấy đội một thứ nón dẹt có giải xanh và múi thắt lưng xanh, cho nên tục gọi là lính khố-xanh. Lính ấy do người Pháp cai-quản ở dưới quyền quan cai-trị người Pháp, cho đi canh giữ các dinh-thự, các công-sở, và cho đi đóng đồn ở các nơi trong vùng thôn-quê, để pḥng-giữ trộm cướp. ở những nơi hiểm-yếu th́ có lính Pháp và lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ là một thứ bộ binh người bản-xứ, cách ăn- mặc cũng như lính khố xanh, chỉ khác là quai nón đỏ mà múi thắt lưng đỏ. Những lính ấy có cơ, có đội do sĩ-quan Pháp cai-quản ở dưới quyền nhà binh Pháp. Khi có việc ǵ quan-hệ th́ đem lính Pháp và lính ấy ra đánh-dẹp.

Về việc hành binh và việc thương-mại, th́ chính-phủ Bảo-hộ trước hết phải lo sửa-sang và mở-mang thêm đường-sá cho tiện sự giao-thông. V́ rằng có đường th́ khi hữu sự, việc đánh-dẹp mới tiện-lợi và việc buôn-bán cũng nhân đó mà được dễ-dàng. Bởi vậy thoạt đầu tiên chính-phủ mở thương-cục, lập xưởng làm tầu thủy chở hàng-hóa và hành-khách đi trong các sông ở trong xứ.

Năm tân-măo (1891), ông De Lanessan sang làm Tổng-đốc toàn- quyền, mở đường xe lửa từ Phủ-lạng-thương lên đến Lơng-sơn, đến năm giáp-ngo (1894), con đường ấy mới xong. Chủ-đích là để cho tiện sự pḥng- giữ ở chỗ biên-thùy.

Chính-phủ Bảo-hộ lại lo mở-mang thêm bờ-cơi về phía Lào. Nguyên đất Lào ngày trước vẫn thần-phục nước Nam. Những nơi như Trấn-ninh, Cam-môn, Cam-cát, v.v. về đời vua Minh-mệnh đă lập thành phủ huyện và đặt quan cai-trị cả. Nhưng về sau nước ta suy-nhược lại có việc chiến-tranh với nước Pháp, cho nên nước Tiêm-la mới nhân dịp mà sang chiến-giữ lấy. Sau có người Pháp tên là Pavie sang dự nước Lào nhận sự bảo-hộ của nước Pháp, rồi đến đầu năm quí-tị (1893), quân Pháp sang lấy lại những đất cũ thuộc về nước Nam ta trước. Bấy giờ quân Tiêm-la ở mạn Cam-môn giết mất một người quan binh Pháp, người Pháp bèn sai hải-quân đem hai chiếc tầu chiến vào sông Mê-nam, lên đậu ở gần thành Băng-cốc (Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy, nước Tiêm-la phải kư, ḥa-ước, nhường những đất Lào cho nước Pháp bảo-hộ, hạn trong một tháng phải rút quân đóng ở bên tả-ngạn sông Mékong về, lại phải bồi thường 2 triệu phật-lăng, và phải trị tội những người dám chống-cự với người Pháp.

Người Pháp lập phủ Thống-sứ ở Vientiane để cai-trị các địa hạt bên Lào.

Năm ất-mùi (1895), viên Tổng-đốc toàn-quyền Rousseau sang thay ông De Lanessan, thấy c̣n nhiều nơi chưa yên bèn vay nước Pháp cho Bắc- kỳ 80 triệu phập-lăng , để chi-tiêu về việc đánh-dẹp và mở-mang.

Năm đinh-dậu (1897), ông Daumer sang làm Tổng-đốc toàn-quyền, chỉnh-đốn lại việc tài-chánh và việc chính-trị. Lập ra sổ chi-thu chung cả toàn cảnh Đông-pháp, định các thứ thuế: thuế đinh, thuế điền, thuế thổ, thuế xuất-cảng, nhập-cảng, v.v., và cho người được độc-quyền lĩnh trưng thuế rượu, thuế muối, thuế nha-phiến. Bỏ nha Kinh-lược ở Bắc-kỳ, giao quyền lại cho viên Thống-sứ (tháng 6 năm đinh-dậu 1897) 188 , vay nước Pháp 200 triệu phập-lăng, để mở đường hỏa-xa trong xứ Đông-pháp và mở-mang thêm việc canh-nông và việc công-nghệ.

Năm nhâm-dần (1902) ông Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Ông Beau chủ việc khai-hóa dân-trí, lo mở-mang sự học-hành và đặt ra Y-tế-cục, làm nhà bệnh-viện, để cứu-giúp những kẻ yếu- đau nghèo-khổ. Ấy là những công-việc làm của chính-phủ bảo-hộ vậy.

TỔNG KẾT

Sách Việt Nam Sử-Lược này chép đến đây hăy tạm ngừng, để sau có tài-liệu đầy-đủ và các việc biến-đổi ở nước Việt-Nam này được rơ-rệt hơn, sẽ làm tiếp thêm 189 .

Việc chép lịch-sử cũng như việc dệt vải dệt lụa, dệt xong tấm nào mới biết tấm ấy tốt hay xấu, c̣n tấm đang dệt, chưa biết thế nào mà nói được.

Ta chỉ biết rằng các dây sợi dệt tấm Nam-sử này c̣n dài, người dệt tuy phải lúc đau yếu, bỏ ngừng công-việc, nhưng c̣n mong có ngày khỏe- mạnh lại dệt thêm, có lẽ lại dệt được tốt đẹp hơn, cũng chưa biết chừng.

Mặc dù nước Việt-nam hiện nay được hoàn toàn độc-lập nhưng sự hay-dở tương-lai chưa biết ra thế nào? Song người bản-quốc phải biết rằng phàm sự sinh-tồn tiến-hóa của một nước, là ở cái chí-nguyện, sự nhẫn-nại và sự cố-gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết sức mà học-tập, mà giữ cái tâm-trí cho bền-vững th́ chắc tương-lai c̣n nhiều hi-vọng. Nước Việt-nam ta đă có cái văn-hóa chẳng thua-kém ǵ ai, và lại có một lịch-sử vẻ- vang, nếu ta biết lợi-dụng cái tiềm-lực cố hữu và cái tính thông-minh hiếu học của ta để theo thời mà tiến-hóa, th́ sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn lịch-sử mỹ-lệ hơn trươc?

Có một điều thiết-tưởng nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều hay của ta đă có, bỏ những điều hủ-bại đi, và bắt-chước lấy những điều hay của người, để gây lấy cái nhân-cách đặt-biệt của dân-tộc ta và cùng tiến với người mà không lẫn với người. Muốn được như thế, ta phải biết phân-biệt cái hay cái dở, không ham muốn những cái huyền-hăo bề ngoài, rồi đồng tân hiệp lực với nhau mà làm mọi việc cho thành cái hiệu-qủa mỹ-măn.

Nước nào cũng có lúc bĩ lúc thái, đó là cái công-lệ tuần-hoàn của tạo-hóa trong thế-gian. Tự xưa chưa thấy có nước nào cứ thịnh măi hay cứ suy măi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người trong nước cứ vững ḷng giữ được cái nghi-lực để sinh-tồn và tiến-hóa, th́ rồi thế nào cũng có ngày chấn-khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một ḍng-dơi nhà Hồng-Lạc, nếu ta biết kiên tâm bền chí, th́ há lại không có một ngày ta có cái địa-vị vẻ-vang với

 

Những Sách Soạn Giả Dùng Để Kê Cứu

A. Sách Chữ Nho Và Chữ Quốc Ngữ:

1. Đại-Việt sử-kư, của Ngô Sĩ-Liên

2. Khâm-định Việt-sử Thông-giám cương-mục

3. Trần-triều thế-phổ hành trạng

4. B́nh Nguyên công-thần thực lục

5. Hoàng Lê nhất thống chí

6. Lịch-triều hiến-chương, của Phan huy Chú

7. Đại Nam thực lục tiền biên

8. Đại Nam thực lục chính biên

9. Đại Nam thống chí

10. Đại Nam chính biên liệt truyện

11. Đại Nam điển lễ toát-yếu, của Đỗ văn Tâm

12. Minh-mệnh chính yếu

13. Quốc-triều sử toát-yếu, của Cao xuân Dục

14. Thanh-triều sử-kư

15. Trung-quốc lịch-sử

16. Hạnh-Thục ca, của bà Nguyễn nhược Thị

B. Sách Chữ Pháp :

1. Cours d'Histoire Annamite, par Trương vĩnh Kư

2. Notion d'Histoire d'Annam, par Maybon et Ruissier

3. Pays d'Annam, par E. Luro

4. L'Empire d'Annam, par Gosselin

5. Abrégé de l'Histoire d'Annam, par Shreiner

6. Histoire de la Cochinchine, par P.Cultru

7. Les Origines du Tonkin, par J. Dupuis

8. Le Tonkin de 1872 à 1886, par J. Dupuis

9. La Vie de Monseigneur Puginier, par E. Louvet

10. L'insurrection de Gia-định, par J. Silvestre

(Revue Indochinoise - Juillet-Aout 1915)

 

163 Hải Dương và Quảng An

164 Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang rồi cho binh thuyền đi cướp phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.

165 Có sách chép là Hoàng Tá Viêm.

166 Sách "L'Empire d'Annam" của capitaine Ch. Gosselin.

167 Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) có làm quyển sách "Le Tonkin de 1872 à 1886) kể những công việc của ông ấy ở Bắc Việt, và nói rơ t́nh ư của các quan coi việc Súy Phủ ở Sài G̣n lúc bấy giờ là thế nào. Ta cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra được nhiều việc rất là tường tận

168 Tờ ḥa ước năm giáp tuất 1874

169 Độc giả hiểu cho rằng những ngày tháng chép trong sách này là theo ngày tháng Việt Nam chứ không phải là theo ngày tháng Tây.

170 Về sau có bài Chính Khí Ca nói về việc quan ta giữ thành Hà Nội lúc bấy giờ, và ai hay ai dở cũng chép rơ ràng. Bài ca ấy không biết ai làm.

171 Những chuyện ở trong Triều lúc bấy giờ, phần nhiều là lấy ở quyển "Hạnh Thục Ca", của Lễ Tân Nguyễn Nhược thị. Bà ấy là một người cung phi của vua Dực Tông sau lại làm thư kư cho bà Từ Dụ, cho nên những việc trong triều bà ấy biết rơ được rơ.

172 Dục Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông Hoàng con nuôi vua Dực Tông gọi là Dục Đức đường, Chánh Mông đường, v.v.... Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong th́ người ta cứ lấy tên nhà học mà gọi.

173 Résident tức là lưu trú quan, nhưng lúc bấy giờ ta chưa quen dùng chữ ấy, và nhân có chữ consul cho nên mới dùng chữ công sứ.

174 Mỗi một lữ đoàn (brigade) có hai vệ quân, độ chừng bảy tám ngh́n người, có chức thiếu tướng coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn (division), có chức trung tướng coi.

175 Có chuyện nói rằng: Khi vua Kiến Phúc se ḿnh, nằm trong điện, đêm thấy Nguyễn Văn Tường vào trong cung, ngài có quở mắng. Đến ngày hôm sau, th́ ngài ngộ thuốc mà mất.

176 Tức là ải Chi Lăng ngày trước.

177 Việc Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp ở Huế, sử ta không nói rơ số quân ta là bao nhiêu. Mà sách Tây có nơi chép là 2 vạn, có nơi chép là 3 vạn. Nhưng cứ những người biết việc ở Huế lúc bấy giờ, th́ quân ta cả thảy độ chừng non 2 vạn trở lại, chứ không hơn.

178 Khiêm Lăng là lăng của vua Dực Tông, có khi gọi là Khiêm Cung cũng là đấy.

179 Trường Thi thủa ấy bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây số.

180 Trương Quang Đản trước làm tổng đốc Bắc Ninh, chống nhau với quân Pháp, sau về Kinh phải giáng xuống tuần phủ ra giữ thành Quảng Trị.

181 Người ở La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, con quan nguyên bố chính Lê Kiên.

182 Tôn Thất Thuyết đi đường thượng đạo ra vùng Hưng Hóa rồi theo thượng lưu sông Đà lên Lai Châu nương tựa vào họ Điêu. Đến lúc nghe tiếng quân Pháp lên đánh, liền bỏ họ Điêu mà trốn sang Tàu. Con cháu họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên đến Lai Châu c̣n có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần hết. Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một người như thế mà làm đại tướng để giữ nước, th́ tài ǵ mà nước không nguy được Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.

183 Sách ông Gosselin chép là Phạm Thuận. Nhưng xét trong sử nước th́ không có ai làm Phạm Thuận, chỉ có Nguyễn Phạm Tuân trước làm tri phủ, sau theo vua Hàm Nghi chống cự với quân Phá, rồi bị đạng phải bắt. Vậy Phạm Thuận tức là Nguyễn Phạm Tuân. nhiều việc, vả lại nay đi kinh lược chỗ này, mai đi kinh lược chỗ nọ, thành ra khí lược suy nhược đi, cho nên mới cảm bệnh nặng, đến ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất (11 tháng 11 năm 1886) th́ mất. Nhà nước đem linh cữu về Pháp mai táng.

184 Những chuyện nói về việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin, cho nên những tên làng tên đất nói ở đoạn này viết không được đúng dấu. Nhưng đại để là những làng mường ở vùng sông Giai, thuộc huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng B́nh.

185 Hiện nay vua Hàm Nghi c̣n ở Algérie, và đă lấy một người nước Pháp, được mấy đứa con.

186 Hai bức thư ấy dịch ra chữ Pháp in ở trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin. Lời lẽ th́ thật là cương nghị đáng bậc thiếu niên anh hùng. Nhưng v́ thư đă dịch ra chữ Pháp nếu nay lại theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta th́ sợ không đúng với bản chính, cho nên không đem vào đây.

187 Việt Minh là tên gọi tắt một đảng cách mệnh gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh do đảng Cộng sản lập ra khi c̣n ở bên Quảng Tây, bên Tàu, để tránh hai chữ Cộng sản cho người ta khỏi ngờ

188 Có một điều rất kỳ, là viên thống sứ Bắc Kỳ là người đại biểu chính phủ Bảo hộ mà lại kiêm chức Kinh Lược Sứ là một chức quan của Triều Đ́nh ở Huế.

189 Trước tôi đă dự bị viết một quyển sách nối theo sách này. Tôi đă thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Chẳng may đến cuối năm bính tuất (1946) có cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi bị đốt cháy, sách vỡ mất sạch, thành ra đành phải bỏ quyển sử ấy mà không làm được nữa. thiên-hạ hay sao? Sự ước-ao mong-mỏi như thế là cái nghĩa vụ chung cả chủng-loại Việt-nam ta vậy.

Hết

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :