CHƯƠNG V
Công Việc
Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc
1. Việc
giao thiệp với nhà Thanh 2. Việc lấy đất Cao Bằng của họ Mạc 3. Quan
chế 4. Việc binh chế 5. H́nh luật 6. Thuế đinh, thuế điền và sưu
dịch 7. Các thứ thuế 8. Sổ chi thu 9. Việc khai mỏ 10. Việc đúc tiền
11. Sự đong lường 12. Việc in sách 13. Việc học hành thi cử 14.
Trường học vơ 15. Làm quốc sử 16. Sự đánh dẹp giặc giă trong nước:
Giặc Ngân già; Giặc Ninh xa: Nguyễn hữu Cầu; Nguyễn danh Phương;
Hoàng công Chất; Lê duy Mật
1. Việc
Giao Thiệp Với Nhà Thanh.
Năm quư
măo (1663), lúc ấy nhà Minh đă mất rồi, vua nhà Thanh có cho sứ sang
dụ vua An Nam về triều cống. Bấy giờ Trịnh Tạc mới cho sứ đem đồ
cống lệ sang Yên Kinh (tức là Bắc Kinh) để cầu phong cho vua Lê. Đến
năm đinh mùi (1667) vua Khang Hy nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua
Lê làm An Nam Quốc Vương. Từ đó hai nước thông sứ với nhau như
thường. Về sau dẫu có lôi thôi về những việc giặc cướp và việc giới
hạn ở phía thượng du, nhưng bao giờ vua nhà Thanh cũng chủ lấy sự
ḥa b́nh, cho nên việc ǵ cũng trang trải xong xuôi.
2. Việc
Lấy Đất Cao Bằng của Nhà Mạc.
Năm ất
sửu (1625) Mạc Kính Khoan đă xin về hàng, được phong làm Thái Úy
Thông Quốc Công, cho giữ đất Cao Bằng. Song đến năm mậu dần (1638)
Kính Khoan mất, con là Mạc Kính Vũ (có chỗ gọi là Mạc Kính Hoàn)
không nhận chức và không chịu về cống, lại tự xưng làm vua hiệu là
Thuận Đức.
Từ đó họ
Mạc cứ thỉnh thoảng đem quân về cướp phá ở mạn Thái Nguyên, quan
quân đánh đuổi nhiều lầ, nhưng không trừ hẳn đi được.
Năm đinh
tị (1667) Trịnh Tạc đem đem đại binh cùng các tướng là Đinh Văn Tả,
Lê Chân, Lê Hiến lên đánh lấy đất Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải bỏ chạy
sang Tàu. Trịnh Tạc mới treo bảng, chiêu tập dân sự về làm ăn, và
đặt quan cai trị, lại sai Vũ Vinh làm đốc trấn đất Cao Bằng, Đinh
Văn Tả làm trấn thủ đất Thất Tuyền (tức là Thất Khê bây giờ).
Mạc Kính
Vũ ở bên Tàu, lấy vàng bạc đút lót cho quan nhà Thanh để tâu xin với
Thanh Đế bắt họ Trịnh trả lại đất Cao Bằng cho họ Mạc. Thanh Đế cho
Kính Vũ về ở Nam Ninh, rồi sai sứ sang thương nghị với Nam triều về
việc ấy. Triều đ́nh An Nam và sứ nhà Thanh bàn đi bàn lại măi, sau
Trịnh Tạc phải chịu trả lại cho họ Mạc đất 4 châu ở Cao bằng là châu
Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang và triệu quan đốc trấn
Vũ Vinh về.
Về sau
Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở đất Vân Nam và đất Quảng Tây, Mạc Kính
Vũ cũng về đảng với Tam Quế mà chống lại nhà Thanh. Đến khi Tam Quế
chết rồi, nhà Thanh đă lấy lại đất Quảng Tây, họ Trịnh muốn nhân dịp
ấy mà trừ họ Mạc cho xong, bèn một mặt sai Đinh Văn Tả và Nguyễn Hữu
Đăng lên đánh Mạc Kính Vũ. Đến tháng tám năm đinh tị (1667), Đinh
văn Tả lấy được thành Cao Bằng. Mạc Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang
Long Châu, bị quân nhà Thanh bắt giải sang trả cho An Nam.
Từ khi
Mạc Mậu Hợp phải bắt, họ Mạc thất thủ Thăng Long rồi, con cháu chạy
lên mạn ngược, nhờ thế nước Tàu được giữ đất Cao Bằng, tương truyền
được 3 đời, là Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ; đến nay
mới mất hẳn. Ḍng dơi học Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng, có nhiều
người được tha, cho làm quan với họ Trịnh.
3. Quan
Chế.
Trước khi
họ Mạc cướp ngôi nhà Lê th́ quan chế vẫn theo như đời Hồng Đức,
nhưng từ khi nhà Lê trung hưng về sau, chính quyền về họ Trịnh, cho
nên quan chế có khác ít nhiều. Trước th́ trên cùng có quan Tham tụng
và quan Bồi tụng để coi việc chính trị, tức là giữ chức Tể tướng đời
xưa, rồi đến các quan Thượng thư ở lục bộ.
Lục bộ là:
Lại bộ coi việc thuyên chuyển các quan viên, việc thăng hàm thưởng
tước, việc cách chức giáng trật, tức là coi mọi việc riêng về quan
lại trong nước. Hộ bộ coi việc điền thổ và nhân dân, thuế khóa,
lương tiền thu vào phát ra. Lễ bộ coi việc nghi lễ tế tự, việc học
hành thi cử, việc áo mũ phẩm phục và phù ấn, việc làm chương làm
biểu, việc đi sứ nước nọ nước kia, việc coi thiên văn, làm lịch, làm
thuốc, bói toán, việc quan hệ tăng ni, đạo sĩ, việc âm nhạc ca xướng.
Binh bộ coi các vơ quan, quân lính và việc pḥng bị biên giới v.v....
H́nh bộ coi việc h́nh pháp, kiện tụng. Công bộ coi việc xây đắp
thành tŕ, cung điện, cầu cống, đường xá, sông ng̣i, rừng núi.
Đến năm
mậu tuất (1718), đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại đặt ra Lục phiên ở
bên phủ chúa, cũng như Lục bộ ở bên nhà vua, để coi mọi việc chính
trị.
Về việc
vơ bị th́ trước có Ngũ phủ là: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây
quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi một phủ đặt một Đô đốc phủ
có quan tả hữu Đô đốc coi việc cả quân. Trong đời vua Thánh Tông,
th́ Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc
về Đông quân; Sơn nam, Thuận hóa, Quảng nam thuộc về Nam quân; Tam
Giang, Hưng Hóa thuộc về Tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc
quân. Đến năm giáp th́n (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc lại đặt
thêm chức Chưởng phủ sự và Thự phủ sự để coi hết thảy các quân.
Các quan
chức thời bấy giờ, chia ra làm ba ban: văn ban, vơ ban và giám ban.
Theo thường lệ, th́ chỉ có văn ban và vơ ban mà thôi. Nhưng từ khi
họ Trịnh giữ quyền bính và lại yêu dùng các nội giám, thường cho ra
làm quan coi việc chính trị, cho nên mới đặt ra giám ban. Ban này
đến cuối đời Cảnh hưng (1740-1786) mới bỏ.
Từ khi họ
Trịnh cầm quyền, th́ bên nhà vua gọi là Triều đ́nh, bên phủ chúa gọi
là Phủ Liêu. Phàm những việc chính trị và quân dân đều do bên phủ
chúa định đoạt hết cả, cho nên người ta thường dùng Phủ liêu, chứ
không mấy khi dùng chữ Triều đ́nh, v́ Triều đ́nh chỉ có cái hư vị,
chứ không có quyền ǵ nữa.
Sự kén
chọn các quan lại th́ lệ cứ mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không
xứng chức th́ phải giáng xuống.
Khi nào
quan viên về hưu trí th́ được ăn dân lộc, như là quan nhất phẩm th́
mỗi năm được 400 quan tiền dân lộc của bốn năm xă; quan nhị phẩm
được 300 hoặc 250 quan của hai ba xă; quan tam phẩm được 250 hoặc
150 quan của một hai xă; quan tứ phẩm được 150 quan của một xă; quan
ngũ phẩm được 100 quan của một xă.
Đời bấy
giờ lại đặt ra một phép rất hay, như là cấm không cho các quan viên
lập trang trại ở chỗ ḿnh làm quan, bởi v́ thường có nhiều người ỷ
quyền thế mà hà hiếp lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi những đồ gian
ác làm tôi tớ, để quấy nhiễu mọi người, đến nỗi có nhiều nơi dân
phải xiêu tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại cho dân, và lại có thể
giữ liêm cho quan vậy.
Nhưng về
sau, từ đời Trịnh Giang trở đi, nhà chúa chơi bời xa xỉ, lại có
nhiều giặc giă, phải t́m cách lấy tiền, đặt ra lệ cứ tứ phẩm trở
xuống ai nộp 600 quan th́ được thăng chức một bậc. C̣n những người
chân trắng mà ai nộp 2.800 quan th́ được bổ tri phủ, 1.800 quan th́
bổ tri huyện 104 .
Như thế,
hễ ai có tiền th́ được quyền trị dân, chứ không cần có tài năng ǵ
cả, thành ra cái phẩm giá của những người làm quan đời bấy giờ cũng
kém dần dần đi.
4. Việc
Binh Chế.
Khi nhà
Lê trung hưng ra đánh họ Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà
thôi 105 . Về sau, từ lúc đánh được nhà Mạc rồi, họ Trịnh chia ra
làm hai thứ binh: một thứ gọi là ưu binh th́ lấy lính ở ba phủ đất
Thanh Hóa và ở bốn phủ đất Nghệ An, lệ cứ ba suất đinh lấy một tên
lính; một thứ gọi là nhất binh th́ lấy lính ở tứ trấn ở đất Bắc là
Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, lệ cứ 5 suất đinh lấy một tên
lính.
Lính ưu
binh th́ đóng ở kinh thành, kén vào làm quân Túc vệ để canh giữ
những nơi đền vua phủ chúa. Những lính ấy đă được cấp cho công điền,
lại được thêm chức sắc.
Lính nhất
binh th́ chỉ để đủ giữ các trấn, và hầu hạ các quan, c̣n th́ cho về
làm ruộng, có khi nào cần dùng đến th́ mới gọi, như là về đời Trịnh
Doanh có lắm giặc giă, phải đánh dẹp nhiều nơi, th́ mới gọi đến lính
tứ trấn, [104]
Việc bán
phẩm hàn đă có từ đời vua Dụ Tông nhà Trần và đời vua Thánh Tông nhà
Lê. Nhưng mà bấy giờ chỉ cho lấy hàm mà thôi, chứ không có thực chức.
105
Khi vua
Lê Thái Tổ ra đánh nhà Minh th́ số binh bấy giờ được 25 vạn, chia ra
làm 5 quân, gọi là trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu
quân. Đến khi đánh dẹp xong rồi, cho 15 vạn về làm ruộng, c̣n để lại
10 vạn chia ra làm 5 đạo gọi là đông đạo, tây đạo, nam đạo, bắc đạo
và hải tây đạo. cả thảy được độ chừng 11.500 người, chia ra làm 20
vệ. Sau lại đổi ra làm cơ, làm đội, mỗi cơ có 200 người, để 100
người ở tại ngũ, c̣n 100 người cho về làm ruộng, rồi cứ lần lượt
thay đổi nhà mà về.
5. H́nh
Luật.
H́nh luật
về đời ấy th́ đại khái cũng như đời Tiền Lê. H́nh pháp th́ chia ra
làm 5 thứ gọi là ngũ h́nh: xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Nhưng trước
th́ tội ǵ cũng được cho chuộc cả 106 , đến đời vua Huyền Tông,
Trịnh Tạc định lại: trừ những người được dự vào bát nghị 107
ra, c̣n
ai phạm tội ǵ cứ chiếu theo tội nặng nhẹ mà luận h́nh, chứ không
cho chuộc nữa.
Trước th́
ai đă phải tội lưu, lại phải tội chặt tay nữa. Đến đời vua Dụ Tông,
Trịnh Cương mới bỏ cái luật chặt tay và đổi lại như là ai phải chặt
hai bàn tay va phải lưu đi viễn châu th́ cải làm tội đồ chung thân;
ai phải chặt một bàn tay và phải lưu ngoại châu th́ đổi làm tội đồ
12 năm; ai phải chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu, th́ đổi
làm tội đồ 6 năm. C̣n như ai phạm tội trộm cướp th́ không kể vào lệ
ấy.
Những
việc án mạng, trộm cướp và những việc hộ, hôn, điền thổ th́ phải
theo thứ tự mà xét xử. Như việc án mạng th́ quan phủ huyện xét, rồi
đệ lên để Thừa ti và hiến ti hội đồng xét lại. Việc trộm cướp, ở
Kinh đô th́ do quan Đề Lĩnh xét lại, ở các trấn th́ do quan Trấn thủ
xét lại.
Phàm
những việc đại tụng tiểu tụng mà ở huyện phủ hay là ở Thừa ti, Trấn
ti, xử không xong, th́ đến Hiến ti xét lại. Ở Hiến ti không xong,
th́ đến Giám sát xét lại. Ở Giám sát và Đề Lĩnh không xong, th́ đến
Ngự sử Đài xét lại.
Những
việc nhân mạng th́ hạn cho 4 tháng, việc trộm cướp điền thổ th́ 3
tháng, việc hôn nhân ẩu đả th́ 2 tháng, chứ lệ không cho để lâu, làm
mất công việc của dân.
6. Thuế
Đinh, Thuế Điền và Sưu Dịch.
Trước tệ
cứ sáu năm làm sổ hộ tịch một lần, rồi cứ tùy số dân đinh nhiều ít
mà đánh thuế, gọi là "qui" đồng niên mỗi tên đinh cứ tùy hạng, hoặc
đóng một quan hay là một quan tám tiền, tức là thuế thân. Đến năm kỷ
dậu (1669) đời vua Huyền Tông, quan Tham Tụng là ông Phạm Công Trứ
xin đặt ra phép b́nh lệ, nghĩa [106]
Tội
trượng th́ cứ mỗi một trượng là quan tam phẩm phải chuộc 5 tiền,
quan tứ phẩm phải chuộc 4 tiền, quan ngũ phẩm 3 tiền, quan thất bát
phẩm 2 tiền, từ củu phẩm cho xuống đến thứ nhân th́ 1 tiền. Tội đồ
làm lính coi chuồng voi th́ phải chuộc 60 quan, làm lính đồn điền
th́ 100 quan. Tội lưu cận châu th́ phải chuộc 130 quan, viễn châu
th́ 290 quan. Tội tử th́ phải chuộc 330 quan. [107]
Đă nói ở
đời vua Lê Thái Tổ. là làm sổ đinh nhất định một lần, rồi làng nào
phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ theo như thế mà đóng măi, chứ có
đẻ thêm ra cũng không kể, mà có chết đi cũng không trừ.
Lập phép
ấy là để cho dân khỏi phải làm sổ, mà quan cũng khỏi phải tra xét,
nhưng phải một điều bất tiện là về sau số đinh hơn kém bao nhiêu,
quan không biết được nữa. Đến năm quư tị (1713) đời vua Dụ Tông, sử
chép rằng số dân nội tịch phải đóng thuế cho nhà vua cả thảy chỉ
206.315 suất mà thôi.
C̣n như
thuế điền th́ năm kỷ hợi (1719) đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương sai cái
quan phủ huyện và quan Thừa Chính, Hiến sát làm việc đạc điền để mà
chia tiền thuế cho các dân xă cho đều. Lệ bây giờ cứ đo công điền
công thổ mà đánh thuế, gọi là "thuế", chia ra làm ba hạng. Hạng nhất
mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nh́ 8 tiền, hạng ba 6 tiền.
Những sưu
dịch như là việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang trường
thi, việc làm cầu cống, đắp đường sá, giữ đê điều v.v.... th́ cứ tùy
nghi mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà cung ứng cho đủ.
Ấy, các
thứ thuế trước đánh là vậy. Đến năm quư măo (1723), quan tham tụng
là ông Nguyễn Công Hăng theo phép tô, phép dung và phép điệu của nhà
Đường mà châm chước, sửa sang lại, như sau này:
Phép tô,
tức là phép đánh thuế điền thổ, cứ mỗi mẫu công điền là phải nạp 8
tiền thuế, mà ruộng nào cấy hai mùa th́ chia ba, quan lấy một phần
thóc. Những đất băi của quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1 quan 2 tiền; chỗ
nào trồng dâu th́ nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu th́
nộp cả bằng tiền.
Các ruộng
tư điền ngày trước không đóng thuế, đến bây giờ mới đánh: ruộng hai
mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa mỗi mẫu 2 tiền.
Phép
dung, tức là phép đánh thuế thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng
1 quan 2 tiền. Những người sinh đồ, lăo hạng và hoàng đinh [108 ]
th́ đóng một nửa.
Phép điệu,
tức là phép bắt dân đóng tiền sưu dịch, cứ mỗi một suất đinh, một
năm 2 mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền, mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan
lấy tiền ấy mà làm các việc, không phiền đến dân nữa. [108 ]
Lăo hạng
là những người từ 50 tuổi đến 60 tuổi. Hoàng đinh là người mới có 17
đến 19 tuổi.
7. Các
Thứ Thuế.
Đời bấy
giờ đánh thuế các thứ thổ sản, thuế mỏ, thuế đ̣, thuế chợ, v.v....
nhưng mà những thuế ấy, khi đánh khi thôi, không có nhất định.
1. Thuế
Tuần Ti: Các thuyền bè chở hàng hóa đi buôn bán ở trong sông cũng
phải chịu thuế. Trong nước lập ra cả thảy 23 sở tuần ti để thu thuế;
như tre gỗ th́ cứ 10 phần đánh thuế một phần; những đồ tạp hóa th́
40 phần đánh thuế một phần. 2. Thuế muối: Năm tân sửu (1721) Trịnh
Cương đặt quan Giám Dương để đánh thuế muối, cứ 10 phần, quan lấy 2
phần. Những người buôn muối phăi lĩnh thẻ của quan Giám dương, th́
mới được mua muối, mà trước phải mua của quan đă, rồI sau mới được
mua của những người làm muối. V́ đánh thuế như thế, cho nên giá muối
cao đến một tiền một đấu muối, dân sự ăn uống khổ sở. Bởi vậy đến
năm nhâm tí (1732) Trịnh Giang bỏ thuế muối không đánh nữa. Đến năm
bính th́n (1746) Trịnh Doanh lại lập lại phép đánh thuế muối, cứ
chia ra 50 mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp phải nộp 40 hộc thuế
muối, mỗi một hộc đánh giá là 180 đồng tiền, tức là ba tiền. 3. Thuế
thổ sản: Năm giáp th́n (1724), Trịnh Cương định lệ đánh thuế các thổ
sản, như là vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá,
tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, các đồ dụng vật như là rượu, mật, dầu,
và các đồ thập vật như là giấy, chiếu, vải, v.v....
8. Sổ Chi
Thu.
Về thời
Trịnh Giang làm chúa, có lắm giặc giă phải chi tiêu nhiều việc, cho
nên năm kỷ mùi (1731) các quan xin đặt quan để cùng với Hộ phiên mà
làm sổ biên rơ đồng niên thu vào được bao nhiêu và phát ra mất bao
nhiêu, để liệu sự chi dụng cho vừa.
9. Việc
Khai Mỏ.
Nước ta
từ đời bấy giờ ở Tuyên Quang th́ có mỏ đồng ở Tụ Long, mỏ bạc ở Nam
Xương và ở Long Sinh. Ở Hưng hóa th́ có mỏ đồng ở Trinh Lan và Ngọc
Uyển. Ở Thái Nguyên th́ có mỏ đồng ở Sáng Mộc, Yên hận, Liêm tuyền,
Tống sinh, Vũ nông; mỏ vàng ở Kim mă, Tam lộng; mỏ kẽm ở Cồn minh. Ở
Lạng sơn th́ có mỏ đồng ở Hoài viễn.
Những mỏ
ấy đều là người Tàu sang khai cả, bao nhiêu quyền lợi về tay người
Tàu hết, của 10 phần nhà nước không được một. Mà những phu Tàu sang
làm mỏ thường hay quấy nhiễu dân sự. Tuy rằng năm đinh dậu (1717)
Trịnh Cương đă định lệ rằng những người Tàu sang khai mỏ; chỗ đông
lắm chỉ được đến 300 người, chỗ đông vừa 200 người, chỗ ít 100 người
mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu khách đông đến hàng vạn người, rồi
sinh sự đánh nhau, thường phải dùng binh lính đi đánh dẹp măi mới
xong.
10. Việc
Đúc Tiền.
Nhà Hậu
Lê trung hưng lên rồi, vẫn tiêu tiền Hồng Đức, và ở trấn nào cũng có
sở đúc tiền; nhưng v́ có lắm sự nhũng lạm cho nên đến năm quư dậu
(1753) Trịnh Doanh mới bỏ sở đúc tiền ở các trấn, mà chỉ để hai sở
gần đất Kinh sư mà thôi. Đến năm bính thân (1776) đời Cảnh Hưng vua
Hiến Tông, khi họ Trịnh đă lấy được đất Thuận Hóa rồi, lại mở ḷ đúc
tiền ở Phú Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.
Đời bấy
giờ cũng có đúc ra bạc lạng để tiêu dùng. Mỗi một lạng là 10 đồng,
mỗi đồng giá hai tiền. Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được
11. Sự
Đong Lường.
Sự đong
lường th́ trước vẫn theo lối cũ, cứ 6 hạp là một thăng, nhưng từ năm
giáp th́n (1664) ông Phạm Công Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là
hoàng chung quản làm chừng. Cái ống ấy đựng được 1200 hộc thóc đen,
gọi là một thược, rồi cứ 10 thược làm một hạp, 10 hạp làm một thăng,
10 thăng làm một đấu, 10 đấu là một hộc.
12. Việc
In Sách.
Người
nước ta học chữ Nho đă lâu mà những sách học như là Tứ Thư, Ngũ Kinh
toàn thị dùng sách in của Tàu cả. Năm giáp dần (1734) đời vua Thuần
Tông, Trịnh Giang mới bắt khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi
và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Ấy cũng là một sự lợi cho
sự tài chính của nước ta.
13. Việc
Học Hành Thi Cử.
Sự học
hành về đời Hậu Lê, th́ đại khái cũng giống như đời Tiền Lê, trong
nước ở đâu cũng lấy Nho học làm trọng. Ở Quốc Tử Giám th́ đặt quan
tế tửu và quan tư nghiệp để làm giảng quan, mỗi tháng một lần tiểu
tập, ba tháng một lần đại tập.
C̣n việc
thi cử là việc nhà nước chọn lấy nhân tài để dùng làm việc nước, th́
đời nào cũng có. Từ khi nhà Mạc và nhà Lê tranh nhau ngôi vua, Bắc
Triều họ Mạc vẫn mở khoa thi ở Thăng Long; Nam triều họ Lê v́ bận
việc binh, cho nên đến măi năm Canh Th́n (1580) mới mở khoa thi Hội
ở Tây Đô; từ đó về sau cứ ba năm một kỳ thi Hội, nhưng mà cách thức
thi cử c̣n sơ lược, đến năm Giáp th́n (1664) đời vua Huyền Tông,
Trịnh Tạc mới định lại qui thức thi Hội.
C̣n như
thi Hương, th́ đến năm Mậu Ngọ (1678) mới định các điều lệ rơ ràng.
Từ đó cứ ba năm một kỳ thi Hương: Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn
Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng
Sơn, Yên Quảng đều có trường thi cả. Nhưng mà sự thi Hương bấy giờ
hồ đồ lắm, không nghiêm như đời Hồng Đức. Như là về đời vua Dụ Tông,
niên hiệu Bảo Thái th́ đặt lệ ai đi thi phải nộp tiền minh kinh để
lấy tiền làm nhà trường và khoản đốn quan trường.
Đến năm
canh ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ
thu tiền thông kinh, hễ ai nộp ba quan th́ dược đi, mà không phải
khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm ruộng, đi bán
thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người
tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có người chết. Vào ở trong
trường người th́ dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học tṛ với
quan trường th́ thông với nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi cử
bấy giờ thật là bậy.
14.
Trường học vơ.
Đời vua
Dụ Tông, Trịnh Cương lại mở ra trường học vơ, đặt quan giáo thụ để
dạy cho con cháu các quan vào học vơ kinh chiến lược, cứ mỗi tháng
một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân mùa thu th́ tập
vơ nghê, mùa đông mùa hạ th́ tập vơ kinh.
Lại đặt
ra lệ 3 năm một lần thi vơ. Thi là đại khái là phải bắn cung, múa
giáo, múa gươm, phi ngựa mà bắn cung và chạy bộ và bắn cung, rồi sau
cùng hỏi nghĩa sách để xét học lực, hỏi phương lược để xét tài năng.
Năm canh
thân (1740) Trịnh Doanh lập vơ miếu, chính vị th́ thờ Vũ Vương,
Khương thái công, Tôn vơ tử, Quảng tử, v.v.... Ở đàng sau th́ thờ
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, và lại lập miếu riêng thờ Quan Công.
Cứ xuân thu hai kỳ tế lễ.
15. Làm
Quốc Sử.
Từ khi
ông Vũ Quỳnh làm sách Đại Việt Thông Giám, măi đến đời vua Lê Huyền
Tông nhà Hậu Lê, Trịnh Tạc mới sai quan Tham Tụng là Phạm Công Trứ
soạn sách Việt Sử Toàn Thư, kể từ vua Trang Tông nhà Hậu Lê cho đến
vua Thần Tông, chia ra làm 23 quyển; nhưng mà bộ sử ấy không in. Đến
năm bính th́n (1676) đời vua Hi Tông sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc
sử, nhưng chẳng bao lâu ông ấy mất, lại sai Lê Hi và Nguyễn Quư Đức
chép nối từ vua Huyền Tông cho đến vua Gia Tông, thêm vào 13 quyển,
gọi là Quốc Sử Thực Lục.
Năm ất tị
(1775) đời Cảnh Hưng, Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn, Lê Quư Đôn, Ngô
Thời Sĩ, Nguyễn Du soạn quốc sử, chép thêm từ Hi Tông cho đến đời Ư
Tông, gọi là Quốc Sử Tục Biên, cả thảy là 6 quyển.
16. Sự
Đánh Dẹp Giặc Giă Trong Nước.
Về thời
Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương làm chúa, th́ ông nào cũng hết
ḷng lo việc trị dân, và lại nhờ có những người tôi giỏi như Phạm
Công Trứ, Nguyễn Công Hăng, v.v... đều hết sức giúp đỡ, cho nên sửa
sang được nhiều việc, nước được yên trị. Nhưng mà từ khi Trịnh Giang
lên nối nghiệp chúa, giết vua Lê, hại cả các quan đại thần như
Nguyễn Công Hăng, Lê Anh Tuấn và làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đă
tàn ngược lại hay tiêu dùng xa xỉ, thuế má một ngày một nhiều, sưu
dịch một ngày một nặng, dân t́nh khổ sở, giặc giă nổi lên khắp cả
mọi nơi, đường sá trạm dịch đi không được, phải làm đồn hỏa hiệu ở
trên đỉnh núi để pḥng khi có việc ǵ th́ đốt lửa báo
Bấy giờ
trong triều th́ có mấy người tôn thất như là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui,
Lê Duy Chúc 109
cùng với
mấy người triều thần là Phạm Công Thế, Vơ Thước, định đốt kinh thành
để trừ họ Trịnh, nhưng chẳng may việc lộ ra phải bỏ chạy. Ở ngoài
các trấn th́ chỗ nào cũng có giặc, ở Hải Dương th́ có Nguyễn Tuyển,
Nguyễn Cừ nổi lên ở làng Ninh Xá (thuộc huyện Chí Linh), Vơ Trác
Oánh nổi lên ở làng Mộ Trạch (thuộc huyện Đường An), ở đất Sơn Nam
th́ có Hoàng Công Chất, đều lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh làm cớ, bởi
vậy cho nên dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo giặc. Toán nào
đông th́ kể có hàng vạn người, toán nào ít th́ cũng có đến hàng trăm
hàng ngh́n người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành
ấp, quan quân đánh dẹp không được.
Đang lúc
giặc cướp như thế, Trịnh Giang cứ dâm dật vô độ, lại đào hầm làm nhà
ở dưới đất để cho khỏi sợ sấm sét, c̣n việc chính trị th́ để cho
những hoạn thần là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Các quan
ở phủ liêu là Nguyễn Quư Cảnh, Nguyễn Công Thái, Vơ công Tể bèn
truất Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa, để lo việc
đánh dẹp cho yên giặc giă.
Đời bấy
giờ giặc cướp th́ nhiều, nhưng mà những giặc to phải đánh lâu, th́
có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, và Vơ Trác Oánh ở đất Hải Dương; Hoàng
Công Chất, Vơ Đ́nh Dung ở Sơn Nam; Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên,
Tế, Bồng, ở Sơn Tây; Nguyễn Hữu Cầu ở mặt đông nam; Lê Duy Mật ở mặt
Thanh Hóa và Nghệ An. May lúc ấy lại có những quan đánh giặc giỏi
như Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đ́nh Trọng, Nguyễn Phan,
Bùi Thế Đạt, v.v.... cho nên Trịnh Doanh và Trịnh Sâm mới dần dần
dẹp yên được các nơi.
[109 ]
Duy Mật và Duy Qui là con vua Dụ Tông, Duy Chúc là con vua Hi Tông.
Giặc Ngân Già: Năm canh thân (1740 trong khi đất Hải Dương, ở làng
Ninh Xá, có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn, th́ đất Sơn Nam, ở
làng Ngân Già, có Vũ Đ́nh Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp phá rất
dữ, giết cả quan Đốc lĩnh là Hoàng Kim Qua. Thế giặc mạnh lắm, Trịnh
Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Vơ Đ́nh Dung đem
chép, và đỗi tên xă Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Ḥa).
Giặc Ninh Xá: Trước hết Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vơ Trác Oánh và
Nguyễn Diên dấy binh từ năm kỷ mùi (1739) làm loạn ở Hải Dương, rồi
vẫy vùng ở đất Từ Sơn, Thuận Thành, Nam Sách và Hồng Châu. Nguyễn Cừ
th́ giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, Nguyễn Tuyển th́ giữ núi Phao Sơn ở
Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, quân lính kể có hàng
mấy vạn người, quan quân đi đánh có nhiều người phải bắt.
Năm tân sửu (1745) quan thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá
được các đồn của giặc ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và ở Gia Phúc; Nguyễn
Tuyển thua chạy rồi chết, Vơ Trác Oánh không biết đi đâu mất. C̣n
Nguyễn Cừ th́ chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng lại về Đông Triều,
nhưng v́ hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân Sơn, bị quan Hiệp
Đồng là ông Phạm Đ́nh Trọng bắt được đóng cũng đem về kinh làm tội.
Từ đó giặc Cừ và giặc Tuyển mới tan.
Nguyễn Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu, tục gọi là quận He, người Hải Dương,
trước đi ăn cướp, sau theo Nguyễn Cừ làm giặc. Đến khi Nguyễn Cừ bị
bắt rồi, Nguyễn Hữu Cầu đem đồ đảng về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân
Đồn. Năm quư hợi (1743), Hữu Cầu giết được quan Thủy Đạo đốc binh là
Trịnh Bảng, rồi tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng
Quân, thanh thế lừng lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh
đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc,
quan Trấn phủ là Trần Đ́nh Cẩm, và quan Đốc đồng là Vơ Phương Đề
đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính mà chạy; ở Kinh Sư, được tin ấy
rất lấy làm báo động.
Hoàng Ngũ Phúc đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành
Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương
Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan
thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại
về vây dinh Thị Cầu.
Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đ́nh Trọng đem binh đến đánh
Hữu Cầu ở Xương Giang, giết được tướng của giặc là tên Thông, lấy
được quân nhu chiến mă thật là nhiều.
Nguyễn Hữu Cầu là một người kiệt hiệt nhất trong bọn làm giặc thời
bấy giờ, mà lại quỷ quyệt, ra vào bất trắc lắm; có khi bị vây hàng
mấy ṿng, mà chỉ một ḿnh một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy
ngày lại có hàng vạn người đi theo. V́ rằng ngày thường cướp được
thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng
có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có.
Các tướng sĩ ai cũng sợ, duy chỉ có ông Phạm Đ́nh Trọng là đánh
được Hữu Cầ mà thôi, cho nên Hữu Cầu đào mă mẹ ông ấy đổ xuống sông.
Từ đó Phạm Đ́nh Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.
Cũng v́ lẽ ấy cho nên năm bính dần (1749) Hữu Cầu cho người đem vàng
về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh
để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa
Hầu, lại sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem tờ dụ ra bảo Phạm
Đ́nh Trọng đừng đánh Nguyễn Hữu Cầu nữa. Phạm Đ́nh Trọng khăng khăng
một mực không chịu, bảo Nguyễn Phi Sảng rằng: "Những người làm tướng
ở ngoài dẫu có mệnh vua cũng có điều không nên chịu. Ông vâng mệnh
vua đi gọi giặc về hàng th́ ông cứ đi, tôi vâng mệnh vua đi đánh
giặc, th́ tôi cứ đánh". Nói xong, cất quân đi ngay.
Lúc ấy Phạm Đ́nh Trọng có mộ người ở huyện Thanh Ḥa, huyện Tú Kỳ,
huyện Vĩnh Lại và huyện Thượng Hồng, đặt làm 4 cơ, giao cho hai
người thủ hạ cai quản. Ở phủ liêu bọn Đỗ Thế Giai nhân lấy điều ấy
mà nói gièm với Trịnh Doanh. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Phạm Đ́nh
Trọng là người trung thành, không nói ǵ đến việc ấy, lại làm một
bài thơ đưa ra cho ông ấy để ông ấy yên ḷng.
Nguyễn Hữu Cầu tuy đă xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi,
sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Một hôm Phạm Đ́nh Trọng đánh đuổi Hữu
Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nói với thủ hạ rằng: "Ta vừa mới thua, có
tin về Kinh, tất nhiên không ai pḥng bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ
được". Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi th́
trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam
Tân. Phạm Đ́nh Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau,
Hữu Cầu lại thua bỏ chạy.
Từ khi thua trận Bồ Đề rồi, Hữu Cầu về cùng với Hoàng Công Chất
cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đ́nh Trọng và Hoàng Ngũ
Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.
Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An hợp
đảng với tên Diên ở Hương Lăm (thuộc huyện Nam Đường). Phạm Đ́nh
Trọng đem quân vào đánh phá trại giặc, rồi đuổi Hữu Cầu ra đến làng
Hoàng Mai bắt được, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Bấy giờ là năm
tân vị (1751) tức là năm Cảnh Hưng thứ 12.
Nguyễn Danh Phương: Năm canh thân (1740) tên Tế và tên Bồng làm
loạn ở đất Sơn Tây, quan Chính Tây Đại Tướng quân là Vơ Tá Lư đánh
bắt được cả hai tên ấy ở huyện An Lạc (thuộc phủ Vĩnh Tường). Bấy
giờ thủ hạ tên Tế là Nguyễn Danh Phương, tục gọi là quận Hẻo, đem dư
đảng về giữ núi Tam Đảo. Một mặt th́ mộ quân trữ lương và một mặt
th́ cho người về nói dối xin hàng.
Lúc bấy giờ tên Cầu tên Chất đang làm loạn ở phía đông nam, cho nên
Trịnh Doanh cũng tạm cho hàng.
Năm giáp tí (1744) tên Phương đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt
Tŕ, sang cướp phá ở bên huyện Bạch Hạc. Bấy giờ quan Đốc suất Sơn
Tây là Văn Đ́nh Ức đem binh đến vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ
làng Thanh Linh (huyện B́nh Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó Danh
Phương lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện B́nh Xuyên và huyện
Tam Dương), trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi
tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan
thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên Quan, thanh thế lừng lẫy trong
non 10 năm trời, thành ra một nước riêng trong nước Nam vậy.
Năm canh ngọ (1750) Trịnh Doanh tự đem đại quân đi đường Thái
Nguyên đến đánh phá được đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn Hương
Canh, giặc bắn súng, đạn ra như mưa, quan quân không tiến lên được
Trịnh Doanh mới lấy gươm trao cho ông Nguyễn Phan mà bảo rằng: "Đồn
này phá không được th́ lấy quân pháp mà trị!" Nguyễn Phan đem quân
sấn vào rồi cởi áo chiến bào ra, xuống ngựa đi bộ, và bảo những
người thủ hạ rằng: "Quân sĩ có tên ở trong sổ sách, việc ǵ đă có
quân pháp. Chúng bay là người riêng của ta mà hôm nay là buổi ta
phải bỏ ḿnh để giúp nước, và lại chính là ngày chúng bay đền ơn cho
ta. Vậy ai có cha già con dại, th́ cho lui ra, c̣n th́ nên cùng với
ta mà liều một trận sống chết để báo đền ơn nước, cho khỏi phụ cái
tiếng râu mày!". Thủ hạ không ai chịu lùi, đều xin cùng xông vào,
phá được đồn Hương Canh. Doanh Phương rút quân về giữ đồn Ngọc Bội,
quân Trịnh Doanh tiến lên đuổi đánh. Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ
đoản binh cho tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Giặc giữ
không nổi bỏ chạy tan cả. Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn,
quan quân đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở huyện Lập Thạch th́ bắt được.
Trịnh Doanh đem quân về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh,
gặp người của Phạm Đ́nh Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh
bèn mở tiệc khao quân, bắt tên Phương dâng rượu, tên Cầu thổi kèn,
ba quân hôm ấy thật là vui vẻ.
Về đến Kinh sư, tên Cầu và tên Phương đều phải chém cả.
Hoàng Công Chất: Hoàng Công Chất cùng với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ
nổi lên một lúc. Trước phá ở đất Sơn Nam về hạt Khoái Châu. Đến năm
ất sửu (1745) lại bắt được và giết quan trấn thủ Sơn Nam là Hoàng
Công Kỳ, sau v́ quan quân đuổi đánh, Công Chất chạy vào Thanh Hóa
rồi ra Hưng Hóa cùng với tên Thành làm loạn ở vùng ấy. Năm tân tỵ
tên Thành bị quan quân bắt được, tên Chất chạy lên giữ động Mănh
Thiên (phía bắc Hưng Hóa) rồi chiếm giữ cả mấy châu gần đấy, đồ đảng
có hàng vạn người. Từ đó tên Chất cứ cướp phá ở đất Hưng Hóa và đất
Thanh Hóa. Măi đến năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm mới sai quan thống
lĩnh là Đoàn Nguyễn Thục đem quân Sơn Tây lên đánh động Mănh Thiên.
Khi quan quân lên đến nơi th́ Hoàng Công Chất đă chết rồi, con là
Hoàng Công Toản chống giữ không nổi, bỏ chạy sang Vân Nam. Đồ đảng
tan cả.
Lê Duy Mật: Năm mậu ngọ (1738) đời vua Ư Tông, bọn hoàng thân là Lê
Duy Mật, Lê Duy Qui và Lê Duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng
chẳng may sự không thành phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Qui và
Duy Chúc phải bệnh mất, c̣n Duy Mật giữ đất thượng du phía tây nam.
Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả.
Bấy giờ Duy Mật có bắt được Phạm Công Thế đem ra hỏi rằng: "Ông là
người khoa giáp sao lại theo nghịch?" - Công Thế cười mà nói rằng: "Đă
lâu nay danh phận không rơ, lấy ǵ mà phân thuận nghịch?" Nói rồi
giương cổ ra chịu h́nh.
Lê Duy Mật từ khi chạy về Thanh Hóa, chiêu tập binh sĩ, rồi từ năm
canh thân (1740) là Cảnh Hưng năm đầu, về đánh ở đất Hưng Hóa và Sơn
Tây, sau lại cùng với giặc là tên Tương giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc
huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu,
tên Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn
Ninh giữ núi Tŕnh Quang làm căn bản.
Năm giáp tí (1764) Lê Duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu với
chúa Nguyễn là Vũ Vương. Nhưng chúa không muốn gây sự với họ Trịnh,
cho nên không giúp.
Năm đinh hợi (1767) được tin Trịnh Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm
lên làm chúa, Lê Duy Mật đem quân về đánh ở đất Hương Sơn và đất
Thanh Chương rồi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư
sang vỗ về không được, mới quyết ư dùng binh để dứt mối loạn.
Năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ
An, Nguyễn Phan làm chánh đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đ́nh Thể làm
đốc binh đất Hưng Hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi
qua6n của Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đến vây Tŕnh Quang. Lê Duy Mật
định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ là người con rể là Lại Thế
Chiêu làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có
nội biến, bèn cùng với vợ con tự đốt mà chết
* * *
Tóm lại mà xét, th́ những công việc của họ Trịnh sửa đổi ở miền Bắc
cũng nhiều, và có thể chia ra làm ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất vào khoảng Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng và Trịnh Tráng.
Lúc bấy giờ c̣n phải đánh họ Mạc ở phía Bắc, rồi lại chống với họ
Nguyễn ở phía Nam, cho nên trong thời kỳ ấy chỉ có việc chiến tranh
ở ngoài mà thôi, c̣n những công việc trong nước không sửa sang được
mấy.
Thời kỳ thứ hai là vào khoảng Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương.
Lúc bấy giờ việc chiến tranh đă yên, trong nước b́nh trị, cho nên
trong thời kỳ ấy các chúac mới sửa sang và chỉnh đốn lại những phép
tắc, luật lệ, việc thuế khóa, sự học hành, thi cử, v.v....
Thời kỳ thứ ba là vào khoảng Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm.
V́ Trịnh Giang thất chính cho nên trong thời kỳ này có lắm giặc giă,
quan quân phải đánh đông dẹp bắc trong ba bốn năm trời, thành ra
không làm được việc ǵ ích lợi, đến nỗi dân nghèo nước yếu, chính
trị điêu tàn, bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà nhà Trịnh đổ, nhà Lê
cũng mất.
CHƯƠNG VI
Công-việc họ Nguyễn làm ở
miền Nam
1. Quan-chế
2. Thi-cử
3. Việc vơ-bị
4. Việc thuế-khóa
5. Số tiền chi-thu trong nước
6. Lấy đất Chiêm-thành
7. Mở đất Nam Việt và sự giao-thivới Chân-lạp
8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-la
9. Việc lập dinh định phủ
Họ Nguyễn đă giữ riêng một cơi ở phía nam, lập ra nghiệp chúa, lưu-
truyền đời nọ qua đời kia, bởi vậy cho nên chính-trị, thuế-lệ, binh-lính,
việc ǵ cũng tự sửa-sang và xếp đặt lấy như là một nước tự-chủ vậy.
1. Quan-Chế.
Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau với họ Trịnh th́ quan-lại vẫn
ở ngoài Bắc bổ vào nhưng mà từ khi chúa Săi là Nguyễn Phúc Nguyên
không chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ với quân họ
Trịnh ở bắc Bố-Chính th́ các quan-viên đều do chúa Nguyễn đặt lấy cả.
Ở Chính dinh là chỗ chúa đóng th́ đặt tam-ti để giúp chúa coi việc
chính- trị. Tam-ti là: Xá sai-ti, Tướng-thần-lại-ti, Lệnh-sử-ti. 1.
Xá-sai-ti
giữ việc từ tụng văn án. Có quan Đô-tri, Kư-lục làm đầu. 2. Tướng-thần-lại-ti
giữ việc thu tiền thu thuế, chi-phát lương- thực cho quan các đạo.
Có quan cai-bạ làm đầu. 3. Lệnh-sử-ti
giữ việc tế tự, tết nhất và việc chi-cấp lương cho quân ở chính
dinh. Có quan Nha-úy làm đầu.
Mỗi ti lại có quan Cai-hợp, Thủ-hợp và các lại-ti để làm mọi việc.
Ở ngoài các dinh, th́ có nơi chỉ đặt có một Lệnh-sử-ti kiêm cả việc
Xá-sai-ti và Tướng-thần-lại-ti, có nơi th́ đặt Xá-sai-ti và Lệnh-sử-ti
để coi việc quân dân, từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế khóa, v.v.
nghĩa là tùy nơi quan-trọng hay là không, mà thêm bớt quan-viên.
Ở phủ huyện, th́ đặt tri-huyện, tri-phủ, để coi việc từ tụng, thuộc
hạ th́ có đề-lại, thông-lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn đạo,
lễ-sinh, chuyên việc tế-tự ở chỗ sở tại. C̣n việc thu thuế th́ đặt
quan khác để coi về việc ấy.
Đến đời chúa Thượng Nguyễn phúc Lan (1635-1648) lại đặt thêm chức
nội-tả, ngoại-tả, nội-hữu, ngoại-hữu, gọi là tứ trụ để giúp chúa trị
dân.
Về đàng quan vơ th́ đặt chức: chưởng-đinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai-
đội để coi việc binh.
2. Thi Cử.
Năm đinh-hợi (1674) chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính đồ và
thi hoa-văn.
Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ đệ-nhất thi tứ-lục, kỳ đệ-nhị
thi thơ-phú, kỳ đệ-tam thi văn-sách. Quan tri-phủ tri-huyện làm
sơ-khảo, quan cai-bạ, kư-lục, vệ-úy làm giám-khảo. Những quyển đậu,
th́ chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám-sinh, được bổ ra
làm tri-phủ, tri-huyện; hạng thứ nh́ gọi là sinh đồ được bổ làm huấn
đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ-sinh, hoặc làm
nhiêu-học.
Thi hoa-văn th́ cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài
thơ mà thôi. Ai đậu th́ được bổ vào làm việc ở Tam-ti.
Năm ất-hợi (1695) Quốc-chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi
ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn-chức và thi Tam-ti. Thi Tam-ti là
thi Xá-sai ti, thi Tướng-thần-lại-ti và thi Lệnh-sử-ti. Thi Văn-chức
th́ thi tứ- lục, thơ-phú, văn-sách; thi Xá-sai-ti th́ hỏi về việc
binh-lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng-thần-lại-ti và Lệnh-sử-ti
th́ chỉ làm một bài thơ mà thôi.
Năm canh-thân (1740), Vũ-vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) định
lại phép thi: những người đậu kỳ đệ-nhất gọi là nhiêu-học, được miễn
sai 5 năm; đậu kỳ đệ-nhị và kỳ đệ-tam th́ được miễn sai chung thân;
đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương-cống, được bổ đi làm tri-phủ, tri-huyện.
Xem như vậy th́ sự thi-cử ở miền Nam đời bấy giờ c̣n sơ-lược lắm.
3. Việc Vơ-Bị.
Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau với họ Trịnh cho nên phải lo việc
vơ-bị hơn. Quân th́ chia ra làm năm cơ gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu
cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn người.
Năm tân-mùi (1631) chúa Săi lập ra sở đúc súng đại-bác và mở trường
bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện-tập để pḥng-bị
chiến-tranh.
4. Việc Thuế-Khóa.
Điền-thổ chia ra làm 3 hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu
điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu th́ thuế đánh lại nhẹ hơn
ruộng đất thường.
Những công điền th́ cấp cho dân cày-cấy để nộp thuế; c̣n ai
khai-khẩn được đất hoang ra làm ruộng, th́ cho là tư điền.
Thuế mỏ. Ở đất Quảng-nam, Thuận-hóa có mỏ vàng; ở đất Quảng- nghĩa
có mỏ bạc; ở đất Bố-chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả.
Thuế xuất-cảng nhập-cảng. Lệ cứ những tàu ở Thượng-hải và ở Quảng
đông lại, th́ phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu
ở Mả-cao, ở Nhật-bản lại, th́ phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải
nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm-la, ở Lă-tống lại, th́ phải nộp 2.000 quan,
đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, th́
phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.
Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6 thành th́ đem vào kho, c̣n 4 thành
để nộp cho quan-lại, binh-lính đă coi về việc thu thuế.
5. Số
tiền chi-thu trong nước.
Năm quí
đậu (1753) Vũ- vương sai quan Chưởng-thái-giám là Mai văn Hoan tính
số vàng, bạc và tiền thu vào phát ra mỗi năm là bao nhiêu.
Bấy giờ
số tiền th́ có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn
364.400 quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn
369.400 quan. Vàng th́ có năm thu được 830 lượng, có năm được 890
lượng. Bạc th́ thứ giáp-ngân (?) có năm thu được 240 lượng, có năm
được 390 lượng; thứ dung-ngân (?) có năm được 2.400 lượng, có năm
được 1.800 lượng; thứ kê-ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm
được 400 đồng, cũng có năm không có đồng nào.
Tính đổ
đồng lại từ năm bính-dần (1746) đến năm nhâm-thân (1752) nghĩa là
trong 7 năm, số vàng được 5.768 lượng, số giáp ngân được 9.978
lượng, số dung-ngân được 14.276 lượng, số kê-ngân được 21.150 đồng.
Từ đó trở
đi mỗi năm phải làm sổ kê rơ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào
và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng giêng năm sau
dâng lên để chúa xem.
Những
tiền tiêu trong nước, th́ có tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ
thái-b́nh.
6. Lấy
đất Chiêm-Thành.
Trước
Trịnh Kiểm chỉ cho Nguyễn Hoàng vào trấn-thủ đất Thuận-hóa mà thôi;
sau đến năm canh-ngọ (1570) họ Trịnh đ̣i quan trấn-thủ Quảng-nam là
Nguyễn Bá Quưnh về trấn đất Nghệ-an, để đất Quảng-nam cho Nguyễn
Hoàng kiêm lĩnh.
Năm
tân-hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm-thành lấy đất lập ra
phủ Phú-yên; chia ra làm hai huyện là Đồng-xuân và Tuyên-ḥa. Đến
năm quí-tị (1653) vua nước Chiêm-thành là Bà Thấm sang quấy-nhiễu ở
đất Phú-yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai-cơ là
Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để
từ sông Phan-lang trở vào cho vua Chiêm, c̣n từ sông Phan-lang trở
ra lấy làm Thái-ninh-phủ, sau đổi làm phủ Diên-khánh (tức là
Khánh-ḥa bây giờ), đặt dinh Thái-khang để Hùng Lộc làm thái-thú.
Năm
quí-dậu (1693) vua nước Chiêm-thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống,
chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng-binh là Nguyễn hữu Kính
(con Nguyễn hữu Dật) đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn
thần-tử là Tả trà Viên, Kế bà Tử cùng thân-thuộc là Bà Ân đem về
Phú-Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm-thành làm Thuận-phủ, cho Tả trà
Viên, Kế bà Tử làm chức Khám-lư và ba người con của Bà Ân làm đề đốc
giữ Thuận-phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt-nam để
phủ dụ dân Chiêm- thành. Qua năm sau lại đổi Thuận-phủ ra làm
Thuận-thành-trấn, cho Kế bà Tử làm tả-đô-đốc. Năm đinh-sửu (1697)
chúa Nguyễn đặt phủ B́nh-thuận lấy đất Phan-lư (Phan-tri) Phan-lang
(Phan-rang) làm huyện Yên-phúc và huyện Ḥa-đa.
Từ đó
nước Chiêm-thành mất hẳn.
Nước
Chiêm-thành chính là nước Lâm-ấp ngày trước đă từng qua mấy trăm
năm, cùng với họ Lư, họ Trần đối địch, chống với quân Mông-cổ, không
cho xâm phạm vào cơi, lập nên một nước có vua, có tôi, có chính-trị,
có luật-pháp. Nhưng chỉ hiềm v́ người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở
đất Việt-nam, thành ra hai nước không mấy khi ḥa hiếu được với
nhau.
Đă là đối
địch th́ không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo- hóa là:
khỏe c̣n, yếu chết. V́ vậy cho nên từ khi vua Thánh-tông nhà Lê đă
lấy đất Quảng nam và đă chia nước Chiêm ra làm 3 nước rồi, th́ từ đó
về sau thế-lực nước ấy mỗi ngày một kém, dân t́nh mỗi ngày một suy.
Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng-loại
Chiêm-thành bây giờ cũng chẳng c̣n được mấy ngh́n người nữa. Một
nước trước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với
nước ta mặc ḷng, song nghĩ cũng thương-tâm thay cho những nước
yếu-hèn không tránh khỏi được cái họa: cá nhỏ bị cá lớn nuốt.
7. Mở đất
Nam-Việt và sự giao thiệp với Chân-Lạp.
Nguyên
nước Chân-lạp ở vào quăng dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ng̣i,
ruộng đất th́ nhiều mà nước Nam ta thường hay mất mùa, dân-t́nh phải
đói khổ luôn, và lại vào lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau, cho
nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô-xoài (Bà-rịa) và ở
Đồng- nai (nay thuộc Biên-ḥa).
Năm
mậu-tuất (1658) vua nước Chân-lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau, sang
cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan
đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc huyện Phước- chánh,
tỉnh Biên-ḥa) bắt được vua nước ấy là Nặc ông Chân đem về giam ở
Quảng-b́nh một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và phải
bênh- vực người Việt-nam sang làm ăn ở bên ấy.
Năm
giáp-dần (1674), nước Chân-lạp có người Nặc ông Đài đi cầu- viện
nước Tiêm-la để đánh Nặc ông Nộn.
Nặc ông
Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái-khang (nay là Khánh-ḥa). Chúa
Hiền bèn sai Cai-cơ đạo Nha-trang là Nguyễn dương Lâm cùng với
Nguyễn đ́nh Phái làm tham-mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc
ông Đài, phá được đồn Sài-g̣n, rồi tiến quân lên vây thành Nam-
vang. Nặc ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc ông
Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính ḍng con trưởng cho nên lại lập
làm chánh quốc-vương đóng ở Long-úc, để Nặc ông Nộn làm đệ-nhị
quốc-vương, đóng ở Sài-g̣n, bắt hằng năm phải triều cống.
Năm kỷ-tị
(1679) có quan nhà Minh là tổng-binh trấn-thủ đất Long- môn
(Quảng-tây) Dương ngạn Địch, phó-tướng Hoàng Tiến, tổng-binh châu
Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng-đông) là Trần Thượng Xuyên,
phó-tướng Trần an B́nh, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân
cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt-nam. Chúa Hiền nhân
muốn khai-khẩn đất Chân-lạp, bèn cho vào ở đất Đông-phố (tức là đất
Gia định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc đă (tức là đất Đồng-nai
thuộc Biên-ḥa), ở Mỹ-tho (thuộc Định-tường), ở Ban-lân (thuộc
Biên-ḥa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường-phố, có người phương
tây, người Nhật-bản, người Chà-và đến buôn bán đông lắm.
Năm
mậu-th́n (1688) những người khác ở Mỹ-tho làm loạn. Hoàng Tiến giết
Dương ngạn Địch đi, rồi đem chúng đóng đồn ở Nan-khê, làm tàu đúc
súng để chống nhau với người Chân-lạp. Vua Chân-lạp là Nặc ông Thu
cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần-phục
chúa Nguyễn nữa.
Bấy giờ
chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng
mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân-lạp phải theo lệ
triều-cống.
Năm
mậu-dần (1698) chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Chu sai ông Nguyễn hữu
Kính làm kinh-lược đất Chân-lạp, chia đất Đông-phố ra làm dinh, làm
huyện, lấy Đồng-nai làm huyện Phúc-long và Sài-g̣n làm huyện
Tân-b́nh. Đặt Trấn-biên dinh (tức là Biên-ḥa) và Phan-trấn dinh
(tức là Gia định) sai quan vào cai-trị. Lại chiêu-mộ những kẻ lưu
dân từ Quảng-b́nh trở vào để lập ra thôn-xă và khai-khẩn ruộng đất.
C̣n những người Tàu ở đất Trấn-biên (Biên-ḥa) th́ lập làm xă
Thanh-hà, những người ở đất Phan-trấn (Gia định) th́ lập làm xă
Minh-hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.
Bấy giờ
lại có người khách Quảng đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh
cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân-lạp, thấy ở phủ Sài-mạt
có nhiều người các nước đến buôn-bán, bèn mở ṣng đánh bạc, rồi lấy
tiền chiêu-mộ những lưu dân lập ra 7 xă, gọi là Hà-tiên. Năm mậu-tí
(1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa phong cho làm chức
tổng- binh, giữ đất Hà-tiên.
Đến khi
Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc thiên Tứ
làm chức đô đốc, trấn ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở
chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho-học để khai-hóa đất Hà- tiên.
Thời bấy
giờ đất Chân-lạp cứ loạn lạc luôn. Năm kỷ-măo (1699) vua nước ấy là
Nặc ông Thu đem quân chống với quân chúa Nguyễn, chúa sai quan
tổng-suất Nguyễn hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Nam-
vang, Nặc ông Thu bỏ chạy, con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm mở cửa
thành ra hàng. Sau Nặc ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều-cống
như cũ. Quân ta rút về.
Được ít
lâu vua thứ hai là Nặc ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc ông Thu
phong cho con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm làm quan và lại gả con gái
cho. Sau Nặc ông Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc ông Thâm.
Năm
ất-dậu (1705) Nặc ông Thâm nghi cho Nặc ông Yêm có ư làm phản, bèn
khởi binh đánh nhau. Nặc ông Thâm lại đem quân Tiêm-la về giúp ḿnh.
Nặc ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia định.
Chúa
Nguyễn sai quan cai-cơ là Nguyễn cửu Vân sang đánh Nặc ông Thâm.
Nguyễn cửu Vân sang phá được quân Tiêm-la; đem Nặc ông Yêm về thành
La-bích. Từ đó Nặc ông Thâm ở Tiêm-la cứ thỉnh-thoảng đem quân về
đánh Nặc ông Yêm.
Năm
giáp-ngọ (1714) quân của Nặc ông Thâm về lấy thành La-bích và vây
đánh Nặc ông Yêm nguy-cấp lắm. Nặc ông Yêm sai người sang Gia định
cầu-cứu. Quan đô đốc Phiên-trấn (Gia-định) là Trần thượng Xuyên và
quan phó-tướng Trấn-biên (Biên-ḥa) là Nguyễn cửu Phú phát binh sang
đánh, vây Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm ở trong thành La-bích. Nặc ông
Thu và Nặc ông Thâm sợ-hăi, bỏ thành chạy sang Tiêm-la. Bọn ông Trần
thượng Xuyên lập Nặc ông Yêm lên làm vua Chân-lạp.
Năm
tân-hợi (1729) quân Chân-lạp sang quấy-nhiễu ở hạt Gia định. Chúa
Nguyễn bèn đặt sở Điều-khiển để thống-nhiếp việc binh ở mạn ấy.
Năm
bính-th́n (1736) Nặc ông Yêm mất, con là Nặc ông Tha lên làm vua.
Đến năm mậu-th́n (1747) Nặc ông Thâm lại ở bên Tiêm-la về, cử binh
đánh đuổi Nặc ông Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc ông Tha
phải bỏ chạy sang Gia định.
Được ít
lâu Nặc ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh
nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều-khiển là Nguyễn hữu Doăn đem
quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc ông Tha về nước.
Nặc ông
Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc ông Thâm là
Nặc Nguyên đem quân Tiêm-la sang đánh đuổi đi. Nặc ông Tha chạy sang
chết ở Gia định.
Nặc
Nguyên về làm vua Chân-lạp thường hay hà-hiếp rợ Côn-man 110
và lại
thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn biết t́nh-ư ấy, đến năm quí-dậu (1753), sai Nguyễn cư
Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm ất-hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ
thành Nam-vang chạy sang Hà-tiên nhờ Mạc thiên Tứ.
Năm sau
Mạc thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ
Tầm-bôn và Lôi-lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn
không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn cư Trinh dâng sớ bày-tỏ cách
khai- thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con
tầm ăn lá, th́ mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận
hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân-lạp.
Năm
đinh-sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám-quốc.
Nặc Nhuận c̣n đang lo để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua, th́ bị
người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.
Quan
tổng-suất là Trương phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị
thuộc-hạ giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ
Mạc thiên Tứ ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm
vua Chân-lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về
nước.
Nặc Tôn
dâng đất Tầm-phong-long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông
Trương phúc Du và Nguyễn cư Trinh đem dinh Long-hồ về xứ Tầm-bào,
tức là chỗ tỉnh-lỵ tỉnh Vĩnh-long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là
Đông-khẩu đạo ở Sa-đéc, Tân-châu đạo ở Tiền-giang và Châu đốc đạo ở
Hậu-giang.
Nặc Tôn
lại dâng 5 phủ là Hương-úc, Cần-bột, Trực-sâm, Sài-mạt và Linh-quỳnh
để tạ ơn Mạc thiên Tứ. Mạc thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa
Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà-tiên cai-quản.
Vậy đất 6
tỉnh Nam-Việt bây giờ là đất lấy của nước Chân-lạp mà người Việt-nam
khai-thác ra. [110 ]
Côn-man
là chỗ những người Chiêm Thành sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp
8. Việc
giao-thiệp với nước Tiêm-La.
Tiêm-la
là một nước ở về phía tây-nam sông Mê-kông ḍng đơi người Thái sang
ở đấy.
Cứ theo
sử ta và sử Tàu th́ thoạt đầu tiên gọi là nước Phù-nam. Đến quăng
nhà Tùy và nhà Đường bên Tàu là vào quăng thế-kỷ thứ sáu, thứ bảy
th́ đất Phù-nam chia ra làm hai: một nửa về phía đông có một dân-tộc
khác đến lập ra nước Chân-lạp, c̣n một nửa về phía tây th́ người
Phù-nam ở gọi là nước Xích-thổ.
Vào quăng
nhà Tống, nhà Kim (thế-kỷ thứ XI, thứ XII) th́ nước Xích- thổ lại
chia ra làm hai: một nước gọi là La-hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc
nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế-kỷ thứ XIII, thứ XIV) th́ sử có chép
hai nước ấy sang cống.
Về sau
nước La-hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêm- la-hộc. Đến
đầu nhà Minh (cuối thế-kỷ thứ XIV) vua nước ấy sang cầu phong bên
Tàu, vua Thái-tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm-la 111 .
Nước
Tiêm-la lúc đầu c̣n nhỏ-yếu, thường bị người Chân-lạp áp- chế. Sau
cường-thịnh dần dần lên, rồi vào khoảng năm Vạn-lịch (1573- 1620)
nhà Minh, nước Tiêm-la lại đánh Chân-lạp mà hùng-bá cả phương ấy.
Trong
thời ấy vua Tiêm-la là Phra Naroi ḍng dơi nhà Ayouthia dùng một
người Hi-lạp tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua
giao-thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ-thần
Tiêm-la sang bái-yết Pháp-hoàng Louis XIV ở tại Versailles.
Thủa bấy
giờ chúa Nguyễn c̣n đang khai sáng ở đất Phú-yên, Khánh-ḥa, nhưng
về sau chúa Nguyễn lấy hết đất Chiêm-thành, lại lấn sang đất
Chân-lạp. Người Tiêm-la có ư muốn ngăn-trở để giữ lấy Chân-lạp làm
của ḿnh. Nhưng v́ thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để
chúa Nguyễn sang bảo-hộ Chân-lạp.
Tuy vậy
nước Tiêm-la thường hay dùng những người phản đối với vua Chân-lạp,
rồi giúp binh-lực cho về làm loạn trong nước. Nhiều khi quân ta phải
sang đánh đuổi quân Tiêm-la để giúp quốc-vương Chân-lạp. Cũng có khi
quân Tiêm-la sang đánh ở đất Hà-tiên, như năm ất-tị (1715) người
Chân-lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm-la sang cướp phá, quan tổng-binh
Hà-tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy. [111]
Nước Thái
Lan ngày nay.
Quân ta
và quân Tiêm-la đă giao chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông
sứ với nhau. Măi đến năm canh-ngọ (1750) đời chúa Nguyễn là Vơ-vương
Nguyễn-phúc Khoát, th́ mới thấy sử chép rằng chúa sai quan đem thư
sang trách nước Tiêm-la dung-túng kẻ nghịch-thần để làm loạn nước
Chân-lạp.
Năm
ất-hợi (1755) nước Tiêm-la sai sứ sang xin đừng đánh thuế những
thuyền của nước ấy sang buôn-bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa đáp thư lại
rằng thuế ấy là quốc-lệ đă đặt ra không thể bỏ đi được.
Năm
đinh-hợi (1767) quân nước Diến-Điện sang đánh Tiêm-la bắt được vua
nước ấy là Phong-vương 112
và con là
Chiêu Đốc cùng mấy vạn người dân đem về Diến-Điện. C̣n những người
con của Phong-vương là Chiêu xỉ Khang th́ chạy sang Chân-lạp và
Chiêu Thúy th́ chạy sang Hà-Tiên.
Bấy giờ
nước Tiêm-la không có vua, chức Phi-nhă (Phya) đất Mang- tát là
Trịnh quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh quốc Anh là người
Triều-châu, tỉnh Quảng đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm-la làm
trưởng ở Mang-tát. Yển chết, Trịnh quốc Anh lên nối nghiệp xưng là
Phi-nhă, là một chức xă-trưởng vậy.
Trịnh
quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân-lạp là Nặc Tôn
phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh quốc Anh không phải là
ḍng dơi người Tiêm-la, không chịu cống.
Vua
Tiêm-la lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân-lạp
tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân
Tiêm-la không làm ǵ được lại phải rút về.
Trịnh
quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy c̣n ở Hà-tiên, sợ ngày sau
sinh ra biến loạn, bèn đến tháng 10 năm tân-măo (1771) đem binh-
thuyền sang vây đánh Hà-tiên. Quan tổng-binh là Mạc thiên Tứ giữ
không nổi phải bỏ thành chạy.
Vua
Tiêm-la để tướng là Trần Liên, ở lại giữ Hà-tiên rồi tiến quân sang
đánh Chân-lạp. Quốc-vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm-la đóng
quân ở thành Nam-vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân-lạp. [112]
Vua nước
Tiêm La bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương
Tháng 6
năm sau (1772) chúa Nguyễn sai quan tổng-suất là Nguyễn cửu Đàm lĩnh
chức Điều-khiển đem binh-thuyền đi đánh quân Tiêm-la. Quân của
Nguyễn cửu Đàm tiến sang đến Nam-vang, quân Tiêm-la bỏ chạy về
Hà-tiên, Nặc Non cũng chạy về Cầu-bột.
Nặc Tôn
lại về làm vua Chân-lạp.
Vua
Tiêm-la về đến Hà-tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc thiên Tứ về để
giảng-ḥa. Mạc thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm-la bèn để Trần Liên ở
lại giữ Hà-tiên, rồi bắt con gái Mạc thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về
nước.
Năm sau
Mạc thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm-la xin
ḥa. Vua Tiêm-la gọi Trần Liên về và cho người con gái của Mạc thiên
Tứ về Hà-tiên. C̣n Chiêu Thúy th́ đem giết đi.
Từ đó Mạc
thiên Tứ lại về giữ đất Hà-tiên.
9. Lập
dinh định phủ.
Lúc đầu,
Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận-hóa th́ đóng dinh ở làng Ái-tử
(thuộc huyện Đăng-xương, gần tỉnh-lỵ tỉnh Quảng-trị). Được 13 năm
sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà-bát ở huyện ấy, tức là
Cát Dinh. Đến năm bính-dần (1626) chúa Săi là Nguyễn phúc Nguyên sắp
sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc-an (thuộc
huyện Quảng-điền, tỉnh Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.
Năm
bính-tí (1636) chúa Thượng là Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng
Kim-long (thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên).
Năm
đinh-măo (1687) chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Trăn đem phủ về làng
Phú-xuân, tức là đất Kinh-thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ
cũ để làm Thái-tông-miếu, thờ chúa Hiền.
Năm
giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng vương-hiệu đổi phủ ra làm điện,
sửa-sang phép-tắc, và định triều-phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.
1. Chính
dinh (Phú-xuân) 2. Cựu dinh (Ái-tử) 3. Quảng-b́nh dinh 4. Vũ-xá dinh
5. Bố-chính dinh 6. Quảng-nam dinh 7. Phú-yên dinh | 8. B́nh-khang
dinh | đất Chiêm-thành 9. B́nh-thuận dinh | 10. Trấn-biên dinh } 11.
Phiên-trấn dinh } đất Chân-lạp 12. Long-hồ dinh }
Dinh nào
cũng đặt quan Trấn-thủ, quan Cai-hạ, quan Kư-lục để coi việc
cai-trị. C̣n phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhơn th́ thuộc về tỉnh
Quảng- nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ và quan Khám-lư
để coi mọi việc. Đất Hà-tiên th́ đặt là Trấn, có quan đô đốc
cai-trị.
Tóm lại
mà xét, họ Nguyễn làm chúa miền nam, nhưng trước th́ vẫn giữ chức
vua Lê phong cho, măi đến đầu thế-kỷ thứ XVIII năm nhâm-ngọ (1702)
Nguyễn phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh để xin phong
làm vua, nhưng Thanh-triều nói rằng nước Nam c̣n có họ Lê không
phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn-phúc Chu bèn
xưng là quốc-chúa và đúc cái ấn Đại-Việt-Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn
Chi Bảo để làm cái Truyền-quốc-bảo, đến đời vua Thế-tổ mới thôi. Đến
năm giáp-tí (1744) Nguyễn-phúc Khoát mới xưng vương-hiệu và đổi lại
chế độ, định ra triều-nghi.
Bấy giờ
đất phía nam tuy độc-lập, nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không
xưng vua và vẫn không đặt quốc-hiệu. Nhưng người ngoại-quốc thường
gọi đất chúa Nguyễn là Quảng-nam quốc. Đấy là v́ ở Quảng-nam có phố
Hội-an (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán,
cho nên mới lấy tên Quảng-nam mà gọi.
C̣n những
công-việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan-trọng cho nước Nam ta hơn
cả, là việc mở-mang bờ-cơi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra,
và nhất là chiêu-mộ những người nghèo-khổ trong nước đưa đi khai-hóa
những đất ph́-nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam-Việt bây giờ phồn-phú
hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm
vậy.
CHƯƠNG
VII
Người
Âu-châu sang nước Nam
I. SỰ ĐI
T̀M ĐẤT
1. Người
Âu-châu sang Á-đông
2. Người
Âu-châu sang đất Việt-nam
II. SỰ ĐI
TRUYỀN GIÁO
1. Đạo
Thiên-chúa
2. Đạo
Thiên-chúa sang nước Việt-nam
Nguyên
người Âu-la-ba đi du-lịch thiên-hạ là v́ có hai cớ: một là đi ́m đất
để buôn-bán, hai là để truyền-bá tông-giáo Thiên-chúa ở các nước.
1. Sự đi
t́m đất.
Người
Âu-châu sang Á đông - Từ đời La- mă, đă có sách chép người Âu-châu
sang đến nước Tàu, nhưng không rơ cách giao-thiệp ra làm sao; đến
thập-tam thế-kỷ mới có ông Marco Polo, người nước I-ta-li sang ở
triều nhà Nguyên về đời vua Thế-tổ Tất Liệt hằng 17 năm, rồi sau đi
qua Ấn-độ-dương về nước, làm ra quyển sách: "Thế-giới kỳ-quan" (Les
merveilles du monde), kể những chuyện ông ấy đă biết.
Về sau
vào thập-ngũ thế-kỷ, ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) dùng
địa-bàn chỉ nam (boussole) định đi qua Đại-tây dương sang Ấn độ, rồi
t́m thấy châu A-mỹ-lị-gia (Amérique); đến năm 1479, người Bồ đào-nha
(Portugal) tên là Vasco de Gama đi ṿng qua Hảo-vọng-giác (Cap de
Bonne Espérance) sang Ấn-độ-dương vào đất Ấn độ. Năm 1521 lại có
người Bồ đào-nha tên là Magellan đi qua Ấn độ dương sang
Thái-b́nh-dương vào đất Phi-luật-tân (Philippines).
Từ đó về
sau người Bồ đào-nha (Portugal) mới sang Tây-ban-nha (Espagne) và
người Ḥa-lan (Hollande) mới sang Á đông lấy đất thuộc địa và mở cửa
hàng buôn-bán như sau này:
Năm
quí-hợi (1563) về đời Gia-tĩnh nhà Minh, người Bồ-đào-nha đến ở đất
Áo-môn (Macao) nước Tàu.
Năm
mậu-th́n (1568) người Tây-ban-nha sang lấy đất Phi-luật-tân làm
thuộc địa.
Năm
bính-thân (1596) người Ḥa-lan sang lấy đất Trà-và (Java) làm thuộc
địa. Về sau dần dần người Bồ-đào-nha, người Pháp-lan-tây (France) và
người Anh-cát-lợi (Angleterre) đến ở đất Ấn độ.
Người
Âu-châu sang đất Việt-nam. Người Âu-châu sang buôn-bán ở nước ta,
th́ có người Bồ-đào-nha đến ở xứ Nam trước hết cả, mở cửa hàng ở phố
Hội-an (tức là Faifo) thuộc đất Quảng-nam. Ở đấy lại có người Tàu,
người Nhật-bản và người Ḥa-lan đến buôn-bán nhiều lắm. Sách của ông
Maybon và Russier có chép rằng năm giáp dần (1614) đời chúa Săi đă
có người Bồ-đào-nha tên là Jean de la Croix đến lập ḷ đúc súng ở
đất Thuận- hóa, mà bây giờ ở Huế người ta c̣n gọi chỗ ấy là Phường
đúc.
Ở ngoài
Bắc th́ trước đă có tàu của người Bồ-đào-nha ra vào buôn-bán, nhưng
măi đến năm đinh-sửu (1637) đời vua Thần-tông nhà Lê, Thanh đô-
vương Trịnh Tráng mới cho người Ḥa-lan đến mở cửa hàng ở Phố-Hiến
(gần chỗ tỉnh-lỵ Hưng-yên bấy giờ). Về sau ở đấy có người Nhật-bản,
người Tàu, người Tiêm-la đến buôn-bán kể có 2.000 nóc nhà, làm thành
ra chỗ vui-vẻ lắm, cho nên tục-ngữ bấy giờ có câu rằng:
" Thứ
nhất Kinh-kỳ, thứ nh́ Phố-hiến "
Lúc bấy
giờ người Bồ-đào-nha sang buôn-bán ở trong Nam nhiều hơn, mà ở ngoài
Bắc th́ có người Ḥa-lan nhiều hơn, nhưng thủa ấy người hai nước ấy
hay tranh-cạnh với nhau, bởi thế chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ư
muốn nhân cớ ấy mà nhờ họ giúp ḿnh. Song v́ lợi buôn-bán cho nên họ
không chịu ra mặt giúp hẳn, thành ra lâu ngày các chúa cũng chán và
lại lôi-thôi về việc tông-giáo, cho nên đến năm canh-th́n (1700) đời
vua Lê Hi-tông, người Ḥa-lan thôi không vào buôn-bán ở ngoài Bắc
nữa.
Đời bấy
giờ người Anh-cát-lợi và người Pháp-lan-tây cũng vào buôn- bán ở
nước ta. Năm nhâm-tí (1672) đời vua Lê Hi-tông, người Anh-cát-lợi
đem chiếc tàu Zant vào xin mở cửa hàng buôn-bán, chúa Trịnh cho
xuống ở Phố-hiến, nhưng v́ sau sự buôn-bán không được thịnh-lợi,
người Anh-cát-lợi chỉ ở đến năm đinh-sửu (1697) rồi thôi.
C̣n người
Pháp-lan-tây th́ từ năm canh-thân (1680) đă có tàu vào xin mở cửa
hàng ở Phố-hiến; đến năm nhâm-tuất (1682) lại có chiếc tàu Saint
Joseph ở Tiêm-la sang đem phẩm-vật dâng chúa Trịnh.
Ở trong
Nam th́ năm bính-dần (1686) có người Pháp tên là Verret được phép mở
cửa hàng ở cù-lao Côn-lôn. Đến năm kỷ-tị (1749) lại có một người
Pháp tên là Poivre đi chiếc tàu Machault vào cửa Hội-an, xin vào
yết- kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc-thư cùng phẩm-vật để tỏ t́nh
giao hiếu của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho
người Pháp vào thông-thương. Nhưng chẳng được bao lâu th́ công-ty
của Pháp ở Ấn độ băi đi, cho nên sự thông thương với người Pháp cũng
băi.
Sự đi
truyền giáo.
Đạo
Thiên-chúa. Nguyên khi xưa toàn xứ Âu-la-ba không có nhất định một
tông-giáo nào cả. Mỗi dân-tộc thờ một vị thần riêng của ḿnh. Thường
hay lấy cái lực hoạt động của tạo-hóa mà tưởng-tượng ra các vị thần,
rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như dân- tộc Hi-lạp (Grec) và
dân-tộc La-mă (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông
(Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân-tộc Do-thái (Juifs) ở
đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đă được độc-lập, chỉ thờ một
vị thần gọi là Jéhovah sinh-hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ
phải thờ một vị thần ấy mà thôi. Đến đời dân La-mă đă kiêm-tính được
cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc A-phi-lị-gia và đất tây-nam Âu-la-ba,
dân Do-thái cũng thuộc về La-mă, mà đạo Do-thái bấy giờ cũng đă suy
lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái mà lập ra đạo
mới [113]
dạy người
lấy sự yêu-mến và tôn-kính Thiên-chúa làm gốc, lấy bụng từ-bi nhân
thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ
đem đạo ấy đi truyền-bá các nơi. Ông Saint Pierre th́ sang lập giáo
đường ở tại Kinh-thành La-mă, ông Saint Paul th́ đi truyền đạo ở
khắp trong nước.
Lúc đầu
đạo Thiên-chúa bị nhiều phen vua La-mă nghiêm-cấm, dùng cực h́nh mà
giết hại các giáo-sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dẫu nguy-nan
thế nào mặc ḷng, các môn đồ cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn
phương. Măi đến đầu đệ-tứ thế-kỷ (313) vua La-mă là Constantin mới
cho giảng đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo
Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa
một ngày một thịnh, lập Giáo-hoàng để thống-nhất việc giáo, đặt
Giám-mục để coi việc giáo ở các nơi, lại sai giáo-sĩ đi truyền đạo
khắp trong thiên-hạ: hễ ở đâu có người là có giáo-sĩ đến dạy đạo.
Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo Thiên-chúa
cả. [113]
Đạo của
ông Gia Tô lập ra cho nên ta thường gọi là đạo Gia Tô, lại v́ đạo ấy
chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi, cho nên lại gọi là đạo Thiên Chúa. Có
phái gọi là Cơ đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế.
Bên Á
đông ta th́ từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh- giáo 114
tức là
một phái Gia-tô-giáo đă sang Tàu, nhưng v́ bấy giờ đạo Phật đang
thịnh, cho nên đạo Cảnh-giáo mất dần đi. Măi đến đời nhà Nguyên, nhà
Minh mới thật có giáo-sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu.
Đạo
Thiên-chúa sang nước Nam. Ở nước Nam ta từ khi đă có người Âu-la-ba
sang buôn bán, th́ tất là có giáo-sĩ sang dạy đạo. Cứ theo sách Khâm
định Việt-sử, th́ từ năm Nguyên-ḥa nguyên-niên đời vua Trang-tông
nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo
Thiên-chúa ở làng Ninh-cường, làng Quần-anh, thuộc huyện Nam-chân
(tức là Nam-trực) và ở làng Trà-lũ, thuộc huyện Giao-thủy.
Sách
Nam-sử của Trương vĩnh Kư chép rằng năm bính-thân (1596) đời ông
Nguyễn Hoàng có người giáo-sĩ Tây-ban-nha tên là Diego Adverte vào
giảng đạo ở trong Nam trước hết cả. Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy
chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ư quấy-nhiễu ǵ
chăng, bèn đuổi đi.
Đến năm
ất-măo (1615) đời chúa Săi, giáo-sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo,
rồi đến năm giáp-tí (1624) có giáo-sĩ tên là Jean Rhodes, người
Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú-xuân và lập ra các giáo đường. Năm
bính-dần (1626) đời vua Lê Thần-tông, giáo-sĩ là Baldinoti vào giảng
đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi. Được ít lâu
ông Jean Rhodes ở trong Nam ra Bắc vào yết-kiến chúa Trịnh và đem
dâng các đồng- hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được giảng
đạo tại Kinh đô.
Từ đó về
sau các giáo-sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người ḿnh càng ngày
càng theo đạo cũng nhiều. Nhưng v́ nước ta tự xưa đến nay vẫn theo
Nho-giáo, lấy sự thờ-cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế-tự thần-thánh
làm phải, mà lệ nước th́ lấy sự cúng-tế làm một việc rất quan-
trọng. Đột nhiên thấy nhiều người ḿnh theo đạo Thiên-chúa, bỏ cả
các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên
trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm
hủy-hoại cả cái phong-hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm
không cho người trong nước theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm
để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ đụ ấy.
Cứ theo
trong sử th́ năm tân-vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là
Nguyễn-phúc Lan cấm không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước.
[114]
Cảnh giáo
là một phái đạo Gia Tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ
đệ ngũ thế kỷ ở Đông La Mă, rồi truyền sang nước Ba Tư (Perse) và
nước Tàu.
Năm
quí-măo (1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các
giáo-sĩ và cấm không cho người ḿnh theo đạo Gia-tô.
Năm
giáp-th́n (1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người đi giảng
đạo ở Đà-nẵng.
Năm
bính-tí (1696) đời vua Lê Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá hết cả
những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra
ngoài nước.
Năm
nhâm-th́n (1712) đời vua Lê Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người
theo đạo Gia-tô phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa-lan
đạo" 115 .
Năm
giáp-tuất (1754) đời Cảnh-hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm-cấm một cách
rất ngặt, không cho người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo-
trưởng và đạo đồ.
Từ đó về
sau việc cấm đạo một ngày một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng
không lấy luật nước làm sợ, cứ cố sức dụ cho được nhiều người theo
đạo. Rồi dần dần người trong nước phân ra bên lương bên giáo,
ghen-ghét nhau hơn người cừu địch. Vua quan th́ thấy dùng phép
thường không cấm được, mới dùng đến cực h́nh để mà trừng-trị, giết
hại bao nhiêu người vô tội.
Tóm lại
mà xét, th́ giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn
bán mà thôi, th́ chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến,
vua quan ta cũng không có lẽ ǵ mà ngăn-cấm; nhưng bởi v́ khi đă
quan-hệ đến việc sùng-tín, th́ dù hay dở thế nào mặc ḷng, người ta
ai cũng cho sự sùng-tín của ḿnh là phải hơn, thành ra không ai
khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế-lực để mà đè-nén nhau. Cũng
v́ thế cho nên về sau nước ta không chịu suy-xét lẽ phải-trái cho
kỹ-càng, làm lắm sự tàn-ác để đến nỗi mất cả sự ḥa-hiếu với các
nước ở Tây dương và gây nên cái mối biến-loạn cho nước nhà vậy.
[115]
Hoa Lan
tức là Ḥa Lan (Hollande). Người Ḥa Lan sang buôn bán ở ngoài Bắc
trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Ḥa Lan. Vả lúc bấy giờ người
Việt Nam ta không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây
th́ thường cứ gọi là Ḥa Lan
CHƯƠNG
VIII
Vận Trung
Suy của Chúa Nguyễn
1. Trương
Phúc Loan chuyên quyền 2. Tây Sơn dấy binh 3. Quân họ Trịnh vào lấy
Phú Xuân 4. Chúa Nguyễn vào Gia Định 5. Nguyễn Vương khởi binh đánh
Tây Sơn 6. Nguyễn Vương định cầu viện nước Pháp Lan Tây 7. Nguyễn
Huệ phá quân Tiêm La
1. Trương
Phúc Loan chuyên quyền.
Từ ông
Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam: phía bắc chống
nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm thành và đất Chân
Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương
hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và
phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.
Năm ất
dậu (1765) Vũ Vương mất. Bấy giờ thế tử đă mất rồi, con thế tử là
Nguyễn Phúc Dương hăy c̣n nhỏ, mà người con trưởng của Vũ Vương cũng
mất rồi. Tờ di chiếu để lại định lập người con thứ hai lên nối
nghiệp chúa 116 . Nhưng khi ấy người quyền thần là Trương Phúc Loan,
ư muốn chuyên quyền làm bậy, bèn đổi tờ di chiếu đi mà lập người con
thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi, lên làm chúa, gọi là Định
Vương.
Trương
Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác, trong nước ai ai
cũng oán giận, bởi thế cho nên, ở phía nam th́ có Tây Sơn dấy binh
đánh phá tại đất Qui Nhơn; ở mặt bắc th́ có quân họ Trịnh vào lấy
đất Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ vậy. [116]
Tức là
hoàng khảo vua Thế Tổ, sau truy tôn là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế.
2. Tây Sơn Dấy Binh.
Lúc bấy
giờ ở huyện Phù Ly (nay đổi là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên
là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối với chúa Nguyễn.
Nguyên
ông tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quư Ly
ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa
Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn 117
thuộc đất
Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp
Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người
con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ.
Anh em
ông Nhạc muốn khởi loạn, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ
thu phục nhân tâm, v́ rằng đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn.
Nguyễn
Nhạc trước làm biện lại ở Vân Đồn, cho nên sau người ta thường gọi
là biện Nhạc. Nhưng v́ tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ
phải tội, bỏ đi vào rừng làm giặc. Đến năm tân măo (1771) mới lập
đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người theo về càng ngày
càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cho nên những
kẻ nghèo khổ theo phục rất nhiều.
Thế
Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh, quân nhà chúa đánh không được. Vả lại
Nhạc là một người có can đảm và lắm cơ trí; một hôm định vào lấy
thành Qui Nhơn, bèn lập mưu, ngồi vào trong cái cũi, cho người
khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy là Nguyễn Khắc Tuyên. Nguyễn Khắc
Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành. Đến nửa đêm, Nhạc phá
cũ ra, mở cửa thành cho quân ḿnh vào đánh đuổi quan quân đi, giữ
lấy thành Qui Nhơn làm chỗ căn bản. Bấy giờ lại có mấy người khách
buôn tên là Tập Đ́nh và Lư Tài cũng mộ quân nổi lên theo giúp Tây
Sơn. Nguyễn Nhạc chia quân ra làm 5 đồn là: trung, tiền, hậu, tả,
hữu, rồi tiến lên đánh lấy đất Quảng Nam. Chẳng bao lâu từ đất Quảng
Nghĩa bây giờ vao cho đến B́nh Thuận đều thuộc về Tây Sơn cả.
3. Quân
Họ Trịnh vào lấy Phú Xuân.
Đang khi
trong Nam có quyền thần chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở
ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh Sâm biết t́nh trạng như vậy,
bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ hơn 3 vạn quân cùng
với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng [117]
Ấp Tây
Sơn nay là đất thôn An Khà và thôn Cửu An thuộc phủ Hoài Nhân. V́
anh em Nguyễn Nhạc khởi nghiệp ở chỗ ấy, nên mới gọi là Tây Sơn.
Đ́nh Thể, Hoàng Đ́nh Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả nói
là vào đánh Trương Phúc Loan.
Đến tháng
10 năm giáp ngọ (1774) quân Hoàng Ngũ Phúc sang sông Linh Giang, sai
Hoàng Đ́nh Thể đem binh đến đánh lấy lũy Trấn Ninh, nhờ có nội ứng,
cho nên không đánh mà lấy được lũy. Trịnh Sâm được tin Hoàng Ngũ
Phúc đă phá được thành Trấn Ninh rồi, bèn quyết kế đem đại binh đi
vào tiếp ứng. Đến tháng chạp th́ quân của Ngũ Phúc tiến lên đóng ở
làng Hồ Xá (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị) rồi truyền hịch đi nói
rằng quân Bắc chỉ vào đánh Trương Phúc Loan mà thôi, chứ không có ư
ǵ khác cả. Các quan ở Phú Xuân bèn mưu bắt Phúc Loan đem nộp.
Hoàng Ngũ
Phúc bắt được Trương Phúc Loan rồi, lại tiến binh đến huyện Đăng
Xương, sai người đưa thư đến Phú Xuân nói rằng Phúc Loan tuy đă trừ,
nhưng mà Tây Sơn hăy c̣n, vậy xin đem binh đến hội tại Phú Xuân để
cùng đi đánh giặc.
Chúa
Nguyễn biết mưu Hoàng Ngũ Phúc chực đánh lừa để lấy kinh thành, bèn
sai Tôn Thất Tiệp cùng với quan Chưởng cơ là Nguyễn Văn Chinh đem
thủy bộ quân ra án ngữ ở sông Bái Đáp Giang (nay gọi là Phu lệ ở
huyện Quảng Điền). Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đ́nh Thể đem binh đi lên
đường núi rồi tiến binh hai mặt đánh ập lại, quân họ Nguyễn vỡ tan
bỏ chạy cả, quân Bắc tiến lên lấy thành Phú Xuân, chúa Nguyễn và các
quan chạy vào Quảng Nam.
Bấy giờ
Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung, được tin Hoàng Ngũ Phúc đă lấy được Phú
Xuân rồi, mừng lắm, sai quan đưa cho Ngũ Phúc 100 lạng vàng, và cho
các tướng sĩ 5000 lạng bạc, lại phong cho Ngũ Phúc làm Đại Trấn Phủ,
đất Thuận Hóa để lo việc lấy đất Quảng Nam. Đoạn rồi Trịnh Sâm rút
quân về Bắc.
4. Chúa
Nguyễn vào Gia Định.
Chúa
Nguyễn vào đến Quảng Nam đóng ở Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc
Dương lên làm đông cung, để lo việc đánh giặc. Được mấy tháng quân
Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa Nguyễn đánh
không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn.
Chúa
Nguyễn liệu chừng không chống giữ được, bèn cùng người cháu là ông
Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định, để Đông Cung ở lại
Quảng Nam chống giữ với giặc. Đông cung đóng đồn ở làng Câu Để
(thuộc huyện Ḥa Vinh).
Nguyễn
Nhạc biết Đông cung yếu thế, và lại muốn lấy tiếng để mà sai chúng,
bèn sai người đi rước Đông cung về đóng ở phố Hội An (Faifo, thuộc
Quảng Nam).
Ngay lúc
ấy quân của Hoàng Ngũ Phúc đă qua Hải Vân Sơn vào lấy đồn Trung Sơn
và đồn Câu Để ở huyện Ḥa Vinh, Nguyễn Nhạc sai người khác là Tập
Đ́nh làm tiên phong, Lư Tài làm trung quân, tự ḿnh làm hậu tập ra
đánh nhau với quân họ Trịnh ở làng Cẩm Sa (thuộc Ḥa Vinh). Quân của
Tập Đ́nh đều là người khách Quảng Đông và những người mọi to lớn, ai
nấy cởi trần ra đội khăn đỏ cầm phang, đeo khiên, đánh thật là hung
mạnh. Quân tiền đội của Ngũ Phúc đương không nội, Ngũ Phúc mới sai
Hoàng Đ́nh Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh vào xông trận, rồi bộ
binh đánh tràn vào. Tập Đ́nh thua chạy. Nguyễn Nhạc và Lư Tài phải
lùi về giữ bến Bản rồi đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tập Đ́nh vốn là
người bạo ngược, Nguyễn Nhạc muốn nhân dịp thua trận bắt giết đi.
Tập Đ́nh biết ư bỏ chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt được đem
chém.
Lúc bấy
giờ ở phía nam có quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống Phúc Hợp đem quân
đánh lấy lại được ba phủ là B́nh Thuận, Diên Khánh và B́nh Khánh,
rồi lại tiến binh ra đánh đất Phú Yên; ở phía bắc th́ có quân họ
Trịnh đóng ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc liệu thế chống không nổi, bèn
sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa ra nói với Hoàng Ngũ Phúc xin
nộp đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu đi đánh
họ Nguyễn.
Hoàng Ngũ
Phúc cũng muốn dùng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Định, bèn làm biểu
xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm tiên phong tướng quân, Tây Sơn
Hiệu trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào cho Nguyễn
Nhạc.
Nguyễn
Nhạc không lo mặt bắc nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con
gái ḿnh là Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoảng đăi một cách rất
tôn kính, rồi sai người giả đến nói với Tống Phúc Hợp xin về hàng để
lo sự khôi phục lại đất Phú Xuân. Tống Phúc Hợp cho sứ đến xem hư
thực, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, rồi viết thư cho sứ đưa về
nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xă tắc, Tống Phúc Hợp tin
là thực t́nh, không pḥng bị ǵ nữa.
Nguyễn
Nhạc biết rơ t́nh h́nh, sai em là Nguyễn Huệ đem quân đến đánh Tống
Phúc Hợp. Quân họ Nguyễn thua to bỏ chạy về giữ Vân Phong. Nguyễn
Nhạc cho người đưa tin thắng trận ra cho Hoàng Ngũ Phúc biết. Ngũ
Phúc xin chúa Trịnh phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu Tiên Phong
Tướng Quân.
Quân
Hoàng Ngũ Phúc đóng ở Châu Ổ, giáp đất Quảng Nghĩa, đến tháng chạp
năm ấy là năm ất tị (1775) bị dịch chết mất nhiều. Ngũ Phúc viết thư
ra xin chúa Trịnh cho rút về giữ Thuận Hóa. Trịnh Sâm thuận cho.
Hoàng Ngũ Phúc về đến Phú Xuân th́ mất, chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt
vào thay, và sai Lê Quư Đôn vào làm Tham Thị cùng giữ đất Thuận Hóa.
Đất Thuận
Hóa bấy giờ kể từ đất Nam bố chính trở vào là 2 phủ: Triệu Phong và
Quảng B́nh 118 , 2 huyện, 8 châu. Số nhân đinh được 126.857, số
ruộng đất rộng được 265.508 mẫu, nhưng mà trừ đất rừng và các thứ
đi, th́ c̣n được 153.181 mẫu phải đóng thuế.
Từ khi
quân họ Trịnh lui về Thuận Hóa rồi, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây
Sơn. Năm bính thân (1776) Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ đem thủy
quân vượt bể vào đánh Gia Định, lấy được thành Sài Côn. Chúa Nguyễn
phải chạy về Trấn Biên (tức là Biên Ḥa).
Bấy giờ ở
Đông Sơn có Đỗ Thành Nhân khởI binh chống với Tây Sơn lấy lại thành
Sài Côn. Nguyễn Lữ lấy thóc gạo rồi rút quân về Quy Nhơn.
Nguyễn
Nhạc thấy thế ḿnh một ngày một mạnh, bèn sai sửa lại thành Đồ Bàn
(là kinh thành cũ của Chiêm Thành ngày trước) rồi đến tháng ba năm
bính thân (1776) tự xưng làm Tây Sơn Vương và phong chức tước cho
mọi người. Bấy giờ Tây Sơn đem Đông Cung ra ở chùa Thập Tháp. Đông
Cung bèn trốn xuống thuyền chạy về Gia Định.
Người
khách Lư Tài trước đă bỏ Nguyễn Nhạc theo giúp chúa Nguyễn, rồi sau
lại phản lại, đánh chúa Nguyễn, nay nghe Đông cung trốn về, lại đem
binh rước về Sài Côn lập lên làm Tân Chính Vương, tôn Định Vương làm
Thái Thượng Vương để cùng lo sự khôi phục.
Năm đinh
dâu (1777) Nguyễn Nhạc sai người ra xin với chúa Trịnh cho trấn thủ
đất Quảng Nam, Trịnh Sâm bấy giờ cũng chán sự dụng binh, bèn nhân
dịp phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên Úy đại sứ,
Cung Quận Công.
Nguyễn
Nhạc được phong rồi, không phải pḥng giữa mặt bắc nữa, bèn sai
Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem thủy bộ quân vào đánh Gia Định. Lư Tài
chống khôngh nổi phải bỏ chạy. Tân Chính Vương chạy về bến Trà
(thuộc Định Tường) rồi lại chạy về Ba vát (thuộc Vĩnh Long), c̣n
Thái [118]
Triệu
Phong phủ có 5 huyện; Quảng B́nh phủ có 3 huyện 1 châu. Thượng Vương
th́ chạy về Long Xuyên. Nhưng chẳng bao lậu Nguyễn Huệ đem quân đuổi
bắt được cả Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương, đem giết đi.
Nguyễn Lữ
và Nguyễn Huệ lấy xong đất Gia Định, để tổng đốc Chu ở lại trấn thủ,
rồi đem quân về Quy Nhơn. Qua năm sau là năm mậu tuất (1778) Nguyễn
Nhạc tự xưng đế hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là
Hoàng Đế Thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn Huệ làm
Long Nhương Tướng Quân.
5. Nguyễn
Vương Khởi Binh Đánh Tây Sơn.
Khi Thái
Thượng Vương và Tân Chính Vương bị bắt, th́ người cháu Thái Thượng
Vương là Nguyễn Phúc Ánh, chạy thoát được. Đến khi Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ tập những tôi tớ
cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên, tiến lên đến Sa đéc, và cùng với
quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu 119
và các
tướng là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về
đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc
Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại Nguyên Súy, Nhiếp Quốc
Chính.
Được ít
lâu vua Tây Sơn lại sai tổng đốc Chu, tư khấu Uy, và quan hộ giá
Phạm Ngạn đem quân thủy vào đánh Trấn Biên và Phan trấn cùng các
miền ở mặt bể. Đỗ Thanh Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được tư
khấu Uy, đuổi được quân Tây Sơn đi, ông Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê
Văn Quân đem binh ra đánh lấy thành B́nh Thuận và thành Diên Khánh.
Từ khi
khôi phục được đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh sai sứ sang thông
với nước Tiêm La, và lại sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi
đánh Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua để Hồ Văn Lân ở
lại bảo hộ. Ở đất Gia Định th́ ngài sửa sang mọi việc: đặt quan cai
trị các dinh, định lệ thu thuế để nuôi binh lính, làm chiến thuyền,
tập binh mă để pḥng bị việc chiến tranh.
Năm canh
tí (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu rồi phong cho Đỗ Thanh
Nhân làm chức Ngoại Hữu, Phụ Chính, Thượng Tướng Công, và thăng
thưởng cho các tướng sĩ. Nhưng sau v́ Đỗ Thanh Nhân cậy công lộng
quyền, cho nên Nguyễn Vương mới giết đi. Cũng v́ việc ấy cho nên
Đông Sơn trước đă hết ḷng giúp Nguyễn Vương, sau đều bỏ cả, và lại
phản lại, thành ra lôi thôI phải đánh dẹp măi. [119]
Lê Văn
Câu là người ở Vĩnh Tường đất Gia Định, trước theo Châu Văn Tiếp sau
làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân.
Tháng 10
năm tân sửu (1781) vua nước Tiêm La là Trịnh Quốc Anh sai tướng là
Chất Tri (Chakkri) và Sô Si, hai anh em sang đánh Chân Lạp. Nguyễn
Vương sai quan Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3000
quân sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Tiêm La c̣n đang chống giữ
nhau ở Chân Lạp, th́ ở Vọng Các vua nước Tiêm La bắt giam cả vợ con
của hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới giao kết với
Nguyễn Hữu Thoại thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Đoạn rồi Chất
Tri đem quân về Tiêm La. Ngay lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi
lên, vua nước ấy bị ngươi Phan Nha Văn Sản đuổi đi cướp mất ngôi.
Chất Trí về đến Vọng Các, sai người đi t́m quốc vương là Trịnh Quốc
Anh đem giết đi, và bắt giết cả Phan Nha Văn Sả, rồi tự lập làm vua,
xưng là Phật Vương, phong cho em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là
Ma Lạc làm đệ tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hăy c̣n, và các
vua đều xưng là Rama.
Tháng ba
năm nhâm dần (1782) vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn
100 chiếc thuyền vào cửa Cần Giờ, đánh nhau với quân Nguyễn Vương ở
Thất Kỳ Giang (tức Ngả Bảy). Trận ấy quân Nguyễn Vương thua to, có
người nước Pháp tên là Mạn Ḥe (Manuel) làm chủ một chiếc tàu phải
đốt tàu mà chết. Nguyễn Vương phải bỏ thành Sài g̣n chạy về đất Tam
phụ (Ba giồng), rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc.
Vua Tây
Sơn b́nh xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng là
Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ thành Sài Côn (tức Sài G̣n).
Khi quân
Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, các tướng nhà Nguyễn lại
nổi lên đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có Châu Văn Tiếp là người ở Quy
Nhơn, nhân lúc loạn, tụ chúng giữ núi Trà Lang (thuộc Phú Yên). Đến
khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định, Châu Văn Tiếp đem
binh ra giúp. Sau chẳng may chúa Nguyễn thất thế ngộ hại, Nguyễn
Vương lên nối nghiệp. Văn Tiếp theo giúp, được phong làm chức chưởng
cơ, đem binh ra đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ Trà Lang. Nay
được tin Gia Định lại thất thủ, Văn Tiếp bèn đem quân từ Phú Yên về
hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại được thành
Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn Vương về.
Nguyễn
Vương về sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn, nhưng qua năm
quư măo (1783) vua Tây Sơn lại sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh
vào đánh. Nguyễn Vương lại phải rước vương mẫu và cung quyến ra Phú
Quốc. Đến tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc. Nguyễn Vương
chạy về Côn Nôn; quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Nôn; nhưng
may nhờ có cơn băo đánh đắm cả thuyền của Tây Sơn, cho nên Nguyễn
Vương mới ra khỏi trùng vi, chạy về đảo Cổ Cốt, rồi lại trở về Phú
Quốc.
6. Nguyễn
Vương Định Cầu Viện Nước Pháp Lan Tây.
Lúc bấy
giờ lương thực hết sạch, Nguyễn Vương cùng với những người đi theo
phải hái rau và t́m củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, thật là nguy
nan quá. Nhân v́ khi trước Nguyễn Vương có quen một người nước Pháp
làm giám mục đạo Gia Tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de
Béhaine, évêque d'Adran) khi ấy đang ở đất Chantaboun (thuộc nước
Tiêm La), ngài bèn sai người đến bàn việc. Ông Bá Đa Lộc nói nên
sang cầu cứu nước Pháp, nhưng phải cho Hoàng Tử đi làm tin th́ mới
được.
Nguyễn
Vương theo lời ấy, ben giao Hoàng Tử Cảnh và cái quốc ấn cho ông Bá
Đa Lộc, lại làm tờ quốc thư cho ông ấy được quyền tự tiện sang
thương nghị với chính phủ Pháp để xin viện binh.
Tờ quốc
thư ấy có 14 khoản, đại lược nói nhờ ông Bá Đa Lộc sang xin nước
Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ mọi cả
thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo), đảo
Côn Nôn và để riêng cho người nước Pháp được đặc quyền vào buôn bán
ở nước Nam 120 .
Nguyễn
Vương lại làm một cái thư riêng để dâng cho vua nước Pháp, và sai
quan phó vệ úy là Phạm Văn Nhân, quan cai cơ là Nguyễn Văn Liêm theo
hộ vệ Hoàng Tử Cảnh bấy giờ mới có 4 tuổi.
Mọi sự đă
xếp đặt cả rồi, nhưng v́ c̣n trái mùa gió cho nên ông Bá Đa Lộc chưa
khởi hành được. Nguyễn Vương tuy đă nghe lời ông Bá Đa Lộc định sang
cầu cứu nước Pháp, nhưng trong bụng chưa quyết hẳn, c̣n có ư muốn
nhờ nước Tiêm La.
Nguyên
lúc đánh thua ở Sài Côn, Châu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu cứu.
Đến tháng 2 năm giáp th́n (1784) vua Tiêm La sai tướng là Chất Si Đa
đem thủy quân sang Hà Tiên, t́m Nguyễn Vương để mời sang bàn việc.
Nguyễn Vương lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp, cho nên mới
đến hội với tướng nước Tiêm, rồi cùng sang Vọng Các xin binh cứu
viện.
Tiêm
Vương tiếp đăi Nguyễn Vương rất hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng,
Chiêu Sương đem hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền sang [120]
Tờ quốc
thư này và cái thư của Nguyễn Vương viết cho vua nước Pháp nay hăy
c̣n ở Ngoại Giao Bộ tại Paris. giúp Nguyễn Vương. Quân Tiêm La sang
lấy được Rạch Giá, Ba thắc, Trà Ôn, Mân thít, Sa đéc. Khi đánh ở Mân
thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng mà mất. Từ đó quân Tiêm ỷ thế đi
đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn ác, cho nên ḷng người
oán hận lắm.
7. Nguyễn
Huệ Phá Quân Tiêm La.
Tướng Tây
Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh
phá, thế lực mạnh lắm, bèn sai người về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây
Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Nguyễn
Huệ vào đến Gia Định nhử quân Tiêm La đến gần Rạch Gầm và Xoài mút ở
phía trên Mỹ Tho, rồi đánh phá một trận, giết quân Tiêm chỉ c̣n được
vài ngh́n người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Nguyễn Huệ
phá được quân Tiêm La rồi, đem binh đuổi đánh Nguyễn Vương. Nguyễn
Vương bấy giờ hết cả lương thực, cùng với mấy người chạy về Trấn
Giang, ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Tiêm La.
Đánh dẹp
xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Chân ở
lại trấn đất Gia Định.
Nguyễn
Vương biết thế không mong cậy được người Tiêm La, bèn giục ông Bá Đa
Lộc đem Hoàng tử đi sang nước Pháp cầu viện. Ông Bá Đa Lộc đi rồi,
Nguyễn Vương rước vương mẫu và cung quyến sang trú ở Vọng Các để chờ
có cơ hội lại về khôi phục.
CHƯƠNG IX
Họ Trịnh
Mất Nghiệp Chúa
1. Chúa
Trịnh bỏ trưởng lập thứ 2. Kiêu binh 3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa 4. Tây
Sơn dứt họ Trịnh
1. Chúa
Trịnh bỏ trưởng lập thứ.
Từ khi
quân chúa Trịnh lấy được đất Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng
thêm kiêu hănh, lại có ư muốn cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị
Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu nói rằng con cháu họ
Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại sai quan nội giám đi với Vũ
Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong làm vua. Nhưng
sang đến Động Đ́nh Hồ, th́ Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi
uống thuốc độc mà chết, bởi vậy việc cầu phong lại bỏ, không nói
đến.
Sau Trịnh
Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập
người con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm thế tử. Từ đó người th́ theo
Đặng Thị, người th́ pḥ Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.
Tháng
chín năm nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm
chúa và Huy Quận Công Hoàng Đ́nh Bảo làm phụ chính. Trịnh Cán c̣n ít
tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho nên
thành sự biến loạn.
2. Kiêu
Binh.
Nguyên từ
khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng
lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quan túc vệ.
Những
lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép. Năm giáp dần
(1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh, lính Nghệ đă
giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm
tân dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và chực giết quan Tham Tụng
Nguyễn Quư Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà
chúa có bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đă quen thói, về
sau hễ hơi có điều ǵ bất b́nh, th́ lại nổi lên làm loạn.
Đến năm
nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị và Hoàng Đ́nh Bảo lập Trịnh
Cán lên làm chúa. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu với quân
tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội Tiệp
bảo tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ
chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào
giết Hoàng Đ́nh Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải
lên làm chúa.
Trịnh
Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam
phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không
ai kiềm chế được. Năm giáp th́n (1784) quân tam phủ lại phá nhà quan
tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương Khuông và giết Nguyễn Triêm ở trước
cửa phủ chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy thoát được lên Sơn Tây cùng
với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài, rồi gọi
binh các trấn về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh vào
canh giữ phủ chúa, Trịnh Khải không ra được. Quân ấy lại chia nhau
ra giữ các cửa ô. Quân các trấn cũng sợ chúa bị hại đều phải rút về.
Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng ngh́n đi cướp phá các
làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi th́ dân làng lại bắt giết đi, thành ra
quân với dân xem nhau như cừu địch, mà các văn thần vơ tướng cũng bó
tay mà chịu không làm sao được. Sau có quan tham tụng là Bùi Huy
Bích dỗ dành măi mới dần dần hơi yên.
Lúc bấy
giờ ở trong đang có kiêu binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân dịp đem
quân vào đánh phá, bởi thế cho nên cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát vậy.
3. Tây
Sơn Lấy Thuận Hóa.
Nguyên
khi trước Hoàng Đ́nh Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi,
mà trong bọn ấy có một người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ An, tên là
Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống
Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện
bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm,
gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo
Hoàng Đ́nh Bảo.
Đến khi
kiêu binh đă giết Hoàng Đ́nh Bảo rồi, có người đem tin Hữu Chỉnh
biết, Hữu Chỉnh vào bàn với quan trấn thủ Nghệ An là Vơ Tá Giao để
tự lập ở xứ Nghệ, nhưng mà Vơ Tá Giao sợ không dám làm, Hữu Chỉnh
bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc.
Nguyên
khi trước Nguyễn Hữu Chỉnh theo Hoàng Ngũ Phúc vào đánh Quảng Nam
thường vẫn đi lại quen Nguyễn Nhạc, cho nên Nguyễn Nhạc tin dùng,
đăi làm thượng tân. Từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu định kế xin vua
Tây Sơn ra đánh Thuận Hóa và đất Bắc Hà.
Vả, từ
khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ
đất Thuận Hóa, sau lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay Bùi Thế Đạt. Phạm
Ngô Cầu là người nhu nhược vô mưu, mà lại có tính tham lam, chỉ lo
việc làm giàu, chứ không nghĩ ǵ đến việc binh. Quan phó đốc thị là
Nguyễn Lệnh Tân đă viết thư về bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho
tướng khác vào thay Phạm Ngô Cầu. Trịnh Sâm không nghe, lại đ̣i
Nguyễn Lệnh Tân về.
Vua Tây
Sơn biết đất Thuận Hoá không pḥng bị, bèn sai em là Nguyễn Huệ làm
tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm
hữu quân đô đốc, đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.
Một hôm
Phạm Ngô Cầu thấy một người khách buôn nói thuật số, đến bảo Ngô Cầu
rằng: "Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn
nhỏ có lẽ phải ốm đau, nên lập đàn làm chay mới được yên lành". Phạm
Ngô Cầu nghe lời ấy lập đàn cầu khấn bảy đêm ngày, bắt quân sĩ phải
phục dịch không được nghỉ ngơi chút nào. Chợt nghe tin quân Tây Sơn
đă lấy được đồn Hải Vân, tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ đă tử trận,
lại thấy báo rằng thủy quân của Tây Sơn đă vào cửa bể, thủy bộ hai
mặt đều kéo đến đánh. Ngô Cầu hốt hoảng, từ ở đàn chạy về dinh, gọi
binh tướng để chống giữ, nhưng quân lính đều mỏi mệt cả, không ai có
ḷng muốn đánh.
Phạm Ngô
Cầu lại có tính đa nghi. Nguyễn Hữu Chỉnh bèn làm một cái thư đề
ngoài gửi cho phó tướng là Hoàng Đ́nh Thể, rủ về hàng Tây Sơn, rồi
giả tảng sai người đưa nhầm sang cho Ngô Cầu. Ngô Cầu bắt được thư
ấy nghi cho Hoàng Đ́nh Thể nhị tâm. Đến khi quân Tây Sơn đến đánh,
Hoàng Đ́nh Thể đem quân bản bộ ra trận đối địch bắn hết thuốc đạn.
Ngô Cầu đóng cửa thành lại không ra tiếp ứng. Hoàng Đ́nh Thể cùng
hai con và t́ tướng là Vũ Tá Kiên đều tử trận cả.
Khi quân
Tây Sơn kéo đến đánh thành, Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành
ra hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều tan vỡ bỏ chạy. Trong mấy
ngày mà đất Thuận hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về Tây Sơn cả. Bấy
giờ là tháng năm năm bính ngọ (1786) đời Cảnh hưng năm thứ 47.
4. Tây
Sơn Dứt Họ Trịnh.
Nguyễn
Huệ lấy được đất Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui
Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn
sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới, và định giữ địa giới cũ ở sông
La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh ra đánh một trận
mà b́nh được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái phép
dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu
cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng th́ lười, quân th́ kiêu, triều
đ́nh không có kỷ cương ǵ cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem
binh ra đánh th́ làm ǵ mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ,
cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều
nhân tài, không nên coi làm thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân
tài Bắc Hà chỉ có một ḿnh Chỉnh, nay Chỉnh đă bỏ đi, th́ nước không
có ai nữa, xin ông đừng có ngại ǵ!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: "
Ấy! người khác th́ không ngại, chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh
thất sắt đi rồi nói rằng: " Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói
thế là có ư tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi".
Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên ḷng Hữu Chỉnh và bảo rằng: "
Nhà Lê làm vua đă mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc ḷng
người đă theo ḿnh." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại có chúa,
ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực là
hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm ǵ để giúp
nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt
Trịnh th́ thiên hạ ai chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải
lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ
không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh th́ làm
thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là
công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo mệnh vua,
ông lại không biết hay sao?"
Nguyễn
Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại
An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi
sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu.
Nguyễn
Hữu Chỉnh đem quân đi qua Nghệ An, Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi
Thế Toại và Tạ Danh Thùy không ai dám ra cự địch; khi ra đến Vị
Hoàng, quan coi đồn ở đấy bỏ chạy. Hữu Chỉnh lấy được hơn trăm vạn
hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu, quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ ở
đấy.
Trước kia
thành Phú Xuân đă vỡ rồi, tin báo đến Thăng Long, các quan bàn rằng:
xứ ấy vẫn không là đất của triều đ́nh, bây giờ mất cũng không hại
ǵ. V́ thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ vào giữ đất Nghệ An.
Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong, đến khi đi được độ 30
dặm th́ đă có tin báo Tây Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền
bèn đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi
Thế Dận đem bộ binh xuống đóng ở xă Phù Sa, thuộc huyện Đông An.
Đinh Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ cửa Luộc Bấy giờ gió Đông Nam
thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để lên trên mấy chiếc
thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho trôi đi. Đinh Tích
Nhưỡng trông thấy tưởng là quân Tây Sơn đến đánh, giàn thuyền ra
trận thành chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Bắn măi, sau mới
biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến lên đánh,
th́ Đinh Tích Nhưỡng hết cả thuốc đạn, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân
của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả. Nguyễn Huệ hạ được
thành Sơn Nam rồi, rồi một mặt truyền hịch đi các lộ nói lấy nghĩa
phù Lê diệt Trịnh, một mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.
Bấy giờ ở
kinh thành th́ quân kiêu binh không sai khiến được, mà quân Tây Sơn
th́ đă đến nơi rồi. Trịnh Khải mới cho gọi Hoàng Phùng Cơ, ở Sơn Tây
về, đem quân đóng ở hồ Vạn Xuân (xă Vạn Phú, Thanh Tŕ) c̣n thủy
binh th́ đóng ở bến Tây Long (Thọ Xương) để pḥng giữ. Quân Tây Sơn
tiến lên đánh tan thủy quân của nhà Trịnh, Hoàng Phùng Cơ phải bỏ
chạy. Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ lên voi thúc quân vào đánh,
nhưng thế Tây Sơn mạnh lắm, đánh không được, Trịnh Khải bỏ chạy lên
Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi, huyện Yên Lăng, gặp tên Nguyễn Trang
đánh lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trịnh Khải về đến làng Nhất Chiêu
lấy gươm cắt cổ tự tận. Bấy giờ là năm bính ngọ (1786). Nguyễn Huệ
cho lấy vương lễ mà tống táng cho chúa Trịnh, rồi vào thành Thăng
Long yết kiến vua Lê.
Họ Trịnh
giúp nhà Lê trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp
chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570-
1786) đến đấy là hết.
CHƯƠNG X
Nhà Hậu
Lê Mất Ngôi Vua
1. Tây
Sơn rút quân về Nam 2. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc 3.
Tây Sơn lấy đất Bắc Hà
1. Tây
Sơn Rút Quân Về Nam.
Nguyễn
Huệ đă dứt được họ Trịnh rồi, vào thành Thăng Long, xuống lệnh cấm
quân lính không được cướp phá dân gian, và định ngày xin yết kiến
vua Lê ở đền Vạn Thọ.
Bấy giờ
vua Hiển Tông đang đau, không ngồi dậy tiếp được, ngài mời Nguyễn
Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu
bày cái lẽ đem binh rà phù Lê diệt Trịnh, chứ không dám có ư ḍm ngó
ǵ. Vua mừng rỡ mà tạ Nguyễn Huệ.
Khi quân
Tây Sơn ra đến Thăng Long, các quan triều thần chạy trốn cả, chỉ c̣n
có mấy người nội giám ở lại hầu hạ vua. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy
vào tâu với vua xin xuống chiếu tuyên triệu các quan về triều; được
mấy hôm có độ mươi người lục tục kéo nhau trở về. Vua bèn định đến
ngày mồng 7 tháng 7 lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem
các tướng và lạy và dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rơ cái nghĩa
tôn phù nhất thống, nghĩa là tự đó về sau nhà Lê có quyền tự chủ.
Vua phong
cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công, và lại gả cho bà Ngọc
Hân Công Chúa là con gái của ngài. Chẳng bao lâu vua Hiển Tông mất,
Hoàng Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.
Nguyên
lúc trước vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vốn không có ư ra đánh Bắc Hà,
đến khi tiếp được thư của Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài Bắc,
Nguyễn Nhạc vội vàng sai người ra Thuận Hóa ngăn lại. Nhưng khi sứ
thần ra đến nơi, th́ Nguyễn Huệ đă cử binh đi rồi. Sau lại tiếp được
thư nói rằng quân Tây Sơn đă lấy được Thăng Long rồi, và c̣n phải ở
lại để giúp nhà Lê. Nguyễn Nhạc sợ em ở lâu ngoài Bắc Hà có sự biến
chăng, bèn đem 500 quân ra Thuận Hóa, rồi lấy thêm 2000 quân, đi
không kỳ ngày đêm ra Thăng Long.
Vua Chiêu
Thống được tin vua Tây Sơn ra Bắc, bèn đem bách quan ra đón ở ngoài
Nam Giao. Nhưng Nguyễn Nhạc cứ đi thẳng, rồi cho người đến nói rằng:
xin để ngày khác tiếp kiến. Được mấy hôm Nguyễn Nhạc mời vua Chiêu
Thống sang phủ đường là lễ tương kiến. Nguyễn Nhạc ngồi giữa, vua
Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn vơ
đứng hầu hai bên.
Khi vào
làm lễ xong rồi, vua Chiêu Thống xin nhường mấy quận để khao quân.
Nguyễn Nhạc nói rằng: "V́ họ Trịnh hiếp chế, cho nên chúng tôi ra
giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh th́ một tấc cũng không để
lại, nhưng mà của nhà Lê th́ một tấc cũng không dám lấy. Xin mong
nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cơi đất, để đời đời giao hiếu với
nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy."
Đoạn rồi
vua Chiêu Thống về điện, hôm sau anh em Tây Sơn bàn rút quân về Nam,
và thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt, định bỏ lại ở Bắc Hà,
bèn mật truyền cho các tướng thu xếp quân thủy bộ, kho tàng có ǵ
lấy hết, rồi đến nửa đêm ngày 17 tháng 8, kéo quân về Nam. Sáng hôm
sau Nguyễn Hữu Chỉnh biết Tây Sơn về rồi, sợ hăi lắm, hoảng hốt bỏ
cả đồ đạc, chạy xuống chiếc thuyền buôn vào Nghệ An, theo vua Tây
Sơn. Nguyễn Nhạc thấy Hữu Chỉnh lại theo về, không nỡ bỏ, cho ở lại
cùng với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An.
Bấy giờ
quyền bính ở đất Bắc Hà về cả vua nhà Lê, thật là một cơ hội ít có
để lập lại cái nền tự chủ của nhà Lê, nhưng tiếc v́ vua Chiêu Thống
không có tài quyết đoán, mà đ́nh thần lúc bấy giờ không có ai là
người biết kinh luân: hễ thấy có giặc th́ bỏ chạy, giặc đi rồi th́
kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người th́ định lập lại nghiệp chúa,
kẻ th́ muốn tôn phù nhà vua. Lại có ḍng dơi họ Trịnh là Trịnh Lệ và
Trịnh Bồng chia đảng ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống
bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ
Chúa. Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế nhà vua, vua Chiêu Thống
phải xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp.
2. Nguyễn
Hữu Chỉnh Chuyên Quyền ở Đất Bắc.
Nguyễn
Hữu Chỉnh từ khi trở về Nghệ An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm luyện
tập, nhân có chiếu nhà vua gọi vào, bèn thu xếp được hơn một vạn
quân ra giúp vua Lê. Trịnh Bồng đem quân ra chống giữ, đánh thua
phải bỏ chạy. Hữu Chỉnh vào yết kiến vua Chiêu Thống và chuyên giữ
binh quyền.
Trịnh
Bồng có khởi binh mấy lần để toan sự khôi phục, nhưng không thành
co6ng, cho nên cũng chán sự đời bèn bỏ đi tu, về sau không biết chết
ở đâu. Họ Trịnh mất từ đấy.
Nguyễn
Hữu Chỉnh đánh đuổi họ Trịnh đi rồi, vua phong cho chức Đại Tư Đồ
Bằng Trung Công. Từ đó Hữu Chỉnh cậy công khinh người, làm lắm điều
trái phép, vua cũng lấy làm lo. Nhưng không biết trông cậy vào ai,
cho nên đành phải chịu vậy.
3. Tây
Sơn Lấy Đất Bắc Hà.
Ở trong
Nam th́ từ khi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn rồi, tự xưng
làm Trung ương Hoàng Đê, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở
đất Gia Định, cho Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh Vương, ở đất Thuận Hóa,
lấy Hải Vân Sơn làm giới hạn.
Được ít
lâu Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn
Huệ đem binh vào vây đánh thành Qui Nhơn, ngặt đế nỗi Nguyễn Nhạc
phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: " Nỡ
ḷng nào lại nồi da nấu thịt như thế" 121
- Nguyễn
Huệ động ḷng mới giải vây rút quân về Thuận Hóa.
Trong khi
anh em Tây Sơn đánh nhau, th́ Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc Hà, đến khi
anh em Tây Sơn đă giảng ḥa rồi, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân thấy Hữu
Chỉnh lừng lẫy ở đất Bắc, bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt.
Tháng 11
năm đinh tị (1787) Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thanh
Quyết Giang (làng Thanh Quyết, huyện Gia Viễn), và ở Châu Cầu ( phủ
Lư Nhân) rồi đánh đuổi ra đến Thăng Long.
Vua Chiêu
Thống thấy quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đă thua rồi, bèn bỏ Kinh đô,
chạy sang Kinh bắc, và sai Lê Quưnh cùng với hơn 30 người tôn thất
đem bà Hoàng Thái Hậu, bà Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. C̣n
vua th́ cùng với Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn ở đất Yên Thế.
Tướng Tây
Sơn là Nguyễn Văn Ḥa đem binh lên đánh bắt được Hữu Chỉnh đem về
làm tội ở Thăng Long.
Vũ Văn
Nhậm giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, cho đi t́m vua Chiêu Thống không
được, bèn tôn Sùng Nhượng Công tên là Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc
để thu phục ḷng người.
Bấy giờ
các quan không ai theo, Sùng Nhượng Công ở trong điện chỉ có vài
người hoàng thân và mấy viên vơ tướng, sớm tối hầu hạ, c̣n th́ [121]
Tục người
trong B́nh Định hễ ai đi săn được hươu nai ǵ th́ lột da ra làm nồi
mà nấu thịt: ở đây Nguyễn NHạc có ư nói rằng cùng da cùng thịt nỡ
nào hại lẫn nhau vậy. không ai tâu hỏi việc ǵ cả. Ngày ngày cứ đi
bộ sang chầu chực bên dinh Vũ Văn Nhậm. Văn Nhậm cũng không biết xử
làm sao. Người kinh thành thấy vậy gọi Sùng Nhượng Công là thầy đề
lại giám quốc. Khi Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh
Nguyễn Hữu Chỉnh th́ đă có ḷng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai
Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh
quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy được Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh rồi,
có ư cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở đem ư ấy viết thư về nói
Vũ Văn Nhậm muốn làm phản. Bắc B́nh Vương lập tức truyền lện kéo
quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ
Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn vơ nhà Lê cho vào yết
kiến, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm giám
quốc, chủ trương việc tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị
Lang. C̣n các quan nhà Lê th́ có người ở lại nhận chức, có người
trốn đi, cũng có người tuẩn tiết.
Bắc B́nh
Vương đă đổi đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc xong cả rồi, chọn
ngày về Nam, để bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà.
Vua Chiêu
Thống từ khi thua trận Mục Sơn chạy về núi Bảo Lộc, rồi nay ở Hải
Dương, mai ở Sơn Nam, cùng với mấy người trung nghĩa lo sự khôi
phục, nhưng v́ thế lực mỗi ngày một kém, bề tôi như bọn Đinh Tích
Nhưỡng th́ giở mặt làm phản, c̣n th́ ai nấy trốn tránh đi mất cả,
bởi thế cho nên cơ nghiệp nhà Lê đổ nát vậy.
Nhà Lê kể
từ vua Thái Tổ khởi nghĩa, đánh đuổi quân nhà Minh về Tàu, lập lại
cái nền tự chủ cho nước nhà, truyền đến vua Chiêu Tông th́ họ Mạc
cướp mất ngôi. Sau nhờ có họ Nguyễn và họ Trịnh giúp đỡ, nhà Hậu Lê
lại trung hưng lên, truyền đến vua Chiêu Thống tức là Mân Đế th́
hết.
Nhà Lê
làm vua, kể cả Tiền Lê và Hậu Lê, được 360 năm (1428- 1788), trước
sau sửa sang được nhiều việc: sự học hành, việc luật pháp, việc canh
nông đều được mở mang ra hơn trước. Nhưng từ khi trung hưng lên trở
về sau nhà vua bị họ Trịnh hiếp chế thành ra có vua lại có chúa. Vua
ngồi làm v́, chúa giữ cả quyền chính trị. Đến khi nghiệp chúa suy
th́ ngôi vua cũng đổ vậy.
CHƯƠNG XI
Nhà
Nguyễn Tây Sơn
1. Nhà
Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp 2. Vua Quang Trung 3. Tôn Sĩ Nghị đem quân
sang Việt Nam 4. Vua Quang Trung đại phá quân nhà Thanh 5. Vua Quang
Trung cầu phong 6. Vua Chiêu Thống nhà Lê bị nhục bên Tàu 7. Đức độ
vua Quang Trung 8. Chính Trị của vua Quang Trung 9. Quan Chế 10.
Việc Dinh Điền 11. Việc Học Hành 12. Việc làm chùa chiền 13. Việc
định đánh Tàu 14. Vua Quang Trung mất 15. Vua Cảnh Thịnh
1. Nhà
Nguyễn Tây Sơn Dấy Nghiệp.
Những
người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua
ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước,
sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều
phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, th́
cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự
thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi,
hay là ở đất biên địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước
làm vua, th́ cho là ngụy triều.
Vậy nay
lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây Sơn làm chính
thống hay ngụy triều, để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng cái danh
hiệu những người anh hùng đă qua.
Nguyên
nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả,
thế mà từ khi nhà Lê trung hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ
phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy c̣n tôn vua nhưng
mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đă có vua lại có chúa, làm
thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một
thời loạn. Đến sau ở trong Nam th́ có Trương Phúc Loan chuyên quyền
làm bậy, ở ngoài Bắc th́ có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại
thần, vua chúa phải nhún ḿnh mà chiều đăi, đ́nh thần phải khoanh
tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.
Lúc ấy
anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn,
chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng
đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, th́ chẳng
qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà
thôi.
C̣n như
Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, th́ trước giúp anh bốn
lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của
Tiêm La, chỉ c̣n được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại
ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rơ
ràng. Ấy là đă có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.
Nhưng v́
vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh
luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên
quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc ḷng, khi Nguyễn Huệ
giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông
miếu tiền triều; như thế th́ cách ở với nhà Lê không lấy ǵ làm bạc.
Sau vua
Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà
Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiến cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai
binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ
của vua nhà Thanh th́ nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng
kỳ thật đă vào tay người Tàu rồi.
Vậy nước
đă mất, th́ phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế,
truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh
một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ
cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà
Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có vơ công nào lẫm
liệt như vậy.
Vả đánh
đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua th́ có điều ǵ mà trái
đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lư, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà
làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy th́ lấy lẽ ǵ mà gọi là ngụy? Huống
chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước
Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như
lệ các triều trước, như thế th́ nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác
ǵ nhà Đinh và nhà Lê không?
Tuy rằng
chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ
Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả
nam bắc lại làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả
lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi
người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét th́ nhà
Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lư mà suy th́ vua Quang Trung
Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên
Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính
thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.
2. Vua
Quang Trung (1788-1792).
Ông
Nguyễn Huệ (sau đổi tên là Nguyễn Quang B́nh) là một người có sức
khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi
binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, B́nh Định) giúp anh là
Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc B́nh Vương, đóng
đô ở đất Phú Xuân.
Năm mậu
thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ
thành Thăng Long, có ư muốn lấy đất An Nam, Bắc B́nh Vương lên ngôi
Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem binh đi đánh giặc.
3. Tôn Sĩ
Nghị Đem Quân Sang An Nam.
Nguyên
vua Chiêu Thống đă mấy lần toan sự khôi phục, nhưng không được, phải
nương náu ở đất Lạng Giang; c̣n bà Hoàng Thái Hậu th́ đem hoàng tử
sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan
tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long
nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị
giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, t́nh cũng nên
thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được
nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường."
Vua Càn
Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây, Quư Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị
chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quư Châu
đem một đạo sang mạn Tuyên Quang 122 , sai Sầm Nghi Đống là tri phủ
Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là
Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang
đánh An Nam. [122]
Khi xưa
đất Hà Giang, Lao Kay, Yên Báy thuộc về địa hạt tỉnh Tuyên Quang.
Tướng Tây
Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu đă sang, sợ thế yếu
đánh không nổi, bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp 123
ra đến bờ
bể, rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp.
Tôn Sĩ
Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng
rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa băi, về mé
nam sông Nhị Ha, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia
quân ra giữ các mặt.
Ngày hôm
sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua
Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
Vua Chiêu
Thống tuy đă thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu
Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu
chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính
hầu mà thôi. Sĩ Nghị th́ ngạo nghễ, tự đắc, ư tứ xử với vua rất là
khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến,
chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc
quân quốc ǵ, xin ngày hăy về cung nghỉ.
Người bấy
giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến
giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải
theo niên hiệu vua Tàu, việc ǵ cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế
th́ có khác ǵ đă là nội thuộc rồi không?"
Vua và
triều thần bấy giờ việc ǵ cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm
chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đă đi theo
Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị th́ càng ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc
binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm sự
nhũng nhiễu. V́ thế cho nên ḷng người mất cả trông cậy.
4. Vua
Quang Trung Đại Phá Quân Thanh.
Bắc B́nh
Vương được tinh quân nhà Thanh đă sang đóng ở Thăng Long, lập tức
hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hăy
chính ngôi tôn, để yên ḷng người rồi sẽ khởi binh.
Bắc B́nh
Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu
thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự ḿnh [123]
Núi Tam
Điệp trước gọi là đèo Ba Dội ở chỗ phân biệt địa giới tỉnh Ninh B́nh
và tỉnh Thanh Hóa. thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh.
Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được
10 vạn quân và hơn 100 con voi.
Vua Quang
Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ nhủ bảo mọi người phải cố gắng
đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng
chạp th́ đến núi Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Th́ Nhiệm đều ra tạ
tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải
lui về giữ chỗ hiểm yếu.
Vua Quang
Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó
thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đă định mẹo rồi,
đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ
chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi,
tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế th́ đánh nhau măi
không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này,
ta phải nhờ Th́ Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đ́nh chỉ việc chiến
tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, th́
ta không cần phải sợ chúng nữa."
Vua Quang
Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ
tịch th́ cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng th́ vào thành
Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến
nghe lệnh điều khiển.
Đại tư mă
Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu
quân đi đốc chiến.
Đại đô
đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào
sông Lục Đầu. Rồi Tuyết th́ kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường
mé đông; Lộc th́ kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để
chặn đường quân Tàu chạy về.
Đại đô
đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mă đi đường núi ra
đánh phía tây. Mưu th́ xuyên ra huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ),
tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Tŕ, đánh quân
Điền Châu; Bảo th́ thống suất quân tượng mă theo đường huyện Sơn
Lăng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Tŕ tiếp ứng cho mặt tả.
Năm quân
được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi
quân sang sông Giản Thủy 124 , cánh nghĩa quân của nhà Lê [124]
Giản Thủy
chắc là bến đ̣ Giản ở giáp giới tỉnh Ninh B́nh và Hà Nam bây giờ.
tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến
huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không
một người nào chạy thoát được; v́ thế cho nên không có tin báo về,
những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết ǵ cả.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang
Trung đến làng Hà hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các
quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới
biết, sợ hăi thất thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân
lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng năm, quân Tây Sơn tiến
lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung
sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ
giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng
một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí
giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An
Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào
chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi,
xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn
đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng,
máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng.
Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả
dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi
Đống đóng ở Đống Đa 125
bị quân
An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết 126 .
Tôn Sĩ
Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc
áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại
nghe tin như thế, xôn xao tan ră chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một
lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây
người chết.
Vua Chiêu
Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và
mấy người cận thần chạy sang Tàu.
Đạo quân
Vân Nam và Quư Châu đóng ở miền Sơn Tây 127
nghe tin
Tôn Sĩ Nghị đă thua, cũng rút quân chạy về.
Ngày hôm
ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn
vào đen như mực. Đến trưa th́ vào thành Thăng Long, sai [125]
Ở cạnh
Thái Hà Ấp, gần Hà Nội. [126]
Về sau
bọn khách trú ở Thăng Long làm cái đền thờ Sầm Nghi Đống ở ngơ Sầm
Công, sau Hàng Buồm, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có vịnh bài tuyệt cú rằng:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Ḱa đền Thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được, Th́ sự anh hùng há bấy nhiêu? [127]
Trước đất
Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc về địa hạt tỉnh Sơn Tây. tướng đem binh đuổi
đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn
sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé bắc
hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người nào?
Vua Quang
Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu
trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại
bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt
được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: " Việc quân nên từ đồ,
không nên hấp tấp. Hăy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và
cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, t́m tự quân nhà Lê
đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào.
Nếu ḷng người nước Nam c̣n nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là
chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà
sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không
khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng
suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, th́
Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hăy đưa thư sang tỏ bảo đường
họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng
đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ
tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua.
Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng
Nam trở vào Nam, th́ cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra
Bắc th́ phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế
cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau".
Vua Quang
Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Th́ Nhiệm rằng: " Ta xem tờ chiếu
của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó
thôi. Nay đă bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc
không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau th́ chỉ khổ dân. Vậy nên
dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà
người chủ trương cho mới được".
Ngô Th́
Nhiệm vâng lệnh làm thư đại khái nói rằng: "Nước Nam vốn không dám
chống cự với đại quốc, nhưng chỉ v́ Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên
phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng ḥa."
Vua Quang
Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh
đă bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước.
Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan
văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; c̣n những việc từ lệnh
giao thiệp với nước Tàu th́ ủy thác cho Ngô Th́ Nhiệm và Phan Huy
Ích cho được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc ǵ quan hệ th́ bất
tất phải đi tâu báo mà làm ǵ.
5. Vua
Quang Trung Cầu Phong.
Vua nhà
Thanh nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, nổi giận đùng đùng, lập tức
giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang An 128
ra thay
Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh mă chín tỉnh, sang kinh
lư việc An Nam.
Phúc
Khang An ra đến Quảng Tây nghe tiếng quân An Nam thế mạnh trong bụng
đă sợ, có ư muốn ḥa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và
bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.
Vua Quang
Trung bèn cho người đưa vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai
người cháu là Nguyễn Quang Hiển và quan là Vũ Huy Tấn đem đồ cống
phẩm sang Yên Kinh vào chầu vua nhà Thanh và dâng biểu xin phong.
Bấy giờ
quan ngoài th́ có Phúc Khang An đề đạt giúp đỡ, quan trong th́ có
các thần là Ḥa Thân 129
làm chủ
trương, cho nên vua nhà Thanh mới thuận cho giảng ḥa. Ḥa Thân được
tiền bạc của vua Quang Trung đút lót, rồi dùng lời nói khéo, điều ǵ
cũng hợp ư vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho
vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, và lại giáng chỉ vời quốc
vương vào chầu.
Vua Quang
Trung bèn chọn một người h́nh dung giống ḿnh, tên là Phạm Công Trị
trá làm quốc vương, rồi sai Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích,
Vơ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh, vào chầu Càn Long. Ngoài những phẩm
vật phải đem cống, vua Quang Trung lại đem cống thêm đôi tượng đực,
làm cho các cung trạm ở dọc đường bên Tàu phảI phục dịch đưa đón
thật là vất vả. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan
Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa Quốc Vương An Nam vào
Kinh.
Sang đến
Yên Kinh, vua Càn Long nhà Thanh tưởng là Nguyễn Quang Trung thật,
vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối, như là t́nh cha con
một nhà, và cho ăn yến với các thân vương. Đến lúc về nước, vua lại
sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho ân lễ thật là
hậu. [128]
Phúc
Khang An là người Măn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn là người t́n
dùng của vua nhà Thanh. 129
Ḥa Thân
cũng là người Măn Châu về dinh Hoàng Kỳ, cùng với Phúc Khang An coi
việc phiên viễn. 6. Vua Chiêu Thống Nhà Lê bị nhục bên Tàu.
Vua Chiêu
Thống theo Tôn Sĩ Nghị vào thành Nam Kinh ở Quảng Tây, được ít lâu
th́ vua nhà Thanh sai các thần là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị.
Khang An muốn giảng ḥa với Tây Sơn, bèn mời vua Chiêu Thống về Quế
Lâm. Bấy giờ những quan cựu thần nhà Lê là: Hoàng thúc Lê Duy Án,
Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doăn, Lê Dĩnh, Phan
Khải Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doăn, đều lục tục sang theo vua
Chiêu Thống, vào ra mắt Khang An.
Khang An
dùng Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm chức
đô tư Liễu Châu, c̣n th́ tùy tiện an trí mỗi người một nơi. Duy chỉ
có Lê Duy Án, Trần Huy Lâm, Lê Doăn, Lê Dĩnh về Quế Lâm theo vua nhà
Lê.
Đến tháng
tư năm kỷ dậu (1789), vua tôi nhà Lê vào thành Quế Lâm, Khang An nói
thác ra bảo với vua Chiêu Thống rằng: Trời đang mùa hè nắng nóng,
sang đánh phương nam không tiện, nên để đến mùa thu mát mẻ sẻ khởi
binh. Vậy nhà vua nên gióng giả dần bọn tướng thuộc đi trước. Nhưng
nhà vua hăy nên gọt đầu thay áo, làm như dáng người Tàu, để khi về
nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá,
đợi khi thành công rồi lại theo tục nước mà ăn mặc. Vua Chiêu Thống
không ngờ là Khang An đánh lừa ḿnh, bèn cùng với các quan cạo đầu
gióc tóc và đổi y phục.
Phúc
Khang An bèn làm một tờ biểu tâu với vua nhà Thanh rằng: "Vua nước
Nam là Lê Duy Kỳ không có ư xin viện binh nữa, vua tôi hiện đă gióc
tóc, thay áo, xin yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy xin băi binh đánh An
Nam". Ở trong lại có Ḥa Thân tán thành, bởi vậy vua nhà Thanh mới
xuống chỉ băi binh.
Vua nhà
Thanh đă nghe lời bọn Phúc Khang An và Ḥa Thân, và đă phong vương
cho vua Quang Trung rồi, lại giáng chỉ triệu vua tôi nhà Lê về Yên
Kinh [130] .
Bọn Lê
Quưnh, Trịnh Hiến cả thảy đến 10 người sau cũng bị Phúc Khang An gọi
về Quảng Tây, rồi bắt đổi áo gióc tóc như mọi người. Lê Quưnh nói
rằng: "Ông cho gọi chúng tôi đến chẳng bàn được điều ǵ, lại dỗ
chúng tôi đổi áo, gióc tóc, ấy là nghĩa ǵ? Đầu chúng tôi có thể
chặt được, chứ tóc không gióc, da có thể lột được, chứ áo không
đổi!". Phúc Khang An tức giận cho giải về cả Yên Kinh, đi đến Sơn
Đông gặp vua Càn Long đi chơi, vua đ̣i vào hỏi sao vua An Nam đă
chịu đổi áo gióc tóc theo nhà Thanh mà bọn ấy lại c̣n không chịu ?
Lê Quưnh tâu rằng: " Chúng tôi muôn dặm ṭng vong, xin cứ theo tục
bản quốc vào ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ vâng chỉ" Vua nhà Thanh
khen là trung. Nhưng về sau Lê Quưnh không chịu gióc tóc, chiếu tội
vi mệnh phải giam măi.
Mùa xuân
năm canh tuất (1790), vua Chiêu Thống cùng với các quan ṭng vong
vào kinh. Vua Càn Long để vua Chiêu Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở
ngơ Hồ Đồng, Ṭa Quốc Tử Giám, cửa Tây Định ở Yên Kinh, ngoài cửa đề
chữ "Tây An Nam Dinh". C̣n các quan An Nam đi theo, th́ cho ở ngơ Hồ
Đồng, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề chữ: "Đông An Nam Dinh".
Vua Chiêu
Thống đến Yên Kinh được mấy hôm, th́ thấy quan Đô Thống Nhương Hoàng
Kỳ là Kim Giản phụng chỉ vua nhà Thanh ra phong cho chức Tá Lĩnh, và
ban cho áo măo quan tam phẩm. C̣n các quan đi theo th́ cấp cho mỗi
người ba lạng bạc và một thạch gạo.
Vua Chiêu
Thống giận v́ bị người Tàu đánh lừa, bèn cùng với bề tôi là bọn Phạm
Như Tùng, Hoàng Ích Hiển, Lễ Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết
Triệu, Lê Quư Thích, Nguyễn Đ́nh Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê
Thức uống máu ăn thề, định sống chết thế nào th́ cũng dâng biểu xin
binh cứu viện. Nếu không cho th́ xin đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái
Nguyên để phụng thờ tông tự; mà không nữa, th́ xin cho về nước vào
đất Gia Định với chúa Nguyễn để đồ việc khôi phục.
Văn biểu
làm xong, đến nói lót trước với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua
tôi nhà Lê phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giảng bất đắc dĩ mời vào
an ủi, rồi nói rằng: hăy xin về quán nghỉ ngơi, đợi để thương lượng
thế nào, sau sẽ cho biết.
Kim Giản
bèn mưu với Ḥa Thân phân trí vua tôi An Nam đi ở mỗi người một nơi,
để cho khỏi kêu ca khó chịu.
Đến tháng
tư năm tân hợi (1791) Hoàng Ích HIểu phải đày sang I-lê (thuộc
Hồi-bộ ở Tây-vực, phía Tây nước Tàu); Lê Hân đày đi Phụng Thiên (Măn
Châu); Phạm Như Tùng đày lên Hắc Long Giang (Măn Châu); Nguyễn Viết
Triệu, Lê Quư Thích, Nguyễn Đ́nh Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương
đày ra bến Trương-gia ở Nhiệt-hà (thuộc tỉnh Trực-lệ). Chỉ để Phạm
Đ́nh Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê.
Vua Chiêu
Thống nghe chuyện ấy lo lắng chua xót, ruột nóng như lửa đốt, sáng
hôm sau cưỡi ngựa đế nhà Kim Giản, để kêu oan cho mấy người phải đi
đày, gặp Kim Giản vào chầu vua nhà Thanh ở vườn Viên Minh, vua Chiêu
Thống đi vào cửa vường, bị lính giữ vường ngăn cấm không cho đi. Bấy
giờ có Nguyễn Văn Quyên đi theo hầu vua, thấy lũ lính vô lễ, mới nổi
giận lên mà chửi mắng rằng: "Lũ chó Ngô kia sao chúng bay được làm
nhục đến vua tao!" Rồi lấy gạch ném vào chúng nó. Chúng nó xúm nhau
lại đánh Văn Quyên về thành bệnh mà chết.
Tự đó vua
Chiêu Thống trong bụng buồn bă rầu rĩ, không dám nói đến việc xin
binh nữa. Qua tháng năm năm nhâm tí (1792) hoàng tử lên đậu mất. Vua
nhân dịp đó phải bệnh một ngày một nặng, đến tháng mười năm quư sửu
(1793) th́ mất, thọ được 28 tuổi.
Vua nhà
Thanh sai theo lễ tước công mà táng ở ngoài cửa Đông Trực.
Tháng 11
năm kỷ mùi (1799) đời vua Gia Khánh th́ bà Hoàng Thái Hậu mất.
Đến năm
nhâm tuất (1802) nhân khi bên Việt Nam ta vua Thế Tổ nhà Nguyễn đă
thống nhất cả nam bắc, và có sứ ta sang cầu phong, các quan nhà Lê
mới nhân dịp dâng biểu xin đem ma Thái Hậu và Cố Quân về nước. Vua
Gia Khánh cho tất cả những người Việt Nam theo vua Lê sang Tàu về
nước.
Sử chép
rằng khi đào đất lên để cải táng mả Cố Quân, th́ thấy da thịt đă
tiêu cả, chỉ c̣n có quả tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông
thấy cũng động ḷng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư thế nào mặc
ḷng, nhưng tưởng đến t́nh cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, th́ ai
cũng ái ngại thay cho ông vua một nước, phải đày đọa đến nỗi như
thế, có thể làm được một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại
vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng
nên tránh vua quan nhà Thanh xử tệ, bạc đăi một ông vua vong quốc,
đem thân đến nương nhờ nước ḿnh. Ấy cũng là một thời dă man về đời
áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về sau không
tiêu thoát đi được.
Khi đem
ma bà Thái Hậu và vua Chiêu Thống về đến Việt Nam th́ bà Hoàng Phi
trước phải ẩn nấp ở đất Kinh Bắc, nay lên đến Ải quan đón rước, rồi
về đến Thăng Long cũng nhịn ăn mà tự tử.
Ngày 24
tháng 11, rước ma Cố quân, Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng tử về táng ở
lăng Bàn Thạch ở Thanh Hóa.
7. Đức Độ
Vua Quang Trung.
Vua Quang
Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy vơ lược mà dựng
nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết
trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc hà, những
người như Ngô Th́ Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là
đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiệp th́ thật là khác thường.
Ông
Nguyễn Thiệp, tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là
Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh hay là La
sơn phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc hà, biết
tiếng Nguyễn Thiệp, đă mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp,
ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi ngài đă đăng
cực, lại mấy lần cho người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên
vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua
Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông
như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ư nghĩa của
ông đă tŕnh bày.
8. Chính
Trị của vua Quang Trung.
Vua Quang
Trung tuy đă thụ phong nhà Thanh, nhưng vẫn tự xử theo cách Hoàng
Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Hiển Tông nhà Lê làm Bắc Cung Hoàng Hậu,
lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lại lấy thành Nghệ An là đất giữa
nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền tải vận đá,
gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào
lấy đá ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành
Thăng Long là Bắc Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là
Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ [131] .
Mỗi trấn
đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn th́ đặt chức
phân tri để xét việc kiện cáo, vơ th́ đặt chức phân suất để coi việc
binh lương.
9. Quan
Chế.
Quan Chế
thời bấy giờ th́ không thấy sử chép rơ, nhưng xem các dă sữ th́ thấy
có tam co6ng, tam thiếu, có Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu,
Đại tư mă, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, Thái Úy, Đại tổng
quản, Đại đổng lư, Đại đô đốc, Đại đô hộ, v.v... Lại có Trung thư
sảnh, Trung thư lệnh, Đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung
ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Thị
lang, Tư vụ, Hàn lâm, v.v....
Về đường
quân binh th́ đặt ra tiền quân, hậu quân, trung quân, tả quân, hữu
quân, v.v...
Trấn lị
Sơn Nam Thượng ở Châu Cầu, trấn lị Sơn Nam Hạ ở Vị Hoàng. 10. Việc
Đinh Điền.
Đinh th́
chia ra làm ba hạng: từ 2 tuổi đến 17 tuổi làm hạn "vị cập cách"; từ
18 đến 55 tuổi làm tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi làm lăo hạng; từ 61
trở lên làm lăo nhiêu.
Ruộng
cũng chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu phải nộp 150 bát
thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 80 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 50 bát.
Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50
đồng.
Ruộng tư
điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị
đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập
vật cũng theo như ruộng công điền, c̣n tiền khoán khố th́ mỗi mẫu
phải nộp 30 đồng.
11. Việc
Học Hành.
Đời Tây
Sơn việc cai trị thường hay dùng chữ nôm. Nhà vua muốn rằng người
Việt Nam th́ phải dùng tiếng Việt Nam, để gây thành cái tinh thần
của nước nhà, và cái văn chương đặc biệt, không phải đi mượn tiếng
mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử thường bắt quan ra bài chữ
nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ nôm. Thời bấy giờ nhiều người
không hiểu rơ cái ư nghĩa sâu xâ ấy, cho là vua Tây Sơn dùng hà
chính mà ức hiếp nhân dân.
12. Việc
Làm Chùa Chiền.
Vua Quang
Trung thấy làng nào cũng có chùa chiền, mà những người đi tu hành
th́ ngu dốt, không mấy người đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ
mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa kẻ ngu dân, ngài xuống chiếu bắt
bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ mỗi huyện
một cái chùa thật to, rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học
thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. C̣n những người không xứng
đáng th́ bắt về làm ăn. Ư vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật
phải cho tôn nghiêm, mà những người đi tu hành th́ phải là người
chân tu mộ đạo mới được.
Những
việc cải cách ấy rất có nghĩa lư, nhưng v́ thủa ấy có nhiều sự chiến
tranh, vả nhà Tây Sơn cũng không làm vua được bao lâu, cho nên thành
ra không có công hiệu ǵ cả.
13. Việc
Định Đánh Tàu.
Trước vua
Quang Trung cầu ḥa với nước Tàu và chịu phong là cốt để đợi ngày có
đủ sức mà đánh báo thù, cho nên từ khi trong nước đă dẹp yên rồi,
ngày đêm trù tính việc đánh Tàu. Đ́nh thần ai cũng bàn nên xét số
dân đinh cho đích thực để kén lấy lính. Vua bèn xuống lệnh cho các
trấn bắt dân xă làm lại sổ đinh, ai ai cũng phải biên vào sổ, rồi
cấp cho mỗi người một cái thẻ bài, khắc bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tính",
chung quanh ghi tên họ quê quán, và phải điểm chỉ làm tin. Người nào
cũng phải đeo thẻ ấy gọi là tín bài. Ai không có thẻ là dân lậu, bắt
sung vào quân pḥng, và bắt tội tổng trưởng, xă trưởng. Nhân có việc
ấy, những kẻ lại dịch hiệp với xă trưởng đi lại làm bậy: thường vào
làng vây bắt hỏi thẻ, làm cho dân gian nhiễu động, nhiều người phải
trốn vào rừng mà ở.
Sổ đinh
làm xong rồi cứ ba tên đinh kén lấy một người lính.
Quân th́
chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo th́ thống các cơ, cơ th́ thống các
đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, bắt phải diễn tập luôn luôn.
Bấy giờ ở
bên Tàu có những giặc Tàu ô, quấy nhiễu ở miền bể bị quân nhà Thanh
đánh đuổi, chạy sang xin phụ thuộc nước ta, vua Quang Trung cho
người tướng Tàu-ô làm chức tổng binh, sai sang quấy nhiễu ở mặt bể
nước Tàu. Lại có người thuộc về đảng Thiên Địa Hội làm giặc ở Tứ
Xuyên, vua cũng thu dùng cho làm tướng.
Công việc
xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai
sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng
Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản ư nhưng muốn mượn chuyện để thử
ư vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải bệnh mất, các quan
d́m việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh triều biết.
14. Vua
Quang Trung mất.
Vua Quang
Trung mất năm nhâm tí (1792), làm vua được 4 năm, thọ được 40 tuổi,
miếu hiệu là Thái Tổ Vơ Hoàng Đế.
Triều
thần bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu 132 , Vũ Văn Dũng lập
thái tử là Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi làm vua, rồi sai sứ sang
Tàu dâng biểu cáo tang và cầu phong. Trong biểu nói dối rằng khi vua
Quang Trung mất có dặn lại rằng phải đem chôn ở Tây Hồ gần Bắc
Thành, để tỏ cái bụng quyến luyến trông về Thiên triều. Vua nhà
Thanh xem biểu tưởng là thật, khen là trung, đặt tên thụy cho là
Trung Thuần, lai ngự chế một bài thơ sang viếng, sai quan án sát
Quảng Tây là Thành Lâm sang tế, và phongcho Quang Toản làm An Nam
Quốc Vương. Trong bài văn tế có câu rằng:
Chầu ngô
Nam cực,
Ḷng
trung nghĩa hết đạo thờ vua
Chôn đất
Tây hồ [132]
Có sách
chép là Nguyễn Quang Diệu.
Nghĩa
thần tử vẫn c̣n mến chúa.
15. Vua
Cảnh Thịnh (1782-1802).
Khi vua
Quang Trung mất th́ Thái Tử là Nguyễn Quang Toản mới lên 10 tuổi,
triều đ́nh tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh, sau thành
Phú Xuân thất thủ, vua tôi nhà Tây Sơn chạy ra Bắc hà lại đổi niên
hiệu là Bảo Hưng.
Vua Cảnh
Thịnh tuy đă lên ngôi nhưng mà việc ǵ cũng do ở thái sư là Bùi Đắc
Tuyên quyết đoán cả. Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái Hậu, cho nên
uy quyền lại càng hống hách lắm. Các quan văn vơ có nhiều người
không phục, bởi vậy cho nên về sau trong Triều phân ra bè đảng; các
đại thần giết hại lẫn nhau. Vả lại lúc bấy giờ có vua Thế Tổ Cao
Hoàng nhà Nguyễn là một bậc có tài trí, quyết chí phục thù, cho nên
cơ nghiệp nhà Tây Sơn không được bao lâu mà đổ nát vậy.
Phần V
Cận Kim
Thời Đại
CHƯƠNG
XII
Nguyễn
Vương Nhất Thống Nước Nam
11.
Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La 12. Nguyễn Vương về lấy Gia Định 13.
Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định 14. Việc khai khẩn điền
thổ 15. Việc buôn bán 16. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về
17. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất 18. Thế lực Tây Sơn 19.
Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ hai 20. Nguyễn Vương đánh Quy
Nhơn lần thứ nhất 21. Quân Tây Sơn vây thành B́nh Định 22. Nguyễn
Vương thu phục Phú Xuân 23. Vơ Tính tử tiết 24. Nguyễn Vương lên
ngôi tôn 25. Quân Nam ra lấy bắc hà
1. Nguyễn
Vương Ánh ở Tiêm La.
Tháng tư
năm ất tị (1785), ông Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ tho, Nguyễn
Vương thế cô, lại phải sang nương nhờ nước Tiêm. Đến khi các tướng
sĩ đă biết ngài ở Tiêm La, đều lục tục kéo sang bái yết, bấy giờ có
quan cũ là Lê Văn Câu (c̣n gọi Quân hay Duân) đem 600 người sang
theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người Việt Nam ở riêng một chỗ gọi
là Long Kỳ, ở ngoài thành Vọng Các (Bangkok) . [ 133 ]
Nguyễn
Vương bèn phân trí mọi người đi làm các việc: người th́ đi làm ruộng
để lấy thóc gạo nuôi quân, người th́ đi ra các đảo làm sẵng chiến
Nay ở
Bangkok có một chỗ gọi là làng Gia Long tức là chỗ Nguyễn Vương ở
ngày trước. thuyền, người th́ đi lẻn về Gia Định, chiêu tập những kẻ
nghĩ dũng để đợi ngày khôi phục.
Lúc bấy
giờ nhân có quân Diến Điện sang đánh Tiêm La, Nguyễn Vương cùng với
bọn Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Thành đem quân bản bộ đi đánh giúp nước
Tiêm. Nguyễn Vương lại có công trừ được những giặc Mă Lai thường vẫn
hay đến quấy nhiễu ở mặt bể. Bởi vậy cho nên nước Tiêm lại càng
trọng đăi vua tôi nhà Nguyễn.
2. Nguyễn
Vương Về Lấy Gia Định.
Trong khi
Nguyễn Vương c̣n phải nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến
binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải, tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc
B́nh Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương
Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ đất Gia
Định.
Nhưng
chẳng được bao lâu, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ không ḥa với nhau.
Nguyễn Nhạc đem quân Phú Xuân vào vây thành Quy Nhơn nguy cấp lắm.
Nguyễn Nhạc phải vời đô đốc Đặng Văn Chân đem quân ở Gia Định ra
cứu.
Từ đó
quân thế của Tây Sơn ở Gia Định đă kém, ở các nơi lại có nhiều đảng
theo về chúa Nguyễn, rồi nổi lên đánh phá, làm cho quân Tây Sơn càng
ngày càng khó giữ. Vả trong mấy anh em Tây Sơn chỉ có Nguyễn Huệ là
anh hùng kiệt hiệt hơn cả, mà đă ra chuyên giữ mặt bắc, th́ công
việc mặt nam phó mặc Nguyễn Lữ là người tầm thương, cho nên thế Tây
Sơn ở mặt ấy thành ra suy nhược.
Lúc bấy
giờ Nguyễn Vương ở Tiêm La vẫn có người đi về tin tức, biết có cơ
hội lấy được đất Gia Định, mà cũng biết rằng người Tiêm La vẫn không
giúp được cho ḿnh lại c̣n có bụng ghen ghét: như năm đinh mùi
(1787) có người Bồ Đào Nha đưa quốc thư cho Nguyễn Vương xin đem
binh và thuyền ở thành Goa 134
lại giúp.
Vua Tiêm La biết việc ấy làm không bằng ḷng, Nguyễn Vương phải từ
chối và tạ ơn người Bồ Đào Nha.
Đến khi
được tin rằng đất Gia Định có thể lấy được, Vương bèn để thư lại từ
tạ vua Tiêm La, rồi nửa đêm đem vương mẫu và cung quyến xuống thuyền
về nước. Bấy giờ là tháng bảy năm đinh mùi (1787).
Nguyễn
Vương đi qua đảo Cổ cốt có người nhà Thanh tên là Hà Hỉ Văn thuộc về
Thiên Địa Hội đem mấy người đến xin theo giúp. Vương về [ 134 ]
Đất thuộc
địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ đến Hà Tiên cho người đưa vương mẫu và
cung quyến ra ở Phú Quốc, rồi cùng mọi người về đóng ở Long Xuyên.
Lúc bấy
giờ Nguyễn Vương đi đến đâu, những người hào kiệt ra theo rất nhiều
lại có tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15 chiếc
thuyền ra hàng. Qua tháng 6, vương vào cửa Cần Giờ, quân thế to lắm,
Đông Định Vương Nguyễn Lữ khiếp sợ để quan thái phó Phạm Văn Tham ở
lại giữ thành Sài G̣n rồi lui về đóng ở Lạng Phụ, thuộc Biên Ḥa.
Nguyễn
Vương sai người trá làm một cái thư của Nguyễn Nhạc gửI cho Nguyễn
Lữ, trong thư bảo phải giết Phạm Văn Tham đi, rồi vương sai người
giả tảng đưa lầm cho Phạm Văn Tham, Phạm Văn Tham bắt được cái thơ
ấy sợ hăi, lập tức về Lạng Phụ để phân giải t́nh oan với Nguyễn Lữ,
nhưng Nguyễn Lữ thấy tự nhiên Phạm Văn Tham kéo quân đến, lại có cờ
trắng đi trước, tưởng là Văn Tham đă hàng nhà Nguyễn rồi, vội vàng
bỏ thành chạy về Quy Nhơn, được ít lâu th́ mất.
Phạm Văn
Tham trở về giữ thành Gia Định đánh phá được quân nhà Nguyễn. Nguyễn
Vương phải rút quân về miền Mỹ Tho, chỉ c̣n được 300 quân và vài
mươi chiếc thuyền, thế lực đă núng lắm. Nhưng nhờ có mộ thêm được
mấy ngh́n quân Cao Miên và lại có mấy toán quân Tây Sơn về hàng, cho
nên quân thế mới hơi vững.
Bấy giờ
lại nhờ có Vơ Tính là tướng giỏi ra giúp, cho nên Nguyễn Vương lại
tiến lên đánh Nước Xoáy, Phạm Văn Tham lùi về đóng ở Ba Thắc.
Vơ Tính
là người ở Biên Ḥa, có người anh tên là Vơ Nhân làm thuộc tướng Đỗ
Thanh Nhân. Sau Đỗ Thanh Nhân bị giết, Vơ Nhân tụ quân Đông Sơn làm
phản, đánh lại chúa Nguyễn, nhưng chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải
giết. Vơ Tính mới đem dư đảng Đông Sơn của anh về giữ Vườn Trầu
(thuộc Gia Định), rồi sau lại về đóng ở G̣ Công, xưng là Tổng Nhung,
thủ hạ có mấy vạn người, quân Tây Sơn đă bị đánh phá nhiều lần,
thường nói rằng: "Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Vơ Tính là anh
hùng bậc nhất, không nên phạm đến". Khi Nguyễn Vương ở Tiêm La về có
sai Nguyễn Đức Xuyên đến dụ Vơ Tính về giúp. Đến khi Nguyễn Vương về
đóng ở Nước Xoáy, Vơ Tính đem bộ hạ đi đuổi đánh Phạm Văn Tham, rồi
đến tháng tư năm mậu thân (1788) mới đem Vơ Văn Lượng, Nguyễn Văn
Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái kiến Nguyễn Vương.
Nguyễn Vương mừng rỡ, phong cho làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và lại
gả cho bà Ngọc Du Công Chúa là em gái. Bọn Vơ Văn Lượng đều được
phong làm cai cơ.
Qua tháng
7 năm ấy (1788) Nguyễn Vương đem quân về đóng ở Ba Giồng, rồi sai
Tôn Thất Hội và Vơ Tính đem binh vào đánh quan đốc chiến Tây Sơn là
Lê Văn Minh ở đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại, bắt được tướng sĩ
rất nhiều. Lại có tướng là Nguyễn Văn Nghĩa phá được quân Tây Sơn ở
Lộc Dă (tức là Đồng Nai). Tháng tám th́ Nguyễn Vương vào thành Gia
Định, chiêu yên trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các
tướng sĩ.
Bấy giờ
quan thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham vẫn đóng ở Ba Thắc; vương sai
giữ các cửa bể không cho quân Tây Sơn chạy thoát, rồi sai Nguyễn Văn
Nhàn sang Tiêm La báo tiệp; sai Nguyễn Văn Nhân và Trương Phúc Giáo
ra Phú Quốc đón vương mẫu và cung quyến về Gia Định.
Sang năm
kỷ dậu (1789) Phạm Văn Tham ở Ba Thắc đem binh xuống thuyền định ra
bể về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Vương đă sai Lê Văn Câu (c̣n gọi Duân),
Tôn Thất Hội, Vơ Tính, Nguyễn Văn Trương hợp binh lại đánh ở Hỗ
Châu, quân Phạm Văn Tham không phá được vây, lại phải lui về Ba
Thắc. Văn Tham chờ không thấy viện binh, liệu thế giữ không nổi, bèn
đem binh ra hàng, được ít lâu bị tội phải giết.
Từ đó
toàn đất Gia Định thuộc về chúa Nguyễn cả.
3. Nguyễn
Vương Sửa Sang Mọi Việc ở Gia Định.
Nguyễn
Vương thu phục được đất Gia Định rồi, lập ra luật pháp, khôNg cho
dân gian đánh cờ bạc, lại nghiêm cấm phù thủy và đồng bóng để giữ
phong tục cho khỏi sự mê hoặc.
Trước hết
vương lo chỉnh đốn những việc thuế khóa, việc canh nông, để lấy
lương tiền nuôi tướng sĩ và tu bổ việc vũ bị. Lại đặt ra các sở công
đồng để các quan văn vơ hội nghị mọi việc quốc quân, và lo sự tiến
binh đánh Tây Sơn.
4. Việc
Khai Khẩn Điền Thổ.
Đất Gia
Định lúc bấy giờ chi ra làm 4 doanh là: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn
Vĩnh, và Trấn Định, nhưng v́ phải loạn lạc măi, dân sự đói khổ,
ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ. Nguyễn Vương bèn sai văn
thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Chu, Hoàng Minh
Khánh cả thảy là 12 người làm điền tuấn quan để khuyên nhủ quân dân
cố sức làm ruộng. Từ lính phủ binh cho đến người cùng cố đều bắt
phải làm ruộng cả. Hễ ai không chịu th́ bắt phải làm lính để thay
cho phủ binh. [ 132 ]
Đến mùa
lúa chín, th́ cứ mỗi người cày ruộng đồng bằng phải nộp 100 cơ 135 ,
mà ai cày ruộng núi th́ phải nộp 60 cơ trở lên. Ai nộp đủ lệ ấy, như
phủ binh th́ được miễn cho một năm không phải đi đánh giặc, mà dân
đinh th́ được miễn cho một năm giao dịch. Ai không nộp đủ th́ không
được dự vào lệ miễn ấy.
Lại mộ
những dân ở các nơi đến làm ruộng, gọi là điền tốt. Quan điền tuấn
lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho để cày cấy. Ai không có đủ trâu ḅ mà
cày bừa, th́ quan cũng cấp cho, rồi đến mùa phải trả bằng thóc.
Nguyễn
Vương lại phát trâu ḅ và điền khí cho quân dân, bắt đi khai khẩn
những nơi rừng núi để làm ruộng gọi là đồn điền, rồi đến mùa lấy
thóc để vào kho, gọi là đồn điền khố.
Các quan
văn vơ đều phải mộ người lập thành đội, gọi là đồn điền đội, mỗi năm
mỗi người phải nộp 6 hộc thóc. C̣n dân mà ai mộ được 10 người trở
lên, th́ cho làm cai trại và được trừ sưu tịch.
Cách
Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất
Nam Việt trước là một chỗ đất bỏ hoang, không có người ở, mà sau
thành ra một nơi rất đông người và rất trù phú trong nước Nam ta. Ấy
cũng là một cái công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh vậy.
5. Việc
Buôn Bán.
Nguyễn
Vương lập lệ: phàm những thuyền của khác mà có chỡ những đồ gang,
sắt, kẽm và lưu hoàng, th́ quan mua để làm binh khí, và cho cứ theo
số hàng nhiều ít, được chở thóc gạo về nước. Bởi vậy những khách
buôn bán cũng vui ḷng đem đồ hàng đến bán. Vương lại sai quan ở
doanh Trấn Biên cứ theo giá chợ mà mua lấy đường cát để đổi cho
những người Tây Dương mà lấy đồ binh khí.
6. Ông Bá
Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về.
Từ mùa
đông năm giáp th́n (1784), ông Bá Đa Lộc đem Hoàng Tử Cảnh cùng với
Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm xuống tàu sang Tây; đi qua Ấn Độ
Dương và thành Phong ti thê ri (Pondichéry) đất Ấn Độ, ở lại gần 20
tháng, rồi đến mùa xuân năm đinh mùi (1787), th́ chiếc tàu chở ông
Bá Đa Lộc mới vào cửa Lorient ở phía tây nước Pháp Lan Tây.
Ông Bá Đa
Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh vào yết kiến Pháp Hoàng Louis XVI. Pháp Hoàng
lấy vương lễ tiếp đăi Hoàng Tử, và giao cho thượng thư [ 135 ]
Mỗi một
cơ là 42 bát. ngoại giao bộ là De Montmorin Bá Tước, thương nghị với
ông Bá Đa Lộc việc sang giúp Nguyễn Vương.
Đến ngày
28 tháng 11 năm 1787 th́ ông Bá Đa Lộc và De Montmorin bá tước kư tờ
giao ước, đại lược nói rằng:
1. Vua
nước Pháp thuận giúp cho Nguyễn Vương 4 chiếc tàu chiến và một đạo
binh: 1.200 lục quân, 200 pháo binh, 250 hắc binh ở Phi Châu
(Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn. 2. V́ vua nước Pháp có
ḷng giúp như thế, Nguyễn Vương phải nhường đứt cho nước Pháp cửa
Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore). 3. Nguyễn Vương phải
để cho người nước Pháp ra vào buôn bán tự do ở trong nước, ngoại giả
không cho người nước nào ở Âu Châu sang buôn bán ở nước Nam nữa. 4.
Khi nào nước Pháp có cần đến lính thủy, lính bộ, lương thực, tàu bè
ở phương đông, th́ Nguyễn Vương phải ứng biện cho đủ giúp nước Pháp.
5. Khi Nguyễn Vương đă khôi phục được nước rồi, th́ phải cứ mỗi năm
làm một chiếc tàu, y như tàu của nước Phám đă cho sang giúp, để đem
sang trả cho Pháp Hoàng 136 .
Tờ giao
ước kư xong rồi, Pháp Hoàng xuống chiếu giao cho quan tổng trấn
thành Pondichéry ở đất Ấn Độ, tên là De Conway bá tước, kinh lư việc
sang giúp Nguyễn Vương.
Ngày mồng
8 tháng chạp tây, năm 1787, ông Bá Đa Lộc vào bái tạ Pháp Hoàng
Louis XVI, rồi đem Hoàng Tử Cảnh xuống tàu về nước Nam. Nhưng đến
khi sang tới thành Pondichéry, v́ De Conway bá tước có chuyện bất
ḥa với ông Bá Đa Lộc, cho nên bá tước mới t́m cách ngăn trở việc
giúp Nguyễn Vương, rồi làm sớ về tâu Pháp Hoàng xin băi việc ấy đi,
lấy cớ rằng sự đem binh sang cứu viện Nguyễn Vương là việc rất khó
mà không có lợi ǵ.
Pháp Đ́nh
thấy sớ của De Conway bá tước nói như vậy cũng lấy làm nản; vả lại
lúc bấy giờ chính phủ c̣n đang bối rối về việc trong nước dân cách
mệnh đă rục rịch cả mọi nơi, cho nên bỏ việc ấy không nói đến nữa.
Ấy cũng
v́ có De Conway bá tước, cho nên việc sang cứu viện Nguyễn Vương
không thành, bởi vậy sau ông Faure chép truyện ông Bá Đa [ 136 ]
Tờ giao
ước này hiện c̣n ở Ngoại Giao Bộ ở Paris, và đă biên rơ ở sách ông
Gosselin. 163 Lộc, có tiếc rằng: "Ví bằng lúc bấy giờ chính phủ nước
Phám mà sẵn ḷng giúp ông Bá Đa Lộc, th́ có lẽ ông ấy đă lập nên cho
nước Pháp thành cuộc bảo hộ ở An Nam ngay từ cuối đời thập bát thế
kỷ, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự chiến tranh mới xong công
việc".
Ông Bá Đa
Lộc thấy De Conway bá tước không chịu xuất binh thuyền, bèn đứng lên
đi mộ người, mua tàu và súng ống khí giới để đem sang giúp Nguyễn
Vương.
Đến tháng
6 năm kỷ dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi chiếc tàu
chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống thuốc đạn
cũng lục tục sang sau.
Bấy giờ
những người Pháp tên là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), túc là chúa
tàu Long, Vannnier, (Nguyễn Văn Chấn), tức là chúa tàu Phụng, De
Forcant (Lê Văn Lăng), Victor Ollivier (ông Tín), Dayot v.v... cả
thảy đến non 20 người theo ông Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Vương;
vương phong quan tước cho cả mọi người để luyện tập quân sĩ, làm
tàu, đúc súng, và chỉnh đốn mọi việc vũ bị.
Từ đó,
thế lực của Nguyễn Vương mỗi ngày một mạnh, tướng tá mỗi ngày một
đông, lương thực nhiều, quân sĩ giỏi, việc đánh phá Tây Sơn đă chắc
lắm rồi.
Tháng tư
năm tân hợi (1791), bà thứ phi sinh ra hoàng tử thứ tư lên là Đảm,
tức là vua Thánh Tổ ở làng Tân Lộc, gần Sài G̣n bây giờ. Đến tháng
ba năm quư sửu (1793), th́ vương lập hoàng tử Cảnh làm Đông Cung,
phong chức nguyên súy, lĩnh tả quân doanh.
7. Nguyễn
Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Nhất.
Nguyễn
Vượng đă khôi phục được đất Gia Định rồi, nghỉ ngơi hơn một năm để
chỉnh đốn mọi việc. Đến tháng tư năm canh tuấn (1790) mới sai quan
chưởng tiền quân là Lê Văn Câu đem 5.000 quân thủy và quân bộ ra
đánh lấy B́nh Thuận, sai Vơ Tính và Nguyễn Văn Thành đem quân đi làm
tiên phong. Chẳng bao lâu nhà Nguyễn lấy được đất Phan Rí và hạ được
thành B́nh Thuận. Nhưng v́ Lê Văn Câu và Vơ Tính hai người không
chịu nhau, Nguyễn Vương bèn lưu Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí, triệu
Vơ Tính và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu đem quân ra đóng
ở Phan Rang bị quân Tây Sơn đến vây đánh, phải cho người đi gọi Vơ
Tính và Nguyễn Văn Thành trở lại cứu, nhưng Vơ Tính không chịu trở
lại, chỉ có Nguyễn Văn Thành đưa binh đến đánh giải vây rồi cùng Lê
Văn Câu về giữ Phan Rí.
Lê Văn
Câu lấy điều bại binh ấy làm thẹn, xưng bệnh không ra coi việc binh
nữa. Đến khi về Gia Định nghị tội phải cách hết chức tước, Lê Văn
Câu uống thuốc độc tự tử 137 .
Quân nhà
Nguyễn ra đánh Tây Sơn lần ấy không lợi; vả bấy giờ là mùa tháng 7,
gió bắc thổi mạnh, cho nên Nguyễn Vương truyền rút quân về Gia Định
để đợi mùa gió thuận th́ mới đem quân đi đánh nhau, cho nên người
đời bấy giờ gọi là giặc mùa.
Năm nhâm
tí (1792) tháng ba, nhân khi mùa gió nam thổi mạnh, Nguyễn Vương sai
tướng là Nguyễn Văn Trương cùng với Nguyễn Văn Thành, Dayot và
Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá
thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại (cửa Quy Nhơn) rồi lại về.
Tháng ba
năm quư sửu (1793) Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ đất Gia Định,
sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem bộ
binh ra đánh Phan Rí. Nguyễn Vương cùng với Nguyễn Văn Trương và Vơ
Tính đem thủy sư đi đánh mặt bể. Đến tháng năm th́ chiến thuyền của
Nguyễn Vương vào cửa bể Nha Trang rồi lên đánh lấy phủ Diên Khánh và
phủ B́nh Khang, sau lại ra đánh lấy phủ Phú Yên.
Mặt thủy,
Nguyễn Vương được toàn thắng, c̣n mặt bộ, th́ Tôn Thất Hội chỉ lấy
được phủ B́nh Thuận mà thôi. Vương bèn sai người đưa thư giục Tôn
Thất Hội phải kíp tiến binh lên hội với thủy sư, để hai mặt cùng ra
đánh Quy Nhơn.
Khi quân
của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai
thái tử là Nguyễn Bải, đem binh ra chống giữ. Nguyễn Vương bèn mật
sai Vơ Tính đem binh lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội và Nguyễn
Văn Thành để đánh tập hậu. Quân của Nguyễn Bảo bị hai mặt đánh lại,
chống không nổi, phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó quân thủy và quân
bộ của Nguyễn Vương tương thông được với nhau. Vương bèn sai Tôn
Thất Hội, Vơ Tính, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành đem binh tiến
lên đánh thành Quy Nhơn.
Nguyễn
Nhạc phải sai người ra cầu cứu ở Phú Xuân.
Bấy giờ
vua Quang Trung đă mất rồi, vua Cảnh Thịnh, tức là Nguyễn Quang
Toản, sai quan thái úy là Phạm Công Hưng, quan hộ giá là Nguyễn [
137 ]
Lê Văn
Câu là một người công thần đă theo pḥ Nguyễn chủ trong lúc gian
nan, nay cũng bất đắc kỳ tử. 164 Văn Huấn, quan đại tư lệ là Lê
Trung và quan đại tự mă là Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 con
voi đi đường bộ, và sai quan đại thống lĩnh là Đặng Văn Chân đem hơn
30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn.
Nguyễn
Vương thấy viện binh đă đến, liệu thế chống không nổi, rút quân về
Diên Khánh (tức là Khánh Ḥa bây giờ) rồi về Gia Định. Để Nguyễn Văn
Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại giữ B́nh Thuận.
Đến tháng
11, Nguyễn Vương lại sai Đông Cung Cảnh và ông Bá Đa Lộc, Phạm Văn
Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.
8. Thế
Lực Tây Sơn.
Bọn Phạm
Công Hưng giải được vây rồi, kéo quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ
lấy thành tŕ và tịch biên cả các kho tàng.
Nguyễn
Nhạc thấy vậy, tức giận đến nỗI thổ huyết ra mà chết. Ông làm vua
được 16 năm.
Vua Cảnh
Thịnh ở Phú Xuân thấy Nguyễn Nhạc mất rồi, phong cho Nguyễn Bảo làm
Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi là tiểu triều rồi để Lê Trung
và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.
Từ đó các
tướng Tây Sơn mới hoạt động hơn trước. Tháng ba năm giáp dần (1794)
Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, và Trần Quang Diệu vào
vây thành Diên Khánh.
Đông Cung
Cảnh cho người về Gia Định cầu viện, NguyễN Vương bèn đem đại binh
đến đánh giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.
Nguyễn
Vương thấy thế Tây Sơn c̣n mạnh và lại đến mùa gió bắc, cho nên
vương đem Đông Cung về Gia Định; để Vơ Tính ở lại giữ thành Diên
Khánh.
Tháng
giêng năm ất măo (1795) Trần Quang Diệu lại đem quân vào đánh Diên
Khánh, Vơ Tính hết sức chống giữ, Quang Diệu đánh măi không được.
Đến tháng hai, Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ Gia Định, đem
thủy sư ra cứu Diên Khánh.
Trong khi
hai bên c̣n đang chống giữ nhau ở đất Diên Khánh, th́ ở Phú Xuân các
quan đại thần nhà Tây Sơn giết hại lẫn nhau, gây thành mối loạn.
Nguyên từ
khi vua Quang Trung mất rồi, vua Cảnh Thịnh lên ngôi, nhưng quyền về
cả Thái sư Bùi Đắc Tuyên, các quan có nhiều người oán giận. Năm ất
măo (1795) Bùi Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc hà thay cho Vũ Văn
Dũng. Văn Dũng về Phú Xuân, đi đến trạm Hoàng Giang 138
gặp quan
trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ phải tội đày ra ở đấy. Văn Kỷ nhân
đang căm tức Bùi Đắc Tuyên, bèn xui Vũ Văn Dũng rằng: "Thái sư ngôi
trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết; nếu
mà không sớm trừ đi, th́ rồi có chuyện bất lợi cho nhà nước. Ông nên
liệu sớm đi".
Vũ Văn
Dũng xưa nay vẫn tin trọng Văn Kỷ, nay thấy nói như vậy, bèn nghe
lời ấy, về mưu với Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn, lừa đến đêm
đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên bắt bỏ ngục, rồi sai Nguyễn Văn Huấn
vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là Bùi Đắc Trụ, và cho người đưa thư
ra Bắc Hà truyền cho quan tiết chết là Nguyễn Quang Thùy (em Nguyễn
Quang Toản) bắt giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân.
Bọn Vũ
Văn Dũng bèn đặt chuyện ra vu cho nhữNg người ấy làm phản, đem d́m
xuống sông giết đi. Vua Cảnh Thịnh không sao ngăn giữ được, chỉ gạt
nước mắt khóc thầm mà thôi.
Lúc bấy
giờ Trần Quang Diệu đang vây thành Diên Khánh, nghe tin ấy, thất
kinh, nói với các tướng rằng: "Chúa thượng không phải là người cứng
cỏi, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong mà không yên, th́
ngoài đánh người ta thế nào được?"
Quang
Diệu bèn giải vây rút quân về. Khi về đến Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn
đến tạ tội trước. Trần Quang Diệu không hỏi đến, rồi dẫn quân về đến
làng An cựu đóng bên bờ sông mé nam.
Vũ Văn
Dũng cùng với nội hậu Tứ cũng đem quân bản bộ ra đóng ở mé bắc bờ
sông, ỷ mệnh vua ra cự nhau với Trần Quang Diệu.
Vua Cảnh
Thịnh sợ hăi sai quan ra khuyên giải cả hai bên, Trần Quang Diệu mới
đem các tướng vào chầu, rồi với bọn Vũ Văn Dũng giảng ḥa.
Từ đó
Trần Quang Diệu làm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn
Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại
tư mă, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng chẳng được bao lâu có người [
138 ]
Có nơi
chép là trạm Hán Xuyên 165 gièm pha, Trần Quang Diệu bị thu hết cả
binh quyền, chỉ được giữ chức tại trièu mà thôi. Thế lực Tây Sơn từ
đấy về sau mỗi ngày một kém: trên vua th́ c̣n nhỏ dại, không có đủ
uy quyền để sai khiến các quan, dưới tướng tá th́ v́ ḷng ghen ghét
rồi cứ t́m cách mà giết hại lẫn nhau. Bởi vậy cho nên đến khi quân
Nguyễn Vương ở Nam ra đánh, chẳng phải mất bao nhiêu công phu mà lập
nên công lớn vậy.
9. Nguyễn
Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Hai.
Từ khi
quân của Trần Quang Diệu giải vây Diên Khánh về Phú Xuân rồi, Nguyễn
Vương cũng rút quân về Gia Định sửa soạn việc quân lương, và sai
người đi do thám mọi nơi để chiêu mộ người về đánh Tây Sơn.
Đến năm
đinh tị (1797) Nguyễn Vương để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Định, rồi
cùng Đông Cung Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Lại sai Nguyễn
Văn Thành và Vơ Tính ra đánh Phú Yên.
Quân thủy
của Nguyễn Vương ra đến Quy Nhơn, thấy Tây Sơn đă pḥng bị, liệu
đánh không đổ được, Nguyễn Vương bèn ra đánh Quảng Nam. Được vài
tháng quân nhu không đủ, lại phải đem quân về Gia Định, sai Nguyễn
Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ thành Diên Khánh.
10.
Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Ba.
Nguyễn
Vương về Gia Định rồi, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Tiêm La xin
với quốc vương nước ấy đem quân đi đường Vạn Tượng, hoặc sang đánh
Thuận Hóa, hoặc sang đánh Nghệ An, để chận đường quân ở Bắc hà vào.
Một mặt sai quan binh bộ tham tri là Ngô Nhân Tĩnh sang sứ nhà
Thanh, để do thám mọi việc.
Năm mậu
ngọ (1798) Tiểu triều là Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn
Quang Toản chiếm giữ mất đất Quy Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn
Triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng vào bắt Nguyễn Bảo đưa
về d́m xuống sông giết đi.
Lại có
người nói gièm rằng việc Tiểu Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê
Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về Phú Xuân, sai vơ sĩ bắt chém
đi. Được ít lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó
quân Tây Sơn ai cũng nản ḷng, có nhiều người bỏ theo về Nguyễn
Vương.
Bấy giờ
có người con rễ Lê Trung là Lê Chất vốn là người đánh trận giỏi có
tiếng, quan làm đến chức đại đô đốc; đến khi thấy vua Tây Sơn hay
nghi kỵ mà giết hại các công thần như vậy, bèn bỏ trốn sang hàng nhà
Nguyễn. Nguyễn Vương trọng dụng cho làm chức Tướng Quân.
Nguyễn
Vương thấy thế Tây Sơn đă suy nhược, đến tháng ba năm kỷ mùi (1799)
bèn củ đại binh ra đánh Quy Nhơn. Đến tháng tư thủy quân của Nguyễn
Vương vào cửa Thị Nại, rồi Nguyễn Vương sai quan hậu quân Vơ Tính,
hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở Trúc Khê. Ngay lúc
bấy giờ quan Khâm sai tiền quân chưởng cơ Nguyễn Văn Thành đem bộ
binh ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân
Vơ Tính.
Đến tháng
năm, th́ quân của Nguyễn Vương đến vây thành Quy Nhơn. Ở Phú Xuân
sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đm binh vào cứu. Nhưng mà vào đến
Quảng Nghĩa gặp quân của Nguyễn Văn Thành giữ ở Thạch Tân, cho nên
không cứu được Quy Nhơn.
Sử chép
rằng khi đạo quân của Vũ Văn Dũng vào đến Chung Xá, đóng lại ở đấy,
đến đêm có con nai ở trong rừng chạy ra, có người trông thấy kêu to
lên rằng: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm là quân Đồng Nai! Mọi người
luống cuống bỏ chạy. Các quân đội Tây Sơn tưởng là quân nhà Nguyễn
đă vây đánh, đều vỡ tan cả. Quân nhà Nguyễn thừa thế đánh đuổi,
thành ra quân Tây Sơn thua to.
Quan trấn
thủ Quy Nhơn là Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến, mà lương thực
ở trong thành th́ hết cả, bèn cùng các tướng mở cửa ra hàng. Nguyễn
Vương đem quân vào thành rồi đổi tên Quy Nhơn gọi là B́nh Định.
Vua Tây
Sơn được tin Quy Nhơn thất thủ, liền cử đại binh vào đóng ở Trà Khúc
(thuộc Quảng Nghĩa) để đốc các tướng tiến binh đánh quân nhà Nguyễn.
Nhưng v́ phải độ trái mùa gió, thủy chiến không tiện, cho nên các
quan đều can xin rút quân về. Vua Cảnh Thịnh bèn sai Nguyễn Văn Giáp
ở lại giữ Trà Khúc, sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng
Nam.
Nguyễn
Vương cũng đem quân về Gia Định, để Vơ Tính và Ngô Ṭng Chu ở lại
giữ thành B́nh Định. Năm ấy (1899) ông Bá Đa Lộc đi ṭng chinh, mất
ở cửa Thị Nại. Nguyễn Vương đem về hậu táng ở Gia Định, tặng phong
làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công.
11. Quân
Tây Sơn Vây Thành B́nh Định.
Khi quân
nhà Nguyễn ra vây đánh thành Quy Nhơn, vua Tây Sơn sai Trần Quang
Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu, nhưng v́ quân cuả Văn Dũng
không đánh 166 mà tan, đến nỗi bại binh. Việc ấy là tội Văn Dũng,
nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi, cho nên không ai biết. Văn Dũng cảm
ơn ấy, cho nên mới kết nghĩa sinh tử với Quang Diệu.
Bấy giờ ở
Phú Xuân có nhiều người ghét Quang Diệu, nhân dịp ấy mà đổ tội cho
Quang Diệu, bèn tâu vua xin sai người đưa mật thư ra cho Vũ Văn Dũng
để giết Quang Diệu. Vũ Văn Dũng tiếp được thư ấy đưa cho Trần Quang
Diệu xem. Trần Quang Diệu sợ hăi, lập tức đem quân về Phú Xuân, đóng
ở mé nam sông Hương Giang, nói rằng về bắt những người loạn thần.
Vua Tây Sơn sai người ra giảng ḥa. Không ai dám đi, sau phải bắt
mấy người nộp cho Quang Diệu. Quang Diệu mới vào chầu. Vua Cảnh
Thịnh cũng t́m lời giảng dụ, khuyên phải hết sức giúp đỡ nhà nước.
Quang
Diệu khóc lạy rồi xin cùng Văn Dũng đem thủy bộ quân vào lấy lại
thành Quy Nhơn.
Đến tháng
giêng năm canh thân (1800), quân của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng
tiến đến gần thành Quy Nhơn. Vơ Tính giữ vững, không ra đánh. Quang
Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân ra vây bốn mặt. Văn
Dũng th́ đem hai chiếc tàu lớn và hơn 100 chiến thuyền ra đóng giữ
cửa Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại bác ở hai bên cửa bể, để pḥng
ngự thủy quân nhà Nguyễn.
Nguyễn
Vương được tin quân Tây Sơn ra vây thành B́nh Định, liền cử đại binh
ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đ́nh Đắc,
Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú
Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dă (thuộc B́nh Định). Nguyễn Vương đem
thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ
quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không
thông được với nhau, cho nên sự cứu viện không có công hiệu ǵ cả.
Đến tháng
giêng năm tân dậu (1801), Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương, Tống
Phúc Lương đem quân tiền đạo đến đánh đồn thủy của Tây Sơn, và sai
Lê Văn Duyệt, Vũ Di Nguy đem thủy quân vào đánh cửa Thị Nại. Vũ Di
Nguy trúng đạn chết, c̣n Lê Văn Duyệt ra sức xông đột, đốt được cả
tàu và thuyền của Tây Sơn.
Tướng Tây
Sơn là Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại đem binh về hợp với Trần
Quang Diệu để pḥng giữ mọi nơi.
Nguyễn
Vương lấy được cửa Thị Nại rồi, cho người đưa tin về Gia Định báo
cho tướng sĩ các nơi đều biết.
Năm ấy
Đông Cung Cảnh lên đậu, mất ở Gia Định, thọ được 22 tuổi. Được một
tháng hoàng tử thứ hai tên là Hi cũng mất ở Diên Khánh, đem về táng
ở Gia Định.
12.
Nguyễn Vương Thu Phục Phú Xuân.
Nguyễn
Vương đánh được trận thủy ở Thị Nại rồi, bèn sai Nguyễn Văn Trương
đem thủy quân ra đánh Quảng Nam, Quảng Nghĩa, và lại thấy quân Tây
Sơn vây thành Quy Nhơn một cách cẩn mật lắm, đánh phá không được.
Vương cho người lẻn vào thành bảo Vơ Tính và Ngô Ṭng Chu bỏ thành
mà ra. Nhưng Vơ Tính phúc thư lại rằng: quân tinh binh của Tây Sơn ở
cả Quy Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây vội, hăy nên kíp ra đánh
lấy Phú Xuân th́ hơn.
Nguyễn
Vương bèn để Nguyễn Văn Thành ở lại chống giữ với Trần Quang Diệu và
Vũ Văn Dũng, rồi đem đại quân ra đánh Phú Xuân.
Bấy giờ
nhà Tây Sơn cũng bối rối lắm: ở Nghệ An th́ có tướng nhà Nguyễn là
Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá;
ở Thanh Hóa th́ có phiên thần là Hà Công Thái khởi binh giúp nhà
Nguyễn; ở Hưng Hóa th́ có thổ ti là Phan Bá Phụng nổi lên quấy
nhiễu. C̣n các trấn ở Bắc Hà th́ rối v́ những việc tông giáo; các
đạo trưởng và đạo đồ đạo Thiên Chúa cũng nổi lên, có ư giúp nhà
Nguyễn; dân t́nh th́ bị quan quân nhũng lạm hà hiếp, ai ai cũng có
ḷng oán giận. Ở Phú Xuân, vua th́ hèn, các quan đại thần th́ cứ
ghen ghét nhau rồi t́m kế giết hại lẫn nhau, việc chính trị không
sửa sang ǵ cả. Bởi vậy nhân dân đều mong mỏi chúa Nguyễn, cho nên
có câu hát rằng: "Lạy trời cho chóng gió nồm, để cho chúa Nguyễn
giong buồm thẳng ra".
Nguyễn
Vương thấy ḷng người đă không theo Tây Sơn nữa, bèn đem binh ra
đánh Phú Xuân, đến tháng năm (1801), thủy sư vào cửa Tư Dung. Tướng
Tây Sơn là pḥ mă Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập đồn giữ ở núi Quy
Sơn. Tiền quân nhà Nguyễn đánh không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn
Duyệt và Lê Chất đem thủy binh ra đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị bỏ
đồn mà chạy. Quân Nguyễn Vương vào cửa Nguyễn Hải (cửa Thuận An) rồi
kéo lên đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn phải ngự giá đem quân ra
chống giữ, hai bên đánh nhau đến giữa trưa, th́ quân Tây Sơn vỡ tan.
Quân Nguyễn Vương tiến lên đuổi đánh, thu phục được đô thành. Bấy
giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm tân dậu (1801).
Nguyễn
Vương vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ
binh đuổi đánh quân Tây Sơn, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra
chặn ở Linh Giang, để đánh quân Tây Sơn chạy ra Bắc. Lại sai Phạm
Văn Nhân ra giữ cửa Nguyễn Hải, sai Lưu Phúc Tường đem quân đi 167
đường Cam Lộ sang Vạn Tượng truyền bảo các Mường giữ đường yếu lộ
không cho quân Tây Sơn chạy tràn sang.
13. Vơ
Tính Tử Tiết.
Trần
Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn, được tin Phú
Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng
Nam, gặp quân của Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường, quân Tây Sơn
phải lùi trở lại. Từ đó Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân
đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực, không
thể chống giữ được nữa, quan trấn thủ là Vơ Tính bèn viết thư sai
người đưa ra cho Trần Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ
tướng, th́ đành liều chết ở dưới cờ. C̣n các tướng sĩ không có tội
ǵ, không nên giết hại".
Đoạn rồi
sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào tự
đốt mà chết. Quan hiệp trấn là Ngô Tùng Chu cũng uống thuốc độc tự
tử.
Trần
Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ
liệm táng Vơ Tính và Ngô Ṭng Chu, rồi sai đại đô đốc Trương Phúc
Thượng và tư khấu Định, đem binh đi đường thượng đạo ra đánh Phú
Xuân. Đi được nửa đường th́ quân hết lương. Trương Phúc Thượng về
hàng nhà Nguyễn, c̣n tư khấu Định th́ đánh thua chạy vào chết ở
trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên,
cũng không được.
Bấy giờ
Trần Quang Diệu tuy đă lấy được thành Quy Nhơn, nhưng một mặt th́ có
quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh vào,
một mặt th́ quân của Nguyễn Văn Thành ở cửa Thị Nại đánh lên, c̣n ở
phía nam, lại có quân của Tống Viết Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú
Yên đánh ra. Ba mặt thụ địch, quân Tây Sơn phải hết sức chống giữ,
để chờ quân ở Bắc Hà vào cứu viện.
11. Trận
Trấn Ninh.
Từ khi
thất thủ Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh ngày đêm kíp ra Bắc Hà, đổi niên
hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch đi các trấn để lấy viện binh rồi sai
em là Nguyễn Quang Thùy đem binh mă vào giữ Nghệ An. Đến tháng 11,
vua Tây Sơn đem quân 4 trấn ở xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An, cả
thảy được non 3 vạn người, sang sông Linh Giang. Lại sai tướng đem
hơn 100 chiếc chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Bấy giờ có vợ Trần
Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cũng đem 5.000 thủ hạ đi ṭng chinh.
Quan
Chưởng Trung Quân B́nh Tây Đại Tướng Quân Nguyễn Văn Trương, cùng
với Tống Phúc Lương, Đặng Trần Thương giữ ở Linh Giang, thấy quân
Tây Sơn thế mạnh phải lui về giữ Đồng Hới. Nguyễn Vương được tin ấy,
liền thân chinh đem đại binh ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng
Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt
bể.
Tháng
giêng năm nhâm tuất (1802), vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến
quân lên đánh lũy Trấn Ninh; đánh măi không đổ. Vua Tây Sơn đă toan
rút quân về, nhưng Bùi Thị Xuân không chịu, xin cho ra đốc quân đánh
trận. Đánh từ sáng sớm đến chiều tối, chưa bên nào được thua. Bỗng
có tin rằng thủy quân của Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) đă bị
Nguyễn Văn Trương phá tan cả. Quân Tây Sơn khiếp sợ bỏ chạy, tướng
là Nguyễn Văn Kiên về hàng nhà Nguyễn.
Vua Tây
Sơn đem tàn quân chạy về Bắc, để Nguyễn Văn Thận ở lại giữ Nghệ An.
Nguyễn
Vương phá được quân Tây Sơn ở thành Trấn Ninh rồi đem quân về Phú
Xuân, để trung quân Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới, để Tống Phúc
Lương và Đặng Trần Thường giữ Linh Giang.
Trần
Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn được tin quân Tây Sơn thua ở
Trấn Ninh, liệu chống không nổi, bèn đến tháng 3 năm nhâm tuất
(1802) bỏ thành Quy Nhơn, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai
Lao ra Nghệ An, để hội với vua Tây Sơn mà lo sự chống giữ.
15.
Nguyễn Vương Lên Ngôi Tôn.
Nguyễn
Vương từ khi khởi binh ở Gia Định tuy đă xưng vương, nhưng vẫn theo
các chúa đời trước không đặt niên hiệu. Đến nay khôi phục được Phú
Xuân, thanh thế lừng lẫy, bắc phá đại quân của Tây Sơn, nam lấy lại
thành Quy Nhơn; đất An Nam bấy giờ từ sông Linh Giang vào đến Gia
Định lại thuộc về nhà Nguyễn như trước. Các quan thân thuộc đều xin
Nguyễn Vương đặt niên hiệu và lên ngôi tôn.
Tháng 5
năm nhâm tuất (1802) ngài lập đàn tế cáo trời đất, rồi thiết triều
để các quan chầu mừng, và đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên.
16. Quân
Nam Ra Lấy Bắc Hà.
Nguyễn
Vương đă lên ngôi làm vua rồi, sai Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh
đem các đồ phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh phong cho Tây Sơn
sang nộp cho Thanh Triều và xin phong. Ngài lại định ngự giá đi đánh
Bắc Hà, bèn sai Nguyễn Văn 168 Trương lĩnh thủy binh, Lê Văn Duyệt
và Lê Chất lĩnh bộ binh, hai mặt thủy bộ cùng tiến.
Tháng 6,
th́ quân bộ sang sông Linh Giang tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy
vào cửa Hội Thống rồi lên đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Quan
Trấn Thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lư
ở Diễn Châu.
Bấy giờ
Trần Quang Diệu đi đường Ai Lao ra đến châu Quư Hợp, xuống huyện
Hương Sơn thấy quân nhà Nguyễn đă lấy được Nghệ An rồi, bèn cùng với
Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương, bao nhiêu quân sĩ đều bỏ cả,
được mấy hôm hai vợ chồng cùng bị bắt. C̣n Vũ Văn Dũng chạy ra đến
Nông Cống cũng bị dân bắt được đem nộp.
Quân
Nguyễn Triều kéo tràn ra lấy Thanh Hóa, đi đến đâu quân Tây Sơn chưa
đánh đă tan, chỉ trong một tháng đă ra đến Thăng Long.
Vua Tây
Sơn thấy thế ḿnh không chống giữ được nữa, bèn cùng với các em là
Nguyễn Quang Thùy, Nguyễn Quang Thiệu, và mấy người bề tôi là bọn đô
đốc Tú, và Nguyễn Văn Tứ sang sông Nhị Hà chạy về phía Bắc, nhưng
lên đến địa hạt Phượng Nhỡn, bị dân ở đấy bắt được. Nguyễn Quang
Thùy tự tử, đô đốc Tú và vợ cũng tự vẫn. C̣n vua tôi nhà Tây Sơn mấy
người đều bị đóng cũi đem về nộp ở Thăng Long.
Nhà Tây
Sơn khởi đầu từ năm mậu tuất (1778), Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn,
đến năm Nhâm Tuất (1802), cả thảy được 24 năm. Nhưng Nguyễn Nhạc chỉ
làm vua từ đất Quảng Nam, Quảng Nghĩa trở vào mà thôi, c̣n từ Phú
Xuân trở ra, th́ thuộc về nhà Lê. Đến năm mậu thân (1788), vua Quang
Trung xưng đế hiệu, rồi ra đánh giặc Thanh, lấy lại đất Bắc Hà, sửa
đổi việc chính trị. Từ đó nước Nam mới thuộc về nhà Nguyễn Tây Sơn.
Vậy kể từ
năm mậu thân (1788) đến năm nhâm tuất (1802) th́ hà Tây Sơn chỉ làm
vua được có 14 năm mà thôi.
Trong bấy
nhiêu năm phải đánh nam dẹp bắc luôn, không mấy lúc nghỉ việc chiến
tranh, cho nên nhà Tây Sơn không sửa sang được việc ǵ. Vả sau khi
vua Quang Trung mất rồi, vua th́ hèn, quan th́ nhũng, chính trị bỏ
nát, ḷng người oán giận, ai cũng mong mỏi được thời thịnh trị để
yên nghiệp mà làm ăn. Bởi vậy cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà
Nguyễn cất quân ra Bắc, ḷng người theo phục, chỉ một tháng trời mà
b́nh được đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm
cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam vậy. [ 169 ]
PHẦN V
Cận Kim
Thời-Đại
Nhà
Nguyễn (1802-1945)
CHƯƠNG I
Thế Tổ
(1802-1819)
Niên
hiệu: Gia Long
26. Thế
Tổ xưng đế hiệu 27. Việc triều chính 28. Binh chế 29. Việc tài chánh
30. Công vụ 31. Pháp luật 32. Việc học hành 33. Việc giao thiệp với
nước Tàu 34. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La 35.
Việc giao thiệp với nước Hồng Mao 36. Việc giao thiệp với nước Pháp
Lang Tây 37. Sự giết hại công thần 38. Xét công việc của vua Thái Tổ
1. Thế Tổ
xưng đế hiệu.
Thế tổ
khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất
(1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang
sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối.
Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt
Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.
Khi vua
Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ
thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con
170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho
ḍng dơi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên.
Đoạn rồi,
ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn
Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam
tào là tào Hộ, tào Binh, tào H́nh, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần
Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn
Thành.
Đến tháng
bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về
làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị.
Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ
lên, đem vứt thây đi, c̣n đầu th́ đem bỏ giam ở trong ngục tối.
Những bọn
văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Th́ Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem
nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Th́
Nhiệm v́ trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở
văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.
Vua Thế
Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần
Chính để lập thường triều, đền Thái Ḥa để lập đại triều; lại sai
quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành tŕ ở ngoài
các doanh trấn.
Tuy rằng
ngài đă đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà
đến năm giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới
sai sứ sang phong vương, và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ
xưng đế hiệu ở đền Thái Ḥa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày
mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 th́ thiết
tiểu triều.
Lúc ngài
đánh xong Tây Sơn, th́ chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy
hoại, việc ǵ cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong th́ ngài chỉnh
đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm
dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống,
nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài th́ ngài lo
sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước
Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.
2. Việc
Triều Chính.
Ở trong
cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các
cung tần. Sau khi vua mất, th́ tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm
Hoàng Thái Hậu.
Quan lại
trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và
Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ
trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham
tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang trung, viên
ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v.....
Bộ Lại:
coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công
trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm
những sổ các hàng quan lại v.v....
Bộ Hộ:
coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa
chất, hóa vật đắt rẻ v.v...
Bộ Lễ:
coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học
hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa,
phong thụy cho các thần nhân v.v.....
Bộ Binh:
coi việc thuyên bổ vơ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi
thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có
lỗi về việc binh.
Bộ H́nh:
coi việc h́nh danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội
nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.
Bộ Công:
coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè,
đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....
Ngoài lục
bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các
quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống
thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô
ngự sử đứng đầu.
Bấy giờ
vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má
tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.
Các địa
phương th́ lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4
doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh b́nh bây giờ) trở ra, gọi là
Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng,
Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên
Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ B́nh
Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa
hạt Gia Định), Biên Ḥa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang),
Vĩnh Tường và Hà Tiên. 171
C̣n ở
quăng giữa nước, th́ đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh
Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, B́nh Định trấn, Phú Yên
trấn, B́nh Ḥa trấn (tức là Khánh ḥa) và B́nh Thuận trấn. Đất kinh
kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa Thiên
bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng b́nh doanh, Quảng Nam doanh.
Ở Bắc
Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để
coi mọi việc. Ở các trấn th́ đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ,
quan cai bạ và quan kư lục để coi việc cai trị trong trấn.
Trấn lại
chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để
coi việc cai trị.
Những
trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, th́ dùng những
quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. C̣n 6 ngoại trấn ở Bắc Thành,
th́ giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.
3. Binh
Chế.
Khi vua
Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng
phong và làm đền thờ những người tử trận. C̣n những quân lính già
nua th́ cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh: lệ định các trấn, tự
Quảng B́nh vào đến B́nh Thuận th́ cứ ba tên đinh kén lấy một tên
lính; tự Biên Ḥa trở vào th́ cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự
Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành th́ cứ 7 tên đinh kén lấy
một tên lính. C̣n 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên th́ cứ 10 tên đinh kén lấy một tên
lính.
Ở chỗ
Kinh thành th́ đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh
mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn th́ đặt
ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh
lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, c̣n một phiên ở tại ban
luân lưu thay đổi cho nhau.
Những
binh khí th́ dùng gươm giáo, mă tấu, và lại có súng lớn bằng đồng
gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương,
nghĩa là bắn th́ mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở
xạ trường để quân lính tập bắn.
Ở các cửa
bể đều làm đồn đặt súng để pḥng giữ và để xem xét những tàu bè
ngoại quốc đi lại.
Nước Việt
Nam ta có nhiều bể cần phải giữ ǵn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về
việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và
doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. C̣n ở các
hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một
thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần pḥng ở miền bể.
4. Việc
Tài Chính.
Thuế
đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền th́ chia ra làm 3 hạng:
nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15
thăng; tam đẳng điền 10 thăng. C̣n thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp
10 thăng.
Thuế đinh
th́ lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng
niên phải chịu:
Thuế thân
1 quan 2 tiền
Mân tiền
1 tiền
Cước mễ 2
bát
5 nội
trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên 139 , mỗi suất đinh đồng niên phải
chịu:
Thuế thân
1 quan 2 tiền
Mân tiền
1 tiền
Điệu tiền
(tạp dịch) 6 tiền
Cước mễ 2
bát
6 ngoại
trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân
6 tiền
Mân tiền
1 tiền
Điệu tiền
3 tiền
Cước mễ 1
bát
Lệ giảm
thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là
bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... th́ nhà nước chiếu
theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt
hại tới 4 phần th́ khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần
th́ giảm cho 3; thiệt hại 6 phần th́ giảm cho 4; thiệt hại 7 phần
th́ giảm cho 5; thiệt hại 8 phần th́ giảm cho 6; thiệt hại 9 phần
th́ giảm cho 7; thiệt hại hết cả th́ giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy
dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v... th́ cũng được giảm
thuế. [ 139 ]
Tức là
phủ Hoài Đức bây giờ. 172
Vụ thuế:
Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng B́nh đến
B́nh Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng
7 th́ hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc
thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ th́ khởi tự tháng 4 đến tháng 6
th́ hết; mùa đông th́ khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 th́ hết.
Đinh bạ:
Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến
quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống,
đều phải khai vào sổ.
Điền bạ:
Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc
có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu,
đông tây tứ chí phải chua cho rơ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ,
cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại
bộ, để pḥng khi xét đến; c̣n hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản
lưu chiểu, c̣n một bản gia trả dân xă lưu thủ.
Cấm bán
ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xă có nơi th́ đem công
điền đổi ra tư điền, có nơi th́ đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long
thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xă không được mua bán công
điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xă thôn có công dụng điều ǵ, th́ mới
được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán
hạn ấy th́ phải tội.
Thuế các
sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An,
đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70
cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người t́m được cây
quế, phải tŕnh quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi
một nửa nộp quan, một nửa cho người t́m được.
Năm Gia
long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về
hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được
tha việc binh lính.
C̣n những
thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho
nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.
Vua Thế
Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do
thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.
Những mỏ
đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.
Đúc tiền:
Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền
đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng
bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.
Mỗi đồng
tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt
in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.
Giá vàng
ở Bắc Thành th́ định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.
Về sau mở
thêm ḷ đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.
Thước đo:
Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ
"Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban hành
đạc điền xích, công bộ đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước
vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ
"Gia Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban hành
đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo".
Phép cân:
Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên b́nh, cấp cho các
doanh các trấn, để cân đồng, sắt, ch́, thiếc và các sản vật. C̣n
vàng và bạc th́ dùng cân trung b́nh.
5. Công
Vụ.
Vua Thế
Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ng̣i, đắp các đê
điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.
Đường
Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy
nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa
sang đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ
15.000 trượng đường th́ phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ
cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến B́nh Thuận, cứ độ 4.000 trượng
phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi
lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.
C̣n từ
B́nh Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên th́ đi đường thủy.
Sông ng̣i
và đê điều: Những sông ng̣i và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc
canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi
đào sông ng̣i và các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ ǵn đê
điều cho cẩn thận: chỗ nào không có th́ đắp thêm, chỗ nào hư hỏng
th́ phải sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để
pḥng khi mất mùa đói kém th́ lấy mà phát cho dân.
6. Pháp
Luật.
Nguyên
khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đă nhất thống
cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho đ́nh thần lập ra pháp luật rơ
ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn
Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời
Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ,
cả thảy 22 quyển, có 398 điều.
Đến năm
ất hợi (1815), th́ in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy
nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và
chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.
7. Việc
Học Hành.
Thời bấy
giờ nhờ có vơ công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan
đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai
thành đều là quan vơ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết rằng sự trị nước
cần phải có vơ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ư về việc học hành
thi cử trong nước.
Ngài lập
nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ ḷng
trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và
các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học hành ra
là quan.
Đặt thêm
chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà
Lê, để coi việc dạy dỗ.
Vua Thế
Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng
Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn
đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đựng sá xa gần, sông bể, cầu
quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những ǵ làm thành sách "Nhất
Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy
làm xong cả thảy được 10 quyển.
Năm tân
mùi (1811), ngài sai quan t́m những sách dă sử nói chuyện nhà Lê và
nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.
Thời bấy
giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ
nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn
Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rơ ai làm, nhưng thật là
một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của
ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là
ông Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra thời bấy giờ.
"Truyện
Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân t́nh
thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng
tao nhă, lời lẽ cũng lư thú. Nói theo tiếng đời nay th́ "Truyện Thúy
Kiều" thật là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy.
8. Việc
Giao Thiệp Với Nước Tàu.
Khi vua
Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai
quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu
phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và
Việt là Việt Thường. Nhưng v́ đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước
gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên
trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.
Đến năm
giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề
Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ
đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ ba năm một lần sang cống.
Đồ cống
phẩm là:
Vàng 200
lượng
Bạc 1000
lượng
Lụa và
cấp mỗi thứ 100 cây
Sừng tê
giác 2 bộ
Ngà voi
và quế mỗi thứ 100 cân
9. Việc
giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.
Nguyên
lúc c̣n Lê Triều th́ chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp.
Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn 141
bị anh em
hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua
đầu, ḿnh làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được
ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy
quyền làm vua một ḿnh.
Lúc bấy
giờ Nguyễn Vương c̣n ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc
Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông
Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn Lân ở lại [ 140 ]
Ông
Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141
Xem ở
chương VI 174 bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo
hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.
Năm bính
th́n (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân.
Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần
phục vua Tiêm La.
Đến năm
đinh măo (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua
Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.
Đồ cống
vật là:
Voi đực
cao 5 thước 2 con
Sừng tê
giác 2 chiếc
Ngà voi 2
cái
Hột sa
nhân 50 cân
Đậu khấu
50 cân
Hoàng lạp
50 cân
Cánh kiến
50 cân
Sơn đen
20 lọ
Nặc Ông
Chân có ba người em tên là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn,
muốn tranh quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La bắt
Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc Ông Chân không chịu, quân
Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân chạy sang Tân
Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành bấy giờ
là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đ́nh.
Năm tân
mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh
sự. Năm sau, vua Tiêm La sai sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là
muốn giảng ḥa cho anh em Nặc Ông Chân, chứ không có ư ǵ cả. Vậy
xin để Việt Nam xử trí thế nào, Tiêm La 142
cũng xin
thuận.
Qua năm
quư dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê
Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân, hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc
Ông Chân về nước.
Nước Tiêm
La tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm
bon (Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân.
Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân
Tiêm mới rút về. [ 142 ]
Tức là
Thái Lan ngày nay
Lê Văn
Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm.
Khi những thành ấy xây xong, th́ vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem
1.000 quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp
lại về nước ta.
10. Việc
giao thiệp với nước Hồng Mao.
Năm quư
hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert
đem đồ phương vật sang dân và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà
Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở
cửa hàng. Sau người Hồng Mao c̣n đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng
ngày vẫn một niềm từ chối không chịu.
11. Việc
giao thiệp với nước Pháp Lan Tây.
Đối với
nước Pháp th́ vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là v́ khi ngài c̣n gian
truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy người sang giúp ngày.
Đến khi xong việc đánh dẹp rồi, c̣n có Chaigneau, Vannier và Despiau
làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có ḷng trọng đăi, cho mỗi
người 50 lính hầu, và đến buổi chầu th́ không bắt lạy.
Vả trong
khi vua Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, th́ Nă Phá Luân đệ nhất
(Napoleon I) làm vua bên nước Pháp, đang c̣n phải đánh nhau với các
nước, cho nên tàu Pháp cũng không hay đi lại ở phía Viễn Đông này.
Đến khi Nă Phá Luân thất thế, ḍng dơi nhà vua cũ lại trung hưng
lên, bấy giờ sự chiến tranh đă yên, th́ mới có tàu sang buôn bán ở
phương Á đông. Năm đinh sửu (1817), có chiếc tàu "La Paix" của hiệu
Balguerie, Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng mà những đồ
hàng ấy, người Việt Nam ta không dùng được, lại phải chở về. Vua Thế
Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm ấy, chiếc tàu binh tên là
Cybèle của nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là De
Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi
hành những điều ước do Bá Đa Lộc kư năm 1787 về việc nhường cửa Đà
Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều
ước ấy nước Pháp trước đă không thi hành th́ nay bỏ, không nói đến
nữa.
Năm kỷ
măo (1819), có chiếc tàu buôn ba cột tên là "Rose" và "Le Henri" vào
cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và lụa
về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba năm, đem vợ con xuống tàu "Le
Henri" về Pháp.
175 12.
Sự giết hại công thần.
Những
người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết
hại trong khi vua Thế Tổ c̣n đang trị v́.
Nguyễn
Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đă hai
ba đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu
hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được công
lớn, đứng đầu hàng công thần.
Khi vua
Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt
mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. Sau về Kinh làm
chức trung quân.
Ông có
học thức, cho nên triều đ́nh cử làm tổng tài việc làm sách luật và
quốc sử.
Nguyễn
Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân,
thường hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe
người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng
hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi
mời vào chơi.
Bài thơ
rằng:
Văn đạo
Ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài
trắc tịch dục cầu ty
Vô tâm
cửu bảo Kinh sơn phác
Thiện
tường phương tri Kư bắc kỳ
U cốc hữu
hương thiên lư viễn
Cao cương
minh phượng cửu thiên tri
Thư hồi
nhược đắc sơn trung tể
Tá ngă
kinh luân chuyển hóa ky
Dịch nôm
là :
Ái châu
nghe nói lắm người hay
Ao ước
cầu hiền đă bấy nay
Ngọc phác
Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ
Kư bắc biết lâu thay
Mùi hương
hang tối xa ngh́n dặm,
Tiếng
phượng g̣ cao suốt chín mây
Sơn tể
phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau
xoay đổi hội cơ này
Tưởng bài
thơ này chẳng qua là lời lẽ của người thiếu niên nói ngông mà thôi,
không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui tên
Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn
Thành, nay thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt
Nguyễn Văn Thuyên đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ
tội ông Thành. Một hôm băi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo
vua mà kêu khóc rằng: "Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay
không có tội ǵ mà bị người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ ḷng nào ngồi nh́n
để người ta giết thần mà không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào
cung, rồi từ đó cấm không co ông Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn
Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn
Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết, c̣n Nguyễn Thuyên th́ phải
chém.
Đặng Trần
Thường người ở Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây
giờ) có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ
làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau v́ làm gian sắc phong thần cho Hoàng
Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đ́nh làm án
phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm
với Lê Chất, cho nên Lê Chất mới bới những việc như là khi ra coi
tào binh ở Bắc Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền,
v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo.
Tương
truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn
Phú" bằng quốc âm để ví ḿnh như Hàn Tín đời Hán.
13. Xét
công việc của vua Thế Tổ.
Vua Thể
tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống
nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ
ngă ḷng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất
tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà
dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức ḷng mà theo giúp. Bởi
vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại
thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta
lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ
từng thấy.
Công
nghiệp của ngài th́ to thật, tài trí của ngài th́ cao thật, nhưng
chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn
cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại
những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những
chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc
cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.
Vua Thế
Tổ mất năm kỷ măo (1819), trị v́ được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu
là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176
CHƯƠNG I
Thánh Tổ
(1820-1840)
Niên
hiệu: Minh Mệnh
1. Đức độ
vua Thánh Tổ 2. Việc chính trị trong nước 3. Nội các 4. Cơ mật viện
5. Tôn nhân phủ 6. Quan chế 7. Đặt tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh 8.
Lương bổng của các quan 9. Tiền dưỡng liêm 10. Sự học hành thi cử
11. Sách vở 12. Việc sửa sang phong tục 13. Nhà dưỡng tế 14. Việc
dinh điền và thuế má 15. Việc vơ bị
1. Đức Độ
Vua Thánh Tổ.
Tháng
giêng năm canh th́n (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt
niên hiệu là Minh Mệnh.
Vua Thánh
Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay
làm; phàm có việc ǵ, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới
được thi hành.
Ngài tinh
thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là
một tả đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc ḷng dân. Bởi vậy, ngài
mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Gia Tô.
Về sau có
nhiều nhà làm sử, v́ ư riêng mà cho ngài là bạo quân, th́ thiết
tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng. [ 177 ]
Phải biết
rằng nước ta từ xưa đến nay, điều ǵ cũng theo Nho Giáo, lấy tam
cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ
chồng, ấy là cái khóa luân lư củ xă hội ḿnh. Ai tháo cái khóa ấy ra
th́ cho là không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi
phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém
giết.
Lúc trong
nước ḿnh từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lư tưởng ấy
làm phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác,
nói những chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rơ ra thế
nào th́ tất cho là theo tả đạo làm hư hỏng cái phong tục hay của
ḿnh. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước đi
theo đạo mới.
Một ông
vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, th́ tất là phải
giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng ḿnh làm bổn phận
làm vua của ḿnh, chớ có biết đâu là ḿnh làm sự thiệt hại cho dân
cho nước.
Vả, bao
giờ cũng vậy, hễ người ta đă sùng tín một tông giáo nào, th́ tất cho
cái tông giáo của ḿnh là hay hơn, và cho người theo tông giáo khác
là thù nghịch với ḿnh, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng
cách ấy mà hà hiếp người khác đạo với ḿnh. Cũng v́ lẽ ấy, cho nên
ngày trước Vua Phillippe II nước I Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp
Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy
giờ các ông ấy cũng tưởng là ḿnh làm điều phải, chớ có biết đâu là
ḿnh làm điều trái lẽ.
Vẫn biết
rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái trí năo người
Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rơ cái tông chỉ đạo Thiên Chúa ra thế
nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh Tổ nữa, th́ ông vua khác
cũng không chắc đă tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.
Nhà làm
sử lại đổ cho vua Thánh Tổ giết Nguyễn Văn Thành, song xét trong các
truyện như sách Thực Lục Chính Biên và sách Đại Nam Chính Biên Liệt
Truyện th́ chỉ thấy chép rằng Nguyễn Văn Thành bị tội phải uống
thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ 15 mà thôi. C̣n như vụ án Lê Văn
Duyệt và Lê Chất th́ có hẹp ḥi thật, nhưng khi các ông ấy đă mất
rồi, và lại v́ có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy
mà làm án, chứ lúc hai ông ấy c̣n sống, th́ vua Thánh Tổ, tuy có
bụng nghi ngờ, nhưng vẫn không bạc đăi.
Việc ngài
giết chị dâu là bà vợ Hoàng Tử Cảnh và các cháu, th́ không thấy sách
nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy
việc ấy thực hư thế nào không rơ.
C̣n việc
không biết giao thiệp với các nước ngoại dương, th́ không phải là
cái lỗi riêng một ḿnh ngài. Lúc bấy giờ người ḿnh ai cũng chỉ biết
có nước Tàu là văn minh hơn, c̣n th́ cho là man di cả. Phỏng sử có
ai là người biết mà nói ở thiên hạ c̣n có nhiều nước văn minh hơn
nữa cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước
ḿnh, th́ không những là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào
nước mà thôi, lại c̣n sợ lây phải cái phong tục dă man nữa, cho nên
không muốn giao thông với ngoại quốc làm ǵ. Như thế th́ có nên
riêng trách một ḿnh ai không ?
Cái nghĩa
vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói,
chứ không nên lấy ḷng yêu ghét của ḿnh mà xét đoán. Dẫu người ḿnh
ghét mà có làm điều phải, ḿnh cũng phải khen; người ḿnh yêu mà có
làm điều trái, ḿnh cũng phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông vua
chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều
tàn ác, nhưng xét cho kỹ, th́ thật ngài cũng có ḷng v́ nước lắm.
Trong, lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài,
đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.
Vậy cứ
b́nh t́nh mà xét, th́ dẫu ngài không được là ông anh quân nữa, th́
cũng không phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm
th́ hiểu rơ.
2. Việc
Chính Trị Trong Nước.
Vua Thánh
Tổ đă 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đă am
hiểu lắm. Việc ǵ ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi,
ngài đ̣i một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lư và hỏi những
sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài
chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống
hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng:
Ḷng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi
luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, th́ rồi đến lúc
già yếu, mỏi mệt c̣n làm ǵ được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám
lười biếng lúc nào [143]
Ở trong
triều, th́ ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các
và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.
3. Nội
Các.
Đời vua
Thế Tổ đă đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều ǵ
th́ vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo,
Minh Mệnh
Chính Yếu, quyển Cần Chính. 178 chương, tấu, sắc, mệnh, v.v.... Đại
khái cũng tự hồ pḥng bí thư của vua vậy.
Năm canh
th́n (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn
Thư Pḥng; đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy
quan tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.
4. Cơ Mật
Viện.
Năm giáp
ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân v́ việc quân quốc cơ yếu là
việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống
và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có
trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy th́
dùng 4 viên, văn vơ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc
viên th́ có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong
các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ
cho đem kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có
từ đấy.
5. Tôn
Nhân Phủ.
Năm bính
thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân
Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.
Nhà vua
thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu
phía hữu gọi là mục. Con cháu các ḍng chiêu hay là mục phải phân
biệt chi nào ra chi ấy.
Đặt tôn
nhân lệnh một người, tả hữu tôn chính hai người, tả hữu tôn nhân hai
người, để coi việc hoàng tộc và việc phân biệt tự hàng chiêu hàng
mục, ghi chép hàng lượt người thân người sơ, việc nuôi nấng và cấp
tước lộc cho mọi người trong hoàng tộc; lại đặt ra hữu tôn khanh hai
người, tả hữu tá lư hai người, để coi thứ trật mọi người tôn thất và
việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang hôn v.v....
6. Quan
Chế.
Vua Thánh
Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi
phẩm chia ra làm chánh và ṭng hai bậc.
Văn Vơ
Chánh Nhất Phẩm Cần chính điện đại học sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ,
Vơ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ
đô thống chưởng phủ sự. Ṭng Nhất Phẩm Hiệp biện đại học sĩ. Ngũ
quân Đô Thống phủ đô thống. Chánh Nhị Phẩm Thượng thư, tổng đốc, tả
hữu đô ngự sử. Thống chế, đề đốc. Ṭng Nhị Phẩm Tham tri, tuần phủ,
tả hữu phó đô ngự sử. Chưởng vệ, khinh xa đô úy,đô chỉ huy sứ,phó đề
đốc. Chánh Tam Phẩm Chưởng viện học sĩ, thị lang, đại lư tự khanh,
thái thường tự khanh, bố chính sứ, trực học sứ, thông chính sứ,
thiêm sự, phủ doăn. Nhất đẳng thị vệ, chỉ huy sứ, thân cấm binh vệ
úy, lănh binh. Ṭng Tam Phẩm Quang Lộc tự khanh, thái bộc tự khanh,
thông chính phó sứ. Binh mă sứ, tinh binh vệ úy, thâm cấm binh phó
vệ úy, phó lănh binh, kiêu kỵ đô úy, pḥ mă đô úy. Chánh Tứ Phẩm
Hồng lô tự khanh, đại lư tự thiếu khanh, thái thường tự thiếu khanh,
tế tửu, lang trung, thị độc học sĩ, thiếu thiêm sự, thái y viện sứ,
tào chính sử, phủ thừa, án sát sứ. Quản cơ, nhị đẳng thị vệ, binh mă
phó sứ, tinh binh phó vệ úy, thành thủ úy. Ṭng Tứ Phẩm Quang Lộc tự
thiếu khanh, thái bộc tự thiếu khanh chưởng ấn, cấp sự trung, thị
giảng học sĩ, kinh kỳ đạo ngự sử, tư nghiệp, từ tế sứ, quản đạo. Phó
quản cơ, tuyên úy sứ, kị đô úy. Chánh Ngũ Phẩm Hồng lô tự thiếu
khanh, giám sát ngự sử, hàn lâm viện thị độc, viên ngoại lang,
trưởng sử, từ tế phó sứ,ngự y, giám chánh, tào chánh phó sứ,đốc
học,phó quản đạo. Tam đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng,
pḥng thủ úy. Ṭng Ngũ Phẩm Hàn lâm viện thị giảng, hàn lâm viện
thừa chỉ, miếu lang, giám phó, phó trưởng sử, phó ngự y, tri phủ.
Tinh binh chánh đội, tứ đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng
suất đội, tuyên phó sứ, phi kị úy. Chánh Lục Phẩm Hàn lâm việc trước
tác, chủ sự, đồng tri phủ, kinh huyện, tri huyện, y tả viện phán,
ngũ quan chánh. Ngũ đẳng, thị vệ, cẩm y hiệu úy, tinh binh chánh đội
trưởng suất đội, thổ binh chánh đội, trợ quốc lang. Ṭng Lục Phẩm
Hàn Lâm Viện tu soạn, tri huyện, tri châu, miếu thừa, Thân cấm binh
chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh 179 học chánh, thông phán, thổ
tri phủ, y hữu viện phán. chánh đội trưởng suất đội. Chánh Thất Phẩm
Hàn lâm viện biên tu, tư vụ, lục sự, giám thừa, giám linh đài lang,
giáo thụ, kinh lịch. Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ
binh chánh đội trưởng suất đội. Ṭng Thất Phẩm Hàn lâm viện kiểm
thảo, y chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu. Tinh
binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, ṭng thất phẩm thiên hộ,
nội tạo phó tư tượng. Chánh Bát Phẩm Hàn lâm viện điển tịch, huấn
đạo, chánh bát phẩm thơ lại. Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát
phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng. Ṭng Bát Phẩm
Hàn lâm viện điển bạ, y phó, ṭng bát phẩm thơ lại. Ṭng bát phẩm
đội trưởng, ṭng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, ṭng bát phẩm phó tư
tượng. Chánh Cửu Phẩm Hàn lâm viện cung phụng, chánh cửu phẩm thơ
lại, thái y y chánh, tự thừa, phủ lại mục. Chánh cửu phẩm đội
trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục.
Ṭng Cửu Phẩm Hàn lâm viện đăi chiếu, ṭng cửu phẩm thơ lại, tỉnh y
sinh, huyện lại mục, chánh tổng. Ṭng cửu phẩm đội trưởng, ṭng cửu
phẩm bá hộ, huyện lệ mục, ṭng cửu phẩm tượng mục. 7. Đặt Tổng Đốc,
Tuần Phủ ở các tỉnh.
Nguyên
trước nước Nam ta chia ra làm từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là
quan Lưu Trấn để coi việc trong trấn. Từ đời Gia Long trở đi, ở Bắc
Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp Trấn, để coi
việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.
Đến năm
tân măo (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối
nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố
chính sứ, án sát sứ và lĩnh binh.
Tổng đốc
th́ coi việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cơi ở
trong hạt; tuần phủ th́ coi việc chính trị, giáo dục và giữ ǵn
phong tục; bố chính sứ th́ coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng
và triều đ́nh có ân trạch hay là cấm lệnh điều ǵ, th́ phải tuyên
cho mọi nơi biết; án sát sứ th́ coi việc h́nh luật và kiêm cả việc
trạm dịch bưu chính; lĩnh binh th́ chuyên coi binh lính.
Từ tuần
phủ trở xuống đều phải theo lệnh quan tổng đốc. Thường th́ tỉnh nào
lớn, có lắm việc quan trọng mới đặt tổng đốc để quản trị cả hai ba
tỉnh. C̣n những tỉnh nhỏ th́ chỉ đặt tuần phủ là quan đầu tỉnh 144 .
8. Lương
bổng của các quan viên.
Năm kỷ
hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng
đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.
Chánh
nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan.
Ṭng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60
quan. Chánh nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục
50 quan. Ṭng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân
phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền
xuân phục 20 quan. Ṭng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền
xuân phục 16 quan. Chánh tứ phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền
xuân phục 14 quan. Ṭng tứ phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền
xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền 40 quan, gạo 43 phương, tiền
xuân phục 9 quan. Ṭng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền
xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền
xuân phục 7 quan. Ṭng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền
xuân phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền
xuân phục 5 quan. Ṭng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền
xuân phục 5 quan. Chánh bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền
xuân phục 5 quan. Ṭng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền
xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền
xuân phục 4 quan. Ṭng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền
xuân phục 4 quan.
Lại dịch
binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi
tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.
Từ nhất
phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ tŕnh giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm
đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu,
đông, tŕnh giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, th́ cứ mỗi
tháng đến lĩnh một kỳ.
Tiền
lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, th́
thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thủa trước rẻ rúng
không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà
nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm.
[144]
Đời vua
Thế Tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh
nữa là Hưng Yên, Ninh B́nh, Hà tĩnh và An Giang, cả thảy thành ra 31
tỉnh. 180
9. Tiền
Dưỡng Liêm.
Tri phủ:
tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản
khuyết 25 quan.
Đồng tri
phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan,
giản khuyết 25 quan.
Tri
huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan,
trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.
10. Sự
Học Hành Thi Cử.
Việc trị
nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đă lưu ư về
việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ th́ ngài lại trọng sự
văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước th́
trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có ḷng yêu dùng
những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong
lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh
được lương bổng ở ăn học.
Đời vua
Thế Tổ th́ chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm ngọ (1822) là năm
Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đ́nh để lấy tiến sĩ, đến
năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách,
nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.
Nguyên
trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm
tí, ngọ, măo, dậu, thi Hương; năm th́n, tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi
Đ́nh.
Phép thi
th́ vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ
đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ
tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường gọi là hương cống, nay
đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.
Vua Thánh
Tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm,
những sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học
lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện
với các quan rằng: "Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm
nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những văn cử
nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi
nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tráng lấy hay bỏ
cũng do tự đó. Học như thế th́ trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày
một kém đi. Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên
dần dần đổi lại". Vua Thánh Tổ thật là biết rơ cái tật của những
người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ v́ thói quen lâu ngày khó
bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, th́ dễ thường cũng không biết đổi ra thế
nào cho hay hơn được, cho nên sự học của ḿnh vẫn nguyên như cũ.
11. Sách
Vở.
Vua Thánh
Tổ mới lên ngôi, đă lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để
góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ư về việc tưởng lệ
cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai t́m
được sách cũ, hay làm ra sách mới, th́ được ban thưởng. Tự đó ông
Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột
Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc
Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển
Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đ́nh Chính người Thanh
Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người
Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.
Vua Thánh
Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm
Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, c̣n sách của ngài soạn
ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu B́nh Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế
Thi Tập.
12. Việc Sửa Sang Phong Tục.
Mấy năm về cuối đời vua Thánh Tổ trong nước lắm giặc giă, phong tục
thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc
những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn
dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân. 1. Đô Nhân Luân: trọng tam
cương ngũ thường. 2. Chính Tâm Thuật: làm việc ǵ cũng cốt phải giữ
bụng dạ cho chính đính trong sạch. 3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận
chăm nghề nghiệp của ḿnh. 4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết
kiệm. 5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần hậu. 6. Huấn Tử Đệ:
phải dạy bảo con em. 7. Sùng Chính Học: chuộng học đạo chính. 8.
Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục. 9. Thận Pháp Thủ:
cẩn thận mà giữ pháp luật. 10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm lành.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự
sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: "Các làng ở ngoài Bắc Thành
nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân th́ biếng nhác chỉ cờ bạc rượu
chè; việc tế lễ quỷ thần th́ hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế th́
chuộng đường xa hoa, 181 thậm chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp
để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân".
Vua Thánh Tổ bèn xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem
những điều huấn dụ đă ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải
chuyển sức cho tổng lư: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu
chè, th́ phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế
hống hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ
b́nh dân, th́ phải theo phép mà trừng trị. C̣n những lệ thờ thần và
lễ tang tế th́ Lễ Bộ đă định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo th́
phải tội.
13. Nhà Dưỡng Tế.
Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại
thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở
các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng
tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương
nhờ, phải đến ở đó, th́ mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa
bát quan đồng gạo.
14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.
Thuế đinh và thuế điền th́ đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đă
định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam
kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ
thuế điền thổ ở miền ấy. C̣n như số dân đinh và điền thổ trong nước,
th́ cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892
mẫu ruộng và đất.
Những dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh
Hương, th́ có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được
trừ giao dịch. Những người lăo hạng và tàn tật th́ phải chịu một
nửa.
C̣n những người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào
mà có vật lực th́ đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có
vật lực th́ phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, th́ chiếu lệ thu cả
thuế.
Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải
nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.
Mỗi phương nộp bằng tiền th́ phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.
C̣n các thứ thuế mỏ, thuế sản vật, v.v... th́ đại khái cũng theo lệ
đời vua Thế Tổ đă định, chứ không thay đổi mấy đi.
15. Việc Vơ Bị.
Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, th́ trong nước đă được yên
trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có vơ bị, cho nên
thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh
mă để pḥng khi hữu sự.
Ở những nơi hiểm yếu th́ lập đồn ải, ở các cửa bể và các đảo th́
lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để pḥng giữ mặt
bể.
Binh chế th́ có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ
binh.
Bộ binh th́ có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh,
vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các
tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có
suất đội và đội trưởng cai quản.
Những binh khí của mỗi vệ, th́ có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu
điểu thương và 21 ngọn cờ.
Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội.
Cơ th́ có quản cơ, mà đội th́ có suất đội cai quản.
Tượng quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh
thành 150 con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng
Nam 35 con, ở B́nh Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng B́nh,
Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, B́nh
Thuận, Ninh B́nh mỗi nơi 7 con.
Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng
vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh.
Vua Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở dọc bờ bể, thủy binh là việc rất
yếu trọng cho sự pḥng bị. Thường ngài bắt quan đem binh thuyền ra
để luyện tập.
Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán
giáo dưỡng binh, để cho con các quan vơ, từ suất đội trở lên ai muốn
t́nh nguyện vào học, th́ cho lương bổng, và cử quan đại thần ra dạy
vơ nghệ.
C̣n như khi nào có quân lính đi đâu, th́ nhà vua đặt lệ sai mấy
người y sinh đi theo để điều hộ. [182]
Tuy nhà vua muốn lưu ư về việc binh lính, nhưng người ḿnh lúc bấy
giờ ai cũng trọng văn khinh vơ, b́nh nhật không có ai lo ǵ đến việc
quân lính khí giới. Hễ có lâm sự th́ mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua
nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc ḷng, các
quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào
th́ làm. Thành ra quân số ở trong sổ sách th́ nhiều, mà thế lực th́
vẫn không đủ: ấy là đời vua Thánh Tổ mà c̣n thế, huống chi đến những
đời sau, lại c̣n suy nhược hơn nữa.
CHƯƠNG
III
Thánh Tổ
(1820-1840) (tiếp theo)
1. Sự
giặc giă 2. Giặc ở Bắc kỳ 3. Phan Bá Vành 4. Lê Duy Lương 5. Nông
Văn Vân 6. Giặc ở Nam Kỳ 7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất 8. Giặc Tiêm
La 9. Việc Ai Lao 10. Việc Chân Lạp 11. Việc giao thiệp với những
nước ngoại dương 12. Sự cấm đạo 13. Vua Thánh Tổ mất
1. Sự
Giặc Giă.
Vua Thánh
Tổ thật là hết ḷng lo việc chính trị, điều ǵ ngài cũng xem xét
đến, việc ǵ ngài cũng sửa sang lại, có ư muốn cho nước thịnh dân
giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giă, quan
quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân
sự không được yên nghiệp mà làm
Xét sự
giặc giă về đời vua Thánh Tổ là do ở ba lẽ cốt yếu:
Một là
khi nhà Nguyễn thất thế ở Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn
Tây Sơn c̣n phải lo việc trong nước, lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân
lấy dịp ấy mà giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp thế các nước ở
đất Lào. Đến khi vua Thế Tổ nhất thống nam bắc, thanh thế lừng lẫy,
nước Chân Lạp lại xin về thần phục nước Nam, và các nước Ai Lao, Vạn
Tượng, đều sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La đối với
nước Nam, bề ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ t́m
cách mà sinh sự để cướp lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các
nước Lào. Bởi vậy cho nên 183 về phía tây và phía nam bao giờ cũng
có giặc Tiêm và giặc Lào quấy nhiễu măi.
Hai là ở
Bắc Kỳ tuy đă là thống thuộc về nhà Nguyễn rồi, nhưng c̣n có người
mong nhớ nhà Lê, thỉnh thoảng lại có nơi nổi lên, hoặc muốn khôi
phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà Nguyễn, bởi thế cho
nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.
Ba là
quan lại cứ hay nhũng nhiễu, làm cho ḷng người không được thỏa
thuận, và trong đám quan trường thường hay có thói bới móc nhau để
tâng công tâng cán. Nhà vua lại có tính hẹp ḥi, không bao dong cho
những kẻ công thần, hay t́m chuyện làm uất ức mọi người, mà ở với
thần dân th́ nghiêm khắc quá, cho nên mới thành ra nhiều sự rối
loạn.
Bởi những
lẽ ấy, cho nên ở ngoài th́ có giặc Tiêm đánh phá, ở trong th́ có
ngụy Khôi dấy loạn ở phía nam. Lê Duy Lương và Nông văn Vân dấy binh
ở phía bắc. Lúc bấy giờ cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi như Trương
Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ v.v.... đều ra
công đánh dẹp, cho nên không những là giặc trong nước dẹp yên, mà
lại thêm được bờ cơi rộng răi hơn cả những đời trước.
2. Giặc ở
Bắc Kỳ.
Sự giặc
giă ở đất Bắc th́ từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh
thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện.
C̣n những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc,
th́ có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh B́nh
và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.
3. Phan
Bá Vành.
Năm Minh
Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Vơ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và
Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lư và Lân Hải, giết quan thủ ngự
là Đặng Đ́nh Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là
Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở
các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Vơ Đức Cát. C̣n tên Vành và
dư đảng th́ chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành
và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi
lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải
Dương.
Nhà vua
thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn
Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền
ở Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu
Thận đi đánh giặc.
Tháng
giêng năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh
lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây quan quân ở
chợ Quán. Phạm Văn Lư và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh giải vây,
Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được Vành và
cả đảng hơn 765 người.
4. Lê Duy
Lương.
Khi dẹp
xong giặc Vành th́ trong xứ yên được một độ, nhưng c̣n có ḍng dơi
nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quư tị
(1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh B́nh có Lê Duy Lương, là con
cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti
là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem
binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc
Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh
thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
Vua Thánh
Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh B́nh
cùng với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê Duy
Lương.
Lê Duy
Lương ở Ninh B́nh thế cô lắm, chống không nổi mấy đạo quan quân, chỉ
đương được vài ba tháng th́ bị bắt, đóng cũi giải về Kinh trị tội.
C̣n bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế th́ chẳng được bao lâu mà tan.
V́ có
chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt ḍng dơi
nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, B́nh Định, cứ chia cho
15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm
ăn.
5. Nông
Văn Vân.
Ở Bắc c̣n
đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, th́ ở Nam Lê Văn Khôi làm
phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ
hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan t́m
bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang
có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên
đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn.
Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quư tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất
mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm trời, làm cho quan quân thật
là vất vả.
Nông Văn
Vân làm Tri châu châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân t́m bắt họ hàng
Lê Văn Khôi, bèn nổi lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng 184 Quân,
và bắt viên tỉnh phái thích chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền
của dân", rồi đuổi về.
Nông Văn
Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi,
phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng
Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai
Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem quân hội
với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đ́nh Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.
Quân giặc
vây đánh Cao Bằng và Lạng Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng
đốc là Tạ Quang Cự làm tổng thống đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng
và Lạng Sơn.
Nông Văn
Vân nhận được chỗ mường mán lắm núi nhiều rừng, bèn chia quân đi tản
ra mọi nơi, t́m chỗ hiểm yếu mà ẩn nấp, hễ có quan quân đến, đánh
được th́ tiến, không đánh được th́ lui, cứ ra vào bất trắc, lui tới
không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và lại hao binh
tổn tướng rất nhiều.
Tháng
chạp năm quư tị (1833) đạo quân của Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh
Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao bằng. Đạo quân của Lê Văn Đức và
Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo Lạc) là chỗ sào huyệt
của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.
Nhưng mà
khi quan quân rút về, th́ Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như
cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên pḥng giữ các tỉnh mạn
ngược.
Đến tháng
9 năm giáp ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên
Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng;
Nguyễn Đ́nh Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt quân
cùng tiến lên hội tiễu. Quan quân đi đường sá khó khăn, lương thực
vận tải không tiện, nhưng mà quân sĩ đều cố hết sức, đi đến đâu quân
giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân
Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh pḥng giữ,
đừng cho quân giặc chạy sang bên ấy. Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy
sang Tàu, bị quân Tàu đuổi bắt, lại phải trở về Tuyên Quang.
Tháng 3
năm ất mùi (1835), Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở,
liền đem quân đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển
bèn vây 4 mặt, rồi phóng hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy. Quan
quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.
6. Giặc ở
Nam Kỳ.
Đất Nam
Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ
lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là
tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ
cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ư vua để
lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.
Nguyên
mấy năm trước, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy
quyền lắm, mà ḷng người ai cũng kính phục. Chỉ v́ ông ấy là quan
vơ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ triều đường tấu đối không được
hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng ḷng, nhưng ông ấy là bậc
khai quốc công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ đi. Đến khi ông ấy
mất, th́ vua Thánh Tổ băi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức
tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở
ngoài Bắc.
Tỉnh
Phiên An (tức là tỉnh Gia Định) có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch
Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Nhưng Bạch
Xuân Nguyên vốn là người tham lam tàn ác; khi đến làm bố chính ở
Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn
Duyệt, rồi đ̣i hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày
trước.
Trong bọn
ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên trước tên ấy gọi là Nguyễn Hữu Khôi, người
ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới
chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, nó xin ra
thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi,
rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy.
Bấy giờ
Lê Văn Khôi bị bắt giam, phần th́ tức giận, phần th́ sợ tội, bèn mưu
với mấy người đảng của nó để dấy loạn; ở Gia Định lại có những người
có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt
làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo tên Khôi cả.
Đến đêm
ngày 18 tháng năm, năm quư tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi
cùng với 27 người lính hồi lương vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch
Xuân Nguyên, rồi ra gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người
đến cứu, chúng cũng giết nốt. C̣n quan Án và quan Lănh th́ chạy
thoát được.
Bấy giờ
những quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê
Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng ḿnh là bọn
Thái Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn 185 Đà và
Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Vơ Vĩnh Tiền và Vơ Vĩnh Tài quản hữu
quân, Vơ Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần
Văn Tha quản thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng
quân, v.v.... Lại đặt các quan chức như một triều đ́nh riêng vậy.
Đoạn rồi Lê Văn Khôi sai bọn Thái Công Triều đem quân đi lấy các
tỉnh thành, chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.
Triều
đ́nh được tin ấy, liền sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng
quân và Nguyễn Xuân làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch
hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với B́nh Khấu
tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn
Khôi.
Khi quan
quân vào đến Gia Định không biết tại cớ ǵ, mà trung quân của ngụy
là Thái Công Triều xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều
là người ở Thừa Thiên, trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở
Gia Định, sau theo tên Khôi làm phản. Nay lại trở về với triều đ́nh,
đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các tỉnh.
Lê Văn
Khôi biết thế không chống nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi
chia quân ra chống giữ, và lại sai người đi sang Tiêm La cầu cứu.
Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo sang đánh nước Nam. Việc ấy
sẽ nói ở mục sau.
Quan quân
một mặt th́ đánh đuổi quân Tiêm, một mặt th́ vây đánh thành Phiên
An, Lê Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy th́
phải bệnh chết. Tuy vậy, quân ngụy ở trong thành cứ chống giữ măi,
non ba năm trời quan quân mới hạ được thành.
Thành
Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11
(1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao và rộng, hào sâu, ở trong
thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên quan quân đánh thành
lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy được. Măi đến
tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đă mỏi mệt lắm
rồi, tướng quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được
thành và vào bắt giết quân giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn
vào một chỗ, nay gọi là "mả ngụy". C̣n những người thủ phạm th́ đóng
cũi đem về Kinh trị tội.
Ông J.
Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định
nói rằng
trong 6 người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh
mục [145]
Xem tập
tạp chí "Revue Indochinoise" số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử Lược
"Abrégé de l'histoire d'Annam" của ông A. Schreiner. người nước Pháp
tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch
Tấn Gia, và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi.
Việc ông
cố Marchand th́ đă nhiều người bàn đi bàn lại: người th́ bảo ông ấy
có ư muốn làm như ông Bá Đa Lộc, để giúp Lê Văn Khôi lập nên một
nước theo đạo Thiên Chúa ở Gia Định, người th́ bảo ông ấy bị Lê Văn
Khôi bắt vào trong thành. Việc ấy vẫn phân vân không rơ hẳn ra thế
nào.
Đến khi
về đến Huế th́ ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng tŕ.
Thiết tưởng dẫu thế nào mặc ḷng, đem một đứa con vô tội và 2 người
ngoại quốc ra làm cái tội thảm h́nh ấy, th́ thật gớm ghê quá. Tục Á
Đông ta trước hay dùng những nhục h́nh như là tội lăng tŕ, tội ngựa
xé, tội voi dày v.v... th́ thật là dă man vô cùng, ngày nay ai nghĩ
đến cũng phải ghê ḿnh.
7. Án Lê
Văn Duyệt và Lê Chất: - Lê Văn Duyệt.
Quan quân
b́nh xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An
đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt
và tội Lê Chất.
Cứ b́nh
tỉnh mà xét, th́ chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn có ư không ưa hai ông
ấy, rồi đ́nh thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ư ngài, cho
nên thành ra hai cái án thật là không đáng.
Nay cứ
theo trong sách "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện" mà chép ra, để mọi
người đều được lấy lẽ công bằng mà phán đoán.
Từ khi
tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che
chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn.
Năm ất
mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn
Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhă, làm trảo
nha, lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương 146
làm tâm
phúc. Bọn ấy vốn là quân hung ác, không phải là người lương thiện,
cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhă, đă
đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng với bọn thủ hạ giữ thành làm
phản; lại làm phiến hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, mà
khó nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu
phục rồi, song thành Phiên An tặc đảng vẫn c̣n thiết cứ, quan quân
tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay
Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu không có thể tường cứu được, nhưng cứ
xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào ra trong thành, nhập đảng
với [146]
Bắc
Thuận, Hồi Lương là những người ở Bắc Kỳ bị tội phải đày vào làm
lính ở Nam Kỳ. 186 nghịch Khôi, và đem Bạch Xuân Nguyên làm đuốc để
tế từ đường, th́ tâm tích của Duyệt tưởng không phải xét cũng đă rơ.
Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau. Vậy xin truy
đoạt quan chức của Duyệt, c̣n vợ con th́ giao về H́nh Bộ tra minh
nghiêm nghị, để tỏ phép nước".
Vua dụ
Nội Các rằng: "Lê Văn Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một
đứa đầy tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh
dẹp Tây Sơn, cũng dự có phần công lao. Đức hoàng khảo ta nghĩ tới nó
thủa nhỏ sai khiến ở trong cung, mới đem ḷng tin cậy, nhiều lần cho
nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân bất
lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh tâm phản nghịch, sinh chí
làm càn, ăn nói hỗn xược. V́ nó c̣n e Hoàng Khảo ta thánh minh, cho
nên dẫu có ḷng gian mà chưa dám lộ. Mà hoàng khảo ta đến văn niên
cũng đă biết rơ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có ḷng gian, song thiên hạ
đă yên rồi, thần dân ai c̣n theo kẻ thị hoạn đó, th́ chắc hắn cũng
chẳng làm ǵ được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần không c̣n mấy, vả
lại nghĩ nó tuổi đă già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc là hắn
biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, th́ cũng là việc
hay. Không ngờ kẻ kia ḷng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày
càng sinh kiêu ngạo, dám nói xấu triều đ́nh trước mặt chúng nhân, mà
khoe cái tài riêng của ḿnh. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh,
Nghệ cùng là những kẻ hung ác, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu xin ghép
vào trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi là quân vô lại, th́ tiến
cử đến chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ hào như
bọn Dương Văn Nhă, Đặng Vĩnh Ưng th́ hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân
thích như bọn Vơ Vĩnh Tiền, Vơ Vĩnh Lộc th́ hắn âm thầm lập đảng.
Những kẻ tù phạm Bắc Kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi
tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn trú; vét
lấy những thuyền bè khí giới trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào thành
Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật Vĩnh mà hút hết cao huyết của
dân Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng Kinh thành, hào th́ đào
sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để pḥng giặc Tiêm, th́ đường bể
phải pḥng ở Hà Tiên, đường bộ phải pḥng ở Chân Lạp, có lẽ nào bỏ
bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên An hay
sao? Thế là rơ rằng pḥng Triều đ́nh, chứ không phải pḥng ngoại
hoạn. Cứ suy điều đó, th́ ruột gan hắn, dẫu người đi đường cũng
biết, ai không căm tức, chỉ giận v́ ai không chịu nói rơ cho Triều
đ́nh biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên
đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu tội minh
tru, mà bọn nhỏ nhặt c̣n dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị
không hèn đốn như Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, th́
chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏI được. V́ bọn tiêu hạ
hắn toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đă
quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt chước hắn. Thậm chí hắn
nói với người tra rằng hắn vào trấn Gia Định, vốn là phong vương để
giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng trấn tầm thường khác. Mả
của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người
ta, tự xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê
Văn Duyệt mà không biết đến triều đ́nh. Thầy Hữu tử nói rằng: "Không
ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chứ có lẽ ấy bao giờ". Vậy th́ ưa
phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ.
Mối vạ gây nên đă lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu hạ không làm phản
được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê Văn Khôi đă khởi
loạn, cháu hắn cũng đồng t́nh tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc của
hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng,
cậy có thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ,
đồ đảng lại nhiều, kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều
lần mở đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành,
đến nỗi binh dân gan óc lầy đường, nói ra đau xót đến gốc nguồn th́
tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hăY đem những công việc
của hắn làm, rơ ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn loạn, hiểu
thị cho ai nấy đều biết. C̣n như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử
tội thế nào, th́ giao cho đ́nh thần nghị xử".
Vài hôm
sau, nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quưnh tâu rằng:
Duyệt che chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích
lại đă lâu. Nay xét những giấy má của y ngày trước, rơ ra h́nh tích
bội nghịch, có 6 điều: 1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y tự tiện sai người
riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến
Điện. Trong thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa "làm tôi không
có phép được giao thông với nước ngoài", th́ tâm sự của y đă rơ, ấy
là một tội. 2) Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành, mới tâu vào
Triều Đ́nh. Đă có chỉ dụ nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không
nên khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ t́nh ḥa hiếu, gây việc cừu
thù. Vậy mà y cố xin dung nạp. May mà triều đ́nh trả đồ cống vật cho
sứ Diến Điện về nước, th́ danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra
thiên hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra ǵ, mà lại cố
giữ lấy ư riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội. 3) Năm Minh Mệnh thứ
7, tàu bạt phong nước Anh Cát Lợi đậu vào cửa B́nh Thuận, đă có chỉ
sai sở tại hộ tống, mà y cố xin đưa vào Gia Định, và nói rằng: "Quan
trấn kiềm thúc, không bằng thần có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng
lệnh và biết binh oai". Hai chữ "có quyền" từ xưa vẫn lấy làm răn,
mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu tứ dường nào, ấy là ba tội. 4)
Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn T́nh nhân việc công sai ở
Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng phố ngói, 187 mua
trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt
Trần Văn T́nh giao cho y để y chém, nếu không giao th́ y xin trả
chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ư trêu quân như vậy, tội
ǵ c̣n to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần Văn T́nh, thế là bắt
người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham
hiểm, ấy là bốn tội. 5) Trần Nhật Vĩnh đă có chỉ bổ thụ kư lục Vĩnh
Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê Đại Cương có chỉ tuyên
triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc Hóa, đều là có ư vi
chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: "Chuẩn cho thần cầu xin
việc ấy, th́ hầu có ích cho việc ngoài biên cương"; lại ở trong tập
tâu xin chi bổng cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: "Lăo
thần xa ở ngoài biên khổn, chỉ e triều đ́nh tin dùng không được vững
bền". Trong lời lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội. 6) Năm Minh
Mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: "Ấy là vị
thánh dược khởi tử hồi sinh, tiếc ǵ mà không làm". Y là chức biên
khổn dám kết đảng tư t́nh như thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6
tội. Vả lại nghe y b́nh nhật thường khoe chuyện với người ta rằng: y
xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán
tranh tiên chư Hán tướng Phù Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái
ngộ Trần kiều sự Nhất đán hoàng báo bức thử thân
Dịch Nôm
Giúp Hán há thua cùng tướng Hán Pḥ Chu nào kém bọn tôi Chu Trần
kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!
Giá y
không phải là người sẵn có bụng bất trung, th́ không khi nào dám
khoe bài ấy với người ta. Bởi vậy bọn tiêu hạ tập quen thành thói,
cho nên thây y chưa lạnh mà đă có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu
này cho đ́nh thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.
Đến khi
nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội
nên trảm: 1. Sai người đi riêng sang Diến Điện, âm kết ngoại giao.
2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến thành, để tỏ có quyền. 3. Xin giết
thị vệ là Trần Văn T́nh, để khóa miệng người ta. 4. Kháng sớ xin lưu
quan viên bổ đi chỗ khác. 5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất.
6. Giấu chứa giấy ngự bảo. 7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với
người ta, tự xưng là Cô.
Có 2 tội
nên giảo: 1. Cố xin dung nạp Diến Điện để che chở cái lỗi của ḿnh.
2. Nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng báo.
Một tội
nên phát quân: 1. Tự tiện sai biền binh tu tạo tàu thuyền.
Sự biến
Phiên An, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào
tội lăng tri; song y đă chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ
quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. C̣n như tằng
tổ, tổ phụ của y được phong tặng cáo sắc, th́ xin truy đoạt cả; tiên
phần có tiếm dụng trái phép nào th́ tước hủy đi; con, cháu, vợ cả,
vợ lẽ, đều phân biệt nghị tội; tài sản th́ tịch biên hết.
Án ấy đệ
lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam hậu, con cháu từ
15 tuổi trở xuống, tạm hăy nghiêm cấm; trẻ thơ ấu chưa biết ǵ th́
tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục th́
cũng thôi.
Lại sai
H́nh bộ sao bản văn án phát cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ
ư kiến riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng B́nh là Trần Huy Phác xin điều
phép tội trảm quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức xin người nào từ
16 tuổi trở lên đều chém, c̣n th́ đều y như đ́nh nghị. Tổng đốc B́nh
Phú là Vơ Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều
xin y đ́nh nghị. Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội
châm chước ít nhiều th́ tự Thiên Ân.
Dụ rằng:
"Xem vậy th́ đủ biết lẽ Trời không sai, mà công đạo ở ḷng người
không ai giấu được. Kẻ quyền gian kia gây vạ, thiên hạ ai cũng căm
tức luôn, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt ngh́n xưa. Tội Lê
Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau ḷng, dù
có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết
đă lâu, và đă truy đoạt quan tước, xương khô trong mă, không bơ gia
h́nh. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và
khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ "Chỗ này là nơi quyền yêm
Lê Văn Duyệt phục pháp", để chính tội danh cho kẻ đă chết, mà tỏ
phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời.
188 Không
những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn Hán
cũng giao thông với giặc, th́ thân thuộc phải tội, trong luật đă có
điều nói rơ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại
với giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng cự quan
quân, hơi có khác nhau. Và đă xử cực h́nh, cũng đủ tỏ phép nước rồi.
Những kẻ thân thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó
phục tội. Lời dụ này chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để
cho ai nấy đều biết Triều Đ́nh xử rất công, rơ ràng cái cân ba thước
mà nghiêm như ŕu búa ngh́n thu".
Án Lê
Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước th́ năm sau có quan Lại bộ
tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê Chất, có
6 tội nên chết: 1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc (phế
lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng,
là một tội. 2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm con nuôi,
muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội. 3. Muốn cho con
gái chính vị trong cung, không được thỏa chi, nói ra những lời oán
vọng, là ba tội. 4. Thường nói chuyện với Lê Văn Duyệt rằng: "Người
ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều
bất b́nh, cũng không dám giận, mà một ḿnh tôi dám giận" là bốn tội.
5. Lại nói rằng: "Vua cậy có Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hữu Thuận phúc
tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy
cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm ǵ ta làm" là năm tội. 6.
Lại nói rằng quốc tính đổi làm tôn thất, đều là bọn Hoài Đức a dua
xui giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.
Lại có 10
tội tiếm loạn: 1. Khi y ở Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu
Ngũ môn ngồi chính giữa. 2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của
riêng mà tải vào thuyền công. 3. Cùng với Lê Văn Duyệt dâng biểu từ
chức để bắt bí nhà vua. 4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện. 5.
Trái phép, ăn lễ, giàu đến ngh́n vạn. 6. Tấu sớ không hợp phép, có
chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới
thôi. 7. Nuôi những cung nữ tiên triều, không biết kiêng nể ǵ. 8.
Nơi công sảnh tiếm làm gác chuông, gác trống. 9. Tội án Lê Duy Thanh
đă thành, lại c̣n cùng với Lê Văn Duyệt cố xin nghị lại. 10. Điều bổ
cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà thi hành.
Vậy xin
giao cho đ́nh nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm
đời.
Vua dụ
rằng: "Chất, tính vốn sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi th́ bất
trung, bất chính, xử việc th́ đại ác đại gian, việc nào cũng càn rỡ,
ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia
trẫm nghĩ hắn cùng với Lê Văn Duyệt, dẫu mang ḷng bất thần, nhưng
người ta không chịu theo, th́ chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất
phẩm đại thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, th́ không nỡ
bắt tội. Kể đến hắn lại chịu tội minh tru rồi th́ lưới trời tưởng
cũng không thoát, cho nên cũng chẳng kể làm ǵ nữa. Nay đă có người
tham hạch, vậy th́ phải trái công, đă có triều đ́nh pháp luật. Chuẩn
cho đ́nh thần đem 16 điều tội của hắn mà định rơ tội danh, vợ con
cũng án luật mà nghị xử, duy con gái nào đă xuất giá, cùng là cháu
trai c̣n nhỏ th́ tha".
Đ́nh thần
nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên
lăng tŕ, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm
mưu điều bất quỷ, th́ khép vào tội bạn nghịch mà xử lăng tŕ. Song y
đă chịu tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục
thây, khiêu thủ để thị giới. C̣n cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng
xin truy đoạt; vợ là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ
trảm lập quyết. Lại phát cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo
văn án, để cho đem ư riêng bày tỏ tâu về, cho công ḷng chúng. Các
địa phương tâu về, đều xin y đ́nh nghị.
Ngài dụ
rằng: "Như vậy đủ rơ lẽ trời ở tại ḷng người, công luận không bao
giờ mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án
sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian,
tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ
áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng
như Duyệt, trước kia Duyệt đă không bổ áo quan giết thây, th́ nắm
xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc
B́nh Phú Vơ Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề
to mấy chữ: "Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục pháp" để làm gương cho kẻ
gian tặc muôn đời. C̣n vợ hắn là Lê Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết
mưu bạn nghịch, xử vào cực h́nh, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng
cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê Cẩn, Lê
Trương, Lê Thường, Lê Kỵ, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch biên
gia sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho [147]
Đến năm
Tự đức nguyên niên (1847) quan đông các đại học sĩ là Vơ Xuân Cẩn
làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có
lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng: "Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt
và Lê Chất đều có ḷng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên ḥn
đạn, thân làm đại tướng, tước đến quận công, sau hoặc v́ con dại,
hoặc v́ cậy công mà làm thành tội ..... Dù bọn Nguyễn Văn Thành có
tội, th́ tội đă trị rồi, mà công th́ không hỏi đến, 189
8. Giặc
Tiêm La.
Nước Tiêm
La tự khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp, vẫn có ư muốn sinh sự với
nước Nam, nhưng c̣n sợ thế lực Nguyễn Triều chưa dám làm ǵ, chỉ
thỉnh thoảng sang sinh sự với những nước ở Lào. Hễ khi nào Tiêm và
Lào đánh nhau, th́ nhà vua sai quan quân pḥng giữ những chỗ biên
thùy, và sang cứu viện những nước bị người Tiêm bắt nạt. Như năm
đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước Tiêm đánh lấy nước Vạn
Tượng (Vientiane), quốc trưởng nước ấy là A Nỗ chạy sang cầu cứu,
vua Thánh Tổ sai quan thống chế là Phan Văn Thúy làm kinh lược biên
vụ đại thần đem binh tượng sang cứu A Nỗ.
Tháng
chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An
chia làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh
sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi h́nh thế hiểm trở rồi
gửi về Kinh.
A Nỗ mất
nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu
xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng
quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua
Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân
làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi,
đưa A Nỗ về Trấn Ninh.
Đến Trấn
Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy
cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem
quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều, rồi lại sai
người sang Nghệ An xin viện binh.
Vua Thánh
Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự đánh nhau mà không được việc ǵ, bèn không
cho quân sang cứu, chỉ xuống lệnh truyền cho các hạt ở Lào phải
pḥng giữ những chỗ biên thùy. A Nỗ không có quân cứu viện, bị quân
Tiêm đến đánh, lại phải bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được ít
lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.
Quân Tiêm
La phá được Vạn Tượng rồi, lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về
nước Nam, ở mạn gần Quảng Trị. Vua Thánh Tổ sai thống chế Phạm Văn
Điển, kinh lư mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham tán quân
vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ.
chẳng hóa
ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ
như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỷ Mạc Ngao không ai thờ cúng
không?" Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm động bèn truy phong
cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con cháu.
Phạm Văn
Điển, một mặt th́ cho người đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự,
một mặt th́ chia quân, làm ba đạo tiến lên đánh.
Tướng
Tiêm la viết thư trả lời một cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về.
Từ đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự ḥa hiếu,
nhưng ngấm ngầm cứ t́m cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam,
người Tiêm vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở
phía tây bắc th́ vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Dù
thế mặc ḷng, vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời
nói ngọt mà trang trải mọi việc.
Đến cuối
năm quư tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi loạn ở đất Gia Định và tên
Khôi lại cho người sang cầu cứu vua Tiêm La bèn sai quân thủy bộ
chia ra làm 5 đạo sang đánh Việt Nam.
Đạo thứ
nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo
thứ nh́ bộ quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh
lấy Châu Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư
đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Tuy rằng
quân nghịch năm đạo cùng tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt
đánh Chân Lạp và Nam Kỳ, c̣n các đạo khác là để phân quân lực của
nước Nam mà thôi.
Vua Thánh
Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân pḥng ngự các
nơi. Phía tây nam th́ sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc
th́ sai Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển
giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân 148
làm kinh
lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.
Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân
Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ đánh phá. Chỗ nào quân
nghịch cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan
quân lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cơi, rồi
tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân
về nước. [148]
Nguyễn
Xuân th́ làm tham tán đại thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn
Xuân th́ làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng đốc đi đánh mặt Trấn Ninh.
190
Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền
phá mấy trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không
biết ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhă Chất Tri đem bại binh
chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho
người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu th́ làm đồn đắp
lũy, để pḥng ngự quân giặc.
Những đạo
quân Tiêm và quân Lào sang đánh ở mặt Quảng Trị, Nghệ An và Trấn
Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn
Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng được toàn thắng, giữ được bờ
cơi nguyên như chỗ cũ cả.
Quân Tiêm
sang đánh từ tháng giêng năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy,
th́ quan quân đă b́nh xong cả mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban
thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.
9. Việc
Ai Lao.
Nước Nam
ta về đời vua Thánh Tổ th́ to rộng hơn cả, là v́ quân Tiêm La cứ hay
sang quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta.
Năm đinh
hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi
cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội
xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho
Chiêu Nội làm Trấn Ninh pḥng ngự sứ cai quản cả 7 huyện, lại phong
cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu Nội
dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở
ruộng.
Lại có
đất Tam động và Lạc Phàn ( trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội
thuộc. Triều đ́nh chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ
và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường
soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Tŕnh Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam-
neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và
Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra
làm ba phủ là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.
Phủ Trấn
biên có bốn huyện là Xa hổ, Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn
định 149
có 3 huyện là Cam cát, Cam môn, và Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc
về Nghệ An. C̣n phủ Trấn Nam có 3 huyện là Tŕnh Cố, Sầm nứa, Man
Duy th́ thuộc về Thanh Hóa. [149]
Ở gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.
Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná
bi (?), Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba
lan (?), Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm
9 châu, cho chiếu lệ triều cống.
Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất
Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.
10. Việc Chân Lạp.
Ở nước Chân Lạp th́ từ khi quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng
quân là Trương minh Giảng và tham tán là Lê Đại Cương lập đồn An Nam
ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.
Cuối năm giáp ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất,
không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên
liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người Chân
Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm ất mùi (1835), Trương
Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là Angmey lên
làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra
làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng
quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh
phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt
chức tuyên phủ, an phủ để pḥng ngự.
Năm canh tí (1840), nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần,
Doăn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lư mọi việc ở
Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo ruộng đất, định thuế
đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Nhưng v́ quan lại Việt Nam ta sang làm nhiều điều trái lẽ, nhũng
nhiễu dân sự, lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt
bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán
giận, chỗ nào cũng có giặc giă nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông
Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ, thành ra
quan quân đánh măi không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan
quân phải bỏ thành Trấn Tây mà rút về An Giang.
Ấy cũng là v́ người ḿnh không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem
ḷng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên thành ra hao tổn binh
lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại
cho nước ḿnh.
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.
Việc giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn
trở là bởi có 191 hai lẽ: một là v́ sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai
là v́ người nước ḿnh lúc bấy giờ không hiểu thời thế, cứ tự đắc
ḿnh là văn minh hơn người, không chịu học tập như người ta mà theo
đường tiến bộ.
Nước ta từ đời thập thất thế kỷ, về nhà Hậu Lê đă có người Âu-la-ba
ra vào buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An
(Faifo), đều không có việc ǵ ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên
chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và
chúa Nguyễn đă có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn th́ trong
nước rối loạn, c̣n phải lo việc chiến tranh, cho nên không nói đến
việc cấm đạo. Về sau, khi vua Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, th́ ngài
nhớ ơn bên đạo có công giúp rập trong lúc gian truân, vẫn để các
giáo sĩ được phép đi giảng đạo mọi nơi. Măi đến đời vua Thánh Tổ th́
việc nước đă yên, nhà vua lưu ư về sự giáo hóa, lấy Nho đạo làm
chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tả đạo, bắt dân gian phải bỏ
tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra nữa.
Mà cũng v́ sự cấm đạo, cho nên sự buôn bán của những người ngoại
dương ở nước ta, thành ra ngăn trở. Bởi v́ Triều đ́nh thấy thỉnh
thoảng có chiếc tàu buôn lại, th́ có một vài người giáo sĩ vào giảng
đạo, ngăn cấm thế nào cũng không được, tưởng là có ư do thám ǵ
chăng, cho nên lại càng nghi ngờ lắm.
Vả lại về đời nhà Nguyễn lúc bấy giờ, ở trong nước cũng không có
người ngoại quốc ra vào buôn bán, chỉ có người Pháp Lan Tây trước đă
theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở lại làm quan tại triều là Chaigneau và
Vannier. Khi vua Thế Tổ hăy c̣n, th́ Chaigneau có xin về nước Pháp
nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở sang th́ lại nhận
chức lănh sự và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ phẩm vật
và tờ quốc thư sang điều đ́nh việc thông thương với nước Nam.
Chaigneau sang đến nơi, th́ vua Thế Tổ mất rồi, vua Thánh Tổ tiếp
đăi Chaigneau cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho Pháp Hoàng
rằng nước Nam và nước Pháp không việc ǵ mà phải làm điều ước về
việc thương mại. Việc vào buôn bán ở nước Nam, th́ cứ theo luật nước
Nam, không điều ǵ ngăn trở cả.
Năm nhâm ngọ (1822) có chiếc tàu chiến của Pháp tên là Cléopâtre
vào cửa Đà nẵng, người quản tàu tên là Courson de La Ville Héllio
nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến vua Thánh Tổ; ngài không
cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà nẵng xin thông
thương, nhà vua cũng không cho.
Chaigneau thấy nhà vua càng ngày càng nhạt nhẽo với ḿnh, và cũng
không làm được công việc ǵ có ích, bèn cùng với Vannier xin từ
chức, rồi đến cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống tàu đi qua
Gia Định về Pháp.
Tháng giêng năm ất dậu (1825), lại có thủy quân đại tá nước Pháp là
ông Bougainville đem hai chiếc tàu chiến là Thétis và Espérance vào
cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật và quốc thư, xin vào yết kiến vua Thánh
Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh là hai nước cừu địch, mà
nước ta trước đă không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay lại tiếp sứ
nước Pháp. Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đă về cả rồi, ngài
bèn sai quan đem đồ vật ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói rằng ở
trong triều không có ai biết tiếng Pháp, cho nên không thể tiếp
được.
Qua năm sau (1826) chính phủ Pháp lại sai cháu ông Chaigneau sang
làm lĩnh sự thay cho chú, nhưng sang đến nơi, Triều đ́nh nước ta
không nhận, đến năm kỷ sửu (1829) lại phải trở về.
Từ đó cho đến 10 năm về sau nước Pháp tuyệt giao với nước Nam ta.
Mà lúc bấy giờ chỉ trừ mấy người giáo sĩ đi giảng đạo ở chỗ thôn dă
ra, th́ trong nước cũng không có người ngoại dương nào ở nữa.
12. Sự Cấm Đạo.
Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi, ngài đă có ư không cho người ngoại
quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu (1825), khi chiếc
tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở
lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm
đạo, và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc
ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê
hoặc ḷng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để
khiến người ta phải theo chính đạo".
Ngài lại sai t́m bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế
để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ư là không phải v́ việc
dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chốn hương thôn.
Lúc bấy giờ không phải là một ḿnh vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi,
phần nhiều những quan lại cũng đều một ư cả, cho nên sự cấm đạo lại
càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc ḷng, trong nước vẫn
có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ
ra lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo
sĩ đem nộp th́ được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải
xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn v́ sự bắt đạo và giết đạo. [192]
Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giă nổi
lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm
nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến năm mậu tuất (1838), có nhiều
giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P.
Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.
Nhà vua một mặt th́ cấm đạo, một mặt th́ ban những huấn điều ra đê/
khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết
hại bao nhiêu, th́ dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ ḷng tin tưởng
của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là
một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy ḷng nhân ái, việc ǵ mà làm
khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết
đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng
mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, th́ h́nh
phạt cũng vô ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm
thế nào cũng không được những người đi giảng đạo trong nước, ngài
bèn sai sứ sang nước Pháp để điều đ́nh với chính phủ Pháp về việc
ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, th́ hội Ngoại Quốc
Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp 150 . Sứ
thần ta phải trở về không; khi về đến Huế th́ vua Thánh Tổ đă mất
rồi.
Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng măi đến khi nước Pháp sang bảo hộ
mới thôi.
13. Vua Thánh Tổ Mất.
Vua Thánh Tổ mất năm canh tí (1840), thọ được 50 tuổi, và trị v́
được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
Trong đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều ǵ cũng sửa
sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ v́ ngài
nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa
phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại
những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra
nước Nam ta ở lẻ loi một ḿnh.
Đă hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều
đ́nh và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một
ḿnh ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong
nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không
sao chối từ được. Vậy cứ b́nh t́nh mà xét, th́ chính trị của ngài
tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương
mà không biết nhu, ngài có uy quyền [150]
Sách Histore de la Cochinchine Francaise của ông Cultru. mà ít độ
lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi
vậy cho nên nói rằng ngài là một ông anh quân th́ khí quá, mà nói
rằng ngài là ông bạo quân th́ không công bằng. Dẫu thế nào mặc ḷng,
ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết ḷng lo việc nước,
tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều
công việc hơn ngài vậy.
CHƯƠNG IV
Hiến Tổ (1841-1847)
Niên hiệu: Thiệu Trị
1. Đức độ vua Hiến Tổ 2. Việc Chân Lạp 3. Việc Tiêm La 4. Việc giao
thiệp với nước Pháp
1. Đức Độ Vua Hiến Tổ.
Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên
ngôi ở điện Thái Ḥa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
Tính vua Hiến Tổ thuần ḥa, không hay bày ra nhiều việc và cũng
không được quả cảm như Thánh Tổ. Trong đời Ngài làm vua, học hiệu,
chế độ, thuế mà, điều ǵ cũng theo như triều vua Thánh Tổ cả. Bầy
tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doăn Uẩn, Vơ Văn
Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp rập.
Nhưng mà đất Nam Kỳ có giặc giă, dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La
sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh dẹp măi mới xong.
2. Việc Chân Lạp.
Nguyên từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đă có
giặc giă, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức,
Nguyễn Công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu trừ măi, đánh được chỗ này
th́ chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy
chùa làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp th́ những người bản xứ cùng với
người Tiêm La đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều đ́nh lấy
việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ở trong
Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An
Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng quân là Trương
Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang th́ mất.
Bởi v́ việc kinh lư đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay v́ có biến
loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà, ông nghĩ xấu hổ và buồn
bực đến nỗi thành bệnh mà chết.
3. Việc Tiêm La.
Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm
Sâm ở Nam Kỳ, th́ quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với
quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem
binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân
giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang.
Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải
rút về giữ Trấn Tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ
cơi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu.
Nguyên là Nặc Ông Đôn 151
đem quân Tiêm La về cứu viện để đánh lấy lại nước. Nhưng khi đến
Việt Nam rút về rồi, quân Tiêm La tàn bạo, người Chân Lạp lại không
phục, có người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua bèn sai Vơ Văn Giải sang
kinh lư việc Chân Lạp.
Tháng sáu năm ất tị (1845), là năm Thiệu Trị thứ năm, Vơ Văn Giải
vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doăn Uẩn, Tôn Thất
Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại
thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người.
Đoạn rồi, Nguyễn Tri Phương và Doăn Uẩn đem binh đuổi đánh quân
Tiêm La và quân Chân Lạp, vây Nặc Ông Đôn và tướng Tiêm La là Chất
Tri ở Ô-Đông (Oudon).
Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin ḥa. Qua tháng mười
th́ Nguyễn Tri Phương, Doăn Uẩn và Chất Tri kư tờ ḥa ước ở nhà hội
quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở
Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành những điều ước đă định.
Tháng chạp năm bính ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai
sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống.
Tháng hai năm đinh mùi (1847) là năm Thiệu Trị thứ bảy, Triều đ́nh
phong cho Nặc Ông Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và phong cho Mỹ Lâm
Quận Chúa làm Cao Miên Quận Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân
thứ ở Trấn Tây rút về An Giang.
Từ đó nước Chân Lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên
vậy. [151]
Nặc Ông Đôn là em Nặc Ông Chân, chú nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận
chúa. 194 4. Việc Giao Thiệp với nước Pháp.
Từ khi vua Hiến Tổ lên trị v́, th́ sự cấm đạo hơi nguôi đi được một
ít. Nhưng mà triều đ́nh vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc
vẫn c̣n giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp
tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào
Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.
Qua năm ất tị (1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên
Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà
Nẵng xin măi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước
Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào
Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm đinh mùi (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không c̣n
giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá
Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ
những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo
mới.
Lúc hai bên c̣n đang thương nghị về việc ấy, th́ quan nước Pháp
thấy thuyền của ta ra đóng ở gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy
có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản trắc ǵ chăng, bèn
phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.
Vua Hiến Tổ thấy sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra
cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và trị tội những người trong
nước đi theo đạo.
Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà nẵng xong được mấy ngày tháng, th́
vua Hiến Tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh mùi
(1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37
tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ Chương Hoàng Đế.
CHƯƠNG V
Dực Tông (1847-1883)
Niên hiệu: Tự Đức
1. Đức độ vua Dực Tông 2. Đ́nh thần 3. Việc ngoại giao 4. Việc cấm
đạo 5. Việc thuế má 6. Việc văn học 7. Việc binh chế
1. Đức độ vua Dực Tông.
Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai húy là Hồng
Nhậm. Bấy giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đă thông thái.
Đến tháng 10 năm đinh mùi (1847), th́ ngài lên ngôi hoàng đế ở điện
Thái Ḥa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm
Tự Đức nguyên niên.
Vua Dực Tông đối với vận hội nước Nam ta thật là quan hệ, v́ là đến
đời ngài th́ nước Pháp sang bảo hộ, đổi xă hội ḿnh ra một cảnh
tượng khác. Bởi vậy cho nên ta cần phải biết rơ ngài là người thế
nào, để xét đoán những công việc thời bấy giờ cho khỏi sai lầm. Quan
tổng đốc Thân Trọng Huề đă được trông thấy dung nhan của ngài và đă
tả rơ chân tượng của ngài ra như sau này: "Ngài h́nh dung như một
người nho sĩ, không cao, không thấp, trạc người bậc trung, không gầy
không béo, có một phần hơi gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt
hơi dài; cằm hơi nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tṛn, hai con
mắt tinh mà lành.
Ngài hay chít cái khăn vàng mà nhỏ, và mặc áo vàng, khi ngài có
tuổi th́ hay mặc quần vàng đi giày hàng vàng của nội vụ đóng. Ngài
không ưa trang sức mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ nữ
trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp.
Tính ngài thật là hiền lành. Những người được hầu gần ngài nói
chuyện rằng: một hôm ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ngài cầm cái
hoa 195 mai 152
sắp hút thuốc, tên thái giám đứng quạt hầu, vô ư quạt mạnh quá, lửa
hoa mai bay vào tay ngài. Tên thái giám sợ xanh mặt lại, mà ngài chỉ
xoa tay, chứ không nói ǵ cả.
Ngài thờ đức Từ Dụ rất có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn th́ chầu
cung, ngày lẽ th́ ngự triều: trong một tháng chầu cung 15 lần, ngự
triều 15 lần, trừ khi đi vắng và khi se yếu 153 . Trong 36 năm,
thường vẫn như thế, không sai chút nào.
Khi ngài chầu cung th́ ngài tâu chuyện này chuyện kia, việc nhà
việc nước, việc xưa việc nay. Đức Từ Dụ thuộc sử sách đă nhiều mà
biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, th́ ngài
biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.
Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực 154
gặp phải khi nướt lụt. C̣n hai ngày nữa th́ có kị đức Hiến Tổ, mà
ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại thần là Nguyễn
Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương đi được nữa đường, vừa gặp
thuyền ngự đương chèo lên, mà nước th́ chảy mạnh, thuyền không đi
mau được. Gần tối thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà
ngài vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội.
Đức Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngày
lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống
xin chịu đ̣n. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ xoay mặt ra lấy tay hất
cái roi mà ban rằng:
- Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ th́ phải ban
thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị.
Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó ngài phê thưởng cho các quan quân đi
hầu ngự. Quan th́ mỗi người được một đồng tiền bạc, lớn nhỏ tùy theo
phẩm, c̣n lính th́ mỗi tên được một quan tiền kẽm.
Đến sáng
ngài ngự ra điện Long An lạy kị. Xem cách ngài thờ mẹ như thế, th́
tự xưa đến nay ít có.
Tính ngài
siêng năng, sáng chừng năm giờ, ngài đă ngự tánh, nghĩa là thức dậy,
chừng sáu giờ, ngài đă ra triều. Cho nên các quan ở Kinh buổi ấy
cũng phải dậy sớm để mà đi chầu. Thường thấy các quan thắp đèn ăn
cháo để vào triều cho sớm. [152]
Hoa mai
là một sợi dây làm bằng chỉ để thắp lửa mà hút thuốc.
153
Se yếu là đau yếu. Tiếng se ở Huế nói cách tôn kính, như vua đau
th́ nói vua se ḿnh. 154
Cách Kinh thành chừng độ 15 cây số, ở bên bờ sông Lợi Giang, có một
cái rừng cấm gọi là Thuận Trực. Chỗ ấy nhiều chim, đức Dực Tông
thường ngự đến bắn ở đấy.
Thường ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ở bên tả điện cần chính.
Các quan đến sớm, quan văn th́ ngồi chực tại tả vu, quan vơ tại hữu
vu. Khi ngài đă ngự ra, th́ thái giám tuyên triệu các quan vào chầu.
Các quan đều mặc áo rộng xanh, đeo thẻ bài đi vào, quan văn bên hữu,
quan vơ bên tả 155 .
Khi các quan theo thứ tự đứng yên rồi, quan bộ Lại hay là quan hộ
Binh tâu xin cho mấy ông quan mới được thăng thuyên bái mạng. Các
quan bái mạng th́ phải chực ở ngoài, đợi bộ Lại hay là bộ Binh tâu
xong mới được vào. Quan văn thuộc bộ Lại, quan vơ th́ thuộc bộ binh.
Bái mạng th́ phải mặc áo đại trào.
Các ông bái mạng xong rồi, bộ nào có việc ǵ tâu th́ đến chỗ tấu sự
quỳ tâu. Như bộ nào có tâu việc ǵ th́ các quan ấn quan trong bộ ấy
đều quỳ chỗ tấu sự, rồi ông nào tâu, th́ đọc bài diện tấu. Một bên
các quan tấu sự lại có một ông quan nội các và một ông ngự sử đều
quỳ. Quan nội các để biên lời ngài ban; quan ngự sử để đàn hạch các
quan phạm phép.
Đức Dực Tông đă thuộc việc mà lại chăm cho nên nhiều bữa ngài ban
việc đến chín mười giờ mới ngự vào nội.
Ngài thường làm việc ở chái đông điện Cần Chánh. Trong chái ấy lót
ván đánh bóng. Gần cửa kính có mấy chiếc chiếu, trên trải một chiếu
cạp bằng hàng vàng, để một cái yên với nghiên bút, một trái dựa (cái
gối dựa), chứ không bày bàn ghế ǵ cả. Cách một khoảng có để một cái
đầu hồ với thẻ. Ngày làm việc mỏi th́ đứng dậy đánh đầu hồ, hay là
đi bách bộ. Ngài ngồi làm việc một ḿnh, vài tên thị nữ đứng hầu để
mài son, thắp thuốc hay là đi truyền việc.
Lệ nước ta xưa nay các quan không được vào chỗ ngài ngự tọa làm
giúp việc cho vua, cho nên việc lớn việc nhỏ, ngài phải xem cả.
Phiến sớ ác nơi đều gởi về nội các. Nội các đề trong tráp tấu sự,
đưa cho giám, giám đưa cho nữ quan dâng lên ngài. Ngài xem rồi giao
nội các. Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, lục bản phó
ra cho các bộ nha. [155]
Khi ngài ngự điện Thái Ḥa hay là điện Cần Chính, hay là đi hành lễ
điện Phụng Tiên, th́ quan văn lại đứng bên tả, quan vơ bên hữu, duy
ở điện Văn Minh th́ quan vơ bên tả, quan văn bên hữu, không biết tại
làm sao? 196
Nay xem các nguyên bản trong Các, th́ thấy có nhiều tờ phiến ngài
phê dài hơn của các quan tâu. Chữ đă tốt mà văn lại hay, ai cũng
kinh cái tài của ngài.
Ngài vốn là người hiếu học. Đêm nào ngài cũng xem sách đến khuya.
Có ba tập Ngự Chế Thi Văn của ngài đă in thành bản. Ngài lại làm
sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu, như là sách Thập Điều, Tự Học
Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca, v.v..."
Xem cái chân tượng của vua Dực Tông như thế, th́ ngài không phải là
người to béo vạm vỡ 156 , mà cũng không phải là ông vua tàn ác bạo
ngược như người ta thường nói. Chỉ v́ ngài làm vua về một thời đại
khó khăn, trong nước lắm việc, mà những người pḥ tá th́ tuy có
người thanh liêm như ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng B́nh, trung
liệt như ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu,
v.v.... nhưng mà các ông ấy đều là người cũ, không am hiểu thời thế
mới. Vả lại các thế lực lúc bấy giờ kém hèn quá, dẫu có muốn cải
cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho nên mọi việc đều hỏng cả.
2. Đ́nh Thần.
Đ́nh thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng
lúc bấy giờ t́nh thế đă nguy ngập lắm, v́ từ đầu thập cửu thế kỷ trở
đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đă tiến bộ nhiều mà sự
cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người
giữ cái trách nhiệm chính trị nước ḿnh, chỉ chăm việc văn chương,
khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự th́ phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ,
Thương, Chu, việc mấy ngh́n năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện
tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng ḿnh hơn người, cho thiên hạ là dă
man. Ấy, các đ́nh thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế
cả. Tuy có một vài người đă đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên
hạ, về nói lại, th́ các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ
cương! Thành ra người không biết th́ cứ một niềm tự đắc, người biết
th́ phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi
khoanh tay mà chịu.
Xem như mấy năm về sau, nhà vua thường có hỏi đến việc phú quốc
cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào chiến, nào thủ, mà
chẳng thấy làm được việc ǵ ra tṛ. Vả thời bấy giờ, cũng đă có
người hiểu rơ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị.
Như năm bính dần (1866) là [156]
Ta thường trông thấy có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt
mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ không ra lối lăng ǵ cả, ở dưới cái
tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái tranh ấy chắc là của một người
nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải là chân dung của ngài. V́ là
thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và những người được vào hầu
cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao giờ có
h́nh ảnh ǵ cả. năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn
Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương tây. Sau
Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái t́nh thế nước
ḿnh, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau mau cải
cách mọi việc, không th́ mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy
cho các quan duyệt nghị. Đ́nh thần đều lấy làm sự nói càn, không ai
chịu nghe.
Năm mậu th́n (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh B́nh tên
là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ
vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán, luyện
tập sĩ tốt để pḥng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân,
bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng
những người bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều ích
quốc lợi dân cả, thế mà đ́nh thần cho là không hợp với thời thế, rồi
bỏ không dùng.
Các quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đ́nh thần th́
mọi người đều bác đi, cái ǵ cũng cho là không hợp thời. Năm kỷ măo
(1879) là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng
khi người nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, th́ nước Tiê m
La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ ǵ mà sinh
sự để lấy đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ư, nước
Mỹ v.v... đặt lĩnh sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có
quyền lợi không ai hiếp chế được ḿnh. Năm tân tị (1881) là năm Tự
Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương Cảng về, tâu rằng: các nước
Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và việc buôn bán. Lấy
binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà nuôi binh
lính.
Gần đây Nhật Bản theo các nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp
cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt chước cho người ngoại quốc ra vào buôn
bán. Nước ta, người khôn ngoan, lại có lắm sản vật, nên theo người
ta mà làm th́ cũng có thể giữ được quyền độc lập của nước nhà.
Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu
việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội, và xin cho người đi học
nghề khai mỏ. Giao cho đ́nh thần xét, các quan đều bàn rằng việc
buôn bán không tiện, c̣n việc khác th́ xin đ̣i hỏi các tỉnh xem thể
nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi chuyện, chứ
không ai muốn thay đổi thói cũ chút ǵ cả. Nhân việc đó vua Dực Tông
khuyên rằng các quan xét việc th́ nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín,
nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, th́ tức là
thoái vậy. [197]
Xem lời ấy th́ không phải là vua không muốn thay đổi. Chỉ v́ vua ở
trong cung điện, việc đời không biết rơ, phải lấy các quan làm tai
làm mắt, mà các quan th́ lại số người biết th́ ít, số người không
biết th́ nhiều. Những người có quyền tước th́ lắm người trông không
rơ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc ḿnh.
Lại có lắm người tự nghĩ rằng ḿnh đă quyền cả ngôi cao, th́ tất là
tài giỏi hơn người, chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải
nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan to hay là quan nhỏ.
Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ không phải ở
tiền của hay là ở quyền tước.
Đến khi nước Pháp đă sang lấy đất Nam Kỳ, đă ra đánh Bắc Kỳ, t́nh
thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai
nói đến sự ǵ hơi mới một tí, th́ bác đi. Như thế th́ làm thế nào mà
không hỏng việc được.
Đă hay rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu
thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà,
nhưng mà xét cho xác ly, th́ cái lỗi của đ́nh thần lúc bấy giờ cũng
không nhỏ vậy.
3. Việc Ngoại Giao.
Việc chính trị đời Dực Tông là nhất thiết không cho người ngoại
quốc vào buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có
tàu Mỹ Lợi Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông thương, nhà
vua không tiếp thư.
Từ năm ất măo (1855) cho đến năm đinh sửu (1877) tàu Anh Cát Lợi ra
vào mấy lần ở cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (B́nh Định) và ở Quảng Yên,
để xin buôn bán, cũng không được. Người I Pha Nho và nước Pháp Lan
Tây xin thông thương cũng không được.
Về sau đất Gia Định đă mất rồi, việc ngoại giao một ngày một khó,
nhà vua mới đặt B́nh Chuẩn Ti để coi việc buôn bán, và Thương Bạc
Viện để coi việc giao thiệp với người ngoại dương. Tuy vậy nhưng
cũng không thấy ai là người hiểu việc buôn bán và biết cách giao
thiệp cả.
4. Việc Cấm Đạo.
Việc cấm đạo th́ từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên,
vua Dực Tông mới lên ngôi, đă có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói
rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, th́ phải tội chết, những
người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, th́ phải khắc
chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. C̣n những ngu dân th́
các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng
cha ông, chứ đừng có giết hại v.v....
Đến năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo.
Lần này, cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại
quốc phải giết.
Sức đă không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đă không cho
người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng
đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước I Pha Nho mới nhân cớ ấy mà
đánh nước ta vậy.
5. Việc Thuế Má.
Thuế má trong nước đời bấy giờ, th́ đại khái cũng như đời vua Thánh
Tổ và Hiến Tổ, duy chỉ từ khi nước Pháp và nước I Pha Nho vào đánh
lấy mấy tỉnh Nam Kỳ rồi, lại phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu
nguyên, nhà nước mới t́m cách lấy tiền, bèn cho người khách tên là
Hầu Lợi Trịnh trưng thuế bán thuốc nha phiến từ Quảng B́nh ra đến
Bắc Kỳ. Sử chép rằng đồng niên nhà vua thu được có 302.200 quan tiền
thuế nha phiến.
Nhà vua lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên th́ được hàm
cửu phẩm, lên đến 10.000 quan th́ được hàm lục phẩm, nghĩ là phải
dùng lối đời trước bán quan để lấy tiền.
6. Việc Văn Học.
Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, cho nên
ngài trọng sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang
việc thi cử đặt ra Nhă Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn
học ra làm quan.
Ngài lại đặt Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để ngài ngự ra cùng
với các quan bàn sách vở, làm thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Lại
sai quan soạn bộ Khâm Định Việt Sử , từ đời thượng cổ cho đến hết
đời nhà Hậu Lê.
7. Việc Binh Chế.
Đời vua Dực Tông lắm giặc giă, nhà vua cần đến việc vơ, nên chỉ năm
tân dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14 mới truyền cho các tỉnh chọn lấy
những người khỏe mạnh để làm lính vơ sinh. Đến năm ất sửu (1865) là
Tự Đức thứ 18 lại mở ra khoa thi vơ tiến sĩ.
Tuy rằng lúc bấy giờ nước ḿnh có lính vơ sinh, có quan vơ tiến sĩ,
nhưng mà thời đại đă khác đi rồi, người ta đánh nhau bằng súng đạn
nạp hậu, bằng đạn trái phá chứ không bằng gươm bằng giáo như trước
nữa. Mà quân lính của ḿnh mỗi đội có 50 người th́ chỉ có 5 người
cầm súng điểu thương cũ, phải châm ng̣i mới bắn được, mà lại không
luyện tập, cả năm 198 chỉ có một lần tập bắn. Mỗi người chỉ được bắn
có 6 phát đạn mà thôi, hễ ai bắn quá số ấy th́ phải bồi thường.
Quân lính như thế, binh khí như thế, mà quan th́ lại cho lính về
pḥng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên tại ngũ mà thôi. Vậy nên đến
khi có sự, không lấy ǵ mà chống giữ được.
CHƯƠNG VI
Chế độ và t́nh thế nước
Việt Nam đến cuối đời Tự Đức
1. Cách tổ chức chính trị và xă hội. 2. Bốn hạng dân 3. Sự sinh
hoạt của người trong nước.
1. Cách Tổ Chức Chính Trị và Xă Hội.
Nước Việt Nam tuy nói là một nước quân chủ chuyên chế 157 , nhưng
theo cái tinh thần và cách tổ chức của xă hội th́ có nhiều chỗ rất
hợp với cái tinh thần dân chủ. Nguyên Nho Giáo là cái học căn bản
của nước ta khi xưa, mà về đường thực tế, th́ cái học ấy rất chú
trọng ở sự trị nước. Trị nước th́ phải lấy dân làm gốc, nghĩa là
phải lo cho dân được sung túc, phải dạy dỗ dân cho biết đạo lư và mở
mang trí tuệ của dân. Những việc quan trọng như thế không phải bất
cứ ai cũng làm được, tất là phải có những người có đủ đức hạnh, tài
năng và uy quyền mới có thể đảm đang được. Bởi vậy cho nên mới cần
có vua có quan.
Vua: Theo cái lư thuyết của Nho Giáo, th́ khi đă có quần chúng, là
phải có quân. Quân là một đơn vị giữ cái chủ quyền để chịu hết thảy
các trách nhiệm về sự sinh hoạt và tính mệnh của toàn dân trong
nước. Cái đơn vị ấy gọi là đế hay là vương, được giữ cái chủ quyền
cả nước. Cái chủ quyền ấy người ta c̣n gọi là cái thần khí, nghĩa là
một vật thiêng liêng do trời cho, tức là dân thuận mới được giữ. Nói
rằng những người làm những điều gian ác bạo ngược mà cướp lấy chủ
quyền th́ sao ? Đó là sự tiếm đoạt chứ không phải là chính nghĩa.
Ngay những người đă làm đế làm vương mà lạm dụng chủ quyền để làm
những điều tàn bạo, th́ cũng chỉ là người tàn tặc mà thôi, chứ không
phải là thật bậc đế bậc vương nữa. [157]
Ta thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo cái nghĩa của các
nước Âu Tây ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học nho
giáo có nhiều chỗ khác nhau. 199 Triều đ́nh: Sở dĩ đời xưa quần
chúng công nhận một ông vua giữ cái chủ quyền cả nước, là muốn cho
có mối thống nhất để khỏi sự tranh dành và cuộc biến loạn. Song việc
trị nước là việc chung cả nước, cho nên có vua là phải có triều
đ́nh. Triều đ́nh không phải là một nhóm cận thần để hầu hạ và làm
việc riêng cho nhà vua, chính là một hội nghị chung cả nước, do sự
kén chọn những người xứng đáng bằng cách thi cử mà đặt ra. Cách thi
cử không phân biệt sang hèn giàu nghèo ǵ cả, miễn là ai có học, có
hạnh và có đũ tài năng th́ được ra ứng thí. Người nào đă đỗ rồi và
đă ra làm quan là người ấy có chân ở trong triều đ́nh.
Lệ nhà vua, mỗi tháng phải mấy lần thiết đại triều, các quan tại
kinh đều phải đến đủ mặt và theo phẩm trật mà đứng để tâu bày mọi
việc. Bởi v́ khi có việc ǵ quan trọng, th́ vua hạ đ́nh nghị, nghĩa
là giao cho đ́nh thần bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem ư
kiến của ḿnh mà tŕnh bày. Việc ǵ đă quyết định, đem dâng lên để
vua chuẩn y, rồi mới thi hành.
Vua tuy có quyền lớn thật, nhưng không được làm điều ǵ trái phép
thường. Khi vua có làm điều ǵ lầm lỗi, th́ các quan Giám Sát Ngự Sử
phải tâu bày mà can ngăn vua. Trừ những ông vua bạo ngược không kể,
thường là vua phải nghe lời can ngăn của các quan.
Hễ triều đ́nh có những người ngay chính và sáng suốt, th́ việc nước
được yên trị; nếu có những người gian nịnh mờ tối, th́ việc nước hư
hỏng. Đó là lệ chung từ xưa đến nay như vậy.
Quan tư: mệnh lệnh của triều đ́nh đă phát ra, th́ quan tư ở các
quận huyện phải theo mà thi hành. Các quan coi các quận huyện có
nhiệm vụ dạy dỗ dân, đừng để dân làm những điều trái luân thường đạo
lư hay những việc phản loạn. Ngoài ra quan phải để cho dân được yên
nghiệp làm ăn, không nên bày việc ra để nhiễu dân. Bởi vậy đời xưa
ông quan nào cai trị một hạt mà dân hạt ấy được yên trị là ông quan
giỏi.
Quyền Tự Trị của dân làng: Quan của triều đ́nh bổ ra chỉ có đến phủ
huyện, c̣n từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Dân tự
chọn lấy người của ḿnh mà cử ra coi mọi việc trong hạt. Tổng là một
khu gồm có mấy làng hay xă, có một cai tổng và một phó tổng do hội
đồng kỳ dịch các làng cử ra coi việc thuế khóa, đê điều và mọi việc
trị an trong tổng.
Làng hay xă là phần tử cốt yết của dân. Phong tục, lệ luật của làng
nào hay làng ấy, triều đ́nh không can thiệp đến, cho nên tục ngữ có
câu: "Phép vua thua lệ làng". Làng có hội đồng kỳ dịch do dân cử ra
để trông coi hết cả mọi việc. Hội đồng ấy có người tiên chỉ và thứ
chỉ đứng đầu, rồi có lư trưởng và phó lư do hội đồng kỳ dịch cử ra
để thay mặt làng mà giao thiệp với quan tư, có tuần đinh chuyên coi
việc cảnh sát trong làng. Khi một người nào can phạm việc ǵ th́
quan trách cứ ở làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc ǵ cũng phải
lấy làng làm gốc.
Ngày xưa các làng không có sổ khai sinh tử và giá thú, nhưng tục lệ
của làng, cứ con trai đến 12 tuổi th́ phải vào làng, tức là vào sổ
đinh của làng, con gái th́ không có lệ ấy. Lại v́ sự thờ cúng tổ
tiên và sự tin số, tướng, v.v... cho nên nhà nào đẻ con ra, bất kỳ
trai hay gái, cha mẹ phải nhớ cho đúng giờ, ngày tháng và năm sinh
của đứa con ấy. Bởi vậy người nào cũng biết rơ ngày tháng sinh của
con ḿnh.
Việc giá thú là việc quan hệ về gia tộc, phải làm đúng lệ thường,
nhưng đối với làng, th́ tục lệ bắt người chồng khi cưới vợ, phải
tŕnh làng và nộp cho làng một số mấy quan tiền, gọi là nộp tiền
cheo. Như thế, thành ra theo tục lệ, tuy không có sổ khai sinh tử
giá thú, mà mọi điều cũng đủ như là có vậy.
2. Bốn Hạng Dân.
Người trong nước chia ra làm bốn hạng là: sĩ, nông, công, thương.
Công: Công là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ ǵ để lấy
lợi. Nhưng v́ nước ta khi xưa chỉ có những tiểu công nghê, như quây
tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v.v.... chứ không
có đại công nghệ làm giàu như các nước khác. Đại công nghệ đă không
có th́ những người làm thợ, ai chuyên tập nghề ǵ th́ lập thành
phường, như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ gốm v.v.... mỗi
phường có thợ cả, thợ phó và thợ, và phường nào có tục lệ của phường
ấy. Những người làm thợ thường là người ít học, quanh năm ngày tháng
đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.
Thương: Thương là hạng người làm nghề buôn bán. Song việc buôn bán
của ta ngày xưa kém cỏi lắm. Người thiên hạ đi buôn nước này, bán
nước nọ, xuất cảng, nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể
hàng ức hàng triệu. Người ḿnh cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh
quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao
nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất. Thỉnh thoảng có một ít
người có mươi lăm chiếc thuyền mành chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia,
nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, th́ đă cho là hạng cự phú.
Công nghệ như thế, buôn bán như thế, bảo nước ḿnh phú cường làm
sao được? Rút cục lại, chỉ có nghề nông và nghề sĩ là trọng yếu hơn
cả. 200
Nông: Nông là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Dân Việt Nam ta
thường th́ ai cũng có ít ra là vài ba sào ruộng để cày cấy, nghĩa là
nghề làm ruộng là nghề gốc của người ḿnh. Nhưng trừ những nơi ruộng
nhiều người ít và đất lại ph́ nhiêu như đất ở Nam Việt, c̣n th́ đất
xấu và lại v́ khí hậu không điều ḥa, nắng mưa thất thường, việc cày
cấy gặp nhiều nỗi khó khăn. Dân ở nhà quê, phần nhiều ăn nhờ về
ruộng nương, hễ năm nào mưa ḥa gió thuận, mùa màng tốt th́ năm ấy
dân được no ấm, nhưng năm nào mưa lụt hay hạn hán, mùa màng mất hết,
th́ dân đói khổ.
Sĩ: Sĩ là hạng người chuyên nghề đi học, hoặc để thi đỗ ra làm
quan, hoặc để đi dạy học, làm thầy thuốc, thầy địa lư, thầy bói,
thầy tướng, thầy số v.v.... là những nghề phong lưu nhàn hạ.
Sự học của nước ta ngày trước có bộ Lễ coi việc giáo hóa của toàn
nước. Ở tỉnh có quan Đốc Học, ở phủ có quan Giáo Thụ, ở huyện và ở
châu th́ có quan Huấn Đạo, là những người có khoa mục, triều đ́nh bổ
ra coi việc giáo dục ở các hạt, và mỗi người coi một trường công ở
trong hạt. Những sĩ tử học ở các trường tư thục đă khá khá đều được
đến học tập ở các trường công của quan Đốc, quan Giáo hay quan Huấn,
đợi đến khi có khoa thi Hương, th́ ra ứng thí. Năm nào có khoa thi,
th́ các quan huấn đạo, giáo thụ và đốc học mở cuộc khảo học tṛ để
lựa chọ những người có đủ sức mới cho ra ứng thí.
Lệ nhà vua cứ ba năm mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những
người đỗ cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, những người đỗ thấp
gọi là Tú Tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những
người đỗ Cử Nhân năm trước vào ứng thí, ai trúng cách th́ được vào
thi Đ́nh ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến Sĩ, là những bậc
đại khoa, người trong nước rất lấy làm quư trọng.
Mỗi khi có khoa thi Hương, các quan ở kinh ra chấm thi có cái biển
đề bốn chữ: Phụng Chỉ Cầu Hiền, nghĩa là: vâng chỉ vua ra t́m người
giỏi. Vậy sự thi cử ngày trước có cái ư nghĩa khác sự thi cử ngày
nay.
Đó là nói cách tổ chức việc giáo hóa của triều đ́nh. C̣n ở chỗ dân
gian, th́ sự học tập rất tự do. Bất kỳ người nào có học lực kha khá
cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường
tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con
học và cho con các nhà lân cận đến học. Người Việt Nam ta vốn chuộng
sự học, cho nên người đi học cũng nhiều.
Nguyên sự học ngày xưa có cái mục đích chân chính là học cho hiểu
đạo lư, biết phải trái, và luyện tâm tính cho thành người có tiết
tháo và có phẩm cách cao quư, để gặp thời th́ ra giúp nước giúp dân,
nếu không, th́ làm người ngay chính trong xă hội. Sau dần dần v́ sự
sanh hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên về mặt cử nghiệp,
nghĩa là học chỉ cốt lấy đỗ để ra làm quan. Người đi học đă đỗ đạt
rồi, tự tin ḿnh là tài giỏi, chỉ vụ lấy cái hoa mỹ bề ngoài để ḷe
người, chứ không thiết ǵ đến sự thực học. Tựu trung cũng có người
muốn thi đỗ để lấy chút danh phận rồi về ở nhà học thêm hay dạy học.
Nhưng đại đa số chỉ mong đỗ để làm quan v́ làm quan là có địa vị tôn
quư, ngoài ra không có ǵ hơn nữa.
Chương tŕnh sự học cử nghiệp có những ǵ ? Bao nhiêu công phu của
người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ
Kinh cùng những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy và học
thêm mấy bộ sử nước Tàu. C̣n sự luyện tập hàng ngày, th́ cốt tập cho
thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi
phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ
làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đă nghĩ
ḿnh hơn người, ai tài thi phú đă tưởng ḿnh giỏi nghề trị nước.
Việc đời th́ tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ
như rơm rác, coi ḿnh như thần thánh.
Sự học của ḿnh đă hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí
năo, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được. May nhờ cái tinh
thần học cũ, người đi học, kiến thức tuy không có cái ǵ mấy, nhưng
thường có khí tiết, biết liêm sĩ và nhờ có cái thanh nghị của bọn sĩ
phu ràng buộc, ngăn ngừa sự hành động bấ chính. Song chỉ có thế mà
thôi, vẫn không đủ để sinh tồn trong cái thời đại quyền lợi cạnh
tranh, quyền mưu quỷ quyệt, trí thuật gian trá. Cho nên trong khi
người tiến th́ ta thoái, người thịnh th́ ta suy.
Đại khái, cái tŕnh độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế,
cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng
mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người
mà c̣n kém cơI như thế, th́ bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.
3. Sự Sinh Hoạt của người trong nước.
T́nh thế trong nước như đă nói trên, công nghệ không có, buôn bán
không ra ǵ, trừ việc cày cấy làm ruộng ra th́ người nghèo đói không
có nghề nghiệp ǵ mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một tiền được
bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, v́ rằng giá gạo th́ rẻ, nhưng
kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn khéo, th́
mới được một ngày một tiền, không th́ chỉ được 18 hay 30 đồng tiền
mà thôi. Sự làm ăn ở chỗ thôn quê đă vất vă mà lại thường bị nhiều
sự hà lạm, ai có đồng tiền ở trong nhà th́ lo sợ đủ mọi đường: nào
sợ 201 kẻ gian phi trộm cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp phá, cho
nên phải chôn phải giấu cho kín.
Nhà cửa phần nhiều là nhà tranh nhà lá, ít khi có nhà ngói nhà
gạch. Kiểu nhà làm cũng phải theo kiểu thường mà làm, chứ không được
làm nhà lầu và nhà kiểu chữ công hay kiểu chữ môn. Ai làm nhà cữa mà
không theo đúng phép, th́ cho là lộng hành, phải tội.
Cách ăn mặc th́ chỉ có đồ vải đồ nâu, người nghèo khổ chỉ có manh
áo cánh và thường th́ đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải
dài đến đầu gối. Người sung túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái
quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ không được mặc đồ gấm đồ vóc
và đi giày. Nhà vua cấm như thế, là cũng có ư muốn cho dân không
quen thói xa hoa hoang phí, chỉ trừ những người làm quan làm tư mới
có cái đặc ân được ăn mặc hơn người. Cũng v́ thế cho nên người trong
nước ai cũng mong được đi làm quan cho hiển đạt cái thân h́nh và cho
rỡ ràng mẹ cha, chứ không lo nghĩ làm việc ǵ khác nữa. Hễ ai đi học
mà v́ lẽ ǵ thi không đỗ, làm quan không được, th́ bức chí quay ra
làm giặc để t́m cách hiển vinh, thành ra trong nước hay có giặc giă.
Nước nghèo, dân khổ, lại phải lúc có nhiều tai biến, người ngoài
vào xâm lược, triều đ́nh ngơ ngác không biết xoay xở ra thế nào,
ḷng người ly tán, phân ra bè nọ đảng kia, giết hại lẫn nhau. Ấy là
cái t́nh thế nước Việt Nam ta và cuối đời Tự Đức là thế, cho nên sự
nguy vong mới xảy ra vậy.
CHƯƠNG VII
Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ
1. Nước Pháp đánh Đà Nẵng. 2. Quân Pháp hạ thành Gia Định. 3. Mất
tỉnh Định Tường. 4. Mất tỉnh Biên Ḥa và tỉnh Vĩnh Long 5. Ḥa ước
năm nhâm tuất (1862) 6. Sứ Việt Nam ta sang Tây 7. Việc bảo hộ Cao
Miên 8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía tây đất Nam Kỳ
1. Quân Pháp Đánh Đà Nẵng.
Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư
khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta
vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hóa dân trí, lại v́ sự
sùng tín mà đem giết hại người trong nước, và đem làm tội những
người đi giảng đạo. Bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới
dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại.
Nguyên từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là
từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy người giáo sĩ
là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám mục I Pha
Nho tên là Diaz bị giết. C̣n những giáo sĩ khác th́ phải đào hầm đào
hố mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo.
Những tin ấy về đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm
trạng của các người giáo sĩ đi truyền đạo ở nước ta, ḷng người náo
động cả lên.
Chính phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc
chiến thuyền "Catinat" vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên
trách Triều Đ́nh Việt Nam về việc giết đạo. Sau thấy quan ta lôi
thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn lũy ở Đà
Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm bính th́n (1856) là năm Tự
Đức thứ 9.
Được 4 tháng sau th́ sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm
La sang, để điều đ́nh mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào
đóng ở cửa Đà nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho người nước
Pháp 202 được tự do vào thông thương, đặt lĩnh sự ở Huế, mở cửa hàng
buôn bán ở Đà Nẵng, và cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Trong
bấy nhiêu điều, triều đ́nh nước ta không chịu điều nào cả.
Bấy giờ bên nước Pháp đă lập lại đế hiệu, cháu ông Nă Phá Luân đệ
nhất là Nă Phá Luân đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc bấy giờ th́
thuận đạo, lại có bà hoàng hậu Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi
chiếc tàu "Catinat" vào cửa Đà nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn
được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp Hoàng, kể rơ t́nh cảnh các người
giảng đạo ở Việt Nam.
Ông P. Cultru chép ở trong sách Nam Kỳ Sử Kư (Histore de la
Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền thế như ông chủ
giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà hoàng hậu cũng
có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới quyết
ư sai quan đem binh thuyền sang đánh nước ta. Lại nhân v́ những giáo
sĩ nước I Pha Nho cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng
nhau trù tính việc sang đánh nước Việt Nam. Ấy cũng tại v́ vua quan
ḿnh làm điều trái đạo, giết hại những người theo đạo Gia Tô cho nên
mới có tai biến như vậy.
Tháng 7 năm mậu ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, hải quân Trung
Tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I Pha
Nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà
nẵng, bắn phá các đồn lũy, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải.
Triều đ́nh được tin ấy liền sai ông Đào Trí ra cùng với quan tổng
đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi th́ hai
cái hải thành đă mất rồi. Triều đ́nh lại sai quan hữu quân Lê Đ́nh
Lư làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.
Ông Lê Đ́nh Lư vào đánh với quân Pháp một trận ở xă Cẩm Lệ bị đạn,
về được mấy hôm th́ mất.
Vua Dực Tông lại sai quan Kinh Lược Sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào
làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng với ông Đào Trí
chống giữ với quân Pháp và quân I Pha Nho.
Ông Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Tŕ và đắp lũy dài từ Hải Châu
cho đến Phúc Ninh, rồi chia quân ra pḥng giữ. Cứ như sách Nam Kỳ Sử
của ông Cultru th́ ư quan trung tướng Rigault de Genouilly định lấy
Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huê, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan
quân pḥng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho trung tướng
biết rằng có hơn 10.000 quân ở Huế sắp kéo xuống. Trung tướng không
biết rơ t́nh thế ra làm sao, mà đường xá lại không thuộc, cho nên
cũng không dám tiến quân lên.
Nhân v́ khi trước các giáo sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh,
th́ dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin
tức ǵ, mà quân lính của trung tướng th́ tiến lên không được. Ở Đà
Nẵng th́ chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch tả chết hại mất
nhiều người, bởi vậy trung tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông
giám mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, trung tướng
cứ trách ông giám mục đánh lừa ḿnh, giám mục cũng tức giận bỏ về ở
nhà tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mă Lai.
Được mấy tháng, trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định
kế vào đánh Gia Định là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù phú
của nước Nam ta.
2. Quân Pháp vào đánh Gia Định.
Trước đó đă có người bàn với trung tướng Rigault de Genouilly ra
đánh Bắc Kỳ, nói rằng ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có
đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung
tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất
giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm kỷ mùi (1859) là năm Tự
Đức tháng 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ
các đồn tại Đà Nẵng, rồi c̣n bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam Kỳ.
Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông
Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.
Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không
luyện tập, việc vơ bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần
Giờ tiến lên, quan hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy
binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày th́ thành vỡ. Vũ Duy Ninh
tự tận. Quân nước Pháp và nước I Pha Nho vào thành, lấy được 200
khẩu súng đại bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và độ chừng 18 vạn
phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, c̣n các binh khí và thóc gạo th́
không biết bao nhiêu mà kể.
Trung tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia Định rồi, đốt
cả thóc gạo và san phẳng thành tŕ làm b́nh địa, chỉ để một cái đồn
ở phía nam, sai thủy quân trung tá Jauréguiberry đem một đạo quân ở
lại chống giữ với quân của ông Tôn Thất Hợp đóng ở đất Biên Ḥa.
Trung tướng lại đem quân trở ra Đà Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận
ở đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn
Nại Hiên và đồn Liên Tŕ. 203
Trung tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng ḥa, nhưng mà Triều
đ́nh cứ để lôi thôi măi, người th́ bàn ḥa, kẻ th́ bàn đánh, thành
ra không xong việc ǵ cả 158 . Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà Nẵng
khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật; trung tướng Rigault de
Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.
Chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Page (Ba-du) sang thay cho
trung tướng Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giảng ḥa
cho xong. Đến tháng 10 năm kỷ mùi (1859) th́ thiếu tướng sang đến
nơi, và cho người đưa thư bàn việc ḥa, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để
cho các giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn
bán ở các cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để th́ cũng như những
điều của ông Montigny đă bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ
ở trong Triều không ai hiểu chính sách ngoại giao mà chủ trương việc
ấy, hóa ra làm mất cái dịp hay cả cho hai nước.
Thiếu tướng thấy cuộc ḥa không xong bèn tiến binh lên đánh, trận
ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung tá là Dupré
Déroulède.
Khi quân Pháp và quân I Pha Nho sang đánh nước ta ở Đà Nẵng và Gia
Định, th́ quân nước Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn
Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên Tàu, chính
phủ nước Pháp mới truyền cho thiếu tướng Page phải rút quân ở Đà
Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, c̣n bao nhiêu binh thuyền
phải đem sang theo hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy
đến tháng ba năm canh thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà
Sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia Định, thiếu tướng Page để hải quân đại
tá d'Ariès ở lại giữ Gia Định, c̣n bao nhiêu binh thuyền đem lên
phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh để đánh nước Tàu.
Triều đ́nh ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri
Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam Kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung
Gia Định quân thứ.
Đến tháng 7 năm canh thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành.
Lúc gần đi, ông ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng
việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gắp năm gấp bảy lúc trước,
[158]
Chỗ này sách tây có quyển chép rằng khi hai bên đang bàn việc ḥa,
th́ vua Tự Đức sai ông Nguyễn Tri Phương đánh quân Pháp ở Gia Định.
Vả xem sử ta lúc bấy giờ th́ ông Nguyễn Tri Phương đang c̣n ở Quảng
Nam măI đến tháng 5 năm canh thân (1860), ông ấy mới vào Nam Kỳ. Vậy
việc đánh ở Gia Định là ông Tôn Thất Hợp, chứ không phải là ông
Nguyễn Tri Phương. nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, c̣n ở
mặt Quảng Nam mà có việc ǵ, th́ ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn
Bá Nghi có thể cáng đáng được.
Quân Pháp và quân I Pha Nho ở Sài g̣n lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000
người mà quân của Việt Nam ta th́ có đến hơn một vạn người. Nhưng mà
quân ta đă không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Ḿnh
chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300
thước tây là cùng; c̣n súng đại bác th́ toàn là súng nạp tiền mà bắn
mười phát không đậu một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy
mà đối địch với quân đă lập theo lối mới, th́ đánh làm sao được. Bởi
vậy cho nên xem trận đồ của Việt Nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có
cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ có thế công,
mà người Tây th́ lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy ông Nguyễn Tri Phương
cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định
một cách rất có quy cũ, đắp dăy đồn Kỳ Ḥa (người Pháp gọi là dăy
đồn Chí Hóa) cũng hợp quy thức, để chống nhau với quân của đại tá
d'Ariès. Hai bên đă từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.
Đến tháng 9 năm canh thân (1860), th́ nhà Thanh bên Tàu kư tờ ḥa
ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên băi sự chiến tranh. Chính phủ
nước Pháp sai hải quân trung tướng Charner đem binh thuyền về chủ
trương việc lấy Nam Kỳ.
Tháng giêng năm tân dậu (1861) trung tướng Charner đem cả thảy 70
chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia Định 159 . Được 20 ngày th́
trung tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ Ḥa. Hai bên
đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng
mà súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thu bỏ đồn
chạy về Biên Ḥa.
Trận ấy bên Tây th́ có lục quân thiếu tướng Vassoigne, đại tá I Pha
Nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà bên ta th́ ông Nguyễn Tri
Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan tham tán là
Phạm Thế Hiển về đến Biên Ḥa được mấy hôm th́ mất, c̣n quân sĩ th́
chết hại rất nhiều.
3. Mất Tỉnh Định Tường.
Phá được đồn Kỳ Ḥa rồi, trung tướng Charner truyền cho quân thủy
bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả. [159]
Sử ta chép rằng quân Pháp lúc bấy giờ có hơn 1 vạn người, mà các
sách chép việc lấy Nam Kỳ th́ chỉ nói có 3.500 người thôi và trong
số ấy lại có mấy đội lính mộ An Nam nữa. Thiết tưởng số 3.500 có lẽ
thật hơn. 204 Tàu thủy của Pháp lên lấy Thủ Dầu Một và Tây Ninh.
Trung tướng lại sai người đưa thư sang cho vua Cao Miên là Norodom
(Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ư của Pháp định lấy đất Gia
Định làm thuộc địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ Tho (Định Tường) để
cho tiện đường lưu thông với nước Cao Miên.
Bấy giờ bại quân của Nguyễn Tri Phương rút về đóng ở Biên Ḥa, c̣n
đang rối loạn, chưa dám làm ǵ, quân Pháp bèn quay về phía tây đánh
tỉnh Định Tường. Trước trung tướng đă cho tàu đi ḍ các ngọn sông
xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm tân dậu (1861), một mặt
trung tướng sai trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên
đánh các đồn, một mặt th́ sai thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa
sông Mê-kong vào, hai mặt cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ tho. Quan
hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn phải bỏ thành chạy.
Từ khi hạ xong thành Mỹ Tho rồi, trung tướng đặt đồn lũy ở các nơi
hiểm yếu, và có ư hoăn việc binh để sửa sang việc cai trị trong địa
hạt đă lấy được, cho nên cũng không đánh các tỉnh khác.
Triều đ́nh ở Huế được tin quan quân thất thủ đại đồn Kỳ Ḥa, và
thành Mỹ Tho cũng thất thủ rồi, sai quan thượng thư Hộ bộ là Nguyễn
Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lư việc Nam kỳ. Nguyễn Bá
Nghi biết thế chống không nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng
ḥa. Nhưng ở trong triều lúc bấy giờ có bọn Trương Đăng Quế không
chịu, bắt phải t́m kế chống giữ.
Có nhà chép sử trách Nguyễn Bá Nghi rằng tuy ông ấy muốn giảng ḥa,
nhưng không chịu nhường đất, cứ lấy lư mà căi, chứ không biết rằng
thời buổi cạnh tranh này, hễ cái sức đă không đủ, th́ không có cái
lư ǵ là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đă sang đánh lấy mấy tỉnh
ở Nam Kỳ, là cốt để làm thuộc địa, lẽ nào tự nhiên lại đem trả lại.
Bởi vậy sự giảng ḥa cứ lôi thôi măi không xong. Mà ở trong địa hạt
tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường lúc ấy lại có mấy người như tri
huyện Toại, phó quản cơ Trương Định, Thiên hộ Dương rủ những người
nghĩa dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp cứ đánh dẹp măi dân
t́nh cũng bị lắm điều cực khổ.
Đến tháng 10 năm tân dậu (1861), chính phủ Pháp sai hải quân thiếu
tướng Bonard sang thay cho trung tướng Charner về nghỉ.
4. Mất Tỉnh Biên Ḥa và Tỉnh Vĩnh Long.
Thiếu tướng Bonard thấy quan quân ta cứ chống giữ măi, bèn quyết ư
đánh lấy tỉnh Biên Ḥa và tỉnh Vĩnh Long. Đến tháng 11 năm ấy, th́
quân Pháp chia ra làm 3 đạo, cùng tiến lên đánh lấy thành Biên Ḥa,
rồi lại tiến lên mặt đông nam đánh lấy đồn Bà Rịa. Qua tháng 3 năm
sau là năm nhâm tuất (1862), thiếu tướng Bonard lại đem 11 chiếc tàu
và hơn 1.000 quân đi đánh Vĩnh Long. Tỉnh thần ở đấy chống giữ được
2 ngày th́ thành phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân lui về
phía tây sông Mê-kong.
5. Ḥa Ước Năm Nhâm Tuất (1862).
Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt
Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có Nguyễn Văn Thịnh, tục gọi là
Cai Tổng Vàng, quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ th́ lại mất
thêm hai tỉnh nữa. Triều đ́nh lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan Thanh
Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng ḥa.
Đến tháng 4 th́ sứ thần nước ta theo chiếc tàu Forbin 160
vào Sài g̣n. Đến hôm 9 tháng 5 th́ thiếu tướng Bonard và sứ thần
nước Nam ta là ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp kư tờ ḥa
ước.
Tờ ḥa ước ấy có 12 khoản, nhưng cốt có những khoản sau này là quan
trọng hơn cả: 1. Nước Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I
Pha Nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do theo
Đạo. 2. Nước Nam phải nhường đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Ḥa, tỉnh
Gia Định và tỉnh Định Tường, và phải để cho chiến thuyền của Pháp
được ra vào tự do ở sông Mékong. 3. Nước Nam không được đem binh
khí, thuốc đạn đi qua những tỉnh đă nhường cho nước Pháp. 4. Hễ nước
Nam có giao thiệp với nước nào khác th́ phải cho chính phủ Pháp
biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào, th́ phải tùy ư nước
Pháp có thuận cho mới được. 5. Người nước Pháp và nước I Pha Nho
được ra vào buôn bán tự do ở cửa Đà Nẵng, cửa Ba Lạt và cửa bể ở
Quảng Yên. 6. Nước Nam phải trả tiền binh phí 4.000.000 nguyên, chia
làm mười năm, mỗi năm 40 vạn nguyên. 7. Nước Pháp trả tỉnh Vĩnh Long
lại cho nước Nam, nhưng quân Pháp cứ đóng ở tỉnh lỵ cho đến khi dẹp
yên giặc giă ở tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường th́ mới rút về.
[160]
Nguyên trước thiếu tướng Bonard có sai trung tá Simon đem chiếc tàu
Forbin vào cửa Thuận An để đợi xem triều đ́nh ở Huế có xin ḥa
không. Nay chiếc tàu ấy đem thuyền của sứ thần Việt Nam ta về Gia
Định. 205 Sự giảng ḥa xong rồi th́ triều đ́nh sai ông Phan Thanh
Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, ông Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh
Thuận, để giao thiệp với quan nước Pháp ở Gia Định.
Bấy giờ nước I Pha Nho cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa cho
nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng
đạo thôi.
Tháng 2 năm quư hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, thiếu tướng Bonard
và đại tá nước I Pha Nho là Palanca vào Huế triều yết vua Dực Tông
để công nhận sự giảng ḥa của ba nước. Đoạn rồi thiếu tướng Bonard
về Pháp nghĩ. Hải quân thiếu tướng De la Grandière sang thay.
6. Sứ
Việt Nam Sang Tây.
Vua Dực
Tông tuy thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước
Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, v́ là đất
Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại
của ngài, nên chi ḥa ước đă kư rồi, mà ngài vẫ sai quan thương nghị
với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ư người nước Pháp lúc bấy giờ
th́ không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại c̣n định mở rộng
thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho ḿnh?
Vua Dực
Tông thấy việc bên này bàn không xong, bèn sai quan hiệp biện đại
học sĩ Phan Thanh Giản, quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ và quan
án sát sứ tỉnh Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đem phẩm vật sang sứ nước
Pháp và I Pha Nho. C̣n việc giao thiệp ở trong Nam Kỳ th́ giao lại
cho quan tổng đốc tỉnh Vĩnh Long là Trương Văn Uyển.
Tháng 6,
các sứ thần xuống tàu "Echo" vào Gia Định, rồi sang tàu "Européen"
cùng với quan nước Pháp và quan nước I Pha Nho sang Tây. Đến tháng 8
th́ tàu "Européen" về tới nước Pháp, sứ thần nước ta lên Paris, xin
vào triều yết Pháp Hoàng Nă Phá Luân đệ tam. Nhưng bấy giờ Pháp
Hoàng sắp đi ngự mát, sứ thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng
mới được yết kiến. Ông Phan Thanh Giản tây bày mọi lẽ về việc xin
chuộc ba tỉnh Nam Kỳ. Pháp Hoàng ban rằng việc đó để đ́nh nghị xem
thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều Đ́nh Huế.
Mấy hôm
sau, bọn ông Phan Thanh Giản đi sang I Pha Nho, rồi đến cuối năm th́
các sứ thần xuống tàu "Japon" trở về.
7. Việc
Bảo Hộ Cao Miên.
Trong khi
sứ nước ta sang Tây lo việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam Kỳ, th́ ở bên
này thiếu tướng De La Grandière một mặt cứ đánh dẹp mọi nơi, xếp đặt
cách cai trị, định thuế lệ và mở trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ
161 , một mặt sai quan đi kinh doanh việc bảo hộ nước Cao Miên (Chân
Lạp).
Nguyền từ
năm kỷ mùi (1859), vua nước Cao Miên là An Dương (tức là Nặc Ông
Tôn) mất rồi, người con trưởng tên là Norodom (Ông Lân) lên nối
ngôi. Đến năm tân dậu (1861), th́ người em Norodom là Si-Vattha nổi
lên tranh ngôi của anh. Norodom phải chạy sang Tiêm La. Sang năm
nhâm tuất (1862) vua Tiêm La sai quân đem Norodom về nước, rồi đặt
quan ở Ô- đông để bảo hộ Cao Miên.
Lúc bấy
giờ ở Cao Miên có ông giám mục tên là Miche khuyên vua Norodom về
với nước Pháp th́ Tiêm La không dám bắt nạt. Bên này thiếu tướng De
La Grandière cũng sai đại úy Doudart de Lagrée sang kinh doanh việc
bảo hộ Cao Miên. Ông Doudart de Lagrée sang Cao Miên trong một năm
trời thu xếp mọi việc, đến năm giáp tí (1864) th́ nước Tiêm La phải
rút quân về, nhường quyền bảo hộ cho nước Pháp.
8. Nước
Pháp Lấy Ba Tỉnh Phía Tây Đất Nam Kỳ.
Ở bên
Pháp lúc bấy giờ chính phủ cũng c̣n phân vân, chưa quyết hẳn lấy hay
là trả đất Nam Kỳ, mà Pháp Hoàng th́ thấy đường xá xa xôi cũng ngại,
bèn sai hải quân trung tá Aubaret (Ha-ba-lư) sang điều đ́nh với
Triều đ́nh ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam Kỳ.
Vua Dực
Tông lại sai quan Lại Bộ thượng thư là ông Phan Thanh Giản ra sung
chức toàn quyền cùng với Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vịnh để thương
nghị với sứ thần nước Pháp.
Ông
Aubaret đưa bản thảo tờ ḥa ước, đại lược nói rằng: Nước Pháp trả
lại ba tỉnh Gia Định, Biên Ḥa và Định Tường cho nước Nam, chỉ giữ
Sàig̣n, Mỹ Tho và Thủ Dầu Một để đóng quân. Nhưng nước Nam phải để
nước Pháp được quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Nước Nam lại phải chịu
mỗi năm là 2.000.000 nguyên tiền thuế. [161]
Nguyên
người nuớc ta tự xưa tuy có tiếng nói riêng mà không có chữ viết.
Học hành, văn chương, án từ, việc ǵ cũng làm bằng Hán tự cả. Từ đời
nhà Trần về sau đă có người dùng Hán Tự mà đặt ra chữ Nôm để viết
tiếng Quốc Ngữ. Nhưng mà những nhà văn học không hay dùng đến chữ
nôm. Đến cuối đời nhà Lê có các giáo sĩ Bồ Đào Nha sang giảng đạo ở
nước ta, thấy hán tự khó học và không mấy người hiểu, mới mượn chữ
La Tinh mà đặt ra chữ quốc ngữ, để cho tiện sự giảng dạy. Ngày nay
ta cũng nhờ có chữ quốc ngữ ấy mà làm thành ra nước ta có một lối
chữ riêng rất tiện. 206
Sứ hai
nước cứ bàn đi bàn lại măi không xon, mà ở bên Pháp th́ có nhiều
người không muốn trả lại đất Nam Kỳ. Cuối năm giáp tí (1864) quan
thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu
với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp
Hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ ḥa ước năm nhâm
tuất (1862) mà thi hành.
Năm ất
sửu (1865), quan thượng thư De Chasseloup Laubat muốn biết rơ t́nh
thế bên Việt Nam này, bèn gọi thiếu tướng De La Grandière về hội
nghị và sai hải quân thiếu tướng Roze sang thay. Thiếu tướng De la
Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh lư
việc Nam Kỳ.
Lúc bấy
giờ ở ba tỉnh của Pháp đă thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière
ở Pháp sang đă quyết ư lấy nốt ba tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi
trước nước Pháp sang lấy Nam Kỳ, người bản xứ thỉnh thoảng vẫn nổi
lên đánh phá, quân Pháp dẹp măi không yên. Ở Cao Miên lại có tên sư
Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc Ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom.
Súy phủ ở Sài g̣n đổ cho quan Việt Nam xui giục và giúp đỡ những
người làm loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang
và tỉnh Hà Tiên.
Ở Huế tuy
triều đ́nh c̣n cứ mong chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng vẫn biết ư súy
phủ ở Sài g̣n rồi tất lấy cả ba tỉnh phía tây, cho nên năm bính dần
(1866), lại sai ông Phan Thanh Giản vào làm kinh lược sứ để t́m kế
chống giữ.
Ở bên
Pháp, th́ từ năm đinh măo (1867), hải quân trung tướng Rigault de
Genouilly lên làm thượng thư hải quân bộ 162
ra sức giúp thiếu tướng De la Grandière cho xong việc. Bởi vậy súy
phủ ở Sài g̣n chỉ đợi dịp để khởi sự.
Tháng 6 năm đinh măo (1867) là năm Tự Đức thứ 20, thiếu tướng De la
Grandière hội hơn 1.000 quân ở Mỹ Tho, rồi định ngày kéo sang lấy
Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế không
chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành tŕ cho khỏi sự tai hại,
rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày ruộng mà
ăn, chứ không được nhận quan chức ǵ ở Nam Kỳ.
Bấy giờ ông đă già, đă ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm,
nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế ḿnh không làm
ǵ [162]
Lúc bấy giờ Hải quân bộ kiêm cả Thuộc địa bộ được, đem tấm ḷng son
sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi.
Từ đó đất Nam kỳ toàn cảnh thành ra đất thuộc địa của Pháp, thuế
má, luật lệ, điều ǵ cũng do súy phủ ở Sài g̣n quyết định cả.
CHƯƠNG VIII
Giặc giă ở trong nước
1. Việc rối-loạn trong nước
2. Giặc Tam-đường
3. Giặc châu-chấu
4. Giặc tên Phụng
5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ
1. Việc rối-loạn trong nước.
Vua Dực-tông vốn là ông vua có ḷng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay
từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đă sai ông Nguyễn
Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản
làm Kinh-lược đại-sứ B́nh-định, Phú-yên, Khánh- ḥa và B́nh-thuận;
Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An và
Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm
ăn của dân gian, có điều ǵ hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
Tuy vậy mặc ḷng, không có đời nào lắm giặc giă bằng đời ngài làm
vua. Chỉ được vài ba năm đầu th́ c̣n có hơi yên trị, c̣n từ năm tân
hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, th́ càng ngày càng nhiều
giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi v́ đất
Bắc-kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân t́nh cũng có nhiều người tưởng nhớ
đến tiền triều, nên chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là
gịng dơi nhà Lê, hoặc t́m một người nào giả nhận ḍng dơi nhà Lê,
rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.
Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh nhà
Thanh, đến khi giặc ấy tan th́ dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp
phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải
đi đánh dẹp luôn. ở trong nước th́ thỉnh thoảng lại có tai biến, như
nước lụt, đê vỡ, v. v. Ở Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả
huyện Văn-giang thành băi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề
nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.
2. Giặc Tam-đường.
Năm Tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng
nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức thắng đường, v. v... tục gọi là
giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái-nguyên, vua sai ông Nguyễn
đăng Giai ra kinh lược Bắc-kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được
chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến
cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất,
đất Bắc-kỳ lại có loạn.
3. Giặc châu-chấu.
Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy
Cự là ḍng dơi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà
Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao bá Quát, người làng Phú- thụy, huyện
Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức
giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn tây). Cao bá Quát có tiếng là người văn-
học giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ
quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở
vùng Sơn-tây và Hà-nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh-binh tỉnh
Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về chém tại
làng.
Nhân v́ mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều
châu-chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc
ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu-chấu.
Cao bá Quát chết đi rồi, Lê duy Cự c̣n quấy rối đến mấy năm sau mới
dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc,
nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn
Thượng- du.
4. Giặc tên Phụng.
Năm tân dậu (1861), quân nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh
Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có
tên Tạ văn Phụng, trước đă theo giáo-sĩ ra ngoại-quốc đi học đạo,
sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng-nam.
Đến tháng chạp th́ tên Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh
ḍng dơi nhà Lê, rồi tự xưng là minh-chủ, cùng với một người
đạo-trưởng tên là Trường làm mưu-chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở
Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh
lấy phủ Hải- ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các
tỉnh, để làm loạn ở Bắc-Kỳ.
Tháng ba năm nhâm-tuất (1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn
văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên-súy, lập tên
Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ, rồi nhập đảng với
tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, và vây
thành Bắc-ninh.
Bấy giờ quan bố chính ở Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố- chính
tỉnh Sơn-tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo
đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với
quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.
Phía đông th́ tên Phụng vây thành Hải-dương, tỉnh-thần dâng sớ
cáo-cấp. Triều đ́nh bèn sai quan Thượng-thư bộ H́nh là Trương quốc
Dụng ra làm tổng-thống Hải-an 163 quân-vụ, cùng với Phan tam Tỉnh,
Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra tiến-tiễu.
Lại sai Đào Trí làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi làm
Sơn-Hưng-Tuyên 164 tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc
ở Bắc-kỳ.
Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên th́ có giặc Nông và giặc Khách đánh phá,
tỉnh Tuyên Quang th́ có bọn tên Uẩn, tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu,
tỉnh Cao-bằng th́ bị tên Giặc Khách Lư hợp Thắng vây đánh, tỉnh
Bắc-ninh th́ có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả lên.
Vua Dực-tông sai Nguyễn tri Phương ra làm tây-bắc-tổng-thống quân-vụ
đại-thần, cùng với Phan đ́nh Tuyển và Tôn thất Tuệ ra đánh mặt
Bắc-ninh, Thái-nguyên và Tuyên-quang.
Tháng 3 năm quí-hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên-quang và
bắt được tên Uẩn đóng củi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri
Phương dẹp xong giặc ở Bắc-ninh, rồi đem binh lấy lại thành
Thái-nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá được
sào huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu Bạch-thông.
C̣n ở mặt Hải-dương và Quảng-yên, th́ tuy Trương quốc Dụng và Đào
Trí đă giải được vây cho thành hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt
bể c̣n mạnh lắm. Vua Dực-tông lại sai Nguyễn tri Phương làm
tổng-thống hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm hiệp-thống đem quân
ra đánh mặt ấy.
Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu-
tướng Bonard ở trong Nam-kỳ, ước hễ lấy được Bắc-kỳ th́ xin để nước
Pháp bảo-hộ. Nhưng v́ trong Nam-kỳ c̣n lắm việc, mà sự giảng ḥa với
Triều- đ́nh ở Huế đă sắp xong, cho nên thiếu-tướng không nhận. Đảng
tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể, để
làm sào huyệt,
Cuối năm quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500
chiếc thuyền ở đảo Các-bà và ở núi Đồ-sơn, có ư muốn đem quân vào
đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng may phải băo, thuyền đắm mất nhiều.
Quan đề-đốc là Lê quang Tiến và quan bộ-phủ Bùi huy Phan được tin ấy
liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê
quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.
Đến tháng 6 năm giáp-tí (1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp-
thống Trương quốc Dụng, quan tán-lư Văn đức Khuê, quan tán-tương
Trần huy Sách và quan chưởng-vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất
Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt
hại rất nhiều.
Tháng 4 năm ất-sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra
làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn
VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan
đề-đốc Mai Thiện quan tán-lư Đặng trần Chuyên, quan đốc-binh Ông ích
Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về giữ mặt
Hải-ninh.
Tháng 7 năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích
Khiêm đem binh ra Quảng-yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm-châu để
đánh lấy lại thành Hải-ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc
thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên
Phụng, tên Ước th́ chạy vào mạn Quảng-b́nh, Quảng-trị, c̣n những đồ
đảng, đứa th́ phải bắt, đưa th́ chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên
Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.
Giặc Phụng khởi từ cuối năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu
(1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều.
Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp gần xong, th́ ở mạn Cao-bằng đă có
giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Vơ trọng B́nh và quan
tuần-phủ Phạm chi Hương đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh
các nơi, từ tháng 9 năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần
(1866), th́ tướng giặc là Trương cận Bang mới xin về hàng, và mới
thu phục lại được thành Cao-bằng.
Nguyễn tri Phương và Vơ trọng B́nh về Kinh coi việc triều-chính.
5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành.
Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, th́ Kinh-đô lại có việc làm cho
náo động ḷng người.
Nguyên vua Dực-tông là con thứ mà được nối ngôi, là v́ người anh
ngài là Hồng Bảo phóng đăng, không chịu học hành cho nên không được
lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn đồ-mưu với một nước ngoại
quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi
uống thuốc độc mà chết. C̣n con ông th́ được tha mà phải đổi tên là
Đinh Đạo
Đến năm bính dần (1866) là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây
Vạn-niên-cơ tức là Khiêm-lăng bây giờ, quân-sĩ phải làm lụng khổ sở,
có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là
Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn Trương trọng Ḥa, Phạm Lương kết
làm " Sơn- đông-thi-tửu-hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua.
Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn-niên-cơ và cùng
với qua hữu-quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.
Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch,
chực xông vào điện giết vua Dực-tông. May nhờ có quan chưởng-vệ là
Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực
và cả bọn đồng đảng.
Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn thất Cúc th́ tự vẫn chết, c̣n các quan
có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.
Lúc ấy ngoài th́ có giặc cướp phá, trong th́ có nghịch-thần làm
loạn. Ở mặt Quảng-nghĩa lại có giặc mọi Đá-vách cứ hay xuống quấy
nhiễu dân- gian, may nhờ có quan tiểu-phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp
mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó. Ở
Bắc-kỳ th́ có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh
không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đ́nh cũng bối rối
không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ.
Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài th́ đánh nhau với nước
Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều đ́nh phải bỏ Kinh-đô mà
chạy; trong th́ có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua
nhà Thanh cũng đổ nát.
Nguyên từ năm Đạo-quang thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta
năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng-tây có tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương
tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lư tú Thành, nổi lên xưng là Thái-b́nh
thiên-quốc, rồi chiếm cứ đất Kim-lăng và các tỉnh phía nam sông
Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lư hồng
Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho
đến năm Đồng-trị thứ hai là năm quí-hợi (1863) tức là bên ta năm
Tự-đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái-b́nh, Hồng
tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đ́nh nhà Thanh lại thu phục
được các tỉnh phía nam nước Tàu.
Lúc ấy có dư đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang
nước ta, trước c̣n nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các
tỉnh, quan quân đánh măi không được. Năm mậu-th́n (1868) là năm
Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đ́nh sai
quan tổng-đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin
quân Tàu sang tiểu-trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí đem quân
sang cùng với quan tiểu-phủ Ông ích Khiêm và quan đề-đốc Nguyễn viết
Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm
ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn, quan tham-tán Nguyễn Lệ, quan phó
đề-đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan thống-đốc Phạm chi Hương bị
bắt.
Triều-đ́nh sai Vơ trọng B́nh ra làm Hà-ninh tổng-đốc kiêm chức
Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ khâm-sai đại-thần, để hội với quan đề-đốc
tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài mà đánh giặc Ngô Côn.
Quân hai nước cùng đồng sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869)
th́ mới khôi phục lại được tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh-
ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh-thành Bắc-ninh, quan
tiểu- phủ Ông ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan
quân giặc.
Ngô Côn tuy chết, song c̣n có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu
cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi,
hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên,
quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả. Triều-đ́nh sai quan
trung-quân Đoàn Thọ ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.
Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh-thành Lạng-sơn, bọn
giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết
đi, c̣n Vơ trọng B́nh th́ vượt thành chạy thoát được.
Tin ấy vào đến Huế, Triều-đ́nh vội vàng sai Hoàng kế Viêm 165 ra
làm Lạng-B́nh-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại thần, cùng với quan
tán-tương Tôn thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua tháng tư năm sau
(1871), nhà vua lại sai quan H́nh-bộ thượng-thư là Lê Tuấn làm chức
Khâm-sai thị-sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.
Tháng 11 năm tân-mùi (1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng Tề nổi
lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh
thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn-tây, Lê Tuấn
ra cùng với tỉnh thần Hải-dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít
lâu, quân thứ-tỉnh Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm,
dư-đảng giặc ấy đều tan cả. Ở mạn thượng-du th́ đảng cờ đen là bọn
Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy-nhiễu ở đất
Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng
ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn-hại, đảng cờ đen về
hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho đất ở Lao-kay,
được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng
ở mạn Hà-giang.
Đất Bắc-kỳ cứ giặc-giă măi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà
không yên được. Đến tháng 7 năm nhâm-thân (1872), Triều-đ́nh lại sai
Nguyễn tri Phương làm Tuyên-sát đổng-sức đại-thần ra thay mặt vua
xem- xét việc đánh giặc ở Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở
trong nước chưa xong, th́ sự giao-thiệp với nước Pháp đă sinh ra lắm
nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.
Chương IX
Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần
Thứ I
1. Người Pháp t́m đường sang Tàu
2. Đồ-phổ-Nghĩa
3. Đại-úy Francis Garnier ra Hà-nội
4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873)
5. Lấy
mấy tỉnh ở Trung-châu
6. Đại-úy
Francis Garnier chết
7. Ông
Philastre ra Hà-nội
8.
Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874)
1. Người
Pháp t́m đường sang Tàu.
Từ khi
nước Pháp lấy xong đất Nam-kỳ rồi, Súy-phủ ở Sài-g̣n sửa-sang mọi
việc, và cho người đi xem xét t́nh thế và sông núi ở Trung-kỳ và
Bắc-kỳ để mở mang sự giao- thông. Lại có ư muốn t́m đường thông sang
nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm bính-dần (1866), thiếu-tướng De la
Grandière sai trung-tá Doudart de Lagrée cùng với đại-úy Francis
Garnier (Ngạc-nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông Mékong đi t́m
đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm mậu-th́n (1868), non hai năm trời,
ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân-nam. Nhưng chẳng may ông
ấy phải bệnh đau gan mà chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi
qua nước Tàu, rồi xuống Tàu thủy về Sài-g̣n.
Đến năm
canh-ngọ (1870) là năm Tự-đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau
với nước Phổ; quân Pháp thua, Pháp-hoàng là Nă-phá-luân đệ-tam bị
bắt. Dân nước Pháp bỏ đế-quốc mà lập Dân-chủ cộng-ḥa. Tuy ở bên
Pháp có sự chiến tranh, nhưng ở bên Viễn-đông này, quân Pháp vẫn giữ
vững đất Nam-kỳ. Vả Triều-đ́nh ở Huế c̣n bận dẹp giặc Khách ở
Bắc-kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi-thôi ǵ cả.
2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis).
Thuở ấy, có một người Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là
Đồ-phổ-Nghĩa mấy năm trước đă đi du lịch ở các tỉnh bên Tàu, để t́m
cách buôn-bán, biết có sông Hồng-hà từ đất Vân- nam chảy qua Bắc-kỳ
ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở
Vân-nam để chở đồ binh-khí sang bán.
Đồ-phổ-Nghĩa về cùng với một người Pháp nữa tên là Millot, buôn-
bán ở Thượng-hải, trù-tính việc chở binh khí sang Vân-nam, đoạn rồi
về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên này, Đồ-phổ-Nghĩa vào Sài-g̣n
xin Súy-phủ giúp thanh-thế cho để đi qua Bắc-kỳ. Viên thống-đốc
Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng d'Arhaud, có hứa với
Đồ-phổ-Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.
Đồ-phổ-Nghĩa sang Hương-cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu
con là Hồng-giang, Lao-kay và Sơn-tây chở đồ binh-khí và hàng-hóa
vào Quảng-yên. Trong lúc ấy hải-quân trung-tá Sénès đă đem tàu
Bourayne ra Bắc-kỳ, rồi lên Hải-dương, Hà-nội, Bắc-ninh đi xem các
nơi.
Trung-tá ở Bắc-ninh nghe tin bọn Đồ-phổ-Nghĩa đă đến Quảng-yên,
liền trở ra để cùng bàn với quan Khâm-sai Lê Tuấn về việc
thông-thương ở sông Hồng-hà.
Ông Lê Tuấn không có lệnh Triều-đ́nh, không dám tự-tiện, nói xin
đợi vài mươi hôm để có mệnh nhà vua ra sẽ hay.
Đồ-phổ-Nghĩa và Millot thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà-
nội, rồi thuê thuyền chở đồ lên Vân-nam. Bấy giờ là cuối năm
nhâm-thân (1872), là năm Tự-đức thứ 25. Thuyền của Đồ-phổ-Nghĩa đi
qua những đồn của quan ta, của giặc cờ vàng và giặc cờ đen đều vô sự
cả. Khi lên dến Vân- nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật
xuống, đến thánh tư năm quí- dậu (1873), th́ Đồ-phổ-Nghĩa và Millot
lại trở về đến Hà-nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. Millot th́
vào Sài-g̣n cho Súy-phủ biết t́nh-thế ở Bắc- kỳ, và nhân thể đem đồ
khoáng-vật sang bán ở Hương-cảng. C̣n Đồ-phổ- Nghĩa th́ ở lại
Hà-nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người Khách là Bàng
lợi Kư, Quan tá Đ́nh mua gạo, mua muối chở lên Vân-nam.
Bấy giờ luật nước ta cấm không cho chở muối sang Tàu, mà việc
thông-thương ở sông Hồng-hà cũng chưa định rơ thế nào, nhưng Đồ-phổ-
Nghĩa tự xưng là có lệnh quan Tàu cho, th́ không cần phải theo luật
nước Nam, v́ nước Nam là một nước phải thần-phục nước Tàu.
Đồ-phổ-Nghĩa không hiểu rơ sự giao-thiệp nước Tàu và nước ta ngày
trước. Đối với Tàu th́ bề ngoài nước ta tuy xưng cống-thần, nhưng kỳ
thực vẫn là độc-lập. Khi có việc ǵ, phải có sứ hai nước sang
thương-nghị rồi mới thi hành. Mà có khi sứ nước Tàu bàn sang điều
ǵ, nước ta không thuận cũng thôi, chứ không có phép tự-tiện mà làm
được. Chỉ trừ lúc nào nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt-nạt, như đời nhà
Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh, th́ lại có ông Trần hưng Đạo, ông Lê
thái Tổ và ông Nguyễn quang Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước
Nam vốn không phải đất thuộc-địa của Tàu.
Tuy vậy, quan ta phải nể Đồ-phổ-Nghĩa là người nước Pháp, sợ có
việc ǵ, th́ thành ra bất-ḥa với Súy-phủ ở Sài-g̣n, cho nên cứ dùng
lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm điều trái với luật nước. Nhưng
ông ấy cứ một niềm tự ư ḿnh mà làm. Quan ta nhờ cả Giám-mục
Puginier là Kẻ-sở lên can cũng không được.
Sau quân ta có bắt mấy tên Khách Bành lợi Kư và Quan tá Đ́nh về sự
đem thuyền chở muối và gạo lên Vân-nam, th́ Đồ-phổ-Nghĩa đem người
đi bắt quan pḥng-thành Hà-nội và quan huyện Thọ-xương, đem xuống
thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không biết ra thế nào. Một
bên th́ cố t́nh sinh sự, một bên th́ mệnh nhà vua ra không được lôi
thôi điều ǵ.
Bấy giờ Triều-đ́nh sai quan hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đ́nh B́nh
làm khâm-phái ra giao cho ông Nguyễn tri Phương phải thu-xếp cho yên
chuyện ấy. Ông Nguyễn tri Phương mới sai quan bố-chính là Vũ Đường
định ngày mời Đồ-phổ-Nghĩa đến hội-quán Quảng-đông, để hội nghị. Khi
hai bên đến hội-đồng, quan ta nói rằng sự giao-thiệp nước Pháp với
nước Nam đă có tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất (1862), và sự đem muối và
gạo lên bán ở Vân- nam là trái với tờ ḥa-ước ấy, và lại trái với
luật bản-quốc. Đồ-phổ-Nghĩa căi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là
đủ, không cần phải xin phép ǵ nữa, rồi đứng dậy ra về.
Triều-đ́nh ở Huế thấy việc lôi thôi măi, sợ để lâu thành ra nhiễu
sự, mới sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường và ông Nguyễn tăng
Doăn vào sứ Sài-g̣n, để thương-nghị về việc ba tỉnh phía tây đất
Nam-kỳ và nhân thể nhờ Súy-phủ phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa cho xong.
3. Đại-úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà-nội.
Viên Thống-đốc Nam-kỳ bấy giờ là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn đă
lưu ư về việc Bắc-kỳ. Trước đă viết thư về cho Thượng-thư
thuộc-địa-bộ ở Paris nói rằng: " Đất Bắc-kỳ là đất tiếp-giáp với
những tỉnh tây-nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy th́ sự cai-trị của
ta ở Viễn-đông này mới được chắc chắn " .
Nhưng bên Pháp bấy giờ mới đang đánh nhau với nước Phổ vừa xong,
không muốn gây chuyện khác, bèn điện sang cho thiếu-tướng rằng:
"Không được sinh sự ở Bắc-kỳ." Đến khi Millot về Sài-g̣n kể công
việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói rằng: " Việc
Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ đă thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc-kỳ và
giữ lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành
công chắc lắm ". Ngay hôm ấy, thiếu-tướng lại viết thêm một cái thư
về nói rơ mọi lẽ, và quyết rằng xin chính-phủ để cho thiếu-tướng
được tự tiện, hễ có việc ǵ th́ thiếu-tướng xin chịu lỗi166.
Đang lúc ấy th́ Triều-đ́nh ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin thiếu-
tướng ra điều-đ́nh việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ.
Cứ như ư của thiếu-tướng Dupré điện về cho chính-phủ Pháp th́
thiếu-tướng chỉ mong có cái cơ-hội ǵ để đem quân ra Bắc-kỳ. Nay
thấy Triều-đ́nh ta vào nhờ Súy-phủ ở Sài-g̣n phân-xử việc
Đồ-phổ-Nghĩa, thật là gặp được cái dịp ḿnh đang mong, thiếu-tướng
liền gọi quan hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, rồi
sai ra Hà-nội, nói rằng ra phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa167.
Đại-úy Francis Garnier đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra
đến cửa Thuận, nghỉ lại mấy hôm để đợi quan khâm-sai cùng ra Bắc-kỳ.
Đến tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ các quan ra đến Hà-nội.
Bấy giờ ai cũng tưởng là đại-úy Francis Garnier ra chuyến này th́
mọi việc xong cả, cho nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp-đăi rất
trọng-hậu. Nhưng xem những thư-từ của đại-úy lúc bấy giờ, th́ cốt ra
có chủ ư khác. Khi ở Sài-g̣n sắp đi, đại-úy viết thư về cho người
anh ở bên Pháp nói rằng: " Lệnh của Súy-phủ cho, là được tự tiện.
Việc ǵ hải-quân thiếu-tướng cũng ủy-thác cho tôi cả. Vậy v́ nước
Pháp mà tôi phải cố sức." Đến khi ra đến Hải-dương, đại-úy vào ở
Kẻ-sặt, rồi viết thư sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho
ông ấy biết cái chủ đích của ḿnh, và lại nói rằng trăm sự đại-úy
trông-cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi v́ ông ấy đă quen biết mọi
việc ở Bắc-kỳ.
Đồ-phổ-Nghĩa tiếp được thư, liền đem chiếc tàu Man-hao đi đón đại-
úy. Lên đến Hà-nội, đại-úy đem mấy người đi thẳng vào thành ra mắt
ông Nguyễn tri Phương, và đ̣i đem quân ra đóng ở trong thành. Quân
ta nói măi, Đại-úy mới thuận ra đóng ở Trường-thi. Đoạn rồi đại-úy
viết thư mời giám-mục Puginier ở Kẻ-sở lên Hà-nội, để nhờ làm
thông-ngôn. Đại-úy lại làm tờ hiểu-dụ, cho dân biết, nói rằng: "
Bản-chức ra Bắc-kỳ cốt để dẹp cho yên giặc-giă, và để mở-mang sự
buôn-bán.
4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873).
Quan ta thấy đại- úy không nói ǵ đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói
những việc dẹp-giặc và mở sự buôn-bán, th́ đều lấy làm phân-vân. Sau
lại thấy tàu và quân ở Sài- g̣n tiến ra, quan ta lại càng lo lắm.
Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi ǵ đến quan ta, tự-tiện làm tờ
tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho và
nước Tàu được ra vào buôn-bán.
Quan ta lúc bấy giờ cũng bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buôn-
bán với nước Pháp th́ đă định rơ trong tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất
(1862), nay thấy đại-úy Francis Garnier đường đột làm như thế, th́
cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách pḥng-bị. Mà đại-úy cũng
đă biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đă định
kế đánh thành Hà-nội.
Đến đầu tháng 10, một mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri
Phương, trách quan ta làm ngăn-trở việc buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa;
vậy v́ sự văn-minh và cái quyền-lợi của nước Pháp, cho nên Súy-phủ ở
Sài-g̣n sai đại-úy ra mở sự buôn-bán ở Bắc-kỳ. Dẫu quan Việt-nam có
thuận hay không cũng mặc, đại-úy cứ theo lệnh của Súy-phủ mà
thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh
thành và bắt ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-g̣n.
Cứ như sách của Đồ-phổ-Nghĩa, th́ lúc bấy giờ có cả những người mạo
xưng là đảng nhà Lê, cũng xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.
Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ quân Pháp phát
súng bắn vào thành Hà-nội. Ông Nguyễn tri Phương cùng với con là
pḥ-mă Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được
non một giờ đồng hồ th́ thành vỡ, pḥ-mă Lâm trúng đạn chết, ông
Nguyễn tri Phương th́ bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được
ông Nguyễn tri Phương và quan khâm-phái Phan đ́nh B́nh đem xuống
tàu.
Ông Nguyễn tri Phương nghĩ ḿnh là một bậc lăo-thần thờ vua đă trải
ba triều, đánh nam dẹp bắc đă qua mấy phen, nay chẳng may v́ việc
nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông quyết chí không chịu
buộc thuốc và nhịn ăn mà chết.
Ông Nguyễn tri Phương là người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất
thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn
thanh-bạch, chỉ đem chí-lự mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải.
Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem thân hiến
cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất v́ việc nước. thật
là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy.
5. Lấy
mấy tỉnh ở Trung-châu.
Thành
Hà-nội thất thủ rồi, quan ta th́ trốn-tránh đi cả, giặc cướp lại
nhân dịp nổi lên. Đại-úy Francis Garnier lại cho những người theo
với ḿnh đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi lại sai
người đi đánh lấy tỉnh Ninh-b́nh, Nam-định và Hải-dương.
Quan ta ở
các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến
là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và 7
người lính tây mà hạ được thành Ninh-b́nh, và chỉ trong 20 ngày mà 4
tỉnh ở Trung-châu mất cả.
6. Đại-úy Francis Garnier chết.
Triều-đ́nh được tin biến ở Bắc- kỳ, vội-vàng sai ông Trần đ́nh Túc,
ông Nguyễn trọng Hợp, ông Trương gia Hội cùng với giám-mục B́nh (Mgr
Bohier) và linh-mục Đăng ( Dangelger) ra Hà-nội, để điều đ́nh mọi
việc và sai ông Hoàng kế Viêm ở Sơn-tây làm tiết- chế quân-vụ, để
pḥng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn-quyền, ông Nguyễn
văn Tường làm phó, vào thương-thuyết với Súy-phủ ở Sài-g̣n về việc
đại-úy Francis Garnier đánh Bắc-kỳ.
Lúc bấy giờ ông Hoàng kế Viêm đóng ở Sơn-tây, có đảng cờ đen là bọn
Lưu vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho Lưu vĩnh Phúc làm đề-đốc, để
cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu vĩnh Phúc đem quân về
đóng ở mạn phủ Hoài-đức. Khi ông Trần đ́nh Túc và ông Nguyễn trọng
Hợp đang thương-thuyết với đại-úy Francis Garnier, th́ quân cờ đen
về đánh Hà- nội. Đại-úy đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu-giấy th́
bị phục quân giết chết.
7. Ông
Philastre ra Hà-nội.
Nguyên
khi thiếu-tướng Dupré sai đại-úy Francis Garnier ra Bắc-kỳ là tự ư
ḿnh chứ chính-phủ nước Pháp vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin
đại-úy đă khởi sự đánh Hà-nội, thiếu- tướng liền sai hải-quân
đại-úy, khiêm chức thống-soái việc h́nh-luật ở Nam- kỳ, là ông
Philastre (ta gọi là Hoắc-đạo-sinh) cùng với qua phó-sứ nước ta là
ông Nguyễn văn Tường ra điều-đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ.
Đến
Cửa-cấm th́ ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường mới biết rằng
đại-úy Francis Garnier đă bị quân cờ đen giết mất rồi. Sử chép rằng
khi được tin ấy, ông Philastre tức giận vỗ bàn mà bảo ông Nguyễn văn
Tường rằng: " Việc không xong rồi, phải trở về đợi lệnh súy-phủ mới
được. " Ông Nguyễn văn Tường sợ ông Philastre giận quá mà nhỡ việc,
mới ung-dung mà nói rằng: " Việc đánh lấy thành Hà-nội súy-phủ bảo
không phải là bản-ư, mà quân bản-quốc ở 4 tỉnh Bắc-kỳ cũng không
tranh dành ǵ cả. Vậy hai bên không có làm điều ǵ trái nhau. Nay
đại-úy Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là v́ dân
nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rơ. Huống chi trả thành lại để
định ḥa-ước cho xong, ấy là lệnh của súy-phủ; mà thu lấy thành rồi
mới nghị-ḥa, ấy là mệnh của bản-quốc. C̣n như việc Hà-nội giết
đại-úy Francis Garnier th́ cũng như đại-úy Francis Garnier giết ông
Nguyễn tri Phương, việc đó xuất ư ư ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta
đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc ǵ cả, mới
nghe thấy tin báo mà đă bỏ về, thế chẳng hóa ra ḿnh đi uổng mất
công hay sao ? chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà-nội bảo đem tàu
xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà
làm, hoặc là xét rơ duyên-do tại sao mà đại-úy Francis Garnier chết,
rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao ? " Ông Philastre nghe
lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà-nội biết.
Ngay lúc
ấy có tàu " Decrès " c̣n đóng ở gần Đồ-sơn, ông Philastre muốn sang
tàu ấy để cho chiếc tàu ḿnh đi là "D'Estrées " trở về báo tin cho
Sài-g̣n biết. Nguyễn văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của ḿnh đă vào
cửa rồi lại trở ra, nhỡ sĩ-dân biết, lại bắt chước Hà-nội mà làm
bậy, th́ làm thế nào mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn-hại, th́ lấy
lẽ ǵ mà bẩm với quí súy. Vậy nay xin sai chiếc tàu "Decrès" ra bể,
đuổi đánh những giặc Tàu-ô, c̣n cứ đem tàu "D'Estrées" vào đến
Hải-pḥng, rồi ta lên Hải-dương, đem trả tỉnh-thành lại cho
bản-triều, để tỏ cái ḷng tin cho sĩ-dân biết, sau ta lên Hà- nội,
trả nốt cả mấy thành kia, và tra-hỏi việc đại úy Francis Garnier
chết ra thế nào sẽ bẩm cho quí-súy biết " .
Ông
Philastre vốn là một người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn văn
Tường nói hợp-lẽ, bèn thuận nghe, và lên Hải-dương truyền trả thành
lại cho quan ta, rồi lên Hà-nội làm tờ giao-ước trả lại cả 4 thành
cho quan ta coi giữ. C̣n những tàu bè và quân lính của Pháp ở các
tỉnh th́ thu cả về Hà- nội, rồi đinh ngày rút quân ra đóng ở
Hải-pḥng đợi đến ngày kư tờ ḥa-ước xong th́ rút về. Bấy giờ là
tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự- đức thứ 27.
Đồ-phổ-Nghĩa thấy ông Philastre phá mất cả những việc của ḿnh đă
làm với đại-úy Francis Garnier, bèn vào Sài-g̣n kêu với súy-phủ và
đ̣i tiền phí-tổn non một triệu nguyên
8.
Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).
Mọi việc
ở Hà-nội xếp-đặt xong rồi, súy-phủ ở Sài-g̣n sai ông Rheinart (Lê
Na) ra thay cho ông Philastre cùng với ông Nguyễn văn Tường về
Nam-kỳ, định sự ḥa-ước cho kịp ngày thiếu-tướng Dupré về Pháp.
Ngày 27
tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải-quân
thiếu-tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường kư tờ ḥa-ước
cả thảy 22 khoản, đại-lược có những khoản này là quan trọng hơn cả.
Khoản II.
Quan thống-lĩnh nước Pháp nhận quyền độc-lập của vua nước Nam không
phải thần phục nước nào nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc
ǵ để đánh dẹp giặc giă, th́ nước Pháp sẵn ḷng giúp mà không
yêu-cầu điều ǵ.
Khoản
III. Vua nước Nam phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của
nước Pháp, và chính-lược ngoại-giao hiện lúc bấy giờ thế nào th́
phải để nguyên như thế, không được đổi khác đi
Quan
thống-lĩnh nước Pháp tặng vua nước Nam:
1. 5
chiếc tàu có đủ máy-móc súng-ống
2. 100
khẩu súng đại-bác, và mỗi khẩu có 200 viên đạn
3. 1000
khẩu súng tay và 5000 viên đạn
Khoản IV.
Quan thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy
tập lính thủy, lính bộ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và
cho những người giỏi việc tài chính sang tổ-chức việc thuế-má và
việc thương-chính v. v.
Khoản V.
Vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ cho nước Pháp.
Khoản IX.
Vua nước Nam phải để cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng-đạo, và cho dân
trong nước được tự-do theo đạo.
Khoản XI.
Vua nước Nam phải mở cửa Thị-nại ( Qui-nhơn ), của Ninh-hải (
Hải-pḥng ), thành Hà-nội và sông Hồng-hà, cho ngoại quốc vào
buôn-bán.
Khoản
XIII. Nước Pháp được quyền đặt lĩnh-sự ở các cửa bể và các thành-
thị đă mở ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.
Khoản XV.
Người nước Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của
quan lĩnh-sự Pháp và có chữ quan Việt-nam phê nhận th́ được phép đi
xem các nơi ở trong nước.
Khoản
XVI. Người nước Pháp và người ngoại quốc có điều ǵ kiện tụng tại
đất Việt-nam, th́ do lĩnh-sự Pháp phân-xử.
Khoản XX.
Khi nào tờ ḥa-ước này kư xong, th́ quan thống-lĩnh nước Pháp đặt
sứ-thần ở Huế để chiếu những điều đă giao-ước mà thi hành. Vua nước
Nam cũng được quyền đặt sứ-thần ở Paris và ở Sài-g̣n.
Tờ
ḥa-ước ấy kư xong, th́ quan chánh-sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn văn
Tường về Huế. Thiếu-tướng Dupré giao mọi việc ở Nam-kỳ cho hải-quân
thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.
Tháng 6,
Triều-đ́nh ở Huế lại sai quan h́nh-bộ Thượng-thư là Nguyễn văn Tường
và quan lại-bộ thị-lang là Nguyễn tăng Doăn, vào Sài-g̣n cùng với
thiếu-tướng Krantz định các lệ về sự buôn-bán ở nước Nam. Đến 20
tháng 7, th́ tờ thương-ước lập xong.
CHƯƠNG X
T́nh thế
nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau
1.
Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh
2. Giặc ở
Bắc-kỳ
3. Sự
giao-thiệp với Tàu
4.
T́nh-thế nước Tàu
5. Sự
giao-thiệp với nước Pháp
1.
Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh.
Nhờ có
ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong,
th́ ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.
Nguyên
lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên
giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi sảy ra việc đại-úy Francis
Garnier lấy Hà-nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ-tĩnh thấy giáo-dân có
nhiều người theo giúp ông ấy, th́ lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau
nổi lên đánh phá.
Tháng
giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai
người tú-tài là Trần Tấn và Đặng như Mai hội-tập cả các văn- thân
trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là " B́nh Tây sát tả ", đại lược
nói rằng " Triều-đ́nh dẫu ḥa với với Tây mặc ḷng sĩ-phu nước Nam
vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh
đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn-hóa của ta đă hơn 1000
năm nay, v. v..." Bọn Văn- thân cả thảy độ non hơn ba ngh́n người,
kéo đi đốt phá những làng có đạo.
Nước ta
mà không chịu khai-hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ-phu
cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự
suy-nhược của ḿnh đă sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt
ra mà nh́n, lại v́ sự tức giận một lúc mà việc nông-nỗi càn-rỡ, để
cho thiệt hại thêm, như thế th́ cái tội trạng của bọn sĩ-phu đối với
nước nhà chẳng to lắm ru!
Lúc bấy
giờ quan tổng-đốc Nghệ-an là ông Tôn thất Triệt lại có ư dung-túng
bọn Văn-thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều-đ́nh thấy
vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn-thân thấy
quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần quang Hoán, Trương
quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành Hà-tĩnh, rồi ra vây phủ
Diễn-châu.
Triều-đ́nh thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn
Tường ra làm khâm-sai và ông Lê bá Thận làm tổng-thống, đem quân ra
đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.
2. Giặc ở
Bắc-kỳ.
Thuở ấy ở
mạn Thượng-du đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh măi
không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.
Mạn
Hải-dương và Quảng-yên th́ vẫn có những người mạo xưng là con-cháu
nhà Lê, cứ quấy-rỗi măi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà-nội, những
người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng v́ sau nước Pháp trả lại
các tỉnh ở Bắc-kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đă
kư ḥa-ước rồi, quan Pháp có đem binh-thuyền đi đánh giúp, cho nên
mới diệt được đảng ấy.
C̣n ở mạn
Tuyên-quang, th́ có giặc cờ vàng nhũng-nhiễu đă lâu. Quan quân phải
đánh dẹp măi không được. Đến tháng 8 năm ất-hợi (1875), là năm
Tự-đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng sùng Anh đem quân về đóng ở
làng Châu-thượng, thuộc phủ Vĩnh-tường. Bấy giờ quan quân tán-dương
quân-vụ tỉnh Sơn-tây là Tôn thất Thuyết về đánh một trận. Giặc ấy từ
đó tan dần.
Năm sau
Tôn thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ-loa, và dẹp
yên được ở mạn Sơn-tây. Nhưng đến năm mậu-dần (1878), ở Lạng- sơn
lại có tên giặc Khách là Lư dương Tài nổi lên.
Lư dương
Tài trước làm quan hiệp-trấn ở Tầm-châu, thuộc tỉnh Quảng-tây, sau
bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh
Lạng-sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan đề-đốc
Quảng-tây là Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta
hội- tiễu. Đến tháng 9 năm kỷ-măo (1879), quan quân mới bắt được Lư
dương Tài ở núi Nghiêm-hậu thuộc tỉnh Thái-nguyên đem giải sang Tàu.
V́ đất
Bắc-kỳ cứ có giặc giă luôn cho nên Triều-đ́nh đặt ra chức
Tĩnh-biên-sứ để giừ các nơi về đường ngược. Năm canh-th́n (1880),
đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai viên Tĩnh-biên phó-sứ
là Trương quang Đản đóng ở Lạng-giang và Nguyễn hữu Độ đóng ở
Đoan-hùng, lại phong cho Hoàng kế Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai
đạo .
3. Sự
giao-thiệp với Tàu.
Nước ta
từ xưa đến nay tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu,
lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi
chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, th́ rồi nhà nào lên làm
vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm
tự-nhiên v́ rằng triều-cống cũng không tổn hại ǵ mấy, mà nước vẫn
độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng
mạnh hơn ḿnh. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ
sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.
Các vua
đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước th́ vua phải
ra Hà-nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong cho. Đến đời vua Dực- tông th́
sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài.
C̣n những
cống phẩm th́ cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan
Tổng-đốc Lưỡng-Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến
Yên-kinh. Trong đời vua Dực-tông th́ sử chép rằng năm mậu-th́n
(1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ
Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục, ông Hà văn
Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở
Bắc-kỳ.
Từ năm
giáp-tuất (1874) trở đi, Triều-đ́nh ở Huế đă kư tờ ḥa-ước với Pháp,
công nhận nước Nam độc-lập, không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc
bấy giờ v́ thế bất-đắc-dĩ mà kư tờ ḥa-ước, cứ trong bụng vua
Dực-tông vẫn không phục, cho nên ngài vẫn cứ theo lệ cũ mà
triều-cống nước Tàu, có ư mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp ḿnh.
Bởi vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên tức là
ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm
canh-th́n (1880), lại sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn
Hoang sang Yên-kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống-phẩm. Năm
sau, Triều-đ́nh nhà Thanh sai Đường đ́nh Canh sang Huế bàn việc
buôn-bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ư là để thông tin cho chính
phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.
Một bên
đă ḥa với nước Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp
mà độc-lập 168 , một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ư để cầu viện,
bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đ́nh ta
vậy.
4.
T́nh-thế nước Tàu.
Xưa nay
ta vẫn công nhận nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống.
Hễ khi nào trong nước có việc biến- loạn và vẫn trông mong nước Tàu
sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước
bên Tây-âu mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà t́nh
thế nước Tàu th́ rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19 (1839) tức
là năm Minh-mệnh thứ 20 bên ta, v́ việc cấm thuốc nha- phiến ở
Quảng-đông thành ra có chiến-tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước
Anh đánh phá thành Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Vua Đạo Quang phải
nhận những điều ḥa-ước năm nhâm-dần (1842) làm tại Nam-kinh, nhường
đảo Hương-cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng-châu, Hạ-môn,
Phúc-châu, Ninh-ba và Thương-hải ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.
Cuộc
ḥa-ước ở Nam-kinh định xong, các nước ngoại-dương vào buôn-bán ở
nước Tàu và đặt lĩnh-sự ở Quảng-châu, Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Đến
năm Hàm-phong thứ 8 (1858), tức là năm Tự-đức thứ 11, nước Anh và
nước Pháp kư tờ ḥa-ước với nước Tàu, đặt sứ-thần ở Bắc-kinh. Đoạn
nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến-tranh với hai nước
ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải-khẩu, rồi kéo lên đánh
lấy Bắc-kinh. Vua Hàm-phong phải nhận những điều ḥa-ước năm
canh-thân (1860) làm tại Thiên-tân.
Từ đó
nước Tàu bị các nước khác sách-nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều
cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác ǵ cái nhà lớn đă bị hẩm-nát sắp
đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê-mộng là nước ấy c̣n cường thịnh,
có thể giúp ta được trong khi nguy-hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp
đă lấy Bắc-kỳ rồi, người ḿnh c̣n trông cậy ở quân cứu-viện của nước
Tàu. Phương-ngôn ta có câu rằng " Chết đuối vớ phải bọt " thật là
đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, th́ trước hết họ
hăy cứu lấy họ đă. Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ-phu
trong nước ta, ai là người hiểu rơ cái t́nh-thế ấy ? Cho nên không
những là ta không chịu cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại
c̣n làm những điều ngang-ngạnh để cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là
cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ lúc ấy cũng không
so tránh được cái lỗi của ḿnh vậy.
5. Sự
giao-thiệp với nước Pháp.
Từ khi
ông Philastre ra điều- đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart
ra thay ở Hà-nội, đợi cho đến ngày kư ḥa-ước th́ chiếu mọi khoản mà
thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài-g̣n, giao
quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La- Đăng). Thiếu-tá có đem
binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương và Quảng-yên.
Đến khi
tờ ḥa-ước và tờ thương-ước đă kư xong th́ Triều-đ́nh sai ông Nguyễn
tăng Doăn ra Bắc-kỳ để cùng thiếu-tá Dujardin chọn đất ở Hà- nội và
ở Ninh-hải (Hải-pḥng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp
đóng, và lại sai quan thượng-thư bộ Hộ là ông Phạm phú Thứ ra làm
Hải-an tổng-đốc sung chức tổng-lư thương-chánh đại-thần, cùng với
ông Nguyễn tăng Doăn và ông Trần hi Tăng bàn định việc thương-chánh
ở Bắc- Kỳ.
Tháng 6
năm ất-hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm
khâm-sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh-sự ở Hải-pḥng, và ông Kergaradec
(Kê-la-đích) làm lĩnh-sự ở Hà-nội. Triều-đ́nh sai ông Nguyễn thành Ư
vào làm lĩnh sự ở Sài-g̣n.
Ông
Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm bính-tí (1876), th́ cáo bịnh xin về,
ông Philastre ra thay.
Triều-đ́nh lúc bấy giờ cũng đă hiểu rằng hễ không theo tân-học th́
không tiến-hóa được, cho nên mới định cho người đi du học. Năm
mậu-dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu-xảo ở Paris, vua sai
ông Nguyễn thành Ư và ông Nguyễn tăng Doăn đem đồ đi đấu-xảo và cho
người sang học ở Toulon.
Nhưng v́
năm tân-tị (1881), Triều-đ́nh lại sai quan Lễ-bộ thị-lang là Phạm
Bính sang Hương-cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát-
lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm-la và sang Tàu mà không cho sứ-thần
nước Pháp biết, bởi vậy chính-phủ Pháp lấy những điều đó mà trách
Triều-đ́nh ở Huế không theo ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).
Khi ông
Philastre c̣n ở Huế, v́ ông ấy là một người công chính và lại có học
chữ Nho, cho nên Triều-đ́nh ta trọng-đăi và có điều ǵ trang-trải
cũng c̣n dễ. Từ năm kỷ-măo (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự
giao- thiệp càng ngày càng khó thêm: phần th́ v́ người ḿnh không
biết cách giao thiệp với ngoại-quốc, phần th́ cái quyền-lợi nước ta
và nước Pháp lúc bấy giờ tương-phản với nhau, cho nên hai bên không
có ḷng tin-cậy nhau, thành ra sự giao-thiệp không được thân-thiết
lắm.
Vả về
sau, sự cai-trị ở Nam-kỳ đă thành nếp, giặc giă đă yên cả; ở bên
Pháp th́ thế lực đă mạnh, và đă có nhiều người bàn đến việc bên
Viễn- đông này và việc bảo-hộ ở Bắc-kỳ. Lại nhân có những nước
I-ta-ly. I-pha- nho, Anh-cát-lợi và Hoa-kỳ muốn sang thông-thương
với nước Nam, mà có ư không muốn chịu để quan nước Pháp phân-xử
những việc can-thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn
lập hẳn cuộc bảo-hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan
hải-quân khiêm lĩnh chức thống-đốc ở Nam-kỳ, mà sai quan văn sang
sung chức ấy để trù-tính mọi việc.
Tháng 6
năm kỷ-măo (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang
nhận chức ở Sài-g̣n và ông Rheinart lại sang làm khâm-sứ ở Huế để
thay cho ông Philastre.
Bắc-kỳ
th́ người Pháp đă ra vào buôn-bán, nhưng v́ quan ta không biết lo sự
khai hóa, việc thông thương không được tiện-lợi, và ở mạn thượng-du
th́ có quân cờ đen tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ
thực chúng nó làm ǵ cũng không ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính-phủ
Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra
Bắc- kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn-bán, kỳ thực là ra kinh-doanh
việc ở vùng ấy.
CHƯƠNG XI
Quân Pháp
Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ II
1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội
2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai
3. Việc cầu cứu nước Tàu
4. Quân Pháp lấy Nam Định
1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội.
- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169, nhân có hai người Pháp tên là Courtin
và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần
Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc
Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng
binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ
(1882), một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa
binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng :
đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có
giấy thông hành của quân An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân
Khách ngăn trở. Ở Huế th́ quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ
Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của
người nước Pháp.
Được ít lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm
quân ra đến Hải Pḥng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.
2. Hạ thành Hà-nội lần thứ hai.
Quan tổng đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền
nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan
tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đăi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo,
cho nên mới sai sửa dọn thành tŕ để pḥng bị. Đại tá Henri Rivière
vào thành thấy vậy có ư không bằng ḷng, bèn quyết ư đánh thành.
Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc
tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải
binh, và các quan vơ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8
giờ th́ quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ th́ thành đổ. Ông Hoàng
Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, c̣n các quan th́ bỏ chạy cả.
Lúc tiếp được thư của đại tá, th́ ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ
là Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ
thang trèo xuống vừa xong, th́ quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy
bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai t́m ông Tôn Thất
Bá về quyền lĩnh mọi việc 170.
Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền
cho quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân
Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm t́m cách
chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc
đánh thành Hà Nội không phải là chủ ư của nước Pháp, và xin sai quan
ra giữ lấy thành tŕ. Triều đ́nh bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng
đốc là Trần Đ́nh Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là
Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri
Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng
vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Hai bên thương nghị măi. Đại tá đ̣i
4 khoản :
1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ
2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước Pháp
3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ
4 - sửa lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người
Pháp cai quản.
Bọn ông Trần Đ́nh Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đ́nh hội
nghị, các quan có nhiều người nói rằng : nước ta trong c̣n có Lưu
Vĩnh Phúc, ngoài c̣n có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả
lời không chịu.
Đến tháng 10 th́ ông Trần Đ́nh Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại
làm Hà Ninh tổng đốc.
3. Việc cầu-cứu nước Tàu.
Triều đ́nh ta bấy giờ nghĩ nước Pháp cố ư chiếm đoạt, và lại tưởng
rằng nước Tàu có thể bênh vực được ḿnh, cho nên mới sai ông Phạm
Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua
là người ḿnh có hay có tính ỷ lại, cho nên mới đi kêu cầu người
ta, chứ không biết rằng người Tàu giữ nước Tàu không xong c̣n đi cứu
ai được. Tuy vậy, không những người Tàu không cứu được ḿnh mà lại
c̣n muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước ḿnh. Xem như khi
thành Hà nội thất thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh
làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng : "nước Nam
và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn,
không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc
mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến th́ ta chiếm lấy
những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà". Bởi vậy triều đ́nh nhà Thanh
mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh
và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem
quân sang tiếp ứng.
4. Quân Pháp lấy Nam-định.
Chính phủ Pháp trước cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ
ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đ́nh ở
Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một
mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam Kỳ, để thay cho
ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá Henri
Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.
Nguyên trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại
tiếp được 750 người nữa, đại tá bèn để đại úy Berthe de Villers với
400 quân ở lại giữ Hà Nội, c̣n bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày
28 tháng 2 năm Quư Mùi (1883), th́ quân Pháp khởi sự đánh thành.
Đánh từ sáng dến trưa th́ quân Pháp vào thành; quan tổng đốc Vũ
Trọng B́nh bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ
Hồ Bá Ôn bị thương.
5. Đại tá Henri Rivière bị chết.
Quan ta thấy quân Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu,
bèn quyết ư đổi thế ḥa ra thế công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh
là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh
về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chực sang đánh Hà Nội. Đại
úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh đuổi, quan quân
phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan tiết chế Hoàng Kế Viêm sai
Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức, để đánh
quân Pháp.
Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta
và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt
phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 th́ đại tá đem 500 quân ra đánh ở
mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân
Pháp chết và bị thương đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử
trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.
Sài G̣n được tin đại tá Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson
liền điện về cho chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris hạ nghị
viện c̣n đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo
ở Sài G̣n về, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu
rưỡi phật lăng để chi tiêu về việc binh phí, và lại thuận cho một
viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lư mọi việc ở Bắc Kỳ.
Chính phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục quân thiếu tướng Bouet
ở Nam Kỳ ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Hải quân thiếu tướng
Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và lại cử ông Harmand
là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.
Ngày mồng 3 tháng 5, th́ thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300
lính tập ra đến Hải Pḥng. Lập tức thiếu tướng sửa sang sự chống giữ
ở Hà Nội và Nam Định, và lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là
người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm
tiền quân.
Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, Hải Pḥng và ở Nam
Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.
Quân ta bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba
trăm người cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát
đạn trái phá th́ xô đẩy nhau mà chạy; c̣n quân của nhà vua th́ không
có luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay th́ ít và xấu.
Như thế th́ chống làm sao được với quân Pháp là quân đă quen đánh
trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?
Bấy giờ cuộc ḥa đổi ra chiến, súy phủ ở Sài G̣n đuổi quan lĩnh sự
Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ư về Huế. Trong khi việc nước đang rối
cả lên như thế, th́ vua Dực Tông mất.
Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm Quư Mùi (1883), trị v́ được 36 năm,
thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng Đế.
CHƯƠNG XII
Cuộc Bảo Hộ Của Nước Pháp
1. Sự phế lập ở Huế : vua Hiệp Ḥa.
2. Quân
Pháp lấy cửa Thuận An
3. Ḥa
ước năm Quư Mùi (1883).
4. Việc ở
Bắc Kỳ.
5. Vua
Hiệp Ḥa bị giết.
6. Vua
Kiến Phúc.
7. Sự
đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.
8. Lấy
tỉnh Sơn Tây.
9. Lấy
thành Bắc Ninh.
10. Lấy
Hưng Hóa.
11. Lấy
Tuyên Quang.
12. Ḥa
ước Fournier.
13. Ḥa
ước Patenôtre tháng 6 năm Giáp Thân.
14. Việc
Triều chính ở Huế.
15. Vua
Hàm Nghi.
1. Sự phế
lập tại Huế: Vua Hiệp Ḥa.
Bản triều
nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông th́ mất quyền tự
chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua
tuy vẫn c̣n, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp
đặt.
Ấy cũng
v́ thời đại biến đổi mà người ḿnh không biết biến đổi, cho nên nước
ḿnh mới thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc Kỳ th́ rối loạn, ở
trong Triều th́ quyền thần chuyên chế, bởi vậy cho nên lại sinh ra
lắm việc khó khăn 171 .
Vua Dực
Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông
Dục Đức 172, phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên
giang quận công, ba là ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di
chiếu nói rằng : đức tính ông Dục Đức không đáng làm vua, mà ư ngài
muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng v́ ông ấy c̣n bé, mà việc nước cần
phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài lại cho Trần
Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.
Được ba
ngày th́ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông
Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều
thần ngơ ngác, không ai dám nói ǵ, chỉ có quan ngự sử Phan Đ́nh
Phùng đứng dậy can rằng : "Tự quân chưa có tội ǵ mà làm sự phế lập
như thế th́ sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền
đem bắt giam Phan Đ́nh Phùng, rồi cách chức đuổi về.
Lạng quốc
công, húy Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Ḥa. C̣n ông
Dục Đức th́ đem giam ở Dục Đức giảng đường.
2. Quân
Pháp lấy cửa Thuận An.
Vua Hiệp
Ḥa vừa lập xong, th́ viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải
Pḥng, rồi hội hải quân thiếu tướng Courbet và lục quân thiếu tướng
Bouet, để bàn định mọi việc.
Định một
mặt th́ thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài; một
mặt th́ thiếu tướng Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để
bắt triều đ́nh phải nhận nước Pháp bảo hộ.
Ngày 12
tháng 7, thiếu tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Ṿng. Hai
bên đánh nhau non ba ngày trời. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở
Đồn Phùng. Nhưng v́ lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp
không tiến lên được.
Ngày 16,
lục quân trung tá Brionval ở Hải Pḥng đem quân lên lấy thành Hải
Dương.
Quân Pháp
tuy thắng, nhưng quân Cờ Đen c̣n mạnh, nên chi thiếu tướng Bouet
phải điện về Paris xin thêm quân tiếp ứng.
Trong khi
lục quân thiếu tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc Kỳ, th́ hải quân
thiếu tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào
đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy th́ thành Trấn
Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần
Thúc Nhân th́ nhảy xuống sông tự tử.
3. Ḥa
ước năm quư-mùi (1883).
Triều
đ́nh thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin ḥa. Viên toàn quyền
Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De
Champeaux lên Huế để nghị ḥa. Triều đ́nh sai quan Hiệp biện hưu trí
là Trần Đ́nh Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm
phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.
Ngày 23
tháng 7 th́ tờ ḥa ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De
Champeaux, ông Trần Đ́nh Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng kư.
Tờ Ḥa
ước có 27 khoản : - Khoản thứ nhất nói rằng : Nước Nam chịu nhận
nước Pháp bảo hộ, có việc ǵ giao thiệp với ngoại quốc th́ phải do
nước Pháp chủ trương. - Khoản thứ hai : Tỉnh B́nh Thuận thuộc về Nam
Kỳ. - Khoản thứ ba : Quân Pháp đóng giữ ở núi đèo Ngang và ở Thuận
An. - Khoản thứ sáu : Từ tỉnh Khánh Ḥa ra đến đèo Ngang th́ quyền
cai trị thuộc về Triều đ́nh.
Những
khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết
kiến nhà vua. C̣n đất Bắc Kỳ kể từ đèo Ngang trở ra th́ nước Pháp
đặt công sứ 173 ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan
Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.
Từ ḥa
ước kư xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao,
nghĩa là mới tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế
làm khâm sứ, viên toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ để kinh lư việc đánh
dẹp.
4. Việc ở
Bắc Kỳ.
Triều
đ́nh ở Huế nhận ḥa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn
Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn
Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ
để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và băi quân thứ
ở các nơi.
Bấy giờ ở
Bắc Kỳ có quan nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên
Húc đóng ở Bắc Ninh, lại có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn
Phùng.
Triều
đ́nh tuy có chỉ ra truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng
quan ta c̣n nhiều người muốn ỷ nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp,
cho nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ măi
không xong được.
5. Vua
Hiệp Ḥa bị giết.
Trong Huế
th́ vua Hiệp Ḥa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi
vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà
trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn
Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất
Thuyết.
Hai người
thấy vua có ḷng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ
Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi
bắt vua Hiệp Ḥa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua
Hiệp Ḥa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.
Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đă giết vua Hiệp Ḥa rồi, lại thấy quan
Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ư ḿnh, cũng sai người giết
nốt.
6. Vua
Kiến Phúc.
Ngày mồng
7 tháng 10 năm Quư Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên
ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15
tuổi, việc ǵ cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định
cả.
Bắc Kỳ
th́ Hoàng Kế Viêm c̣n đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản c̣n đóng
tại Bắc Ninh, cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở
Huế lấy điều đó trách Triều đ́nh. Triều đ́nh lại có dụ ra truyền cho
Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về kinh.
Các quan
bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đ́nh, rồi hoặc
đi chiêu mộ những người nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để
chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện
lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri
phủ Kiến Xương Hoàng Văn Ḥe bỏ chức mà đi; quan tán tương quân vụ ở
Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống
giữ với quân Pháp.
7. Sự
đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.
Viên Toàn
quyền Harmand ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính
tuần cảnh, tục gọi là lính khố xanh, để pḥng giữ các nơi, và băi
lính cờ vàng của thiếu tướng Bouet đă cho mộ được mấy trăm, v́ những
lính ấy hay cướp phá dân gian. Nhưng v́ viên Toàn quyền xâm vào
quyền quan binh, cho nên thiếu tướng Bouet lấy làm bất b́nh.
Ngày mồng
một tháng 8, thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai
bên đánh nhau rất dữ. Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực
thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa được và lại có ư bất ḥa với
viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền lại cho đại tá
Bichot.
Được ít
lâu, có quân tiếp ở Sài G̣n ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh
B́nh.
8. Lấy
Sơn Tây.
Ngày 25
tháng 9, chính phủ Pháp điện sang cho hải quân thiếu tướng Courbet
làm thống đốc quân vụ, kiêm chức Toàn quyền ở Bắc Kỳ. Viên nguyên
Toàn Quyền Harmand xin về Pháp.
Từ đó
việc binh nhung, việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay thiếu
tướng Courbet. Trong khi thiếu tướng c̣n phải sửa sang mọi việc và
đợi quân tiếp ở Pháp sang th́ quan ta đem quân về đánh Hải Dương,
đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân, bèn bắt
đầy vào Côn Lôn.
Đến khi
thiếu tướng tiếp được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ
bấy giờ được hơn 9000 người, thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả
thủy bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết
ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ Đen chống giữ hăng lắm, nhưng
quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, đều bỏ
thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng phải chạy theo. Trận ấy
quân Pháp bị 83 người tử trận và 319 người bị thương.
9. Lấy
thành Bắc Ninh.
Quân Pháp
tuy đă lấy dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông,
thiếu tướng phải chờ có quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên
Pháp lại sai một lữ đoàn174 sang Bắc Kỳ và sai lục quân trung tướng
Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho hải quân thiếu tướng
Courbet.
Ngày 16
tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức,
thiếu tướng Courbet được thăng lên hải quân trung tướng và lại ra
coi hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn
6 ngh́n người và 10 đội pháo thủ, chia làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở
bên hữu ngạn sông Hồng Hà th́ đóng ở Hà Nội, có thiếu tướng Brière
de l'Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà, th́ đóng ở
Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier coi.
Bấy giờ
con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân
ta đóng. Thống tướng Millot bèn truyền lệnh cho thiếu tướng Brière
de l'Isle đem quân qua sông Hồng Hà, rồi theo sông Đuống (tức là
sông Thiên Đức) đi về phía đông. C̣n toán quân của thiếu tướng De
Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, để tiếp vào với toán
quân của thiếu tướng Brière de l'Isle, rồi cả thủy bộ theo sông Cầu
(sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.
Hai bên
khởi sự đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, th́ lấy được Đáp
Cầu. Quân Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc
Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày 16, th́ quân Pháp vào thành
Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 bị thương mà
thôi.
Thiếu
tướng Brière de l'Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23
th́ lên lấy thành Thái Nguyên.
10. Lấy
Hưng Hóa. Hạ dược thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp
quay về mạn sông Hồng Hà để đánh lấy Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu
tướng Brière de l'Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây
lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên khởi sự
đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều ngày hôm ấy th́
quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng
ngày 16, th́ thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nh́ tiếp đến, cả
hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy
thế không chống được, bèn đốt cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hóa rút
lên mạn ngược. C̣n bọn ông Hoàng Kế Viêm th́ kéo lên mạn núi, rồi đi
đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 th́ quân Pháp vào thành
Hưng Hóa. Lập tức thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá
đồn Vàng.
11. Lấy
Tuyên Quang.
Lấy xong
Hưng Hóa rồi, chỉ c̣n có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen c̣n
đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi ḍ xem sông Lô
Giang tàu thủy lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem
đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên
Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Tŕ khởi hành từ hôm
mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 th́ đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một
giờ đồng hồ th́ quân Cờ Đen bỏ thành chạy.
12. Ḥa
ước Fournier.
Bấy giờ
tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai
quản cả, nhưng quân Tàu c̣n đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào
Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải
với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước
Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp tên là
Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi
việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc
Trực lệ là Lư Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói
chuyện việc ḥa với nước Tàu. Détring điện về cho Lư Hồng Chương
biết. Hai bên đều có ư muốn ḥa cho êm chuyện.
Chính phủ
Pháp bèn sai trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lư Hồng
Chương nghị ḥa. Đến ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), th́ lập
xong tờ ḥa ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân đóng ở
Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận nhận tờ giao ước của
nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được
tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam.
13. Ḥa
ước Patenôtre tháng 5 Giáp Thân (1884).
Tờ giao
ước kư xong th́ trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc
Kỳ biết sự ḥa ước đă xong, mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.
Lúc bấy
giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang,
đi qua đến Sài G̣n, chính phủ ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế
sửa lại tờ ḥa ước của ông Harmand đă kư ngày 23 tháng 7 năm Quư Mùi
(1883).
Ông
Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đ́nh thương nghị mấy
ngày, rồi đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu
năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm
Thuận Duật và ông Tôn Thất Phan kư tờ ḥa ước mới. Cả thảy có 19
khoản, đại để th́ cũng như tờ ḥa ước của ông Harmand, chỉ đổi có
mấy khoản nói về tỉnh B́nh Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà
Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.
Tờ ḥa
ước kư xong, ông Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre
hội cả các quan, bắt đem cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam thụt,
bễ nấu lên mà hủy đi, nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo
hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.
Ḥa ước
kư năm Giáp Thân là năm 1884, là ḥa ước của Triều đ́nh ở Huế kư với
nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu
vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của
nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần ḥa
ước năm 1884 cũng mất cả ư nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ
hết cả. Triều đ́nh ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.
Nước Việt
Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn
cả các nước khác. Văn hóa, lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một
cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi kỳ có
một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc
đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi
được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là
nước.
Một nước
mà tam phân ngũ liệt ra như thế, thật là một mối đau ḷng cho người
Việt Nam là dân một nước đă có một lịch sử vẻ vang hàng mấy ngh́n
năm.
14. Việc
Triều Chính ở Huế.
Triều
đ́nh lúc bấy giờ việc ǵ cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.
Tôn Thất
Thuyết là người tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài
năng th́ kém, mà lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết.
Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng Trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ
5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có
tính tham lam và lại tàn nhẫn.
Hai ông
ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại th́ ở tay ông Tường, binh quyền
th́ ở tay ông Thuyết. Nhưng mà thường việc ǵ cũng do ở ông Thuyết
xui khiến cả. Trong Triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan,
ai có điều ǵ trái ư hai ông ấy là bị giam ở chấp hay là chém giết
cả.
Ông
Thuyết th́ mộ quan phản nghĩa để giữ ḿnh, và thường hay tiếm dụng
nghi vệ của vua; ông Tường th́ chịu tiền hối lộ của những người
Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức,
mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không
tiêu th́ phải tội. Vả lúc ấy vua hăy c̣n trẻ tuổi chưa biết ǵ, cho
nên hai ông ấy lại càng chuyên chế lắm nữa.
Vua Kiến
Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp
Thân (1884) th́ phải bệnh mất 175, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng
Đế.
15. Vua
Hàm Nghi.
Vua Kiến
Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh
Mông lên nối ngôi th́ phải. Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập
người lớn tuổi, sợ ḿnh mất quyền, bèn chọn người con ông Chánh Mông
là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm
Nghi.
Viên Khâm
sứ Rheinart trước đă tư giấy sang cho Triều đ́nh Huế rằng : Nam
triều có lập ai làm vua, th́ phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng
Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết.
Viên Khâm
sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức
tham mưu là đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào
Huế, bắt Triều đ́nh phải xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua.
Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ.
Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27
tháng 6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong
vương cho vua Hàm Nghi. Xong rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.
CHƯƠNG
XIII
Chiến
Tranh Với Nước Tàu
1. Trận
Bắc Lệ.
2. Đánh
Phúc Châu và vây Đài Loan.
3. Trận
đồn Chữ và đồn Kép.
4. Trận
Yên Bạc.
5. Lấy
thành Lạng Sơn.
6. Thành
Tuyên Quang bị vây.
7. Mất
thành Lạng Sơn.
8. Ḥa
ước Thiên Tân.
1. Trận
Bắc Lệ.
Tại Bắc
Kỳ th́ quân Pháp tưởng là việc ḥa ước với nước Tàu đă xong, chỉ c̣n
đợi ngày quân Tàu rút về, th́ lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao
Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ ḥa ước của trung tá Fournier kư ở Thiên
Tân, th́ vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao
Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, th́ thống tướng Millot sai
trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng
một tháng 5 nhuận th́ quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp
sang sông Thương, th́ quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị
thương. Được một chốc bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đă
biết có ḥa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoăn lại
6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá
trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng : trong một
giờ nữa mà quân Tàu không rút về th́ quân Pháp cứ việc tiến lên.
Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, th́ quân
Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối.
Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn
rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên.
Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, c̣n những
phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.
Thống
tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu
tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán
công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho
trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá rồi, thiếu tướng
Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và quân ở
bên Pháp sang.
2. Đánh
Phúc Châu và vây Đài Loan.
Chính phủ
bên Pháp tiếp được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải
quân trung tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là
tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc
Kinh đ̣i nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến
tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết măi, đến ngày 29
tháng 6, th́ chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đ̣i nước Tàu 80 triệu
phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba
tháng 7 năm Giáp Thân (1884), th́ hải quân trung tướng được lệnh
khởi sự đánh Phúc châu.
Trung
tướng truyền lệnh cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá
các xưởng làm binh khí ở Phúc Châu, và lại đánh cả chiến thuyền của
Tàu đóng ở trong sông Mân Giang. Trung tướng bắn phá ở Phúc Châu rồi
đem binh thuyền ra vây đánh đảo Đài Loan.
Hải quân
của Pháp vây Đài Loan và các cửa bể măi đến tháng 6 năm Ất Dậu
(1885), nước Tàu kư ḥa ước rồi, mới thôi.
3. Trận
Đồn Chũ và Đồn Kép.
Trong khi
hải quân của Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng
Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp
măi không thấy sang, đến trung tuần tháng 7, thống tướng Millot bèn
cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l'Isle.
Được ít
lâu, thiếu tướng Brière de l'Isle tiếp được 6 ngh́n quân ở Pháp
sang, số quân bấy giờ cả thảy được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn
chia ra làm 4 đạo để đi đánh quân Tàu và quân ta; thiếu tá Servière
đem một đạo quân lên mạn Đông Triều; trung tá Donnier đem một đạo
quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung tá Defoy
đem một đạo quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu
tướng De Négrier th́ đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8,
quân Pháp tiến lên đóng đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu
chống lại được một ngày, mà quân hai bên đánh nhau ở đồn Kép hăng
hơn cả. Quân Tàu chết có đến 2 000 người; c̣n bên quân Pháp th́
thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân, 27 người tử trận và 100
người bị thương. Quân Tàu chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép,
đồn Bảo Lạc và đồn Chũ chạy lui trở về.
Mạn đông
bắc, quân Tàu đă lui, thiếu tướng Brière de l'Isle bèn sai đại tá
Duchesne đem 700 quân lên đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn
Tuyên Quang và lại sai trung tá Berger đem quân lên giữ Thái Nguyên.
4. Trận
Yên Bạc.
Quân Tàu
tuy đă thua ở đồn Chũ và đồn
Kép,
nhưng vẫn c̣n đóng ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung tuần
tháng 11, quân Tàu lại về đóng ở An Châu, thiếu tướng De Négrier đem
quân bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn sông Lục Nam lên đánh quân
Tàu ở núi Bóp. Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân Pháp thiệt hại
mất 19 người tử trận và 65 người bị thương.
5. Lấy
thành Lạng Sơn.
Đầu năm
1885 là quăng tháng 11 năm Giáp Thân, thiếu tướng Brière de l'Isle
được thăng chức trung tướng và lại tiếp tục được hơn 1 000 quân ở
bên Pháp sang. Qua tháng chạp ta, trung tướng mộ non 7 000 phu để
tải đồ và đem 7 500 quân, chia ra làm 2 đạo để đánh Lạng Sơn. Đạo
thứ nhất th́ thuộc quyền thiếu tướng De Négrier, đạo thứ nh́ th́
thuộc quyền đại tá Giovanninelle.
Con đường
đi từ Kép đến Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, mà chỗ nào cũng có
quân Tàu đóng, cho nên quân Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ
đánh lại, để lấy đồn Tuần Muội 176. Thiếu tướng De Négrier trước đă
lên đồn Kép, dương thanh thế tiến binh, rồi lẻn về đồn Chũ đem quân
qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn Sung, rồi sang lấy đồn Tuần
Muội. Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân Pháp đă chặn mất
đường về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh
tràn lên đến Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp th́ lấy được thành.
Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử
trận và 22 người bị thương.
Lấy xong
thành Lạng Sơn, quân Pháp nghỉ ngơi mấy ngày, rồi lại tiến lên đánh
Đồng Đăng. Quân Tàu chạy phân làm hai ngả : một ngả chạy lên Thất
khê, một ngả chạy lên ải Nam Quan về Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng
giêng năm Ất Dậu (1885), th́ thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam
Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.
6. Thành
Tuyên Quang bị vây.
Khi quân
Pháp đi đánh mặt Lạng Sơn, th́ quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông
Hồng Hà và sông Lô Giang lại kéo về đánh Tuyên Quang. Bấy giờ quân
Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600 người, thuộc quyền thiếu tá
Dominé. Từ đầu tháng mười năm Giáp Thân (1884), quân Cờ Đen của Lưu
Vĩnh Phúc đă kéo về đóng ở gần phủ Yên B́nh và phủ Đoan Hùng. Đến
tháng 11 th́ quân Tàu giữ các chỗ hiểm yếu, để chặn đường không cho
quân Pháp ở trung châu lên tiếp ứng, rồi Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên
đánh thành Tuyên Quang; đánh măi đến 15 tháng chạp mới vây được
thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế dể phá thành, mà quân Pháp ở trong
thành cũng cố hết sức để chống giữ.
Lúc ấy
quân Pháp đă lấy được thành Lạng Sơn rồi, trung tướng Brière de
l'Isle liền để thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng
2 tết đem quân đi đường đồn Chũ về Hà Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên
Quang. Ngày 13 tháng giêng năm Ất Dậu th́ lên đến Đoan Hùng rồi sang
sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho đến ngày 16,
mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng nhiều, nhưng
quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút
lên mạn ngược.
7. Mất
thành Lạng Sơn.
Thành
Tuyên Quang vừa giải vây xong, th́ ở Lạng Sơn lại khởi sự giao
chiến. Quân Tàu tuy đă thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề
đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng đại đồn ở Long Châu, chực
sang đánh lấy lại Lạng Sơn.
Ngày mồng
6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu
tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu.
Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8,
thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, c̣n những người bị thương th́ đem
về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35 000 người.
Ngày 13
th́ quân Tàu tràn sang đánh Kỳ Lừa, thiếu tướng De Négrier bị thương
nặng, phải giao quyền lại cho trung tá Herbinger để chống với quân
địch. Nhưng bấy giờ quân Tàu sang đông quá, trung tá phải bỏ thành
Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và đồn Kép.
Trung
tướng Brière de l'Isle tiếp được tin bại trận ở Lạng Sơn, liền điện
cho chính phủ Pháp để xin tiếp quân sang cứu viện, và lập tức đi tàu
lên đồn Chũ để pḥng sự chống giữ.
Quân Tàu
lấy được Lạng Sơn rồi chia quân giữ các chỗ hiểm yếu, chứ không dám
đuổi xa. C̣n ở mạn sông Hồng Hà, th́ quân Cờ Đen và quân của các
quan cựu thần th́ về đánh phá ở mạn gần Hưng Hóa và Lâm Thao.
8. Ḥa
Ước Thiên Tân.
Bên Pháp
tiếp được điện tín của trung tướng Brière de l'Isle đánh về nói quân
Pháp phải bỏ thành Lạng Sơn, th́ ḷng người náo động cả lên. Thủ
tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh
không lợi bèn kư tờ giao ước đ́nh chiến với nước Tàu. Rồi một mặt
th́ truyền lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre
lập tờ ḥa ước với chính phủ Tàu; một mặt th́ cho quân sang tiếp ứng
Bắc Kỳ và sai trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân
sự vụ, trung tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với thiếu
tướng Jamont và thiếu tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.
Chính phủ
Tàu thấy chiến tranh không có lợi, bèn thuận kư tờ ḥa ước, và lập
tức sai quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày
27 tháng 4 năm Ất Dậu (1883) là năm Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre
và ông Lư Hồng Chương kư tờ ḥa ước, đại lược nói rằng nước Tàu nhận
cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt Nam, và lại ḥa thuận buôn bán
như cũ. Nước Pháp th́ trả lại các chỗ mà hải quân đă chiếm giữ ở mặt
bể, và thuận bỏ cái khoản tiền binh phí không đ̣i nữa. Ngày hôm quan
hai nước kư tờ ḥa ước ở Thiên Tân, th́ hải quân trung tướng Courbet
phải bệnh mất ở gần đảo Đài Loan. Hải quân của Pháp cũng chiếu theo
điều ước mà rút quân về.
CHƯƠNG IV
Loạn ở
Trung Kỳ
1. Thống
tướng De Courcy vào Huế.
2. Triều
đ́nh chạy ra Quảng Trị.
3. Nguyễn
Văn Tường ra thú.
4. Xa giá
các bà Thái hậu về Khiêm Lăng.
5. Quân
Cần vương.
6. Vua
Đồng Khánh.
7. Thống
tướng De Courcy phải triệt về.
8. Vua
Hàm Nghi ở Quảng B́nh.
9. Ông
Paul Bert.
10. Lập
Tổng đốc Toàn Quyền.
1. Thống
Tướng De Courcy vào Huế.
Việc đánh
nhau với Tàu xong, th́ tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành. Nhưng ở
các nơi, những quan cũ ta c̣n chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế th́
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường.
Tháng 9
năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối,
không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai
ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc
tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, pḥng khi có việc
ǵ th́ đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng v́ các ông
ấy có ư muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đă chiếm giữ Mang Cá ở
thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.
Ngày 18
tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ.
Bấy giờ sự ḥa ước với Tàu đă xong, bởi vậy thống tướng mới định vào
Huế bắt Triều đ́nh ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội
đă nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với
Pháp, đă biết t́nh h́nh ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5
th́ thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đ́nh cử hai
quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón
thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đ̣i hai
quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm
Nghi.
Hai ông
ấy lúc bấy giờ c̣n đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay ḿnh
cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đă tức giận
lắm, lại cứ như lời mấy ông quan cựu thần nói chuyện, th́ ông Thuyết
là quan văn làm tướng vơ, nhưng h́nh dáng th́ không được thanh tú :
đầu th́ trọc, người th́ béo mà đen, cách đi đứng th́ không được
chững chạc, sự giao thiệp và đối đáp th́ không sành. Xưa nay th́ chỉ
lấy quyền thế mà đè nén người ta, hơi một tí th́ lấy sự chém giết
làm oai. Đến khi phải ra theo lễ bang giao mà đối với một người
tướng ngoại quốc như ông De Courcy th́ trong bụng khiếp sợ không
biết ra thế nào.
Ông Tường
th́ là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng
biến, cho nên lúc ấy chỉ có một ḿnh ông Tường sang ra mắt quan
thống tướng De Courcy mà thôi, c̣n ông Thuyết th́ cáo bệnh không
sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.
Tôn Thất
Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần th́ tức giận, phần th́
sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng
đấy là điềm trời xuôi khiến bèn quyết ư sửa soạn để đánh nhau.
Thống
tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, th́
phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi,
nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đ́nh thấy
điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như
sứ Tàu ngày trước, c̣n quân lính th́ xin đi cửa hai bên, thống tướng
nhất định không chịu.
2. Triều
đ́nh chạy ra Quảng Trị.
Trưa hôm
22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong
việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp.
Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng,
thống tướng cũng khước đi không nhận.
Các quan
thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ư tứ
ǵ mà khinh mạn Triều đ́nh đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy
thế càng lấy làm tức giận, thôi th́ sống chết cũng liều một trận,
họa may trời có giúp kẻ yếu hèn ǵ chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy
giờ ai cũng tưởng như thế, cho đến mới định đến nửa đêm khởi sự phát
súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.
Chiều hôm
ấy thống tướng làm tiệc đăi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, th́
súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh
Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất th́nh ĺnh nửa đêm
quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà
chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, th́ quân ta thua
chạy177. Nguyễn Văn Tường cho người vào điện tâu xin rước vua và các
bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng 178. Khi xa giá ra gần đến cửa
hữu th́ gặp Nguyễn Văn Tường đă chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh
truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn
Tường vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa
Thiên Mụ, th́ Tôn Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá
quay trở về Trường Thi 179.
Lúc bấy
giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian th́ trẻ
cơng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng t́m đường tránh
cho khỏi chỗ binh đao.
Xa giá
đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, th́ Tôn Thất Thuyết lại giục
lên đường, nói rằng quân Pháp đă sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá
vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới
thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản 180 ra rước xa giá
vào Hành cung và đặt quân lính để pḥng giữ.
Trận đánh
nhau ở Huế, quân Pháp mất 16 người và 80 người bị thương. Sách tây
chép rằng quân ta chết đến vài ngh́n người, c̣n bao nhiêu khí giới
lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.
3. Nguyễn
Văn Tường ra thú.
Tại Huế,
cả buổi sáng hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành tŕ và giữ ǵn các
nơi. C̣n quan ta, người th́ đi theo xa giá, người th́ ẩn nấp một
nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn
Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard, rồi nhờ ông ấy đưa ra thú
với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn Tường ra ở
Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải
coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi
việc.
4. Xa giá
các bà thái hậu về Khiêm Lăng.
Nguyễn
Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh để cho
yên ḷng người. Nhưng lúc ấy vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ
Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức
Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng thái phi là vợ thứ đức Dực
Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết ǵn giữ, sớ của
Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho vua
biết. Ai cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi
phục. Đức Từ Dụ và hai bà Thái hậu nhất định không chịu đi.
Ngày 27,
Tôn Thất Thuyết nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại
Quảng Trị và xin rước vua lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào
lạy ba bà Thái hậu : t́nh ly biệt, nỗi sầu thảm, kể sao cho xiết !
Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, th́ bọn nội giám đều trở lại nói
rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, th́ tam cung mới
tiếp được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về
Huế, mọi việc đă thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua
trở lại để cùng về Huế, nhưng t́m măi không biết vua ở đâu, chỉ tiếp
được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói Nguyễn Văn Tường phản trắc
nọ kia, xin đừng có nghe. Nguời bàn đi, kẻ bàn lại, ai nấy phân vân
chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn Tường
ra giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ư về Kinh, định ngày mồng
4 th́ lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ
giá. Đến chiều tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm
cung. Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và kể t́nh mọi việc.
Trong khi
vua c̣n đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám
quốc, giao quyền binh bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux,
để băi việc binh lính của ta đi, và gọi quan kinh lược ở Bắc kỳ là
Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là Phan Đ́nh B́nh về cùng
với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. V́ hai ông ấy ở Bắc Kỳ đă hiểu
mọi việc và đă biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên thống tướng
đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và
Nguyễn Hữu Độ không hợp ư nhau, Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.
5. Quân
Cần Vương.
Tôn Thất
Thuyết ở Quảng B́nh làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy
chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, c̣n tự B́nh Thuận trở
ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho
dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo.
Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo
phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.
Thống
tướng De Courcy thấy chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội
các tướng lại để bàn sự đánh dẹp. Thống tướng đỉnh sai đại tá Pernot
đem 1 500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết, lại sai thiếu tướng De
Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa dánh vào. Nhưng chính phủ ở
Paris điện sang không cho thống tướng khởi sự dùng đại binh, và lại
nhân lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp
chết hại đến ba bốn ngh́n người, bởi vậy cho nên việc dùng binh phải
đ́nh lại.
Tại Huế
th́ măi không ai biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đ́nh th́ mỗi ngày
một rối, việc lập vua mới th́ tuy rằng đă định rồi, nhưng c̣n lôi
thôi chưa xong.
Đến ngày
27 tháng 7, vừa hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho
Nguyễn Văn Tường, vả bấy giờ ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn
Văn Tường xin thống tướng đem trị tội. Bởi vậy sang ngày 28 thống
tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan Hộ bộ thượng
thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất Thuyết,
đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu th́ mất, phải ném
xuống bể. Nguyễn Văn Tường th́ sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở
Thái B́nh Dương, được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê
nhà.
6. Vua
Đồng Khánh.
Thống
tướng De Courcy đày bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ
về cùng với Phan Đ́nh B́nh coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng
Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng lại sai ông De
Champeaux lên Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông Chánh Mông
là Kiên giang quận công lên làm vua.
Ngày mồng
6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ
phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Vua Đồng
Khánh tính hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được
ḷng người Pháp; đ́nh thần th́ nhiều người đă biết theo chính sách
của bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn. Nhưng vua
Hàm Nghi c̣n ở mạn Quảng B́nh, kéo cờ nghĩa để chống nhau với quân
Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ,
ḷng người c̣n tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh B́nh Thuận trở ra,
chỗ nào cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.
Tại Quảng
Nam th́ bọn thân hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn pḥng sứ là Trần
Văn Dự làm chủ, rồi những tỉnh Phú Yên, B́nh Định, B́nh Thuận đều
noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có các ông Trương Đ́nh Hội,
Nguyễn Tự Như, ở Quảng B́nh có quan nguyên tri phủ là Nguyễn Phạm
Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh 181; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn
Xuân Ôn và
quan sơn
pḥng sứ Lê Doăn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người
ấy đều xướng lên việc cần vương. đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh
thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện, và đốt phá những làng có đạo.
Tại ngoài Bắc th́ các quan cựu thần là quan đề đốc Tạ hiện, quan tán
tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Băi Sậy, rồi đi đánh phá ở mạn
trung châu, c̣n ở mạn thượng du, th́ ở chỗ nào cũng có quân giặc Tàu
quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.
7. Thống tướng De Cource phải triệt về.
Thống tướng De Courcy thấy ở ngoài Bắc có lắm việc, bên để thiếu
tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội kinh lư mọi việc. Nhưng v́
thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, cho nên công việc càng ngày
càng khó thêm. Tại Pháp th́ có nhiều người không muốn giữ đất Bắc
Kỳ, có ư muốn băi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, thủ
tướng nước Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75
triệu phật lăng để chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng
để xét việc ấy. Hội đồng định rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật
lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu th́ đảng theo chính phủ được 274
phiếu, và đảng phản đối với chính phủ được 270, nghĩa là đảng muốn
giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong nghị
viện có nhiều người không hợp ư ḿnh bèn xin từ chức.
Ông Freycinet lên làm thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên
nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn điện sang triệt về Pháp, giao
binh quyền lại cho trung tướng Warnel, và sai ông Paul Bert là quan
văn sang sung chức thống đốc, để kinh lư mọi việc ở nước Nam.
8. Vua Hàm Nghi ở Quảng B́nh.
Bấy giờ tuy ở Huế đă lập vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần
c̣n có nhiều người theo pḥ vua Hàm Nghi, quyết chí chống lại với
quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem quân ra đóng ở
thành Quảng B́nh, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết thông
với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá
rất dữ. Đại tá Chaumont bèn để đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng
B́nh, rồi trở về Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở
thành Nghệ An, chia quân đi tuần tiễu các nơi.
Tôn Thất Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm
Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu)
tỉnh Quảng B́nh, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng
đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu 182.
Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con
Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê
Trực và Nguyễn Phạm Tuân183, hết sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá
ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.
Tháng giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ
vào Nghệ An, rồi chia làm hai đạo : một đạo th́ thiếu tá Pelletier
đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn Tuyên Hóa; một đạo th́ trung
tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi
vào đóng ở sông Gianh.
Tại Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng
các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở Minh Cầm, rồi trung tá
Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé.
Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân chống lại không nổi,
phải tan cả.
Nhưng qua sang tháng hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống
dốc Paul Bert đă sang đến nơi, chính sách đổi lại cả, cho nên mới
triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng Khê, ở Roon và ở chợ Đồn
mà thôi. Quân văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở về đóng ở các
đồn cũ.
9. Ông Paul Bert.
Ngày mồng 5 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert
sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát
về việc tài chính. Đến cuối tháng 3 th́ thống đốc vào yết kiến vua
Đồng Khánh ở Huế, và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh
lược đại sứ được quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc.
V́ rằng ở ngoài Bắc vào đến Huế đường xá xa xôi, có việc ǵ phải tâu
bẩm vào Bộ mất nhiều ngày giờ lắm, bởi vậy xin cho được tự tiện làm
việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu về vua biết.
Thống đốc Paul Bert ở Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà
Nội, rồi một mặt th́ lo đánh dẹp, một mặt th́ mở Pháp Việt học
đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ư của thống dốc
là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Nhưng cũng v́
thống đốc phải lo nghĩ
Chính phủ Pháp sai ông Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay
ông Paul Bert.
10. Lập Tổng Đốc Toàn Quyền Phủ.
Nước Pháp đă lấy đất Nam Kỳ, lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập
bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở ra một cuộc thuộc địa lớn ở
Viễn đông này; nhưng buổi đầu th́ mỗi xứ có một chức thủ hiến để coi
riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ nước Pháp
mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy
xứ ở nước ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh Hợi (15 tháng 11 -
1887), th́ viên Tổng đốc toàn quyền mới, tức là viên Tổng đốc toàn
quyền trước nhất, là ông Constant sang nhận chức ở Sài G̣n.
Từ đó ở các nơi như Nam Kỳ th́ có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao
Miên th́ mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc kỳ và Lào th́ mỗi nơi có viên
Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt; những việc ǵ quan hệ
đến chính sách cả toàn cảnh th́ phải theo lệnh viên Tổng đốc toàn
quyền mà thi hành.
CHƯƠNG XV
Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ
1. Việc đánh dẹp ở các nơi
2. Vua Đồng-khánh ra Quảng-B́nh
3. Hoàng kế Viêm ra quân thử mạn Quảng-B́nh
4. Lập đồn Minh-cầm
5. Vua Hàm-nghi bị bắt
6. Vua Thành-Thái
7. Sự đánh dẹp ở Bắc-kỳ
8. Việc Phan đ́nh Phùng
9. Ḷng yêu nước của người Việt-nam
1. Việc đánh dẹp ở các nơi.
Trong khi thống-đốc Paul Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, th́ ở
Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải t́m
cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn B́nh-thuận, Phú-yên th́ thiếu-tá De
Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem lính tây và
lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết
rất nhiều, bởi vậy đất B́nh-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân
ra dẹp đảng văn-thân ở Phú-yên và B́nh-định, bắt được cử-nhân Mai
xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm
bính-tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh-hợi (1887), th́ những tỉnh ở
phía nam đất Kinh-kỳ đă dẹp yên.
2. Vua Đồng Khánh ra Quảng B́nh . Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra
chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ
vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân
Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.
Ngày 16 tháng 5 năm bính-tuất (1886), xa-gía ở Kinh đi ra, măi đến
cuối tháng 7 mới tới Quảng-b́nh. Xa-gía đi đến đâu th́ đảng cựu thần
vẫn không phục, cứ đem quân đến chống-cự, cho đến việc vua đi
tuần-thú lần ấy, không có kết-qủa ǵ cả. Ra đến Quảng-b́nh th́ vua
Đồng-khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường hải
đạo trở về Huế.
3. Hoàng Kế Viêm Ra Quân Thử Mạn Quảng B́nh. Vua Đồng-khánh về Huế
được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục nguyên hàm cho Hoàng kế Viêm
và phong cho làm Hữu-trực-kỳ An-phủ kinh-lược đại-sứ, được quyền
tiện-nghi hành-sự, để ra Quảng-b́nh dụ vua Hàm-nghi và các quan cựu
thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng-khánh ban cho Hoàng kế Viêm
đại-lược nói rằng: Nếu vua Hàm nghi mà thuận về, th́ sẽ phong cho
làm làm Tổng-trấn ba tỉnh Thanh-hóa, Nghệ-an và Hà-tĩnh, và lại cấp
cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu-thần như các ông Trương
văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê mô Khải, Nguyễn nguyên Thành,
Phạm trọng Mưu, Nguyễn xuân Ôn, Lê doăn Nha, Ngô xuân Quỳnh, ai về
thú th́ được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ
Quảng-trị trở vào. C̣n như các ông Trần xuân Soạn, Nguyễn phạm Tuân,
Phan đ́nh Phùng mà có chịu về th́ sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ
phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy đă bàn với viên Thống-đốc
Paul Bert, hai bên đă thuận cho như thế, quyết không sai lời.
Bấy giờ quân của quan Đề-đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh-thủy , thuộc
huyện Tuyên-chánh; quân của Tôn-thất Đạm là con Tôn-thất Thuyết th́
đóng ở ngàn Hà-tĩnh, về hạt Kỳ-anh và Cẩm-xuyên. C̣n Tôn-thất Thiệp
và Nguyễn phạm Tuân th́ pḥ vua Hàm-nghi ở mạn huyện Thanh-hóa.
Ông Hoàng kế Viêm ra Quảng-b́nh, sai người đi dụ ông Lê Trực về.
Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu , chỉ có bọn thủ-hạ lác
đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng kế Viêm ra
kinh-lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm đinh-hợi
(1887), lại phải triệt về.
4. Lập Đồn Minh Cầm.
Triều-đ́nh ở Huế thấy dùng cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền
cho người Pháp t́m kế đánh-dẹp.
Người Pháp cũng biết là thế-lực của đảng vua Hàm-nghi chẳng được
bao nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần địa-thế và mua chuộc những đứa
làm tay trong, th́ tất thế nào rồi cũng trừ hết được, bởi vậy cho
nên không dùng đến đại binh.
Trước đại-úy Mouteaux ở Quảng-b́nh đă cùng với ông cố Tortuyaux đem
quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy
vẫn không tan, cứ đành phá măi. Đến tháng giêng năm đinh-hợi (1887),
đại-úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh-cầm đóng ở mé trên Thanh-
thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có nghĩa-khí, và trong
khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn-ác,
cho nên đại- úy vẫn có ư trọng lắm. Trước đă cho người đưa thư lên
dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: "Tôi v́ vua, v́ nước,
chết sống cũng một ḷng làm cho hết việc bổn-phận, chứ không dám
tham sự sống mà quên việc nghĩa".
Từ khi quân Pháp đóng đồn ở Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn
phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực th́ ra mạn Hà-tĩnh, Ông
Nguyễn phạm Tuân th́ lên đóng ở làng Yên-lộc về phía sông Gianh.
Qua tháng 3, nhờ có do thám, biết chỗ ông Nguyễn phạm Tuân đóng,
đại-úy Mouteaux bèn đem quân lên vây làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn
phạm Tuân, trong khi bất ư, đều bị bắt cả. Ông Nguyễn phạm Tuân phải
đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày th́ mất.
Quân Pháp tuy đă trừ được ông Nguyễn phạm Tuân nhưng ông Lê Trực
hăy c̣n, và vẫn chưa biết rơ vua Hàm-nghi ở chỗ nào, sau có những
người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm-nghi th́ mưu với tên Trương
quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở đấy và từ khi vua ra ở vùng ấy
nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí-độ tiểu-nhân, th́ chắc có
lẽ mua chuộc nó được. Đại-úy định t́m cách để thông với tên Ngọc,
cho người đi do-thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc,
bèn đem quân lên vây làng ấy. Nhưng khi lên đến nơi, tên Ngọc thấy
động, chạy thoát được. Đại-úy sai t́m trong làng chỉ thấy có một bà
lăo, đại-úy bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lăo ấy đưa cho
nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.
Được mấy hôm kỳ-dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm,
đại-úy đưa cho chánh-tổng những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy
b́ gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua Hàm-nghi về.
Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết ḷng giúp người Pháp,
nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra th́ không thành.
Từ đó việc bắt vua Hàm-nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy
giờ có người con thứ Tôn-thất Thuyết là Tôn-thất Thiệp giữ-ǵn vua
Hàm- nghi một cách nghiêm-mật qúa. Tôn-thất Thiệp thề sống chết
không để cho quân Pháp bắt vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về
thú th́ bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đă nhị tâm, nhưng
chưa dám hạ thủ.
ở mé ngoài, th́ các ông Lê Trực và Tôn-thất Đạm, nay đánh chỗ này
mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại-úy Mouteaux đánh đuổi lâu
ngày nhọc-mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.
5. Vua Hàm Nghi Bị Bắt . Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên
đại-tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng-b́nh, rồi chia quân đi tuần-tiễu,
để t́m vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến
tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành công được. Quân
Pháp đă toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên
suất-đội Nguyễn đ́nh Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả,
phía trên đồn Minh- cầm, và khai rơ t́nh-cảnh cùng chỗ vua đóng.
Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm
tên Ngọc và tên Tinh về t́nh- nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.
Người Pháp truyền cho bọn tên Ngọc phải làm thế nào bắt sống được
vua Hàm-nghi, c̣n những người khác hễ ai chống cự, th́ cứ giết đi.
Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người
ở làng Thanh-lang và Thanh-cuộc lên vây làng Tả-bảo 184
là chỗ vua Hàm-nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó sông vào,
th́ Tôn-thất Thiệp c̣n đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, th́
chúng đâm chết. Vua Hàm-nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy,
cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết tao đi, c̣n hơn đưa
tao về nộp cho Tây". Ngài vừa nói dứt lời, th́ bọn chúng nó có một
đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi dựt thanh gươm ra. Từ khi
ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng ǵ nữa.
Sáng ngày hôm sau, bọn tên Ngọc vơng ngài ra đến bến Ngă-hai, rồi
đem xuống cái bè, đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh-lang, nộp cho
viên đại-úy coi đồn ấy là ông Boulangier. Đại-úy lập tức đem ngài về
đồn Thuận- bài đóng ở tả-ngạn sông Gianh, gần chợ đồn.
Vua Hàm-nghi bấy giờ đă 18 tuổi, quan Pháp lấy vương- lễ mà tiếp-
đăi. Tuy vậy ai hỏi ǵ, ngài cũng không nói, chỉ nhất-thiết chối
rằng ḿnh không phải là vua.
Nhưng đến lúc vào trong buồng ngồi một ḿnh, th́ hai hàng nước mắt
chứa-chan, buồn v́ nỗi nước đổ nhà tan, thân ḿnh phải nhiều nỗi
gian- truân.
Người Pháp đem vua Hàm-nghi xuống tầu về Thuận-an, rồi đem sang để
ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc-địa của nước Pháp, ở phía bắc châu A-
phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi phật-lăng 185 .
Tên Trương quang Ngọc được hưởng hàm lĩnh-binh, tên Nguyễn đ́nh
Tinh cũng được thưởng hàm quan vơ. C̣n bọn thủ-hạ, đứa th́ được
thưởng hàm suất-đội, đứa th́ được thưởng mấy đồng bạc.
Tôn-thất Đạm ở ngàn Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm-nghi bị bắt, bèn hội
cả bọn tướng sĩ lại, truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai
bức thư: một bức để dâng vua Hàm-nghi, xin tha lỗi cho ḿnh làm tôi
không cứu được vua, và một bức gửi cho thiếu-tá Dabat, đóng ở đồn
Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư rồi, Tôn-thất Đạm
nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta th́ vào t́m thấy mả ta
ở trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận 186 .
Ông Tôn-thất Thuyết làm đại-tướng mà cư-xử ra một cách rất hèn-
nhát không đáng làm người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người con
th́ thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể che được cái xấu cho cha
vậy.
Quan đề-đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận- bài.
Triều-đ́nh ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời-lẽ của quan đề-đốc
cũ nói khảng-khái, không được khiêm-tốn, có ư bắt tội, nhưng người
Pháp thấy là một người trung-nghĩa, có ḷng qúi-trọng, tha cho về
yên nghiệp ở nhà.
Ông Tôn-thất Đạm và ông Lê Trực là người phản-đối với nước Pháp lúc
bấy giờ, nhưng các ông ấy v́ việc nước mà hết ḷng làm việc bổn-phận
cho nên người Pháp cũng biết lượng t́nh mà thương-tiếc. Sau ông Lê
Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc huyện tuyên-hóa, tỉnh Quảng-b́nh,
người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ư kính-trọng lắm. Người
bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.
6. Vua Thành Thái . Ngày 27 tháng chạp năm mậu-tí là ngày 28 tháng
giêng năm 1888, vua Đồng-khánh phải bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua
được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh-tông Thuần-hoàng-đế.
Bấy giờ ông Rheinard lại sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua
Đồng-khánh c̣n nhỏ, và lại nhớ ông Dục-đức ngày trước, khi vua
Dực-tông hày c̣n, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viêm
Khâm-xứ nghĩ đến t́nh cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông
Dục-dức lên làm vua.
Ông Bửu Lân bấy giờ mới lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở
trong ngục. Triều-đ́nh vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu
là Thành-thái, cử ông Nguyễn trọng Hợp và ông Trương quang Đản làm
Phụ- chính.
7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ . Khi nhà Thanh bên Tầu đă kư ḥa-ước với
nước Pháp ở Thiên-tân rồi, quân Tầu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu-
thần như quan Tán-tương quân-vụ là Nguyễn thiện Thuật và quan Đề-đốc
Tạ Hiện c̣n giữ ở vùng Băi-sậy thuộc Hải-dương cùng với các thổ-hào
như Đốc Tít ở vùng Đông-triều; Đề Kiều ở vùng Hưng-hóa; Cai Kinh,
Đốc Ngữ ở vùng Phủ-lạng-thương và Yên-thế; Lương tam Kỳ, dư đảng cờ
đen, ở vùng chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc
ấy quan quyền kinh-lược-sứ là ông Nguyễn trọng Hợp cử quan quyền
Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng cao Khải làm chức Tiểu-phủ-sứ đi
đánh-dẹp ở vùng Băi-sậy.
Hoàng cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn-thân người
th́ tử trận, người th́ bị bắt. Nguyễn thiện Thuật chạy sang Tầu, sau
mất ở Nam-ninh, thuộc quảng-tây. Đốc Tít ra hàng, phải đầy sang ở
thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên.
Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra
thú, được giữ ở vùng ấy, măi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm
1912 mới bị giết.
Hoàng cao Khải đi đánh-dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho
lănh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.
8. Việc Phan Đ́nh Phùng . Từ năm kỷ-sửu (1889) là năm Thành- thái
nguyên-niên cho đến năm qúy-tị (1893) là năm Thành-thái ngũ-niên,
đất Trung-kỳ không có việc ǵ quan-hệ lắm. Các quan cựu-thần, người
th́ về thú, người th́ ẩn-nấp ở chỗ sơn-lâm. Riêng ông Phan đ́nh
Phùng th́ về ở đồn điền ở Vũ-quang về phía bắc huyện Hương-khê,
thuộc tỉnh Nghệ-tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc
súng đúc đạn, để đợi ngày khởi sự.
Ông Phan đ́nh Phùng người tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ đ́nh-nguyên về đời
vua Dục-tông, quan làm đến chức ngự-sử bị bọn quyền-thần là Nguyễn
văn Tường và Tôn-thất Thuyết cách chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu
đảng văn-thân để chống cự với quân Pháp. Ông không những là một
người có tài văn-chương mà thôi, mà lại là một nhà có thao-lược,
sửa-sang quân-lính có cơ-ngũ, luyện-tập tướng-sĩ có kỷ-luật, cho nên
đại-úy Gosselin làm quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan
Đ́nh-nguyên Phan đ́nh Phùng có tài kinh-doanh việc quân-binh, biết
luyện-tập sĩ-tốt theo phép Thái-tây, áo-quần mặc một lối, và đeo
súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan Đ́nh-nguyên đúc
ra thật nhiều mà máy-móc cũng hệt như súng Pháp chỉ v́ ḷng súng
không xẻ rănh, cho nên đạn không đi xa được".
Đến cuối trung-tuần tháng 11 năm qúi-tị (1893), ông sai người đến
vây nhà tên Trương quang Ngọc ở làng Thanh-lang, huyện Tuyên-hóa,
bắt tên Ngọc chém lấy đầu để báo-thù về việc tên ấy làm sự phản-ác.
Từ đó quân của quan Đ́nh-nguyên vẫy-vùng ở mạn Hương-khê, đảng
văn-thân cũ lại về tụ họp ở đấy.
Bấy giờ người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo-động ḷng người
ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối
năm qúi-tị (1893) cho đến cuối năm ất-mùi (1895) ngót 2 năm trời mà
không dẹp yên được, quân-lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo-hộ cũng
đă t́m đủ mọi cách, như bảo Hoàng cao Khải viết thư dụ Phan đ́nh
Phùng về hàng cho xong cũng không được. Sau cùng Triều-đ́nh ở Huế
thấy việc dai- dẳng măi không yên, mới xin chính-phủ Bảo-hộ để sai
quan Tổng-đốc B́nh- định là Nguyễn Thân làm Khâm-mạng tiết-chế
quân-vụ đem quân ra tiễu- trừ. Ông Phan đ́nh Phùng lúc bấy giờ tuổi
đă già, mà thế-lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai
chạy chỗ kia, thật là lao-khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem
quân ra đến Hà-tĩnh, th́ ông đă phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai
người đuổi đánh t́m thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho
đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người nói rằng
việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn,
v́ muốn để làm cái tang-chứng cho đảng phản-đối với chính-phủ Bảo-hộ
là quan Đ́nh Nguyên đă mất rồi. Từ đó đảng văn-thân tan-vỡ; ai trốn
đi mất th́ thôi, ai ra thú th́ phải về Kinh chịu tội.
Nguyễn Thân về Kinh được thăng làm Phụ-chính thay ông Nguyễn trọng
Hợp về hưu.
9. Ḷng yêu nước của người Việt Nam.
Người Việt-nam v́ hoàn-cảnh, v́ t́nh thế bắt-buộc phải im hơi lặng
tiếng, nhưng ḷng ái quốc mỗi ngày một nồng-nàn, sự uất-ức đau-khổ
mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ năm bẩy năm lại có một
cuộc phiến-động, như sau việc Phan đ́nh Phùng rồi, có việc Kỳ-đồng
và việc Thiên-binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái-b́nh, Hải-dương,
Bắc-ninh v.v... Vào quăng năm 1907 ở Hà-nội có việc Đông-kinh
nghĩa-thục. Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan bội Châu, Phan chu
Trinh, người th́ không sợ tù tội, đứng lên tố-cáo sự tham- nhũng của
bọn quan-lại, người th́ ra ngoại-quốc bôn-ba khắp nơi để t́m cách
giải-phóng cho nước. Năm 1908, ở Trung-Việt vùng Nghệ-Tĩnh và Nam-
Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. ở Hà-nội th́ có việc đầu-độc lính
Pháp, rồi ở Thái-nguyên, Hoàng hoa Thám lại nổi lên đánh phá .
Khi bên Âu-châu có cuộc đại-chiến th́ bên ta lại có việc đánh-phá ở
Sơn-la và Sầm-nứa và việc vua Duy-tân mưu sự độc-lập, bị bắt đầy
sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt-nam bấy giờ có ba ông vua bị
đầy: vua Hàm- nghi đầy sang xứ Algérie, vua Thành-thái và vua
Duy-tân đầy sang ở đảo Réunion.
Sau cuộc chiến lần thứ nhất, có toàn lính khố xanh nổi lên đánh
Thái-nguyên do Đội Cấn và ông Lương ngọc Quyến làm đầu. Năm 1927, ở
vùng Nghệ-tĩnh có cuộc phiến-động gây ra bởi đảng Cộng-sản do Nguyễn
ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có cuộc cách-mệnh của
Quốc- dân-dảng, có Nguyễn thái Học điều-khiển ở Yên-bái và các nơi.
Năm 1940, ở Nam-Việt có cuộc phiến-động ở vùng Gia-định, Hốc-môn
v.v... Từ khi có cuộc đại-chiến lần thứ hai, nước Pháp bại trận, bị
nước Đức chiếm cứ, quân Nhật-bản ở bên Tầu sang đánh Lạng-sơn rồi kư
hiệp-ước với người Pháp cho người Nhật được đóng quân ở Đông-pháp.
Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đánh quân Pháp và giao
quyền nội-trị lại cho vua Bảo-đại. Được mấy tháng th́ quân Đồng-minh
thắng trận, Nhật-bản đầu hàng. Đảng Việt-minh 187
dưới quyền lănh đạo của Nguyễn ái Quốc-đổi tên là Hồ chí Minh thừa
cơ nổi lên cướp quyền, vua Bảo-đại phải thoái-vị và nhường quyền cho
đảng Việt-minh.
Đây chỉ mới nói qua cái đại-lược một đoạn lịch-sử của nước Việt-
nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ t́m đủ tài-liệu mà chép cho
rơ-ràng và phê-b́nh cho chính-đáng.
CHƯƠNG XVI
Công Việc Của Người Pháp
Tại Việt Nam
1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa
2. Việc kinh-doanh ở các xứ bảo-hộ
1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa.
Từ khi sự đánh-dẹp các nơi đă yên rồi, các viên Tổng-đốc toàn-quyền
lần lượt sang kinh-doanh việc Đông-pháp và lo mở mang về đường
chính-trị, kinh-tế và xă-hội theo chính-sách của nước Pháp.
Tháng 3 năm mậu-tí (1888) tức là năm Thành-thái nguyên-niên, ông
Richaud sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Tháng tám năm ấy, Triều-đ́nh ở
Huế kư giấy nhượng hải-cảng Đà-nẵng, thành-thị Hà-nội và Hải-pḥng
cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa từ đó là việc cai-trị và
pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về
nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, th́ việc cai-trị ở các tỉnh
trong toàn hạt Bảo-hộ vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do
người Pháp điều-khiển và kiểm- duyệt.
2. Việc kinh doanh ở các xứ bảo hộ.
Cuộc Bảo-hộ đă lập xong, người Việt-nam v́ thế bất-đắc-dĩ phải
chịu, nhưng phần nhiều người trong ḷng c̣n mong khôi-phục nước nhà,
cho nên chính-phủ Bảo-hộ một mặt th́ lo việc pḥng giữ, một mặt lo
mở-mang các công-cuộc kiến-thiết để gây thêm mối lợi. Về đường
pḥng-giữ, th́ chính-phủ lập ra những đội binh bảo-an, lấy người
bản-sứ làm lính. Những lính ấy đội một thứ nón dẹt có giải xanh và
múi thắt lưng xanh, cho nên tục gọi là lính khố-xanh. Lính ấy do
người Pháp cai-quản ở dưới quyền quan cai-trị người Pháp, cho đi
canh giữ các dinh-thự, các công-sở, và cho đi đóng đồn ở các nơi
trong vùng thôn-quê, để pḥng-giữ trộm cướp. ở những nơi hiểm-yếu
th́ có lính Pháp và lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ là một thứ bộ binh
người bản-xứ, cách ăn- mặc cũng như lính khố xanh, chỉ khác là quai
nón đỏ mà múi thắt lưng đỏ. Những lính ấy có cơ, có đội do sĩ-quan
Pháp cai-quản ở dưới quyền nhà binh Pháp. Khi có việc ǵ quan-hệ th́
đem lính Pháp và lính ấy ra đánh-dẹp.
Về việc hành binh và việc thương-mại, th́ chính-phủ Bảo-hộ trước
hết phải lo sửa-sang và mở-mang thêm đường-sá cho tiện sự
giao-thông. V́ rằng có đường th́ khi hữu sự, việc đánh-dẹp mới
tiện-lợi và việc buôn-bán cũng nhân đó mà được dễ-dàng. Bởi vậy
thoạt đầu tiên chính-phủ mở thương-cục, lập xưởng làm tầu thủy chở
hàng-hóa và hành-khách đi trong các sông ở trong xứ.
Năm tân-măo (1891), ông De Lanessan sang làm Tổng-đốc toàn- quyền,
mở đường xe lửa từ Phủ-lạng-thương lên đến Lơng-sơn, đến năm
giáp-ngo (1894), con đường ấy mới xong. Chủ-đích là để cho tiện sự
pḥng- giữ ở chỗ biên-thùy.
Chính-phủ Bảo-hộ lại lo mở-mang thêm bờ-cơi về phía Lào. Nguyên đất
Lào ngày trước vẫn thần-phục nước Nam. Những nơi như Trấn-ninh,
Cam-môn, Cam-cát, v.v. về đời vua Minh-mệnh đă lập thành phủ huyện
và đặt quan cai-trị cả. Nhưng về sau nước ta suy-nhược lại có việc
chiến-tranh với nước Pháp, cho nên nước Tiêm-la mới nhân dịp mà sang
chiến-giữ lấy. Sau có người Pháp tên là Pavie sang dự nước Lào nhận
sự bảo-hộ của nước Pháp, rồi đến đầu năm quí-tị (1893), quân Pháp
sang lấy lại những đất cũ thuộc về nước Nam ta trước. Bấy giờ quân
Tiêm-la ở mạn Cam-môn giết mất một người quan binh Pháp, người Pháp
bèn sai hải-quân đem hai chiếc tầu chiến vào sông Mê-nam, lên đậu ở
gần thành Băng-cốc (Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy, nước Tiêm-la
phải kư, ḥa-ước, nhường những đất Lào cho nước Pháp bảo-hộ, hạn
trong một tháng phải rút quân đóng ở bên tả-ngạn sông Mékong về, lại
phải bồi thường 2 triệu phật-lăng, và phải trị tội những người dám
chống-cự với người Pháp.
Người Pháp lập phủ Thống-sứ ở Vientiane để cai-trị các địa hạt bên
Lào.
Năm ất-mùi (1895), viên Tổng-đốc toàn-quyền Rousseau sang thay ông
De Lanessan, thấy c̣n nhiều nơi chưa yên bèn vay nước Pháp cho Bắc-
kỳ 80 triệu phập-lăng , để chi-tiêu về việc đánh-dẹp và mở-mang.
Năm đinh-dậu (1897), ông Daumer sang làm Tổng-đốc toàn-quyền,
chỉnh-đốn lại việc tài-chánh và việc chính-trị. Lập ra sổ chi-thu
chung cả toàn cảnh Đông-pháp, định các thứ thuế: thuế đinh, thuế
điền, thuế thổ, thuế xuất-cảng, nhập-cảng, v.v., và cho người được
độc-quyền lĩnh trưng thuế rượu, thuế muối, thuế nha-phiến. Bỏ nha
Kinh-lược ở Bắc-kỳ, giao quyền lại cho viên Thống-sứ (tháng 6 năm
đinh-dậu 1897) 188 , vay nước Pháp 200 triệu phập-lăng, để mở đường
hỏa-xa trong xứ Đông-pháp và mở-mang thêm việc canh-nông và việc
công-nghệ.
Năm nhâm-dần (1902) ông Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng-đốc
toàn-quyền. Ông Beau chủ việc khai-hóa dân-trí, lo mở-mang sự
học-hành và đặt ra Y-tế-cục, làm nhà bệnh-viện, để cứu-giúp những kẻ
yếu- đau nghèo-khổ. Ấy là những công-việc làm của chính-phủ bảo-hộ
vậy.
TỔNG KẾT
Sách Việt Nam Sử-Lược này chép đến đây hăy tạm ngừng, để sau có
tài-liệu đầy-đủ và các việc biến-đổi ở nước Việt-Nam này được rơ-rệt
hơn, sẽ làm tiếp thêm 189 .
Việc chép lịch-sử cũng như việc dệt vải dệt lụa, dệt xong tấm nào
mới biết tấm ấy tốt hay xấu, c̣n tấm đang dệt, chưa biết thế nào mà
nói được.
Ta chỉ biết rằng các dây sợi dệt tấm Nam-sử này c̣n dài, người dệt
tuy phải lúc đau yếu, bỏ ngừng công-việc, nhưng c̣n mong có ngày
khỏe- mạnh lại dệt thêm, có lẽ lại dệt được tốt đẹp hơn, cũng chưa
biết chừng.
Mặc dù nước Việt-nam hiện nay được hoàn toàn độc-lập nhưng sự
hay-dở tương-lai chưa biết ra thế nào? Song người bản-quốc phải biết
rằng phàm sự sinh-tồn tiến-hóa của một nước, là ở cái chí-nguyện, sự
nhẫn-nại và sự cố-gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết sức mà
học-tập, mà giữ cái tâm-trí cho bền-vững th́ chắc tương-lai c̣n
nhiều hi-vọng. Nước Việt-nam ta đă có cái văn-hóa chẳng thua-kém ǵ
ai, và lại có một lịch-sử vẻ- vang, nếu ta biết lợi-dụng cái
tiềm-lực cố hữu và cái tính thông-minh hiếu học của ta để theo thời
mà tiến-hóa, th́ sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông
cha mà dệt thêm một đoạn lịch-sử mỹ-lệ hơn trươc?
Có một điều thiết-tưởng nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều
hay của ta đă có, bỏ những điều hủ-bại đi, và bắt-chước lấy những
điều hay của người, để gây lấy cái nhân-cách đặt-biệt của dân-tộc ta
và cùng tiến với người mà không lẫn với người. Muốn được như thế, ta
phải biết phân-biệt cái hay cái dở, không ham muốn những cái
huyền-hăo bề ngoài, rồi đồng tân hiệp lực với nhau mà làm mọi việc
cho thành cái hiệu-qủa mỹ-măn.
Nước nào cũng có lúc bĩ lúc thái, đó là cái công-lệ tuần-hoàn của
tạo-hóa trong thế-gian. Tự xưa chưa thấy có nước nào cứ thịnh măi
hay cứ suy măi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người trong nước cứ vững ḷng
giữ được cái nghi-lực để sinh-tồn và tiến-hóa, th́ rồi thế nào cũng
có ngày chấn-khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một ḍng-dơi nhà
Hồng-Lạc, nếu ta biết kiên tâm bền chí, th́ há lại không có một ngày
ta có cái địa-vị vẻ-vang với
Những Sách Soạn Giả Dùng Để Kê Cứu
A. Sách Chữ Nho Và Chữ Quốc Ngữ:
1. Đại-Việt sử-kư, của Ngô Sĩ-Liên
2. Khâm-định Việt-sử Thông-giám cương-mục
3. Trần-triều thế-phổ hành trạng
4. B́nh Nguyên công-thần thực lục
5. Hoàng Lê nhất thống chí
6. Lịch-triều hiến-chương, của Phan huy Chú
7. Đại Nam thực lục tiền biên
8. Đại Nam thực lục chính biên
9. Đại Nam thống chí
10. Đại Nam chính biên liệt truyện
11. Đại Nam điển lễ toát-yếu, của Đỗ văn Tâm
12. Minh-mệnh chính yếu
13. Quốc-triều sử toát-yếu, của Cao xuân Dục
14. Thanh-triều sử-kư
15. Trung-quốc lịch-sử
16. Hạnh-Thục ca, của bà Nguyễn nhược Thị
B. Sách Chữ Pháp :
1. Cours d'Histoire Annamite, par Trương vĩnh Kư
2. Notion d'Histoire d'Annam, par Maybon et Ruissier
3. Pays d'Annam, par E. Luro
4. L'Empire d'Annam, par
Gosselin
5. Abrégé de l'Histoire d'Annam, par Shreiner
6. Histoire de la Cochinchine, par P.Cultru
7. Les Origines du Tonkin, par J. Dupuis
8. Le Tonkin de 1872 à 1886, par J. Dupuis
9. La Vie de Monseigneur Puginier, par E. Louvet
10. L'insurrection de
Gia-định, par J. Silvestre
(Revue Indochinoise - Juillet-Aout 1915)
163 Hải Dương và Quảng An
164 Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang rồi cho binh thuyền đi cướp
phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.
165 Có sách chép là Hoàng Tá Viêm.
166 Sách "L'Empire d'Annam" của capitaine Ch. Gosselin.
167 Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) có làm quyển sách "Le Tonkin de 1872
à 1886) kể những công việc của ông ấy ở Bắc Việt, và nói rơ t́nh ư
của các quan coi việc Súy Phủ ở Sài G̣n lúc bấy giờ là thế nào. Ta
cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra được nhiều việc rất là tường tận
168 Tờ ḥa ước năm giáp tuất 1874
169 Độc giả hiểu cho rằng những ngày tháng chép trong sách này là
theo ngày tháng Việt Nam chứ không phải là theo ngày tháng Tây.
170 Về sau có bài Chính Khí Ca nói về việc quan ta giữ thành Hà Nội
lúc bấy giờ, và ai hay ai dở cũng chép rơ ràng. Bài ca ấy không biết
ai làm.
171 Những chuyện ở trong Triều lúc bấy giờ, phần nhiều là lấy ở
quyển "Hạnh Thục Ca", của Lễ Tân Nguyễn Nhược thị. Bà ấy là một
người cung phi của vua Dực Tông sau lại làm thư kư cho bà Từ Dụ, cho
nên những việc trong triều bà ấy biết rơ được rơ.
172 Dục Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông
Hoàng con nuôi vua Dực Tông gọi là Dục Đức đường, Chánh Mông đường,
v.v.... Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong th́ người ta cứ lấy tên
nhà học mà gọi.
173 Résident tức là lưu trú quan, nhưng lúc bấy giờ ta chưa quen
dùng chữ ấy, và nhân có chữ consul cho nên mới dùng chữ công sứ.
174 Mỗi một lữ đoàn (brigade) có hai vệ quân, độ chừng bảy tám
ngh́n người, có chức thiếu tướng coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn
(division), có chức trung tướng coi.
175 Có chuyện nói rằng: Khi vua Kiến Phúc se ḿnh, nằm trong điện,
đêm thấy Nguyễn Văn Tường vào trong cung, ngài có quở mắng. Đến ngày
hôm sau, th́ ngài ngộ thuốc mà mất.
176 Tức là ải Chi Lăng ngày trước.
177 Việc Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp ở Huế, sử ta không nói rơ
số quân ta là bao nhiêu. Mà sách Tây có nơi chép là 2 vạn, có nơi
chép là 3 vạn. Nhưng cứ những người biết việc ở Huế lúc bấy giờ, th́
quân ta cả thảy độ chừng non 2 vạn trở lại, chứ không hơn.
178 Khiêm Lăng là lăng của vua Dực Tông, có khi gọi là Khiêm Cung
cũng là đấy.
179 Trường Thi thủa ấy bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây
số.
180 Trương Quang Đản trước làm tổng đốc Bắc Ninh, chống nhau với
quân Pháp, sau về Kinh phải giáng xuống tuần phủ ra giữ thành Quảng
Trị.
181 Người ở La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, con quan nguyên bố chính Lê Kiên.
182 Tôn Thất Thuyết đi đường thượng đạo ra vùng Hưng Hóa rồi theo
thượng lưu sông Đà lên Lai Châu nương tựa vào họ Điêu. Đến lúc nghe
tiếng quân Pháp lên đánh, liền bỏ họ Điêu mà trốn sang Tàu. Con cháu
họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên đến Lai Châu
c̣n có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần hết.
Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một
người như thế mà làm đại tướng để giữ nước, th́ tài ǵ mà nước không
nguy được Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.
183 Sách ông Gosselin chép là Phạm Thuận. Nhưng xét trong sử nước
th́ không có ai làm Phạm Thuận, chỉ có Nguyễn Phạm Tuân trước làm
tri phủ, sau theo vua Hàm Nghi chống cự với quân Phá, rồi bị đạng
phải bắt. Vậy Phạm Thuận tức là Nguyễn Phạm Tuân. nhiều việc, vả lại
nay đi kinh lược chỗ này, mai đi kinh lược chỗ nọ, thành ra khí lược
suy nhược đi, cho nên mới cảm bệnh nặng, đến ngày rằm tháng 10 năm
Bính Tuất (11 tháng 11 năm 1886) th́ mất. Nhà nước đem linh cữu về
Pháp mai táng.
184 Những chuyện nói về việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở
trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin, cho nên những tên
làng tên đất nói ở đoạn này viết không được đúng dấu. Nhưng đại để
là những làng mường ở vùng sông Giai, thuộc huyện Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng B́nh.
185 Hiện nay vua Hàm Nghi c̣n ở Algérie, và đă lấy một người nước
Pháp, được mấy đứa con.
186 Hai bức thư ấy dịch ra chữ Pháp in ở trong sách "Empire
d'Annam" của đại úy Gosselin. Lời lẽ th́ thật là cương nghị đáng bậc
thiếu niên anh hùng. Nhưng v́ thư đă dịch ra chữ Pháp nếu nay lại
theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta th́ sợ không đúng với bản chính, cho
nên không đem vào đây.
187 Việt Minh là tên gọi tắt một đảng cách mệnh gọi là Việt Nam Độc
Lập Đồng Minh do đảng Cộng sản lập ra khi c̣n ở bên Quảng Tây, bên
Tàu, để tránh hai chữ Cộng sản cho người ta khỏi ngờ
188 Có một điều rất kỳ, là viên thống sứ Bắc Kỳ là người đại biểu
chính phủ Bảo hộ mà lại kiêm chức Kinh Lược Sứ là một chức quan của
Triều Đ́nh ở Huế.
189 Trước tôi đă dự bị viết một quyển sách nối theo sách này. Tôi
đă thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Chẳng may đến cuối năm bính
tuất (1946) có cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi bị đốt cháy, sách
vỡ mất sạch, thành ra đành phải bỏ quyển sử ấy mà không làm được
nữa. thiên-hạ hay sao? Sự ước-ao mong-mỏi như thế là cái nghĩa vụ
chung cả chủng-loại Việt-nam ta vậy.
CHƯƠNG VIII
Giặc giă ở trong nước
1. Việc rối-loạn trong nước
2. Giặc Tam-đường
3. Giặc châu-chấu
4. Giặc tên Phụng
5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ
1. Việc rối-loạn trong nước.
Vua Dực-tông vốn là ông vua có ḷng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay
từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đă sai ông Nguyễn
Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản
làm Kinh-lược đại-sứ B́nh-định, Phú-yên, Khánh- ḥa và B́nh-thuận;
Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An và
Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm
ăn của dân gian, có điều ǵ hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
Tuy vậy mặc ḷng, không có đời nào lắm giặc giă bằng đời ngài làm
vua. Chỉ được vài ba năm đầu th́ c̣n có hơi yên trị, c̣n từ năm tân
hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, th́ càng ngày càng nhiều
giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi v́ đất
Bắc-kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân t́nh cũng có nhiều người tưởng nhớ
đến tiền triều, nên chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là
gịng dơi nhà Lê, hoặc t́m một người nào giả nhận ḍng dơi nhà Lê,
rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.
Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh nhà
Thanh, đến khi giặc ấy tan th́ dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp
phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải
đi đánh dẹp luôn. ở trong nước th́ thỉnh thoảng lại có tai biến, như
nước lụt, đê vỡ, v. v. Ở Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả
huyện Văn-giang thành băi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề
nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.
2. Giặc Tam-đường.
Năm Tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng
nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức thắng đường, v. v... tục gọi là
giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái-nguyên, vua sai ông Nguyễn
đăng Giai ra kinh lược Bắc-kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được
chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến
cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất,
đất Bắc-kỳ lại có loạn.
3. Giặc châu-chấu.
Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy
Cự là ḍng dơi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà
Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao bá Quát, người làng Phú- thụy, huyện
Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức
giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn tây). Cao bá Quát có tiếng là người văn-
học giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ
quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở
vùng Sơn-tây và Hà-nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh-binh tỉnh
Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về chém tại
làng.
Nhân v́ mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều
châu-chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc
ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu-chấu.
Cao bá Quát chết đi rồi, Lê duy Cự c̣n quấy rối đến mấy năm sau mới
dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc,
nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn
Thượng- du.
4. Giặc tên Phụng.
Năm tân dậu (1861), quân nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh
Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có
tên Tạ văn Phụng, trước đă theo giáo-sĩ ra ngoại-quốc đi học đạo,
sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng-nam.
Đến tháng chạp th́ tên Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh
ḍng dơi nhà Lê, rồi tự xưng là minh-chủ, cùng với một người
đạo-trưởng tên là Trường làm mưu-chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở
Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh
lấy phủ Hải- ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các
tỉnh, để làm loạn ở Bắc-Kỳ.
Tháng ba năm nhâm-tuất (1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn
văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên-súy, lập tên
Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ, rồi nhập đảng với
tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, và vây
thành Bắc-ninh.
Bấy giờ quan bố chính ở Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố- chính
tỉnh Sơn-tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo
đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với
quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.
Phía đông th́ tên Phụng vây thành Hải-dương, tỉnh-thần dâng sớ
cáo-cấp. Triều đ́nh bèn sai quan Thượng-thư bộ H́nh là Trương quốc
Dụng ra làm tổng-thống Hải-an 163 quân-vụ, cùng với Phan tam Tỉnh,
Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra tiến-tiễu.
Lại sai Đào Trí làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi làm
Sơn-Hưng-Tuyên 164 tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc
ở Bắc-kỳ.
Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên th́ có giặc Nông và giặc Khách đánh phá,
tỉnh Tuyên Quang th́ có bọn tên Uẩn, tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu,
tỉnh Cao-bằng th́ bị tên Giặc Khách Lư hợp Thắng vây đánh, tỉnh
Bắc-ninh th́ có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả lên.
Vua Dực-tông sai Nguyễn tri Phương ra làm tây-bắc-tổng-thống quân-vụ
đại-thần, cùng với Phan đ́nh Tuyển và Tôn thất Tuệ ra đánh mặt
Bắc-ninh, Thái-nguyên và Tuyên-quang.
Tháng 3 năm quí-hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên-quang và
bắt được tên Uẩn đóng củi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri
Phương dẹp xong giặc ở Bắc-ninh, rồi đem binh lấy lại thành
Thái-nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá được
sào huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu Bạch-thông.
C̣n ở mặt Hải-dương và Quảng-yên, th́ tuy Trương quốc Dụng và Đào
Trí đă giải được vây cho thành hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt
bể c̣n mạnh lắm. Vua Dực-tông lại sai Nguyễn tri Phương làm
tổng-thống hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm hiệp-thống đem quân
ra đánh mặt ấy.
Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu-
tướng Bonard ở trong Nam-kỳ, ước hễ lấy được Bắc-kỳ th́ xin để nước
Pháp bảo-hộ. Nhưng v́ trong Nam-kỳ c̣n lắm việc, mà sự giảng ḥa với
Triều- đ́nh ở Huế đă sắp xong, cho nên thiếu-tướng không nhận. Đảng
tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể, để
làm sào huyệt,
Cuối năm quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500
chiếc thuyền ở đảo Các-bà và ở núi Đồ-sơn, có ư muốn đem quân vào
đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng may phải băo, thuyền đắm mất nhiều.
Quan đề-đốc là Lê quang Tiến và quan bộ-phủ Bùi huy Phan được tin ấy
liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê
quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.
Đến tháng 6 năm giáp-tí (1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp-
thống Trương quốc Dụng, quan tán-lư Văn đức Khuê, quan tán-tương
Trần huy Sách và quan chưởng-vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất
Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt
hại rất nhiều.
Tháng 4 năm ất-sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra
làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn
VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan
đề-đốc Mai Thiện quan tán-lư Đặng trần Chuyên, quan đốc-binh Ông ích
Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về giữ mặt
Hải-ninh.
Tháng 7 năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích
Khiêm đem binh ra Quảng-yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm-châu để
đánh lấy lại thành Hải-ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc
thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên
Phụng, tên Ước th́ chạy vào mạn Quảng-b́nh, Quảng-trị, c̣n những đồ
đảng, đứa th́ phải bắt, đưa th́ chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên
Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.
Giặc Phụng khởi từ cuối năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu
(1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều.
Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp gần xong, th́ ở mạn Cao-bằng đă có
giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Vơ trọng B́nh và quan
tuần-phủ Phạm chi Hương đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh
các nơi, từ tháng 9 năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần
(1866), th́ tướng giặc là Trương cận Bang mới xin về hàng, và mới
thu phục lại được thành Cao-bằng.
Nguyễn tri Phương và Vơ trọng B́nh về Kinh coi việc triều-chính.
5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành.
Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, th́ Kinh-đô lại có việc làm cho
náo động ḷng người.
Nguyên vua Dực-tông là con thứ mà được nối ngôi, là v́ người anh
ngài là Hồng Bảo phóng đăng, không chịu học hành cho nên không được
lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn đồ-mưu với một nước ngoại
quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi
uống thuốc độc mà chết. C̣n con ông th́ được tha mà phải đổi tên là
Đinh Đạo
Đến năm bính dần (1866) là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây
Vạn-niên-cơ tức là Khiêm-lăng bây giờ, quân-sĩ phải làm lụng khổ sở,
có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là
Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn Trương trọng Ḥa, Phạm Lương kết
làm " Sơn- đông-thi-tửu-hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua.
Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn-niên-cơ và cùng
với qua hữu-quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.
Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch,
chực xông vào điện giết vua Dực-tông. May nhờ có quan chưởng-vệ là
Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực
và cả bọn đồng đảng.
Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn thất Cúc th́ tự vẫn chết, c̣n các quan
có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.
Lúc ấy ngoài th́ có giặc cướp phá, trong th́ có nghịch-thần làm
loạn. Ở mặt Quảng-nghĩa lại có giặc mọi Đá-vách cứ hay xuống quấy
nhiễu dân- gian, may nhờ có quan tiểu-phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp
mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó. Ở
Bắc-kỳ th́ có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh
không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đ́nh cũng bối rối
không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ.
Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài th́ đánh nhau với nước
Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều đ́nh phải bỏ Kinh-đô mà
chạy; trong th́ có giặc Thái-b́nh nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua
nhà Thanh cũng đổ nát.
Nguyên từ năm Đạo-quang thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta
năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng-tây có tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương
tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lư tú Thành, nổi lên xưng là Thái-b́nh
thiên-quốc, rồi chiếm cứ đất Kim-lăng và các tỉnh phía nam sông
Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lư hồng
Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho
đến năm Đồng-trị thứ hai là năm quí-hợi (1863) tức là bên ta năm
Tự-đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái-b́nh, Hồng
tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đ́nh nhà Thanh lại thu phục
được các tỉnh phía nam nước Tàu.
Lúc ấy có dư đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang
nước ta, trước c̣n nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các
tỉnh, quan quân đánh măi không được. Năm mậu-th́n (1868) là năm
Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đ́nh sai
quan tổng-đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin
quân Tàu sang tiểu-trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí đem quân
sang cùng với quan tiểu-phủ Ông ích Khiêm và quan đề-đốc Nguyễn viết
Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm
ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn, quan tham-tán Nguyễn Lệ, quan phó
đề-đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan thống-đốc Phạm chi Hương bị
bắt.
Triều-đ́nh sai Vơ trọng B́nh ra làm Hà-ninh tổng-đốc kiêm chức
Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ khâm-sai đại-thần, để hội với quan đề-đốc
tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài mà đánh giặc Ngô Côn.
Quân hai nước cùng đồng sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869)
th́ mới khôi phục lại được tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh-
ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh-thành Bắc-ninh, quan
tiểu- phủ Ông ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan
quân giặc.
Ngô Côn tuy chết, song c̣n có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu
cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi,
hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên,
quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả. Triều-đ́nh sai quan
trung-quân Đoàn Thọ ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.
Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh-thành Lạng-sơn, bọn
giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết
đi, c̣n Vơ trọng B́nh th́ vượt thành chạy thoát được.
Tin ấy vào đến Huế, Triều-đ́nh vội vàng sai Hoàng kế Viêm 165 ra
làm Lạng-B́nh-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại thần, cùng với quan
tán-tương Tôn thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua tháng tư năm sau
(1871), nhà vua lại sai quan H́nh-bộ thượng-thư là Lê Tuấn làm chức
Khâm-sai thị-sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.
Tháng 11 năm tân-mùi (1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng Tề nổi
lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh
thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn-tây, Lê Tuấn
ra cùng với tỉnh thần Hải-dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít
lâu, quân thứ-tỉnh Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm,
dư-đảng giặc ấy đều tan cả. Ở mạn thượng-du th́ đảng cờ đen là bọn
Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy-nhiễu ở đất
Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng
ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn-hại, đảng cờ đen về
hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho đất ở Lao-kay,
được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng
ở mạn Hà-giang.
Đất Bắc-kỳ cứ giặc-giă măi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà
không yên được. Đến tháng 7 năm nhâm-thân (1872), Triều-đ́nh lại sai
Nguyễn tri Phương làm Tuyên-sát đổng-sức đại-thần ra thay mặt vua
xem- xét việc đánh giặc ở Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở
trong nước chưa xong, th́ sự giao-thiệp với nước Pháp đă sinh ra lắm
nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.
Chương IX
Quân Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần
Thứ I
1. Người Pháp t́m đường sang Tàu
2. Đồ-phổ-Nghĩa
3. Đại-úy Francis Garnier ra Hà-nội
4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873)
5. Lấy
mấy tỉnh ở Trung-châu
6. Đại-úy
Francis Garnier chết
7. Ông
Philastre ra Hà-nội
8.
Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874)
1. Người
Pháp t́m đường sang Tàu.
Từ khi
nước Pháp lấy xong đất Nam-kỳ rồi, Súy-phủ ở Sài-g̣n sửa-sang mọi
việc, và cho người đi xem xét t́nh thế và sông núi ở Trung-kỳ và
Bắc-kỳ để mở mang sự giao- thông. Lại có ư muốn t́m đường thông sang
nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm bính-dần (1866), thiếu-tướng De la
Grandière sai trung-tá Doudart de Lagrée cùng với đại-úy Francis
Garnier (Ngạc-nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông Mékong đi t́m
đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm mậu-th́n (1868), non hai năm trời,
ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân-nam. Nhưng chẳng may ông
ấy phải bệnh đau gan mà chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi
qua nước Tàu, rồi xuống Tàu thủy về Sài-g̣n.
Đến năm
canh-ngọ (1870) là năm Tự-đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau
với nước Phổ; quân Pháp thua, Pháp-hoàng là Nă-phá-luân đệ-tam bị
bắt. Dân nước Pháp bỏ đế-quốc mà lập Dân-chủ cộng-ḥa. Tuy ở bên
Pháp có sự chiến tranh, nhưng ở bên Viễn-đông này, quân Pháp vẫn giữ
vững đất Nam-kỳ. Vả Triều-đ́nh ở Huế c̣n bận dẹp giặc Khách ở
Bắc-kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi-thôi ǵ cả.
2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis).
Thuở ấy, có một người Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là
Đồ-phổ-Nghĩa mấy năm trước đă đi du lịch ở các tỉnh bên Tàu, để t́m
cách buôn-bán, biết có sông Hồng-hà từ đất Vân- nam chảy qua Bắc-kỳ
ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở
Vân-nam để chở đồ binh-khí sang bán.
Đồ-phổ-Nghĩa về cùng với một người Pháp nữa tên là Millot, buôn-
bán ở Thượng-hải, trù-tính việc chở binh khí sang Vân-nam, đoạn rồi
về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên này, Đồ-phổ-Nghĩa vào Sài-g̣n
xin Súy-phủ giúp thanh-thế cho để đi qua Bắc-kỳ. Viên thống-đốc
Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng d'Arhaud, có hứa với
Đồ-phổ-Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.
Đồ-phổ-Nghĩa sang Hương-cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu
con là Hồng-giang, Lao-kay và Sơn-tây chở đồ binh-khí và hàng-hóa
vào Quảng-yên. Trong lúc ấy hải-quân trung-tá Sénès đă đem tàu
Bourayne ra Bắc-kỳ, rồi lên Hải-dương, Hà-nội, Bắc-ninh đi xem các
nơi.
Trung-tá ở Bắc-ninh nghe tin bọn Đồ-phổ-Nghĩa đă đến Quảng-yên,
liền trở ra để cùng bàn với quan Khâm-sai Lê Tuấn về việc
thông-thương ở sông Hồng-hà.
Ông Lê Tuấn không có lệnh Triều-đ́nh, không dám tự-tiện, nói xin
đợi vài mươi hôm để có mệnh nhà vua ra sẽ hay.
Đồ-phổ-Nghĩa và Millot thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà-
nội, rồi thuê thuyền chở đồ lên Vân-nam. Bấy giờ là cuối năm
nhâm-thân (1872), là năm Tự-đức thứ 25. Thuyền của Đồ-phổ-Nghĩa đi
qua những đồn của quan ta, của giặc cờ vàng và giặc cờ đen đều vô sự
cả. Khi lên dến Vân- nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật
xuống, đến thánh tư năm quí- dậu (1873), th́ Đồ-phổ-Nghĩa và Millot
lại trở về đến Hà-nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. Millot th́
vào Sài-g̣n cho Súy-phủ biết t́nh-thế ở Bắc- kỳ, và nhân thể đem đồ
khoáng-vật sang bán ở Hương-cảng. C̣n Đồ-phổ- Nghĩa th́ ở lại
Hà-nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người Khách là Bàng
lợi Kư, Quan tá Đ́nh mua gạo, mua muối chở lên Vân-nam.
Bấy giờ luật nước ta cấm không cho chở muối sang Tàu, mà việc
thông-thương ở sông Hồng-hà cũng chưa định rơ thế nào, nhưng Đồ-phổ-
Nghĩa tự xưng là có lệnh quan Tàu cho, th́ không cần phải theo luật
nước Nam, v́ nước Nam là một nước phải thần-phục nước Tàu.
Đồ-phổ-Nghĩa không hiểu rơ sự giao-thiệp nước Tàu và nước ta ngày
trước. Đối với Tàu th́ bề ngoài nước ta tuy xưng cống-thần, nhưng kỳ
thực vẫn là độc-lập. Khi có việc ǵ, phải có sứ hai nước sang
thương-nghị rồi mới thi hành. Mà có khi sứ nước Tàu bàn sang điều
ǵ, nước ta không thuận cũng thôi, chứ không có phép tự-tiện mà làm
được. Chỉ trừ lúc nào nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt-nạt, như đời nhà
Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh, th́ lại có ông Trần hưng Đạo, ông Lê
thái Tổ và ông Nguyễn quang Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước
Nam vốn không phải đất thuộc-địa của Tàu.
Tuy vậy, quan ta phải nể Đồ-phổ-Nghĩa là người nước Pháp, sợ có
việc ǵ, th́ thành ra bất-ḥa với Súy-phủ ở Sài-g̣n, cho nên cứ dùng
lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm điều trái với luật nước. Nhưng
ông ấy cứ một niềm tự ư ḿnh mà làm. Quan ta nhờ cả Giám-mục
Puginier là Kẻ-sở lên can cũng không được.
Sau quân ta có bắt mấy tên Khách Bành lợi Kư và Quan tá Đ́nh về sự
đem thuyền chở muối và gạo lên Vân-nam, th́ Đồ-phổ-Nghĩa đem người
đi bắt quan pḥng-thành Hà-nội và quan huyện Thọ-xương, đem xuống
thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không biết ra thế nào. Một
bên th́ cố t́nh sinh sự, một bên th́ mệnh nhà vua ra không được lôi
thôi điều ǵ.
Bấy giờ Triều-đ́nh sai quan hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đ́nh B́nh
làm khâm-phái ra giao cho ông Nguyễn tri Phương phải thu-xếp cho yên
chuyện ấy. Ông Nguyễn tri Phương mới sai quan bố-chính là Vũ Đường
định ngày mời Đồ-phổ-Nghĩa đến hội-quán Quảng-đông, để hội nghị. Khi
hai bên đến hội-đồng, quan ta nói rằng sự giao-thiệp nước Pháp với
nước Nam đă có tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất (1862), và sự đem muối và
gạo lên bán ở Vân- nam là trái với tờ ḥa-ước ấy, và lại trái với
luật bản-quốc. Đồ-phổ-Nghĩa căi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là
đủ, không cần phải xin phép ǵ nữa, rồi đứng dậy ra về.
Triều-đ́nh ở Huế thấy việc lôi thôi măi, sợ để lâu thành ra nhiễu
sự, mới sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường và ông Nguyễn tăng
Doăn vào sứ Sài-g̣n, để thương-nghị về việc ba tỉnh phía tây đất
Nam-kỳ và nhân thể nhờ Súy-phủ phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa cho xong.
3. Đại-úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà-nội.
Viên Thống-đốc Nam-kỳ bấy giờ là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn đă
lưu ư về việc Bắc-kỳ. Trước đă viết thư về cho Thượng-thư
thuộc-địa-bộ ở Paris nói rằng: " Đất Bắc-kỳ là đất tiếp-giáp với
những tỉnh tây-nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy th́ sự cai-trị của
ta ở Viễn-đông này mới được chắc chắn " .
Nhưng bên Pháp bấy giờ mới đang đánh nhau với nước Phổ vừa xong,
không muốn gây chuyện khác, bèn điện sang cho thiếu-tướng rằng:
"Không được sinh sự ở Bắc-kỳ." Đến khi Millot về Sài-g̣n kể công
việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói rằng: " Việc
Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ đă thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc-kỳ và
giữ lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành
công chắc lắm ". Ngay hôm ấy, thiếu-tướng lại viết thêm một cái thư
về nói rơ mọi lẽ, và quyết rằng xin chính-phủ để cho thiếu-tướng
được tự tiện, hễ có việc ǵ th́ thiếu-tướng xin chịu lỗi166.
Đang lúc ấy th́ Triều-đ́nh ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin thiếu-
tướng ra điều-đ́nh việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ.
Cứ như ư của thiếu-tướng Dupré điện về cho chính-phủ Pháp th́
thiếu-tướng chỉ mong có cái cơ-hội ǵ để đem quân ra Bắc-kỳ. Nay
thấy Triều-đ́nh ta vào nhờ Súy-phủ ở Sài-g̣n phân-xử việc
Đồ-phổ-Nghĩa, thật là gặp được cái dịp ḿnh đang mong, thiếu-tướng
liền gọi quan hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, rồi
sai ra Hà-nội, nói rằng ra phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa167.
Đại-úy Francis Garnier đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra
đến cửa Thuận, nghỉ lại mấy hôm để đợi quan khâm-sai cùng ra Bắc-kỳ.
Đến tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ các quan ra đến Hà-nội.
Bấy giờ ai cũng tưởng là đại-úy Francis Garnier ra chuyến này th́
mọi việc xong cả, cho nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp-đăi rất
trọng-hậu. Nhưng xem những thư-từ của đại-úy lúc bấy giờ, th́ cốt ra
có chủ ư khác. Khi ở Sài-g̣n sắp đi, đại-úy viết thư về cho người
anh ở bên Pháp nói rằng: " Lệnh của Súy-phủ cho, là được tự tiện.
Việc ǵ hải-quân thiếu-tướng cũng ủy-thác cho tôi cả. Vậy v́ nước
Pháp mà tôi phải cố sức." Đến khi ra đến Hải-dương, đại-úy vào ở
Kẻ-sặt, rồi viết thư sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho
ông ấy biết cái chủ đích của ḿnh, và lại nói rằng trăm sự đại-úy
trông-cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi v́ ông ấy đă quen biết mọi
việc ở Bắc-kỳ.
Đồ-phổ-Nghĩa tiếp được thư, liền đem chiếc tàu Man-hao đi đón đại-
úy. Lên đến Hà-nội, đại-úy đem mấy người đi thẳng vào thành ra mắt
ông Nguyễn tri Phương, và đ̣i đem quân ra đóng ở trong thành. Quân
ta nói măi, Đại-úy mới thuận ra đóng ở Trường-thi. Đoạn rồi đại-úy
viết thư mời giám-mục Puginier ở Kẻ-sở lên Hà-nội, để nhờ làm
thông-ngôn. Đại-úy lại làm tờ hiểu-dụ, cho dân biết, nói rằng: "
Bản-chức ra Bắc-kỳ cốt để dẹp cho yên giặc-giă, và để mở-mang sự
buôn-bán.
4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873).
Quan ta thấy đại- úy không nói ǵ đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói
những việc dẹp-giặc và mở sự buôn-bán, th́ đều lấy làm phân-vân. Sau
lại thấy tàu và quân ở Sài- g̣n tiến ra, quan ta lại càng lo lắm.
Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi ǵ đến quan ta, tự-tiện làm tờ
tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho và
nước Tàu được ra vào buôn-bán.
Quan ta lúc bấy giờ cũng bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buôn-
bán với nước Pháp th́ đă định rơ trong tờ ḥa-ước năm nhâm-tuất
(1862), nay thấy đại-úy Francis Garnier đường đột làm như thế, th́
cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách pḥng-bị. Mà đại-úy cũng
đă biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đă định
kế đánh thành Hà-nội.
Đến đầu tháng 10, một mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri
Phương, trách quan ta làm ngăn-trở việc buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa;
vậy v́ sự văn-minh và cái quyền-lợi của nước Pháp, cho nên Súy-phủ ở
Sài-g̣n sai đại-úy ra mở sự buôn-bán ở Bắc-kỳ. Dẫu quan Việt-nam có
thuận hay không cũng mặc, đại-úy cứ theo lệnh của Súy-phủ mà
thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh
thành và bắt ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-g̣n.
Cứ như sách của Đồ-phổ-Nghĩa, th́ lúc bấy giờ có cả những người mạo
xưng là đảng nhà Lê, cũng xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.
Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm quí-dậu (1873), th́ quân Pháp phát
súng bắn vào thành Hà-nội. Ông Nguyễn tri Phương cùng với con là
pḥ-mă Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được
non một giờ đồng hồ th́ thành vỡ, pḥ-mă Lâm trúng đạn chết, ông
Nguyễn tri Phương th́ bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được
ông Nguyễn tri Phương và quan khâm-phái Phan đ́nh B́nh đem xuống
tàu.
Ông Nguyễn tri Phương nghĩ ḿnh là một bậc lăo-thần thờ vua đă trải
ba triều, đánh nam dẹp bắc đă qua mấy phen, nay chẳng may v́ việc
nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông quyết chí không chịu
buộc thuốc và nhịn ăn mà chết.
Ông Nguyễn tri Phương là người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất
thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn
thanh-bạch, chỉ đem chí-lự mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải.
Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem thân hiến
cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất v́ việc nước. thật
là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy.
5. Lấy
mấy tỉnh ở Trung-châu.
Thành
Hà-nội thất thủ rồi, quan ta th́ trốn-tránh đi cả, giặc cướp lại
nhân dịp nổi lên. Đại-úy Francis Garnier lại cho những người theo
với ḿnh đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi lại sai
người đi đánh lấy tỉnh Ninh-b́nh, Nam-định và Hải-dương.
Quan ta ở
các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến
là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và 7
người lính tây mà hạ được thành Ninh-b́nh, và chỉ trong 20 ngày mà 4
tỉnh ở Trung-châu mất cả.
6. Đại-úy Francis Garnier chết.
Triều-đ́nh được tin biến ở Bắc- kỳ, vội-vàng sai ông Trần đ́nh Túc,
ông Nguyễn trọng Hợp, ông Trương gia Hội cùng với giám-mục B́nh (Mgr
Bohier) và linh-mục Đăng ( Dangelger) ra Hà-nội, để điều đ́nh mọi
việc và sai ông Hoàng kế Viêm ở Sơn-tây làm tiết- chế quân-vụ, để
pḥng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn-quyền, ông Nguyễn
văn Tường làm phó, vào thương-thuyết với Súy-phủ ở Sài-g̣n về việc
đại-úy Francis Garnier đánh Bắc-kỳ.
Lúc bấy giờ ông Hoàng kế Viêm đóng ở Sơn-tây, có đảng cờ đen là bọn
Lưu vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho Lưu vĩnh Phúc làm đề-đốc, để
cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu vĩnh Phúc đem quân về
đóng ở mạn phủ Hoài-đức. Khi ông Trần đ́nh Túc và ông Nguyễn trọng
Hợp đang thương-thuyết với đại-úy Francis Garnier, th́ quân cờ đen
về đánh Hà- nội. Đại-úy đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu-giấy th́
bị phục quân giết chết.
7. Ông
Philastre ra Hà-nội.
Nguyên
khi thiếu-tướng Dupré sai đại-úy Francis Garnier ra Bắc-kỳ là tự ư
ḿnh chứ chính-phủ nước Pháp vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin
đại-úy đă khởi sự đánh Hà-nội, thiếu- tướng liền sai hải-quân
đại-úy, khiêm chức thống-soái việc h́nh-luật ở Nam- kỳ, là ông
Philastre (ta gọi là Hoắc-đạo-sinh) cùng với qua phó-sứ nước ta là
ông Nguyễn văn Tường ra điều-đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ.
Đến
Cửa-cấm th́ ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường mới biết rằng
đại-úy Francis Garnier đă bị quân cờ đen giết mất rồi. Sử chép rằng
khi được tin ấy, ông Philastre tức giận vỗ bàn mà bảo ông Nguyễn văn
Tường rằng: " Việc không xong rồi, phải trở về đợi lệnh súy-phủ mới
được. " Ông Nguyễn văn Tường sợ ông Philastre giận quá mà nhỡ việc,
mới ung-dung mà nói rằng: " Việc đánh lấy thành Hà-nội súy-phủ bảo
không phải là bản-ư, mà quân bản-quốc ở 4 tỉnh Bắc-kỳ cũng không
tranh dành ǵ cả. Vậy hai bên không có làm điều ǵ trái nhau. Nay
đại-úy Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là v́ dân
nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rơ. Huống chi trả thành lại để
định ḥa-ước cho xong, ấy là lệnh của súy-phủ; mà thu lấy thành rồi
mới nghị-ḥa, ấy là mệnh của bản-quốc. C̣n như việc Hà-nội giết
đại-úy Francis Garnier th́ cũng như đại-úy Francis Garnier giết ông
Nguyễn tri Phương, việc đó xuất ư ư ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta
đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc ǵ cả, mới
nghe thấy tin báo mà đă bỏ về, thế chẳng hóa ra ḿnh đi uổng mất
công hay sao ? chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà-nội bảo đem tàu
xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà
làm, hoặc là xét rơ duyên-do tại sao mà đại-úy Francis Garnier chết,
rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao ? " Ông Philastre nghe
lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà-nội biết.
Ngay lúc
ấy có tàu " Decrès " c̣n đóng ở gần Đồ-sơn, ông Philastre muốn sang
tàu ấy để cho chiếc tàu ḿnh đi là "D'Estrées " trở về báo tin cho
Sài-g̣n biết. Nguyễn văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của ḿnh đă vào
cửa rồi lại trở ra, nhỡ sĩ-dân biết, lại bắt chước Hà-nội mà làm
bậy, th́ làm thế nào mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn-hại, th́ lấy
lẽ ǵ mà bẩm với quí súy. Vậy nay xin sai chiếc tàu "Decrès" ra bể,
đuổi đánh những giặc Tàu-ô, c̣n cứ đem tàu "D'Estrées" vào đến
Hải-pḥng, rồi ta lên Hải-dương, đem trả tỉnh-thành lại cho
bản-triều, để tỏ cái ḷng tin cho sĩ-dân biết, sau ta lên Hà- nội,
trả nốt cả mấy thành kia, và tra-hỏi việc đại úy Francis Garnier
chết ra thế nào sẽ bẩm cho quí-súy biết " .
Ông
Philastre vốn là một người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn văn
Tường nói hợp-lẽ, bèn thuận nghe, và lên Hải-dương truyền trả thành
lại cho quan ta, rồi lên Hà-nội làm tờ giao-ước trả lại cả 4 thành
cho quan ta coi giữ. C̣n những tàu bè và quân lính của Pháp ở các
tỉnh th́ thu cả về Hà- nội, rồi đinh ngày rút quân ra đóng ở
Hải-pḥng đợi đến ngày kư tờ ḥa-ước xong th́ rút về. Bấy giờ là
tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự- đức thứ 27.
Đồ-phổ-Nghĩa thấy ông Philastre phá mất cả những việc của ḿnh đă
làm với đại-úy Francis Garnier, bèn vào Sài-g̣n kêu với súy-phủ và
đ̣i tiền phí-tổn non một triệu nguyên
8.
Ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).
Mọi việc
ở Hà-nội xếp-đặt xong rồi, súy-phủ ở Sài-g̣n sai ông Rheinart (Lê
Na) ra thay cho ông Philastre cùng với ông Nguyễn văn Tường về
Nam-kỳ, định sự ḥa-ước cho kịp ngày thiếu-tướng Dupré về Pháp.
Ngày 27
tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải-quân
thiếu-tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường kư tờ ḥa-ước
cả thảy 22 khoản, đại-lược có những khoản này là quan trọng hơn cả.
Khoản II.
Quan thống-lĩnh nước Pháp nhận quyền độc-lập của vua nước Nam không
phải thần phục nước nào nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc
ǵ để đánh dẹp giặc giă, th́ nước Pháp sẵn ḷng giúp mà không
yêu-cầu điều ǵ.
Khoản
III. Vua nước Nam phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của
nước Pháp, và chính-lược ngoại-giao hiện lúc bấy giờ thế nào th́
phải để nguyên như thế, không được đổi khác đi
Quan
thống-lĩnh nước Pháp tặng vua nước Nam:
1. 5
chiếc tàu có đủ máy-móc súng-ống
2. 100
khẩu súng đại-bác, và mỗi khẩu có 200 viên đạn
3. 1000
khẩu súng tay và 5000 viên đạn
Khoản IV.
Quan thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy
tập lính thủy, lính bộ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và
cho những người giỏi việc tài chính sang tổ-chức việc thuế-má và
việc thương-chính v. v.
Khoản V.
Vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ cho nước Pháp.
Khoản IX.
Vua nước Nam phải để cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng-đạo, và cho dân
trong nước được tự-do theo đạo.
Khoản XI.
Vua nước Nam phải mở cửa Thị-nại ( Qui-nhơn ), của Ninh-hải (
Hải-pḥng ), thành Hà-nội và sông Hồng-hà, cho ngoại quốc vào
buôn-bán.
Khoản
XIII. Nước Pháp được quyền đặt lĩnh-sự ở các cửa bể và các thành-
thị đă mở ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.
Khoản XV.
Người nước Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của
quan lĩnh-sự Pháp và có chữ quan Việt-nam phê nhận th́ được phép đi
xem các nơi ở trong nước.
Khoản
XVI. Người nước Pháp và người ngoại quốc có điều ǵ kiện tụng tại
đất Việt-nam, th́ do lĩnh-sự Pháp phân-xử.
Khoản XX.
Khi nào tờ ḥa-ước này kư xong, th́ quan thống-lĩnh nước Pháp đặt
sứ-thần ở Huế để chiếu những điều đă giao-ước mà thi hành. Vua nước
Nam cũng được quyền đặt sứ-thần ở Paris và ở Sài-g̣n.
Tờ
ḥa-ước ấy kư xong, th́ quan chánh-sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn văn
Tường về Huế. Thiếu-tướng Dupré giao mọi việc ở Nam-kỳ cho hải-quân
thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.
Tháng 6,
Triều-đ́nh ở Huế lại sai quan h́nh-bộ Thượng-thư là Nguyễn văn Tường
và quan lại-bộ thị-lang là Nguyễn tăng Doăn, vào Sài-g̣n cùng với
thiếu-tướng Krantz định các lệ về sự buôn-bán ở nước Nam. Đến 20
tháng 7, th́ tờ thương-ước lập xong.
CHƯƠNG X
T́nh thế
nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau
1.
Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh
2. Giặc ở
Bắc-kỳ
3. Sự
giao-thiệp với Tàu
4.
T́nh-thế nước Tàu
5. Sự
giao-thiệp với nước Pháp
1.
Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh.
Nhờ có
ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong,
th́ ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.
Nguyên
lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên
giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi sảy ra việc đại-úy Francis
Garnier lấy Hà-nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ-tĩnh thấy giáo-dân có
nhiều người theo giúp ông ấy, th́ lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau
nổi lên đánh phá.
Tháng
giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai
người tú-tài là Trần Tấn và Đặng như Mai hội-tập cả các văn- thân
trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là " B́nh Tây sát tả ", đại lược
nói rằng " Triều-đ́nh dẫu ḥa với với Tây mặc ḷng sĩ-phu nước Nam
vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh
đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn-hóa của ta đă hơn 1000
năm nay, v. v..." Bọn Văn- thân cả thảy độ non hơn ba ngh́n người,
kéo đi đốt phá những làng có đạo.
Nước ta
mà không chịu khai-hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ-phu
cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự
suy-nhược của ḿnh đă sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt
ra mà nh́n, lại v́ sự tức giận một lúc mà việc nông-nỗi càn-rỡ, để
cho thiệt hại thêm, như thế th́ cái tội trạng của bọn sĩ-phu đối với
nước nhà chẳng to lắm ru!
Lúc bấy
giờ quan tổng-đốc Nghệ-an là ông Tôn thất Triệt lại có ư dung-túng
bọn Văn-thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều-đ́nh thấy
vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn-thân thấy
quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần quang Hoán, Trương
quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành Hà-tĩnh, rồi ra vây phủ
Diễn-châu.
Triều-đ́nh thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn
Tường ra làm khâm-sai và ông Lê bá Thận làm tổng-thống, đem quân ra
đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.
2. Giặc ở
Bắc-kỳ.
Thuở ấy ở
mạn Thượng-du đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh măi
không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.
Mạn
Hải-dương và Quảng-yên th́ vẫn có những người mạo xưng là con-cháu
nhà Lê, cứ quấy-rỗi măi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà-nội, những
người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng v́ sau nước Pháp trả lại
các tỉnh ở Bắc-kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đă
kư ḥa-ước rồi, quan Pháp có đem binh-thuyền đi đánh giúp, cho nên
mới diệt được đảng ấy.
C̣n ở mạn
Tuyên-quang, th́ có giặc cờ vàng nhũng-nhiễu đă lâu. Quan quân phải
đánh dẹp măi không được. Đến tháng 8 năm ất-hợi (1875), là năm
Tự-đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng sùng Anh đem quân về đóng ở
làng Châu-thượng, thuộc phủ Vĩnh-tường. Bấy giờ quan quân tán-dương
quân-vụ tỉnh Sơn-tây là Tôn thất Thuyết về đánh một trận. Giặc ấy từ
đó tan dần.
Năm sau
Tôn thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ-loa, và dẹp
yên được ở mạn Sơn-tây. Nhưng đến năm mậu-dần (1878), ở Lạng- sơn
lại có tên giặc Khách là Lư dương Tài nổi lên.
Lư dương
Tài trước làm quan hiệp-trấn ở Tầm-châu, thuộc tỉnh Quảng-tây, sau
bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh
Lạng-sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan đề-đốc
Quảng-tây là Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta
hội- tiễu. Đến tháng 9 năm kỷ-măo (1879), quan quân mới bắt được Lư
dương Tài ở núi Nghiêm-hậu thuộc tỉnh Thái-nguyên đem giải sang Tàu.
V́ đất
Bắc-kỳ cứ có giặc giă luôn cho nên Triều-đ́nh đặt ra chức
Tĩnh-biên-sứ để giừ các nơi về đường ngược. Năm canh-th́n (1880),
đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai viên Tĩnh-biên phó-sứ
là Trương quang Đản đóng ở Lạng-giang và Nguyễn hữu Độ đóng ở
Đoan-hùng, lại phong cho Hoàng kế Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai
đạo .
3. Sự
giao-thiệp với Tàu.
Nước ta
từ xưa đến nay tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu,
lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi
chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, th́ rồi nhà nào lên làm
vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm
tự-nhiên v́ rằng triều-cống cũng không tổn hại ǵ mấy, mà nước vẫn
độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng
mạnh hơn ḿnh. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ
sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.
Các vua
đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước th́ vua phải
ra Hà-nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong cho. Đến đời vua Dực- tông th́
sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài.
C̣n những
cống phẩm th́ cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan
Tổng-đốc Lưỡng-Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến
Yên-kinh. Trong đời vua Dực-tông th́ sử chép rằng năm mậu-th́n
(1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ
Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục, ông Hà văn
Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở
Bắc-kỳ.
Từ năm
giáp-tuất (1874) trở đi, Triều-đ́nh ở Huế đă kư tờ ḥa-ước với Pháp,
công nhận nước Nam độc-lập, không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc
bấy giờ v́ thế bất-đắc-dĩ mà kư tờ ḥa-ước, cứ trong bụng vua
Dực-tông vẫn không phục, cho nên ngài vẫn cứ theo lệ cũ mà
triều-cống nước Tàu, có ư mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp ḿnh.
Bởi vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên tức là
ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm
canh-th́n (1880), lại sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn
Hoang sang Yên-kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống-phẩm. Năm
sau, Triều-đ́nh nhà Thanh sai Đường đ́nh Canh sang Huế bàn việc
buôn-bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ư là để thông tin cho chính
phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.
Một bên
đă ḥa với nước Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp
mà độc-lập 168 , một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ư để cầu viện,
bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đ́nh ta
vậy.
4.
T́nh-thế nước Tàu.
Xưa nay
ta vẫn công nhận nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống.
Hễ khi nào trong nước có việc biến- loạn và vẫn trông mong nước Tàu
sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước
bên Tây-âu mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà t́nh
thế nước Tàu th́ rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19 (1839) tức
là năm Minh-mệnh thứ 20 bên ta, v́ việc cấm thuốc nha- phiến ở
Quảng-đông thành ra có chiến-tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước
Anh đánh phá thành Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Vua Đạo Quang phải
nhận những điều ḥa-ước năm nhâm-dần (1842) làm tại Nam-kinh, nhường
đảo Hương-cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng-châu, Hạ-môn,
Phúc-châu, Ninh-ba và Thương-hải ra cho ngoại quốc vào buôn-bán.
Cuộc
ḥa-ước ở Nam-kinh định xong, các nước ngoại-dương vào buôn-bán ở
nước Tàu và đặt lĩnh-sự ở Quảng-châu, Ninh-ba, Thương-hải, v. v. Đến
năm Hàm-phong thứ 8 (1858), tức là năm Tự-đức thứ 11, nước Anh và
nước Pháp kư tờ ḥa-ước với nước Tàu, đặt sứ-thần ở Bắc-kinh. Đoạn
nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến-tranh với hai nước
ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải-khẩu, rồi kéo lên đánh
lấy Bắc-kinh. Vua Hàm-phong phải nhận những điều ḥa-ước năm
canh-thân (1860) làm tại Thiên-tân.
Từ đó
nước Tàu bị các nước khác sách-nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều
cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác ǵ cái nhà lớn đă bị hẩm-nát sắp
đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê-mộng là nước ấy c̣n cường thịnh,
có thể giúp ta được trong khi nguy-hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp
đă lấy Bắc-kỳ rồi, người ḿnh c̣n trông cậy ở quân cứu-viện của nước
Tàu. Phương-ngôn ta có câu rằng " Chết đuối vớ phải bọt " thật là
đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, th́ trước hết họ
hăy cứu lấy họ đă. Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ-phu
trong nước ta, ai là người hiểu rơ cái t́nh-thế ấy ? Cho nên không
những là ta không chịu cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại
c̣n làm những điều ngang-ngạnh để cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là
cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ lúc ấy cũng không
so tránh được cái lỗi của ḿnh vậy.
5. Sự
giao-thiệp với nước Pháp.
Từ khi
ông Philastre ra điều- đ́nh mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart
ra thay ở Hà-nội, đợi cho đến ngày kư ḥa-ước th́ chiếu mọi khoản mà
thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài-g̣n, giao
quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La- Đăng). Thiếu-tá có đem
binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương và Quảng-yên.
Đến khi
tờ ḥa-ước và tờ thương-ước đă kư xong th́ Triều-đ́nh sai ông Nguyễn
tăng Doăn ra Bắc-kỳ để cùng thiếu-tá Dujardin chọn đất ở Hà- nội và
ở Ninh-hải (Hải-pḥng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp
đóng, và lại sai quan thượng-thư bộ Hộ là ông Phạm phú Thứ ra làm
Hải-an tổng-đốc sung chức tổng-lư thương-chánh đại-thần, cùng với
ông Nguyễn tăng Doăn và ông Trần hi Tăng bàn định việc thương-chánh
ở Bắc- Kỳ.
Tháng 6
năm ất-hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm
khâm-sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh-sự ở Hải-pḥng, và ông Kergaradec
(Kê-la-đích) làm lĩnh-sự ở Hà-nội. Triều-đ́nh sai ông Nguyễn thành Ư
vào làm lĩnh sự ở Sài-g̣n.
Ông
Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm bính-tí (1876), th́ cáo bịnh xin về,
ông Philastre ra thay.
Triều-đ́nh lúc bấy giờ cũng đă hiểu rằng hễ không theo tân-học th́
không tiến-hóa được, cho nên mới định cho người đi du học. Năm
mậu-dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu-xảo ở Paris, vua sai
ông Nguyễn thành Ư và ông Nguyễn tăng Doăn đem đồ đi đấu-xảo và cho
người sang học ở Toulon.
Nhưng v́
năm tân-tị (1881), Triều-đ́nh lại sai quan Lễ-bộ thị-lang là Phạm
Bính sang Hương-cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát-
lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm-la và sang Tàu mà không cho sứ-thần
nước Pháp biết, bởi vậy chính-phủ Pháp lấy những điều đó mà trách
Triều-đ́nh ở Huế không theo ḥa-ước năm giáp-tuất (1874).
Khi ông
Philastre c̣n ở Huế, v́ ông ấy là một người công chính và lại có học
chữ Nho, cho nên Triều-đ́nh ta trọng-đăi và có điều ǵ trang-trải
cũng c̣n dễ. Từ năm kỷ-măo (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự
giao- thiệp càng ngày càng khó thêm: phần th́ v́ người ḿnh không
biết cách giao thiệp với ngoại-quốc, phần th́ cái quyền-lợi nước ta
và nước Pháp lúc bấy giờ tương-phản với nhau, cho nên hai bên không
có ḷng tin-cậy nhau, thành ra sự giao-thiệp không được thân-thiết
lắm.
Vả về
sau, sự cai-trị ở Nam-kỳ đă thành nếp, giặc giă đă yên cả; ở bên
Pháp th́ thế lực đă mạnh, và đă có nhiều người bàn đến việc bên
Viễn- đông này và việc bảo-hộ ở Bắc-kỳ. Lại nhân có những nước
I-ta-ly. I-pha- nho, Anh-cát-lợi và Hoa-kỳ muốn sang thông-thương
với nước Nam, mà có ư không muốn chịu để quan nước Pháp phân-xử
những việc can-thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn
lập hẳn cuộc bảo-hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan
hải-quân khiêm lĩnh chức thống-đốc ở Nam-kỳ, mà sai quan văn sang
sung chức ấy để trù-tính mọi việc.
Tháng 6
năm kỷ-măo (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang
nhận chức ở Sài-g̣n và ông Rheinart lại sang làm khâm-sứ ở Huế để
thay cho ông Philastre.
Bắc-kỳ
th́ người Pháp đă ra vào buôn-bán, nhưng v́ quan ta không biết lo sự
khai hóa, việc thông thương không được tiện-lợi, và ở mạn thượng-du
th́ có quân cờ đen tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ
thực chúng nó làm ǵ cũng không ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính-phủ
Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra
Bắc- kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn-bán, kỳ thực là ra kinh-doanh
việc ở vùng ấy.
CHƯƠNG XI
Quân Pháp
Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ II
1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội
2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai
3. Việc cầu cứu nước Tàu
4. Quân Pháp lấy Nam Định
1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội.
- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169, nhân có hai người Pháp tên là Courtin
và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần
Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc
Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng
binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ
(1882), một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa
binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng :
đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có
giấy thông hành của quân An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân
Khách ngăn trở. Ở Huế th́ quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ
Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của
người nước Pháp.
Được ít lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm
quân ra đến Hải Pḥng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.
2. Hạ thành Hà-nội lần thứ hai.
Quan tổng đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền
nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan
tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đăi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo,
cho nên mới sai sửa dọn thành tŕ để pḥng bị. Đại tá Henri Rivière
vào thành thấy vậy có ư không bằng ḷng, bèn quyết ư đánh thành.
Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc
tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải
binh, và các quan vơ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8
giờ th́ quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ th́ thành đổ. Ông Hoàng
Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, c̣n các quan th́ bỏ chạy cả.
Lúc tiếp được thư của đại tá, th́ ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ
là Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ
thang trèo xuống vừa xong, th́ quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy
bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai t́m ông Tôn Thất
Bá về quyền lĩnh mọi việc 170.
Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền
cho quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân
Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm t́m cách
chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc
đánh thành Hà Nội không phải là chủ ư của nước Pháp, và xin sai quan
ra giữ lấy thành tŕ. Triều đ́nh bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng
đốc là Trần Đ́nh Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là
Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri
Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng
vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Hai bên thương nghị măi. Đại tá đ̣i
4 khoản :
1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ
2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước Pháp
3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ
4 - sửa lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người
Pháp cai quản.
Bọn ông Trần Đ́nh Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đ́nh hội
nghị, các quan có nhiều người nói rằng : nước ta trong c̣n có Lưu
Vĩnh Phúc, ngoài c̣n có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả
lời không chịu.
Đến tháng 10 th́ ông Trần Đ́nh Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại
làm Hà Ninh tổng đốc.
3. Việc cầu-cứu nước Tàu.
Triều đ́nh ta bấy giờ nghĩ nước Pháp cố ư chiếm đoạt, và lại tưởng
rằng nước Tàu có thể bênh vực được ḿnh, cho nên mới sai ông Phạm
Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua
là người ḿnh có hay có tính ỷ lại, cho nên mới đi kêu cầu người
ta, chứ không biết rằng người Tàu giữ nước Tàu không xong c̣n đi cứu
ai được. Tuy vậy, không những người Tàu không cứu được ḿnh mà lại
c̣n muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước ḿnh. Xem như khi
thành Hà nội thất thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh
làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng : "nước Nam
và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn,
không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc
mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến th́ ta chiếm lấy
những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà". Bởi vậy triều đ́nh nhà Thanh
mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh
và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem
quân sang tiếp ứng.
4. Quân Pháp lấy Nam-định.
Chính phủ Pháp trước cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ
ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đ́nh ở
Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một
mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam Kỳ, để thay cho
ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá Henri
Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.
Nguyên trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại
tiếp được 750 người nữa, đại tá bèn để đại úy Berthe de Villers với
400 quân ở lại giữ Hà Nội, c̣n bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày
28 tháng 2 năm Quư Mùi (1883), th́ quân Pháp khởi sự đánh thành.
Đánh từ sáng dến trưa th́ quân Pháp vào thành; quan tổng đốc Vũ
Trọng B́nh bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ
Hồ Bá Ôn bị thương.
5. Đại tá Henri Rivière bị chết.
Quan ta thấy quân Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu,
bèn quyết ư đổi thế ḥa ra thế công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh
là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh
về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chực sang đánh Hà Nội. Đại
úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh đuổi, quan quân
phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan tiết chế Hoàng Kế Viêm sai
Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức, để đánh
quân Pháp.
Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta
và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt
phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 th́ đại tá đem 500 quân ra đánh ở
mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân
Pháp chết và bị thương đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử
trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.
Sài G̣n được tin đại tá Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson
liền điện về cho chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris hạ nghị
viện c̣n đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo
ở Sài G̣n về, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu
rưỡi phật lăng để chi tiêu về việc binh phí, và lại thuận cho một
viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lư mọi việc ở Bắc Kỳ.
Chính phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục quân thiếu tướng Bouet
ở Nam Kỳ ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Hải quân thiếu tướng
Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và lại cử ông Harmand
là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.
Ngày mồng 3 tháng 5, th́ thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300
lính tập ra đến Hải Pḥng. Lập tức thiếu tướng sửa sang sự chống giữ
ở Hà Nội và Nam Định, và lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là
người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm
tiền quân.
Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, Hải Pḥng và ở Nam
Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.
Quân ta bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba
trăm người cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát
đạn trái phá th́ xô đẩy nhau mà chạy; c̣n quân của nhà vua th́ không
có luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay th́ ít và xấu.
Như thế th́ chống làm sao được với quân Pháp là quân đă quen đánh
trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?
Bấy giờ cuộc ḥa đổi ra chiến, súy phủ ở Sài G̣n đuổi quan lĩnh sự
Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ư về Huế. Trong khi việc nước đang rối
cả lên như thế, th́ vua Dực Tông mất.
Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm Quư Mùi (1883), trị v́ được 36 năm,
thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng Đế.
CHƯƠNG XII
Cuộc Bảo Hộ Của Nước Pháp
1. Sự phế lập ở Huế : vua Hiệp Ḥa.
2. Quân
Pháp lấy cửa Thuận An
3. Ḥa
ước năm Quư Mùi (1883).
4. Việc ở
Bắc Kỳ.
5. Vua
Hiệp Ḥa bị giết.
6. Vua
Kiến Phúc.
7. Sự
đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.
8. Lấy
tỉnh Sơn Tây.
9. Lấy
thành Bắc Ninh.
10. Lấy
Hưng Hóa.
11. Lấy
Tuyên Quang.
12. Ḥa
ước Fournier.
13. Ḥa
ước Patenôtre tháng 6 năm Giáp Thân.
14. Việc
Triều chính ở Huế.
15. Vua
Hàm Nghi.
1. Sự phế
lập tại Huế: Vua Hiệp Ḥa.
Bản triều
nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông th́ mất quyền tự
chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua
tuy vẫn c̣n, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp
đặt.
Ấy cũng
v́ thời đại biến đổi mà người ḿnh không biết biến đổi, cho nên nước
ḿnh mới thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc Kỳ th́ rối loạn, ở
trong Triều th́ quyền thần chuyên chế, bởi vậy cho nên lại sinh ra
lắm việc khó khăn 171 .
Vua Dực
Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông
Dục Đức 172, phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên
giang quận công, ba là ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di
chiếu nói rằng : đức tính ông Dục Đức không đáng làm vua, mà ư ngài
muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng v́ ông ấy c̣n bé, mà việc nước cần
phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài lại cho Trần
Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.
Được ba
ngày th́ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông
Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều
thần ngơ ngác, không ai dám nói ǵ, chỉ có quan ngự sử Phan Đ́nh
Phùng đứng dậy can rằng : "Tự quân chưa có tội ǵ mà làm sự phế lập
như thế th́ sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền
đem bắt giam Phan Đ́nh Phùng, rồi cách chức đuổi về.
Lạng quốc
công, húy Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Ḥa. C̣n ông
Dục Đức th́ đem giam ở Dục Đức giảng đường.
2. Quân
Pháp lấy cửa Thuận An.
Vua Hiệp
Ḥa vừa lập xong, th́ viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải
Pḥng, rồi hội hải quân thiếu tướng Courbet và lục quân thiếu tướng
Bouet, để bàn định mọi việc.
Định một
mặt th́ thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài; một
mặt th́ thiếu tướng Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để
bắt triều đ́nh phải nhận nước Pháp bảo hộ.
Ngày 12
tháng 7, thiếu tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Ṿng. Hai
bên đánh nhau non ba ngày trời. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở
Đồn Phùng. Nhưng v́ lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp
không tiến lên được.
Ngày 16,
lục quân trung tá Brionval ở Hải Pḥng đem quân lên lấy thành Hải
Dương.
Quân Pháp
tuy thắng, nhưng quân Cờ Đen c̣n mạnh, nên chi thiếu tướng Bouet
phải điện về Paris xin thêm quân tiếp ứng.
Trong khi
lục quân thiếu tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc Kỳ, th́ hải quân
thiếu tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào
đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy th́ thành Trấn
Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần
Thúc Nhân th́ nhảy xuống sông tự tử.
3. Ḥa
ước năm quư-mùi (1883).
Triều
đ́nh thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin ḥa. Viên toàn quyền
Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De
Champeaux lên Huế để nghị ḥa. Triều đ́nh sai quan Hiệp biện hưu trí
là Trần Đ́nh Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm
phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.
Ngày 23
tháng 7 th́ tờ ḥa ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De
Champeaux, ông Trần Đ́nh Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng kư.
Tờ Ḥa
ước có 27 khoản : - Khoản thứ nhất nói rằng : Nước Nam chịu nhận
nước Pháp bảo hộ, có việc ǵ giao thiệp với ngoại quốc th́ phải do
nước Pháp chủ trương. - Khoản thứ hai : Tỉnh B́nh Thuận thuộc về Nam
Kỳ. - Khoản thứ ba : Quân Pháp đóng giữ ở núi đèo Ngang và ở Thuận
An. - Khoản thứ sáu : Từ tỉnh Khánh Ḥa ra đến đèo Ngang th́ quyền
cai trị thuộc về Triều đ́nh.
Những
khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết
kiến nhà vua. C̣n đất Bắc Kỳ kể từ đèo Ngang trở ra th́ nước Pháp
đặt công sứ 173 ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan
Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.
Từ ḥa
ước kư xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao,
nghĩa là mới tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế
làm khâm sứ, viên toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ để kinh lư việc đánh
dẹp.
4. Việc ở
Bắc Kỳ.
Triều
đ́nh ở Huế nhận ḥa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn
Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn
Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ
để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và băi quân thứ
ở các nơi.
Bấy giờ ở
Bắc Kỳ có quan nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên
Húc đóng ở Bắc Ninh, lại có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn
Phùng.
Triều
đ́nh tuy có chỉ ra truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng
quan ta c̣n nhiều người muốn ỷ nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp,
cho nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ măi
không xong được.
5. Vua
Hiệp Ḥa bị giết.
Trong Huế
th́ vua Hiệp Ḥa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi
vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà
trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn
Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất
Thuyết.
Hai người
thấy vua có ḷng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ
Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi
bắt vua Hiệp Ḥa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua
Hiệp Ḥa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.
Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đă giết vua Hiệp Ḥa rồi, lại thấy quan
Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ư ḿnh, cũng sai người giết
nốt.
6. Vua
Kiến Phúc.
Ngày mồng
7 tháng 10 năm Quư Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên
ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15
tuổi, việc ǵ cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định
cả.
Bắc Kỳ
th́ Hoàng Kế Viêm c̣n đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản c̣n đóng
tại Bắc Ninh, cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở
Huế lấy điều đó trách Triều đ́nh. Triều đ́nh lại có dụ ra truyền cho
Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về kinh.
Các quan
bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đ́nh, rồi hoặc
đi chiêu mộ những người nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để
chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện
lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri
phủ Kiến Xương Hoàng Văn Ḥe bỏ chức mà đi; quan tán tương quân vụ ở
Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống
giữ với quân Pháp.
7. Sự
đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.
Viên Toàn
quyền Harmand ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính
tuần cảnh, tục gọi là lính khố xanh, để pḥng giữ các nơi, và băi
lính cờ vàng của thiếu tướng Bouet đă cho mộ được mấy trăm, v́ những
lính ấy hay cướp phá dân gian. Nhưng v́ viên Toàn quyền xâm vào
quyền quan binh, cho nên thiếu tướng Bouet lấy làm bất b́nh.
Ngày mồng
một tháng 8, thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai
bên đánh nhau rất dữ. Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực
thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa được và lại có ư bất ḥa với
viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền lại cho đại tá
Bichot.
Được ít
lâu, có quân tiếp ở Sài G̣n ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh
B́nh.
8. Lấy
Sơn Tây.
Ngày 25
tháng 9, chính phủ Pháp điện sang cho hải quân thiếu tướng Courbet
làm thống đốc quân vụ, kiêm chức Toàn quyền ở Bắc Kỳ. Viên nguyên
Toàn Quyền Harmand xin về Pháp.
Từ đó
việc binh nhung, việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay thiếu
tướng Courbet. Trong khi thiếu tướng c̣n phải sửa sang mọi việc và
đợi quân tiếp ở Pháp sang th́ quan ta đem quân về đánh Hải Dương,
đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân, bèn bắt
đầy vào Côn Lôn.
Đến khi
thiếu tướng tiếp được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ
bấy giờ được hơn 9000 người, thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả
thủy bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết
ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ Đen chống giữ hăng lắm, nhưng
quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, đều bỏ
thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng phải chạy theo. Trận ấy
quân Pháp bị 83 người tử trận và 319 người bị thương.
9. Lấy
thành Bắc Ninh.
Quân Pháp
tuy đă lấy dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông,
thiếu tướng phải chờ có quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên
Pháp lại sai một lữ đoàn174 sang Bắc Kỳ và sai lục quân trung tướng
Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho hải quân thiếu tướng
Courbet.
Ngày 16
tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức,
thiếu tướng Courbet được thăng lên hải quân trung tướng và lại ra
coi hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn
6 ngh́n người và 10 đội pháo thủ, chia làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở
bên hữu ngạn sông Hồng Hà th́ đóng ở Hà Nội, có thiếu tướng Brière
de l'Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà, th́ đóng ở
Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier coi.
Bấy giờ
con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân
ta đóng. Thống tướng Millot bèn truyền lệnh cho thiếu tướng Brière
de l'Isle đem quân qua sông Hồng Hà, rồi theo sông Đuống (tức là
sông Thiên Đức) đi về phía đông. C̣n toán quân của thiếu tướng De
Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, để tiếp vào với toán
quân của thiếu tướng Brière de l'Isle, rồi cả thủy bộ theo sông Cầu
(sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.
Hai bên
khởi sự đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, th́ lấy được Đáp
Cầu. Quân Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc
Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày 16, th́ quân Pháp vào thành
Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 bị thương mà
thôi.
Thiếu
tướng Brière de l'Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23
th́ lên lấy thành Thái Nguyên.
10. Lấy
Hưng Hóa. Hạ dược thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp
quay về mạn sông Hồng Hà để đánh lấy Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu
tướng Brière de l'Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây
lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên khởi sự
đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều ngày hôm ấy th́
quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng
ngày 16, th́ thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nh́ tiếp đến, cả
hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy
thế không chống được, bèn đốt cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hóa rút
lên mạn ngược. C̣n bọn ông Hoàng Kế Viêm th́ kéo lên mạn núi, rồi đi
đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 th́ quân Pháp vào thành
Hưng Hóa. Lập tức thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá
đồn Vàng.
11. Lấy
Tuyên Quang.
Lấy xong
Hưng Hóa rồi, chỉ c̣n có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen c̣n
đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi ḍ xem sông Lô
Giang tàu thủy lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem
đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên
Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Tŕ khởi hành từ hôm
mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 th́ đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một
giờ đồng hồ th́ quân Cờ Đen bỏ thành chạy.
12. Ḥa
ước Fournier.
Bấy giờ
tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai
quản cả, nhưng quân Tàu c̣n đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào
Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải
với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước
Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp tên là
Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi
việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc
Trực lệ là Lư Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói
chuyện việc ḥa với nước Tàu. Détring điện về cho Lư Hồng Chương
biết. Hai bên đều có ư muốn ḥa cho êm chuyện.
Chính phủ
Pháp bèn sai trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lư Hồng
Chương nghị ḥa. Đến ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), th́ lập
xong tờ ḥa ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân đóng ở
Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận nhận tờ giao ước của
nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được
tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam.
13. Ḥa
ước Patenôtre tháng 5 Giáp Thân (1884).
Tờ giao
ước kư xong th́ trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc
Kỳ biết sự ḥa ước đă xong, mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.
Lúc bấy
giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang,
đi qua đến Sài G̣n, chính phủ ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế
sửa lại tờ ḥa ước của ông Harmand đă kư ngày 23 tháng 7 năm Quư Mùi
(1883).
Ông
Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đ́nh thương nghị mấy
ngày, rồi đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu
năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm
Thuận Duật và ông Tôn Thất Phan kư tờ ḥa ước mới. Cả thảy có 19
khoản, đại để th́ cũng như tờ ḥa ước của ông Harmand, chỉ đổi có
mấy khoản nói về tỉnh B́nh Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà
Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.
Tờ ḥa
ước kư xong, ông Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre
hội cả các quan, bắt đem cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam thụt,
bễ nấu lên mà hủy đi, nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo
hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.
Ḥa ước
kư năm Giáp Thân là năm 1884, là ḥa ước của Triều đ́nh ở Huế kư với
nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu
vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của
nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần ḥa
ước năm 1884 cũng mất cả ư nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ
hết cả. Triều đ́nh ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.
Nước Việt
Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn
cả các nước khác. Văn hóa, lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một
cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi kỳ có
một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc
đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi
được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là
nước.
Một nước
mà tam phân ngũ liệt ra như thế, thật là một mối đau ḷng cho người
Việt Nam là dân một nước đă có một lịch sử vẻ vang hàng mấy ngh́n
năm.
14. Việc
Triều Chính ở Huế.
Triều
đ́nh lúc bấy giờ việc ǵ cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.
Tôn Thất
Thuyết là người tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài
năng th́ kém, mà lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết.
Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng Trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ
5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có
tính tham lam và lại tàn nhẫn.
Hai ông
ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại th́ ở tay ông Tường, binh quyền
th́ ở tay ông Thuyết. Nhưng mà thường việc ǵ cũng do ở ông Thuyết
xui khiến cả. Trong Triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan,
ai có điều ǵ trái ư hai ông ấy là bị giam ở chấp hay là chém giết
cả.
Ông
Thuyết th́ mộ quan phản nghĩa để giữ ḿnh, và thường hay tiếm dụng
nghi vệ của vua; ông Tường th́ chịu tiền hối lộ của những người
Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức,
mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không
tiêu th́ phải tội. Vả lúc ấy vua hăy c̣n trẻ tuổi chưa biết ǵ, cho
nên hai ông ấy lại càng chuyên chế lắm nữa.
Vua Kiến
Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp
Thân (1884) th́ phải bệnh mất 175, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng
Đế.
15. Vua
Hàm Nghi.
Vua Kiến
Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh
Mông lên nối ngôi th́ phải. Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập
người lớn tuổi, sợ ḿnh mất quyền, bèn chọn người con ông Chánh Mông
là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm
Nghi.
Viên Khâm
sứ Rheinart trước đă tư giấy sang cho Triều đ́nh Huế rằng : Nam
triều có lập ai làm vua, th́ phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng
Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết.
Viên Khâm
sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức
tham mưu là đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào
Huế, bắt Triều đ́nh phải xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua.
Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ.
Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27
tháng 6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong
vương cho vua Hàm Nghi. Xong rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.
CHƯƠNG
XIII
Chiến
Tranh Với Nước Tàu
1. Trận
Bắc Lệ.
2. Đánh
Phúc Châu và vây Đài Loan.
3. Trận
đồn Chữ và đồn Kép.
4. Trận
Yên Bạc.
5. Lấy
thành Lạng Sơn.
6. Thành
Tuyên Quang bị vây.
7. Mất
thành Lạng Sơn.
8. Ḥa
ước Thiên Tân.
1. Trận
Bắc Lệ.
Tại Bắc
Kỳ th́ quân Pháp tưởng là việc ḥa ước với nước Tàu đă xong, chỉ c̣n
đợi ngày quân Tàu rút về, th́ lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao
Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ ḥa ước của trung tá Fournier kư ở Thiên
Tân, th́ vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao
Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, th́ thống tướng Millot sai
trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng
một tháng 5 nhuận th́ quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp
sang sông Thương, th́ quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị
thương. Được một chốc bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đă
biết có ḥa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoăn lại
6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá
trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng : trong một
giờ nữa mà quân Tàu không rút về th́ quân Pháp cứ việc tiến lên.
Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, th́ quân
Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối.
Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn
rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên.
Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, c̣n những
phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.
Thống
tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu
tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán
công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho
trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá rồi, thiếu tướng
Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và quân ở
bên Pháp sang.
2. Đánh
Phúc Châu và vây Đài Loan.
Chính phủ
bên Pháp tiếp được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải
quân trung tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là
tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc
Kinh đ̣i nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến
tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết măi, đến ngày 29
tháng 6, th́ chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đ̣i nước Tàu 80 triệu
phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba
tháng 7 năm Giáp Thân (1884), th́ hải quân trung tướng được lệnh
khởi sự đánh Phúc châu.
Trung
tướng truyền lệnh cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá
các xưởng làm binh khí ở Phúc Châu, và lại đánh cả chiến thuyền của
Tàu đóng ở trong sông Mân Giang. Trung tướng bắn phá ở Phúc Châu rồi
đem binh thuyền ra vây đánh đảo Đài Loan.
Hải quân
của Pháp vây Đài Loan và các cửa bể măi đến tháng 6 năm Ất Dậu
(1885), nước Tàu kư ḥa ước rồi, mới thôi.
3. Trận
Đồn Chũ và Đồn Kép.
Trong khi
hải quân của Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng
Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp
măi không thấy sang, đến trung tuần tháng 7, thống tướng Millot bèn
cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l'Isle.
Được ít
lâu, thiếu tướng Brière de l'Isle tiếp được 6 ngh́n quân ở Pháp
sang, số quân bấy giờ cả thảy được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn
chia ra làm 4 đạo để đi đánh quân Tàu và quân ta; thiếu tá Servière
đem một đạo quân lên mạn Đông Triều; trung tá Donnier đem một đạo
quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung tá Defoy
đem một đạo quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu
tướng De Négrier th́ đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8,
quân Pháp tiến lên đóng đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu
chống lại được một ngày, mà quân hai bên đánh nhau ở đồn Kép hăng
hơn cả. Quân Tàu chết có đến 2 000 người; c̣n bên quân Pháp th́
thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân, 27 người tử trận và 100
người bị thương. Quân Tàu chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép,
đồn Bảo Lạc và đồn Chũ chạy lui trở về.
Mạn đông
bắc, quân Tàu đă lui, thiếu tướng Brière de l'Isle bèn sai đại tá
Duchesne đem 700 quân lên đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn
Tuyên Quang và lại sai trung tá Berger đem quân lên giữ Thái Nguyên.
4. Trận
Yên Bạc.
Quân Tàu
tuy đă thua ở đồn Chũ và đồn
Kép,
nhưng vẫn c̣n đóng ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung tuần
tháng 11, quân Tàu lại về đóng ở An Châu, thiếu tướng De Négrier đem
quân bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn sông Lục Nam lên đánh quân
Tàu ở núi Bóp. Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân Pháp thiệt hại
mất 19 người tử trận và 65 người bị thương.
5. Lấy
thành Lạng Sơn.
Đầu năm
1885 là quăng tháng 11 năm Giáp Thân, thiếu tướng Brière de l'Isle
được thăng chức trung tướng và lại tiếp tục được hơn 1 000 quân ở
bên Pháp sang. Qua tháng chạp ta, trung tướng mộ non 7 000 phu để
tải đồ và đem 7 500 quân, chia ra làm 2 đạo để đánh Lạng Sơn. Đạo
thứ nhất th́ thuộc quyền thiếu tướng De Négrier, đạo thứ nh́ th́
thuộc quyền đại tá Giovanninelle.
Con đường
đi từ Kép đến Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, mà chỗ nào cũng có
quân Tàu đóng, cho nên quân Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ
đánh lại, để lấy đồn Tuần Muội 176. Thiếu tướng De Négrier trước đă
lên đồn Kép, dương thanh thế tiến binh, rồi lẻn về đồn Chũ đem quân
qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn Sung, rồi sang lấy đồn Tuần
Muội. Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân Pháp đă chặn mất
đường về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh
tràn lên đến Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp th́ lấy được thành.
Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử
trận và 22 người bị thương.
Lấy xong
thành Lạng Sơn, quân Pháp nghỉ ngơi mấy ngày, rồi lại tiến lên đánh
Đồng Đăng. Quân Tàu chạy phân làm hai ngả : một ngả chạy lên Thất
khê, một ngả chạy lên ải Nam Quan về Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng
giêng năm Ất Dậu (1885), th́ thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam
Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.
6. Thành
Tuyên Quang bị vây.
Khi quân
Pháp đi đánh mặt Lạng Sơn, th́ quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông
Hồng Hà và sông Lô Giang lại kéo về đánh Tuyên Quang. Bấy giờ quân
Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600 người, thuộc quyền thiếu tá
Dominé. Từ đầu tháng mười năm Giáp Thân (1884), quân Cờ Đen của Lưu
Vĩnh Phúc đă kéo về đóng ở gần phủ Yên B́nh và phủ Đoan Hùng. Đến
tháng 11 th́ quân Tàu giữ các chỗ hiểm yếu, để chặn đường không cho
quân Pháp ở trung châu lên tiếp ứng, rồi Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên
đánh thành Tuyên Quang; đánh măi đến 15 tháng chạp mới vây được
thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế dể phá thành, mà quân Pháp ở trong
thành cũng cố hết sức để chống giữ.
Lúc ấy
quân Pháp đă lấy được thành Lạng Sơn rồi, trung tướng Brière de
l'Isle liền để thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng
2 tết đem quân đi đường đồn Chũ về Hà Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên
Quang. Ngày 13 tháng giêng năm Ất Dậu th́ lên đến Đoan Hùng rồi sang
sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho đến ngày 16,
mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng nhiều, nhưng
quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút
lên mạn ngược.
7. Mất
thành Lạng Sơn.
Thành
Tuyên Quang vừa giải vây xong, th́ ở Lạng Sơn lại khởi sự giao
chiến. Quân Tàu tuy đă thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề
đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng đại đồn ở Long Châu, chực
sang đánh lấy lại Lạng Sơn.
Ngày mồng
6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu
tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu.
Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8,
thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, c̣n những người bị thương th́ đem
về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35 000 người.
Ngày 13
th́ quân Tàu tràn sang đánh Kỳ Lừa, thiếu tướng De Négrier bị thương
nặng, phải giao quyền lại cho trung tá Herbinger để chống với quân
địch. Nhưng bấy giờ quân Tàu sang đông quá, trung tá phải bỏ thành
Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và đồn Kép.
Trung
tướng Brière de l'Isle tiếp được tin bại trận ở Lạng Sơn, liền điện
cho chính phủ Pháp để xin tiếp quân sang cứu viện, và lập tức đi tàu
lên đồn Chũ để pḥng sự chống giữ.
Quân Tàu
lấy được Lạng Sơn rồi chia quân giữ các chỗ hiểm yếu, chứ không dám
đuổi xa. C̣n ở mạn sông Hồng Hà, th́ quân Cờ Đen và quân của các
quan cựu thần th́ về đánh phá ở mạn gần Hưng Hóa và Lâm Thao.
8. Ḥa
Ước Thiên Tân.
Bên Pháp
tiếp được điện tín của trung tướng Brière de l'Isle đánh về nói quân
Pháp phải bỏ thành Lạng Sơn, th́ ḷng người náo động cả lên. Thủ
tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh
không lợi bèn kư tờ giao ước đ́nh chiến với nước Tàu. Rồi một mặt
th́ truyền lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre
lập tờ ḥa ước với chính phủ Tàu; một mặt th́ cho quân sang tiếp ứng
Bắc Kỳ và sai trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân
sự vụ, trung tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với thiếu
tướng Jamont và thiếu tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.
Chính phủ
Tàu thấy chiến tranh không có lợi, bèn thuận kư tờ ḥa ước, và lập
tức sai quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày
27 tháng 4 năm Ất Dậu (1883) là năm Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre
và ông Lư Hồng Chương kư tờ ḥa ước, đại lược nói rằng nước Tàu nhận
cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt Nam, và lại ḥa thuận buôn bán
như cũ. Nước Pháp th́ trả lại các chỗ mà hải quân đă chiếm giữ ở mặt
bể, và thuận bỏ cái khoản tiền binh phí không đ̣i nữa. Ngày hôm quan
hai nước kư tờ ḥa ước ở Thiên Tân, th́ hải quân trung tướng Courbet
phải bệnh mất ở gần đảo Đài Loan. Hải quân của Pháp cũng chiếu theo
điều ước mà rút quân về.
CHƯƠNG IV
Loạn ở
Trung Kỳ
1. Thống
tướng De Courcy vào Huế.
2. Triều
đ́nh chạy ra Quảng Trị.
3. Nguyễn
Văn Tường ra thú.
4. Xa giá
các bà Thái hậu về Khiêm Lăng.
5. Quân
Cần vương.
6. Vua
Đồng Khánh.
7. Thống
tướng De Courcy phải triệt về.
8. Vua
Hàm Nghi ở Quảng B́nh.
9. Ông
Paul Bert.
10. Lập
Tổng đốc Toàn Quyền.
1. Thống
Tướng De Courcy vào Huế.
Việc đánh
nhau với Tàu xong, th́ tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành. Nhưng ở
các nơi, những quan cũ ta c̣n chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế th́
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường.
Tháng 9
năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối,
không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai
ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc
tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, pḥng khi có việc
ǵ th́ đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng v́ các ông
ấy có ư muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đă chiếm giữ Mang Cá ở
thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.
Ngày 18
tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ.
Bấy giờ sự ḥa ước với Tàu đă xong, bởi vậy thống tướng mới định vào
Huế bắt Triều đ́nh ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội
đă nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với
Pháp, đă biết t́nh h́nh ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5
th́ thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đ́nh cử hai
quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón
thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đ̣i hai
quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm
Nghi.
Hai ông
ấy lúc bấy giờ c̣n đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay ḿnh
cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đă tức giận
lắm, lại cứ như lời mấy ông quan cựu thần nói chuyện, th́ ông Thuyết
là quan văn làm tướng vơ, nhưng h́nh dáng th́ không được thanh tú :
đầu th́ trọc, người th́ béo mà đen, cách đi đứng th́ không được
chững chạc, sự giao thiệp và đối đáp th́ không sành. Xưa nay th́ chỉ
lấy quyền thế mà đè nén người ta, hơi một tí th́ lấy sự chém giết
làm oai. Đến khi phải ra theo lễ bang giao mà đối với một người
tướng ngoại quốc như ông De Courcy th́ trong bụng khiếp sợ không
biết ra thế nào.
Ông Tường
th́ là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng
biến, cho nên lúc ấy chỉ có một ḿnh ông Tường sang ra mắt quan
thống tướng De Courcy mà thôi, c̣n ông Thuyết th́ cáo bệnh không
sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.
Tôn Thất
Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần th́ tức giận, phần th́
sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng
đấy là điềm trời xuôi khiến bèn quyết ư sửa soạn để đánh nhau.
Thống
tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, th́
phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi,
nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đ́nh thấy
điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như
sứ Tàu ngày trước, c̣n quân lính th́ xin đi cửa hai bên, thống tướng
nhất định không chịu.
2. Triều
đ́nh chạy ra Quảng Trị.
Trưa hôm
22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong
việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp.
Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng,
thống tướng cũng khước đi không nhận.
Các quan
thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ư tứ
ǵ mà khinh mạn Triều đ́nh đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy
thế càng lấy làm tức giận, thôi th́ sống chết cũng liều một trận,
họa may trời có giúp kẻ yếu hèn ǵ chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy
giờ ai cũng tưởng như thế, cho đến mới định đến nửa đêm khởi sự phát
súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.
Chiều hôm
ấy thống tướng làm tiệc đăi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, th́
súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh
Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất th́nh ĺnh nửa đêm
quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà
chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, th́ quân ta thua
chạy177. Nguyễn Văn Tường cho người vào điện tâu xin rước vua và các
bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng 178. Khi xa giá ra gần đến cửa
hữu th́ gặp Nguyễn Văn Tường đă chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh
truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn
Tường vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa
Thiên Mụ, th́ Tôn Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá
quay trở về Trường Thi 179.
Lúc bấy
giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian th́ trẻ
cơng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng t́m đường tránh
cho khỏi chỗ binh đao.
Xa giá
đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, th́ Tôn Thất Thuyết lại giục
lên đường, nói rằng quân Pháp đă sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá
vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới
thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản 180 ra rước xa giá
vào Hành cung và đặt quân lính để pḥng giữ.
Trận đánh
nhau ở Huế, quân Pháp mất 16 người và 80 người bị thương. Sách tây
chép rằng quân ta chết đến vài ngh́n người, c̣n bao nhiêu khí giới
lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.
3. Nguyễn
Văn Tường ra thú.
Tại Huế,
cả buổi sáng hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành tŕ và giữ ǵn các
nơi. C̣n quan ta, người th́ đi theo xa giá, người th́ ẩn nấp một
nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn
Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard, rồi nhờ ông ấy đưa ra thú
với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn Tường ra ở
Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải
coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi
việc.
4. Xa giá
các bà thái hậu về Khiêm Lăng.
Nguyễn
Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh để cho
yên ḷng người. Nhưng lúc ấy vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ
Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức
Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng thái phi là vợ thứ đức Dực
Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết ǵn giữ, sớ của
Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho vua
biết. Ai cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi
phục. Đức Từ Dụ và hai bà Thái hậu nhất định không chịu đi.
Ngày 27,
Tôn Thất Thuyết nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại
Quảng Trị và xin rước vua lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào
lạy ba bà Thái hậu : t́nh ly biệt, nỗi sầu thảm, kể sao cho xiết !
Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, th́ bọn nội giám đều trở lại nói
rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, th́ tam cung mới
tiếp được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về
Huế, mọi việc đă thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua
trở lại để cùng về Huế, nhưng t́m măi không biết vua ở đâu, chỉ tiếp
được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói Nguyễn Văn Tường phản trắc
nọ kia, xin đừng có nghe. Nguời bàn đi, kẻ bàn lại, ai nấy phân vân
chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn Tường
ra giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ư về Kinh, định ngày mồng
4 th́ lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ
giá. Đến chiều tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm
cung. Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và kể t́nh mọi việc.
Trong khi
vua c̣n đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám
quốc, giao quyền binh bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux,
để băi việc binh lính của ta đi, và gọi quan kinh lược ở Bắc kỳ là
Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là Phan Đ́nh B́nh về cùng
với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. V́ hai ông ấy ở Bắc Kỳ đă hiểu
mọi việc và đă biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên thống tướng
đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và
Nguyễn Hữu Độ không hợp ư nhau, Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.
5. Quân
Cần Vương.
Tôn Thất
Thuyết ở Quảng B́nh làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy
chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, c̣n tự B́nh Thuận trở
ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho
dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo.
Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo
phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.
Thống
tướng De Courcy thấy chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội
các tướng lại để bàn sự đánh dẹp. Thống tướng đỉnh sai đại tá Pernot
đem 1 500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết, lại sai thiếu tướng De
Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa dánh vào. Nhưng chính phủ ở
Paris điện sang không cho thống tướng khởi sự dùng đại binh, và lại
nhân lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp
chết hại đến ba bốn ngh́n người, bởi vậy cho nên việc dùng binh phải
đ́nh lại.
Tại Huế
th́ măi không ai biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đ́nh th́ mỗi ngày
một rối, việc lập vua mới th́ tuy rằng đă định rồi, nhưng c̣n lôi
thôi chưa xong.
Đến ngày
27 tháng 7, vừa hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho
Nguyễn Văn Tường, vả bấy giờ ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn
Văn Tường xin thống tướng đem trị tội. Bởi vậy sang ngày 28 thống
tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan Hộ bộ thượng
thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất Thuyết,
đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu th́ mất, phải ném
xuống bể. Nguyễn Văn Tường th́ sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở
Thái B́nh Dương, được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê
nhà.
6. Vua
Đồng Khánh.
Thống
tướng De Courcy đày bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ
về cùng với Phan Đ́nh B́nh coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng
Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng lại sai ông De
Champeaux lên Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông Chánh Mông
là Kiên giang quận công lên làm vua.
Ngày mồng
6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ
phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Vua Đồng
Khánh tính hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được
ḷng người Pháp; đ́nh thần th́ nhiều người đă biết theo chính sách
của bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn. Nhưng vua
Hàm Nghi c̣n ở mạn Quảng B́nh, kéo cờ nghĩa để chống nhau với quân
Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ,
ḷng người c̣n tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh B́nh Thuận trở ra,
chỗ nào cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.
Tại Quảng
Nam th́ bọn thân hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn pḥng sứ là Trần
Văn Dự làm chủ, rồi những tỉnh Phú Yên, B́nh Định, B́nh Thuận đều
noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có các ông Trương Đ́nh Hội,
Nguyễn Tự Như, ở Quảng B́nh có quan nguyên tri phủ là Nguyễn Phạm
Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh 181; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn
Xuân Ôn và
quan sơn
pḥng sứ Lê Doăn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người
ấy đều xướng lên việc cần vương. đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh
thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện, và đốt phá những làng có đạo.
Tại ngoài Bắc th́ các quan cựu thần là quan đề đốc Tạ hiện, quan tán
tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Băi Sậy, rồi đi đánh phá ở mạn
trung châu, c̣n ở mạn thượng du, th́ ở chỗ nào cũng có quân giặc Tàu
quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.
7. Thống tướng De Cource phải triệt về.
Thống tướng De Courcy thấy ở ngoài Bắc có lắm việc, bên để thiếu
tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội kinh lư mọi việc. Nhưng v́
thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, cho nên công việc càng ngày
càng khó thêm. Tại Pháp th́ có nhiều người không muốn giữ đất Bắc
Kỳ, có ư muốn băi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, thủ
tướng nước Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75
triệu phật lăng để chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng
để xét việc ấy. Hội đồng định rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật
lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu th́ đảng theo chính phủ được 274
phiếu, và đảng phản đối với chính phủ được 270, nghĩa là đảng muốn
giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong nghị
viện có nhiều người không hợp ư ḿnh bèn xin từ chức.
Ông Freycinet lên làm thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên
nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn điện sang triệt về Pháp, giao
binh quyền lại cho trung tướng Warnel, và sai ông Paul Bert là quan
văn sang sung chức thống đốc, để kinh lư mọi việc ở nước Nam.
8. Vua Hàm Nghi ở Quảng B́nh.
Bấy giờ tuy ở Huế đă lập vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần
c̣n có nhiều người theo pḥ vua Hàm Nghi, quyết chí chống lại với
quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem quân ra đóng ở
thành Quảng B́nh, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết thông
với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá
rất dữ. Đại tá Chaumont bèn để đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng
B́nh, rồi trở về Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở
thành Nghệ An, chia quân đi tuần tiễu các nơi.
Tôn Thất Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm
Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu)
tỉnh Quảng B́nh, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng
đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu 182.
Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con
Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê
Trực và Nguyễn Phạm Tuân183, hết sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá
ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.
Tháng giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ
vào Nghệ An, rồi chia làm hai đạo : một đạo th́ thiếu tá Pelletier
đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn Tuyên Hóa; một đạo th́ trung
tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi
vào đóng ở sông Gianh.
Tại Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng
các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở Minh Cầm, rồi trung tá
Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé.
Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân chống lại không nổi,
phải tan cả.
Nhưng qua sang tháng hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống
dốc Paul Bert đă sang đến nơi, chính sách đổi lại cả, cho nên mới
triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng Khê, ở Roon và ở chợ Đồn
mà thôi. Quân văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở về đóng ở các
đồn cũ.
9. Ông Paul Bert.
Ngày mồng 5 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert
sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát
về việc tài chính. Đến cuối tháng 3 th́ thống đốc vào yết kiến vua
Đồng Khánh ở Huế, và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh
lược đại sứ được quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc.
V́ rằng ở ngoài Bắc vào đến Huế đường xá xa xôi, có việc ǵ phải tâu
bẩm vào Bộ mất nhiều ngày giờ lắm, bởi vậy xin cho được tự tiện làm
việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu về vua biết.
Thống đốc Paul Bert ở Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà
Nội, rồi một mặt th́ lo đánh dẹp, một mặt th́ mở Pháp Việt học
đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ư của thống dốc
là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Nhưng cũng v́
thống đốc phải lo nghĩ
Chính phủ Pháp sai ông Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay
ông Paul Bert.
10. Lập Tổng Đốc Toàn Quyền Phủ.
Nước Pháp đă lấy đất Nam Kỳ, lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập
bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở ra một cuộc thuộc địa lớn ở
Viễn đông này; nhưng buổi đầu th́ mỗi xứ có một chức thủ hiến để coi
riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ nước Pháp
mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy
xứ ở nước ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh Hợi (15 tháng 11 -
1887), th́ viên Tổng đốc toàn quyền mới, tức là viên Tổng đốc toàn
quyền trước nhất, là ông Constant sang nhận chức ở Sài G̣n.
Từ đó ở các nơi như Nam Kỳ th́ có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao
Miên th́ mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc kỳ và Lào th́ mỗi nơi có viên
Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt; những việc ǵ quan hệ
đến chính sách cả toàn cảnh th́ phải theo lệnh viên Tổng đốc toàn
quyền mà thi hành.
CHƯƠNG XV
Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ
1. Việc đánh dẹp ở các nơi
2. Vua Đồng-khánh ra Quảng-B́nh
3. Hoàng kế Viêm ra quân thử mạn Quảng-B́nh
4. Lập đồn Minh-cầm
5. Vua Hàm-nghi bị bắt
6. Vua Thành-Thái
7. Sự đánh dẹp ở Bắc-kỳ
8. Việc Phan đ́nh Phùng
9. Ḷng yêu nước của người Việt-nam
1. Việc đánh dẹp ở các nơi.
Trong khi thống-đốc Paul Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, th́ ở
Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải t́m
cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn B́nh-thuận, Phú-yên th́ thiếu-tá De
Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem lính tây và
lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết
rất nhiều, bởi vậy đất B́nh-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân
ra dẹp đảng văn-thân ở Phú-yên và B́nh-định, bắt được cử-nhân Mai
xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm
bính-tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh-hợi (1887), th́ những tỉnh ở
phía nam đất Kinh-kỳ đă dẹp yên.
2. Vua Đồng Khánh ra Quảng B́nh . Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra
chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ
vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân
Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.
Ngày 16 tháng 5 năm bính-tuất (1886), xa-gía ở Kinh đi ra, măi đến
cuối tháng 7 mới tới Quảng-b́nh. Xa-gía đi đến đâu th́ đảng cựu thần
vẫn không phục, cứ đem quân đến chống-cự, cho đến việc vua đi
tuần-thú lần ấy, không có kết-qủa ǵ cả. Ra đến Quảng-b́nh th́ vua
Đồng-khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường hải
đạo trở về Huế.
3. Hoàng Kế Viêm Ra Quân Thử Mạn Quảng B́nh. Vua Đồng-khánh về Huế
được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục nguyên hàm cho Hoàng kế Viêm
và phong cho làm Hữu-trực-kỳ An-phủ kinh-lược đại-sứ, được quyền
tiện-nghi hành-sự, để ra Quảng-b́nh dụ vua Hàm-nghi và các quan cựu
thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng-khánh ban cho Hoàng kế Viêm
đại-lược nói rằng: Nếu vua Hàm nghi mà thuận về, th́ sẽ phong cho
làm làm Tổng-trấn ba tỉnh Thanh-hóa, Nghệ-an và Hà-tĩnh, và lại cấp
cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu-thần như các ông Trương
văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê mô Khải, Nguyễn nguyên Thành,
Phạm trọng Mưu, Nguyễn xuân Ôn, Lê doăn Nha, Ngô xuân Quỳnh, ai về
thú th́ được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ
Quảng-trị trở vào. C̣n như các ông Trần xuân Soạn, Nguyễn phạm Tuân,
Phan đ́nh Phùng mà có chịu về th́ sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ
phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy đă bàn với viên Thống-đốc
Paul Bert, hai bên đă thuận cho như thế, quyết không sai lời.
Bấy giờ quân của quan Đề-đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh-thủy , thuộc
huyện Tuyên-chánh; quân của Tôn-thất Đạm là con Tôn-thất Thuyết th́
đóng ở ngàn Hà-tĩnh, về hạt Kỳ-anh và Cẩm-xuyên. C̣n Tôn-thất Thiệp
và Nguyễn phạm Tuân th́ pḥ vua Hàm-nghi ở mạn huyện Thanh-hóa.
Ông Hoàng kế Viêm ra Quảng-b́nh, sai người đi dụ ông Lê Trực về.
Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu , chỉ có bọn thủ-hạ lác
đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng kế Viêm ra
kinh-lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm đinh-hợi
(1887), lại phải triệt về.
4. Lập Đồn Minh Cầm.
Triều-đ́nh ở Huế thấy dùng cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền
cho người Pháp t́m kế đánh-dẹp.
Người Pháp cũng biết là thế-lực của đảng vua Hàm-nghi chẳng được
bao nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần địa-thế và mua chuộc những đứa
làm tay trong, th́ tất thế nào rồi cũng trừ hết được, bởi vậy cho
nên không dùng đến đại binh.
Trước đại-úy Mouteaux ở Quảng-b́nh đă cùng với ông cố Tortuyaux đem
quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy
vẫn không tan, cứ đành phá măi. Đến tháng giêng năm đinh-hợi (1887),
đại-úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh-cầm đóng ở mé trên Thanh-
thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có nghĩa-khí, và trong
khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn-ác,
cho nên đại- úy vẫn có ư trọng lắm. Trước đă cho người đưa thư lên
dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: "Tôi v́ vua, v́ nước,
chết sống cũng một ḷng làm cho hết việc bổn-phận, chứ không dám
tham sự sống mà quên việc nghĩa".
Từ khi quân Pháp đóng đồn ở Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn
phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực th́ ra mạn Hà-tĩnh, Ông
Nguyễn phạm Tuân th́ lên đóng ở làng Yên-lộc về phía sông Gianh.
Qua tháng 3, nhờ có do thám, biết chỗ ông Nguyễn phạm Tuân đóng,
đại-úy Mouteaux bèn đem quân lên vây làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn
phạm Tuân, trong khi bất ư, đều bị bắt cả. Ông Nguyễn phạm Tuân phải
đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày th́ mất.
Quân Pháp tuy đă trừ được ông Nguyễn phạm Tuân nhưng ông Lê Trực
hăy c̣n, và vẫn chưa biết rơ vua Hàm-nghi ở chỗ nào, sau có những
người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm-nghi th́ mưu với tên Trương
quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở đấy và từ khi vua ra ở vùng ấy
nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí-độ tiểu-nhân, th́ chắc có
lẽ mua chuộc nó được. Đại-úy định t́m cách để thông với tên Ngọc,
cho người đi do-thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc,
bèn đem quân lên vây làng ấy. Nhưng khi lên đến nơi, tên Ngọc thấy
động, chạy thoát được. Đại-úy sai t́m trong làng chỉ thấy có một bà
lăo, đại-úy bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lăo ấy đưa cho
nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.
Được mấy hôm kỳ-dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm,
đại-úy đưa cho chánh-tổng những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy
b́ gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua Hàm-nghi về.
Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết ḷng giúp người Pháp,
nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra th́ không thành.
Từ đó việc bắt vua Hàm-nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy
giờ có người con thứ Tôn-thất Thuyết là Tôn-thất Thiệp giữ-ǵn vua
Hàm- nghi một cách nghiêm-mật qúa. Tôn-thất Thiệp thề sống chết
không để cho quân Pháp bắt vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về
thú th́ bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đă nhị tâm, nhưng
chưa dám hạ thủ.
ở mé ngoài, th́ các ông Lê Trực và Tôn-thất Đạm, nay đánh chỗ này
mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại-úy Mouteaux đánh đuổi lâu
ngày nhọc-mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.
5. Vua Hàm Nghi Bị Bắt . Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên
đại-tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng-b́nh, rồi chia quân đi tuần-tiễu,
để t́m vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến
tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành công được. Quân
Pháp đă toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên
suất-đội Nguyễn đ́nh Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả,
phía trên đồn Minh- cầm, và khai rơ t́nh-cảnh cùng chỗ vua đóng.
Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm
tên Ngọc và tên Tinh về t́nh- nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.
Người Pháp truyền cho bọn tên Ngọc phải làm thế nào bắt sống được
vua Hàm-nghi, c̣n những người khác hễ ai chống cự, th́ cứ giết đi.
Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người
ở làng Thanh-lang và Thanh-cuộc lên vây làng Tả-bảo 184
là chỗ vua Hàm-nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó sông vào,
th́ Tôn-thất Thiệp c̣n đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, th́
chúng đâm chết. Vua Hàm-nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy,
cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết tao đi, c̣n hơn đưa
tao về nộp cho Tây". Ngài vừa nói dứt lời, th́ bọn chúng nó có một
đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi dựt thanh gươm ra. Từ khi
ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng ǵ nữa.
Sáng ngày hôm sau, bọn tên Ngọc vơng ngài ra đến bến Ngă-hai, rồi
đem xuống cái bè, đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh-lang, nộp cho
viên đại-úy coi đồn ấy là ông Boulangier. Đại-úy lập tức đem ngài về
đồn Thuận- bài đóng ở tả-ngạn sông Gianh, gần chợ đồn.
Vua Hàm-nghi bấy giờ đă 18 tuổi, quan Pháp lấy vương- lễ mà tiếp-
đăi. Tuy vậy ai hỏi ǵ, ngài cũng không nói, chỉ nhất-thiết chối
rằng ḿnh không phải là vua.
Nhưng đến lúc vào trong buồng ngồi một ḿnh, th́ hai hàng nước mắt
chứa-chan, buồn v́ nỗi nước đổ nhà tan, thân ḿnh phải nhiều nỗi
gian- truân.
Người Pháp đem vua Hàm-nghi xuống tầu về Thuận-an, rồi đem sang để
ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc-địa của nước Pháp, ở phía bắc châu A-
phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi phật-lăng 185 .
Tên Trương quang Ngọc được hưởng hàm lĩnh-binh, tên Nguyễn đ́nh
Tinh cũng được thưởng hàm quan vơ. C̣n bọn thủ-hạ, đứa th́ được
thưởng hàm suất-đội, đứa th́ được thưởng mấy đồng bạc.
Tôn-thất Đạm ở ngàn Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm-nghi bị bắt, bèn hội
cả bọn tướng sĩ lại, truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai
bức thư: một bức để dâng vua Hàm-nghi, xin tha lỗi cho ḿnh làm tôi
không cứu được vua, và một bức gửi cho thiếu-tá Dabat, đóng ở đồn
Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư rồi, Tôn-thất Đạm
nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta th́ vào t́m thấy mả ta
ở trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận 186 .
Ông Tôn-thất Thuyết làm đại-tướng mà cư-xử ra một cách rất hèn-
nhát không đáng làm người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người con
th́ thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể che được cái xấu cho cha
vậy.
Quan đề-đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận- bài.
Triều-đ́nh ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời-lẽ của quan đề-đốc
cũ nói khảng-khái, không được khiêm-tốn, có ư bắt tội, nhưng người
Pháp thấy là một người trung-nghĩa, có ḷng qúi-trọng, tha cho về
yên nghiệp ở nhà.
Ông Tôn-thất Đạm và ông Lê Trực là người phản-đối với nước Pháp lúc
bấy giờ, nhưng các ông ấy v́ việc nước mà hết ḷng làm việc bổn-phận
cho nên người Pháp cũng biết lượng t́nh mà thương-tiếc. Sau ông Lê
Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc huyện tuyên-hóa, tỉnh Quảng-b́nh,
người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ư kính-trọng lắm. Người
bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.
6. Vua Thành Thái . Ngày 27 tháng chạp năm mậu-tí là ngày 28 tháng
giêng năm 1888, vua Đồng-khánh phải bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua
được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh-tông Thuần-hoàng-đế.
Bấy giờ ông Rheinard lại sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua
Đồng-khánh c̣n nhỏ, và lại nhớ ông Dục-đức ngày trước, khi vua
Dực-tông hày c̣n, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viêm
Khâm-xứ nghĩ đến t́nh cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông
Dục-dức lên làm vua.
Ông Bửu Lân bấy giờ mới lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở
trong ngục. Triều-đ́nh vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu
là Thành-thái, cử ông Nguyễn trọng Hợp và ông Trương quang Đản làm
Phụ- chính.
7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ . Khi nhà Thanh bên Tầu đă kư ḥa-ước với
nước Pháp ở Thiên-tân rồi, quân Tầu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu-
thần như quan Tán-tương quân-vụ là Nguyễn thiện Thuật và quan Đề-đốc
Tạ Hiện c̣n giữ ở vùng Băi-sậy thuộc Hải-dương cùng với các thổ-hào
như Đốc Tít ở vùng Đông-triều; Đề Kiều ở vùng Hưng-hóa; Cai Kinh,
Đốc Ngữ ở vùng Phủ-lạng-thương và Yên-thế; Lương tam Kỳ, dư đảng cờ
đen, ở vùng chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc
ấy quan quyền kinh-lược-sứ là ông Nguyễn trọng Hợp cử quan quyền
Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng cao Khải làm chức Tiểu-phủ-sứ đi
đánh-dẹp ở vùng Băi-sậy.
Hoàng cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn-thân người
th́ tử trận, người th́ bị bắt. Nguyễn thiện Thuật chạy sang Tầu, sau
mất ở Nam-ninh, thuộc quảng-tây. Đốc Tít ra hàng, phải đầy sang ở
thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên.
Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra
thú, được giữ ở vùng ấy, măi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm
1912 mới bị giết.
Hoàng cao Khải đi đánh-dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho
lănh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.
8. Việc Phan Đ́nh Phùng . Từ năm kỷ-sửu (1889) là năm Thành- thái
nguyên-niên cho đến năm qúy-tị (1893) là năm Thành-thái ngũ-niên,
đất Trung-kỳ không có việc ǵ quan-hệ lắm. Các quan cựu-thần, người
th́ về thú, người th́ ẩn-nấp ở chỗ sơn-lâm. Riêng ông Phan đ́nh
Phùng th́ về ở đồn điền ở Vũ-quang về phía bắc huyện Hương-khê,
thuộc tỉnh Nghệ-tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc
súng đúc đạn, để đợi ngày khởi sự.
Ông Phan đ́nh Phùng người tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ đ́nh-nguyên về đời
vua Dục-tông, quan làm đến chức ngự-sử bị bọn quyền-thần là Nguyễn
văn Tường và Tôn-thất Thuyết cách chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu
đảng văn-thân để chống cự với quân Pháp. Ông không những là một
người có tài văn-chương mà thôi, mà lại là một nhà có thao-lược,
sửa-sang quân-lính có cơ-ngũ, luyện-tập tướng-sĩ có kỷ-luật, cho nên
đại-úy Gosselin làm quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan
Đ́nh-nguyên Phan đ́nh Phùng có tài kinh-doanh việc quân-binh, biết
luyện-tập sĩ-tốt theo phép Thái-tây, áo-quần mặc một lối, và đeo
súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan Đ́nh-nguyên đúc
ra thật nhiều mà máy-móc cũng hệt như súng Pháp chỉ v́ ḷng súng
không xẻ rănh, cho nên đạn không đi xa được".
Đến cuối trung-tuần tháng 11 năm qúi-tị (1893), ông sai người đến
vây nhà tên Trương quang Ngọc ở làng Thanh-lang, huyện Tuyên-hóa,
bắt tên Ngọc chém lấy đầu để báo-thù về việc tên ấy làm sự phản-ác.
Từ đó quân của quan Đ́nh-nguyên vẫy-vùng ở mạn Hương-khê, đảng
văn-thân cũ lại về tụ họp ở đấy.
Bấy giờ người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo-động ḷng người
ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối
năm qúi-tị (1893) cho đến cuối năm ất-mùi (1895) ngót 2 năm trời mà
không dẹp yên được, quân-lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo-hộ cũng
đă t́m đủ mọi cách, như bảo Hoàng cao Khải viết thư dụ Phan đ́nh
Phùng về hàng cho xong cũng không được. Sau cùng Triều-đ́nh ở Huế
thấy việc dai- dẳng măi không yên, mới xin chính-phủ Bảo-hộ để sai
quan Tổng-đốc B́nh- định là Nguyễn Thân làm Khâm-mạng tiết-chế
quân-vụ đem quân ra tiễu- trừ. Ông Phan đ́nh Phùng lúc bấy giờ tuổi
đă già, mà thế-lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai
chạy chỗ kia, thật là lao-khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem
quân ra đến Hà-tĩnh, th́ ông đă phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai
người đuổi đánh t́m thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho
đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người nói rằng
việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn,
v́ muốn để làm cái tang-chứng cho đảng phản-đối với chính-phủ Bảo-hộ
là quan Đ́nh Nguyên đă mất rồi. Từ đó đảng văn-thân tan-vỡ; ai trốn
đi mất th́ thôi, ai ra thú th́ phải về Kinh chịu tội.
Nguyễn Thân về Kinh được thăng làm Phụ-chính thay ông Nguyễn trọng
Hợp về hưu.
9. Ḷng yêu nước của người Việt Nam.
Người Việt-nam v́ hoàn-cảnh, v́ t́nh thế bắt-buộc phải im hơi lặng
tiếng, nhưng ḷng ái quốc mỗi ngày một nồng-nàn, sự uất-ức đau-khổ
mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ năm bẩy năm lại có một
cuộc phiến-động, như sau việc Phan đ́nh Phùng rồi, có việc Kỳ-đồng
và việc Thiên-binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái-b́nh, Hải-dương,
Bắc-ninh v.v... Vào quăng năm 1907 ở Hà-nội có việc Đông-kinh
nghĩa-thục. Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan bội Châu, Phan chu
Trinh, người th́ không sợ tù tội, đứng lên tố-cáo sự tham- nhũng của
bọn quan-lại, người th́ ra ngoại-quốc bôn-ba khắp nơi để t́m cách
giải-phóng cho nước. Năm 1908, ở Trung-Việt vùng Nghệ-Tĩnh và Nam-
Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. ở Hà-nội th́ có việc đầu-độc lính
Pháp, rồi ở Thái-nguyên, Hoàng hoa Thám lại nổi lên đánh phá .
Khi bên Âu-châu có cuộc đại-chiến th́ bên ta lại có việc đánh-phá ở
Sơn-la và Sầm-nứa và việc vua Duy-tân mưu sự độc-lập, bị bắt đầy
sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt-nam bấy giờ có ba ông vua bị
đầy: vua Hàm- nghi đầy sang xứ Algérie, vua Thành-thái và vua
Duy-tân đầy sang ở đảo Réunion.
Sau cuộc chiến lần thứ nhất, có toàn lính khố xanh nổi lên đánh
Thái-nguyên do Đội Cấn và ông Lương ngọc Quyến làm đầu. Năm 1927, ở
vùng Nghệ-tĩnh có cuộc phiến-động gây ra bởi đảng Cộng-sản do Nguyễn
ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có cuộc cách-mệnh của
Quốc- dân-dảng, có Nguyễn thái Học điều-khiển ở Yên-bái và các nơi.
Năm 1940, ở Nam-Việt có cuộc phiến-động ở vùng Gia-định, Hốc-môn
v.v... Từ khi có cuộc đại-chiến lần thứ hai, nước Pháp bại trận, bị
nước Đức chiếm cứ, quân Nhật-bản ở bên Tầu sang đánh Lạng-sơn rồi kư
hiệp-ước với người Pháp cho người Nhật được đóng quân ở Đông-pháp.
Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đánh quân Pháp và giao
quyền nội-trị lại cho vua Bảo-đại. Được mấy tháng th́ quân Đồng-minh
thắng trận, Nhật-bản đầu hàng. Đảng Việt-minh 187
dưới quyền lănh đạo của Nguyễn ái Quốc-đổi tên là Hồ chí Minh thừa
cơ nổi lên cướp quyền, vua Bảo-đại phải thoái-vị và nhường quyền cho
đảng Việt-minh.
Đây chỉ mới nói qua cái đại-lược một đoạn lịch-sử của nước Việt-
nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ t́m đủ tài-liệu mà chép cho
rơ-ràng và phê-b́nh cho chính-đáng.
CHƯƠNG XVI
Công Việc Của Người Pháp
Tại Việt Nam
1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa
2. Việc kinh-doanh ở các xứ bảo-hộ
1. Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-pḥng thành đất nhượng-địa.
Từ khi sự đánh-dẹp các nơi đă yên rồi, các viên Tổng-đốc toàn-quyền
lần lượt sang kinh-doanh việc Đông-pháp và lo mở mang về đường
chính-trị, kinh-tế và xă-hội theo chính-sách của nước Pháp.
Tháng 3 năm mậu-tí (1888) tức là năm Thành-thái nguyên-niên, ông
Richaud sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Tháng tám năm ấy, Triều-đ́nh ở
Huế kư giấy nhượng hải-cảng Đà-nẵng, thành-thị Hà-nội và Hải-pḥng
cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa từ đó là việc cai-trị và
pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về
nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, th́ việc cai-trị ở các tỉnh
trong toàn hạt Bảo-hộ vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do
người Pháp điều-khiển và kiểm- duyệt.
2. Việc kinh doanh ở các xứ bảo hộ.
Cuộc Bảo-hộ đă lập xong, người Việt-nam v́ thế bất-đắc-dĩ phải
chịu, nhưng phần nhiều người trong ḷng c̣n mong khôi-phục nước nhà,
cho nên chính-phủ Bảo-hộ một mặt th́ lo việc pḥng giữ, một mặt lo
mở-mang các công-cuộc kiến-thiết để gây thêm mối lợi. Về đường
pḥng-giữ, th́ chính-phủ lập ra những đội binh bảo-an, lấy người
bản-sứ làm lính. Những lính ấy đội một thứ nón dẹt có giải xanh và
múi thắt lưng xanh, cho nên tục gọi là lính khố-xanh. Lính ấy do
người Pháp cai-quản ở dưới quyền quan cai-trị người Pháp, cho đi
canh giữ các dinh-thự, các công-sở, và cho đi đóng đồn ở các nơi
trong vùng thôn-quê, để pḥng-giữ trộm cướp. ở những nơi hiểm-yếu
th́ có lính Pháp và lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ là một thứ bộ binh
người bản-xứ, cách ăn- mặc cũng như lính khố xanh, chỉ khác là quai
nón đỏ mà múi thắt lưng đỏ. Những lính ấy có cơ, có đội do sĩ-quan
Pháp cai-quản ở dưới quyền nhà binh Pháp. Khi có việc ǵ quan-hệ th́
đem lính Pháp và lính ấy ra đánh-dẹp.
Về việc hành binh và việc thương-mại, th́ chính-phủ Bảo-hộ trước
hết phải lo sửa-sang và mở-mang thêm đường-sá cho tiện sự
giao-thông. V́ rằng có đường th́ khi hữu sự, việc đánh-dẹp mới
tiện-lợi và việc buôn-bán cũng nhân đó mà được dễ-dàng. Bởi vậy
thoạt đầu tiên chính-phủ mở thương-cục, lập xưởng làm tầu thủy chở
hàng-hóa và hành-khách đi trong các sông ở trong xứ.
Năm tân-măo (1891), ông De Lanessan sang làm Tổng-đốc toàn- quyền,
mở đường xe lửa từ Phủ-lạng-thương lên đến Lơng-sơn, đến năm
giáp-ngo (1894), con đường ấy mới xong. Chủ-đích là để cho tiện sự
pḥng- giữ ở chỗ biên-thùy.
Chính-phủ Bảo-hộ lại lo mở-mang thêm bờ-cơi về phía Lào. Nguyên đất
Lào ngày trước vẫn thần-phục nước Nam. Những nơi như Trấn-ninh,
Cam-môn, Cam-cát, v.v. về đời vua Minh-mệnh đă lập thành phủ huyện
và đặt quan cai-trị cả. Nhưng về sau nước ta suy-nhược lại có việc
chiến-tranh với nước Pháp, cho nên nước Tiêm-la mới nhân dịp mà sang
chiến-giữ lấy. Sau có người Pháp tên là Pavie sang dự nước Lào nhận
sự bảo-hộ của nước Pháp, rồi đến đầu năm quí-tị (1893), quân Pháp
sang lấy lại những đất cũ thuộc về nước Nam ta trước. Bấy giờ quân
Tiêm-la ở mạn Cam-môn giết mất một người quan binh Pháp, người Pháp
bèn sai hải-quân đem hai chiếc tầu chiến vào sông Mê-nam, lên đậu ở
gần thành Băng-cốc (Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy, nước Tiêm-la
phải kư, ḥa-ước, nhường những đất Lào cho nước Pháp bảo-hộ, hạn
trong một tháng phải rút quân đóng ở bên tả-ngạn sông Mékong về, lại
phải bồi thường 2 triệu phật-lăng, và phải trị tội những người dám
chống-cự với người Pháp.
Người Pháp lập phủ Thống-sứ ở Vientiane để cai-trị các địa hạt bên
Lào.
Năm ất-mùi (1895), viên Tổng-đốc toàn-quyền Rousseau sang thay ông
De Lanessan, thấy c̣n nhiều nơi chưa yên bèn vay nước Pháp cho Bắc-
kỳ 80 triệu phập-lăng , để chi-tiêu về việc đánh-dẹp và mở-mang.
Năm đinh-dậu (1897), ông Daumer sang làm Tổng-đốc toàn-quyền,
chỉnh-đốn lại việc tài-chánh và việc chính-trị. Lập ra sổ chi-thu
chung cả toàn cảnh Đông-pháp, định các thứ thuế: thuế đinh, thuế
điền, thuế thổ, thuế xuất-cảng, nhập-cảng, v.v., và cho người được
độc-quyền lĩnh trưng thuế rượu, thuế muối, thuế nha-phiến. Bỏ nha
Kinh-lược ở Bắc-kỳ, giao quyền lại cho viên Thống-sứ (tháng 6 năm
đinh-dậu 1897) 188 , vay nước Pháp 200 triệu phập-lăng, để mở đường
hỏa-xa trong xứ Đông-pháp và mở-mang thêm việc canh-nông và việc
công-nghệ.
Năm nhâm-dần (1902) ông Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng-đốc
toàn-quyền. Ông Beau chủ việc khai-hóa dân-trí, lo mở-mang sự
học-hành và đặt ra Y-tế-cục, làm nhà bệnh-viện, để cứu-giúp những kẻ
yếu- đau nghèo-khổ. Ấy là những công-việc làm của chính-phủ bảo-hộ
vậy.
TỔNG KẾT
Sách Việt Nam Sử-Lược này chép đến đây hăy tạm ngừng, để sau có
tài-liệu đầy-đủ và các việc biến-đổi ở nước Việt-Nam này được rơ-rệt
hơn, sẽ làm tiếp thêm 189 .
Việc chép lịch-sử cũng như việc dệt vải dệt lụa, dệt xong tấm nào
mới biết tấm ấy tốt hay xấu, c̣n tấm đang dệt, chưa biết thế nào mà
nói được.
Ta chỉ biết rằng các dây sợi dệt tấm Nam-sử này c̣n dài, người dệt
tuy phải lúc đau yếu, bỏ ngừng công-việc, nhưng c̣n mong có ngày
khỏe- mạnh lại dệt thêm, có lẽ lại dệt được tốt đẹp hơn, cũng chưa
biết chừng.
Mặc dù nước Việt-nam hiện nay được hoàn toàn độc-lập nhưng sự
hay-dở tương-lai chưa biết ra thế nào? Song người bản-quốc phải biết
rằng phàm sự sinh-tồn tiến-hóa của một nước, là ở cái chí-nguyện, sự
nhẫn-nại và sự cố-gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết sức mà
học-tập, mà giữ cái tâm-trí cho bền-vững th́ chắc tương-lai c̣n
nhiều hi-vọng. Nước Việt-nam ta đă có cái văn-hóa chẳng thua-kém ǵ
ai, và lại có một lịch-sử vẻ- vang, nếu ta biết lợi-dụng cái
tiềm-lực cố hữu và cái tính thông-minh hiếu học của ta để theo thời
mà tiến-hóa, th́ sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông
cha mà dệt thêm một đoạn lịch-sử mỹ-lệ hơn trươc?
Có một điều thiết-tưởng nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều
hay của ta đă có, bỏ những điều hủ-bại đi, và bắt-chước lấy những
điều hay của người, để gây lấy cái nhân-cách đặt-biệt của dân-tộc ta
và cùng tiến với người mà không lẫn với người. Muốn được như thế, ta
phải biết phân-biệt cái hay cái dở, không ham muốn những cái
huyền-hăo bề ngoài, rồi đồng tân hiệp lực với nhau mà làm mọi việc
cho thành cái hiệu-qủa mỹ-măn.
Nước nào cũng có lúc bĩ lúc thái, đó là cái công-lệ tuần-hoàn của
tạo-hóa trong thế-gian. Tự xưa chưa thấy có nước nào cứ thịnh măi
hay cứ suy măi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người trong nước cứ vững ḷng
giữ được cái nghi-lực để sinh-tồn và tiến-hóa, th́ rồi thế nào cũng
có ngày chấn-khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một ḍng-dơi nhà
Hồng-Lạc, nếu ta biết kiên tâm bền chí, th́ há lại không có một ngày
ta có cái địa-vị vẻ-vang với
Những Sách Soạn Giả Dùng Để Kê Cứu
A. Sách Chữ Nho Và Chữ Quốc Ngữ:
1. Đại-Việt sử-kư, của Ngô Sĩ-Liên
2. Khâm-định Việt-sử Thông-giám cương-mục
3. Trần-triều thế-phổ hành trạng
4. B́nh Nguyên công-thần thực lục
5. Hoàng Lê nhất thống chí
6. Lịch-triều hiến-chương, của Phan huy Chú
7. Đại Nam thực lục tiền biên
8. Đại Nam thực lục chính biên
9. Đại Nam thống chí
10. Đại Nam chính biên liệt truyện
11. Đại Nam điển lễ toát-yếu, của Đỗ văn Tâm
12. Minh-mệnh chính yếu
13. Quốc-triều sử toát-yếu, của Cao xuân Dục
14. Thanh-triều sử-kư
15. Trung-quốc lịch-sử
16. Hạnh-Thục ca, của bà Nguyễn nhược Thị
B. Sách Chữ Pháp :
1. Cours d'Histoire Annamite, par Trương vĩnh Kư
2. Notion d'Histoire d'Annam, par Maybon et Ruissier
3. Pays d'Annam, par E. Luro
4. L'Empire d'Annam, par
Gosselin
5. Abrégé de l'Histoire d'Annam, par Shreiner
6. Histoire de la Cochinchine, par P.Cultru
7. Les Origines du Tonkin, par J. Dupuis
8. Le Tonkin de 1872 à 1886, par J. Dupuis
9. La Vie de Monseigneur Puginier, par E. Louvet
10. L'insurrection de
Gia-định, par J. Silvestre
(Revue Indochinoise - Juillet-Aout 1915)
163 Hải Dương và Quảng An
164 Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang rồi cho binh thuyền đi cướp
phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.
165 Có sách chép là Hoàng Tá Viêm.
166 Sách "L'Empire d'Annam" của capitaine Ch. Gosselin.
167 Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) có làm quyển sách "Le Tonkin de 1872
à 1886) kể những công việc của ông ấy ở Bắc Việt, và nói rơ t́nh ư
của các quan coi việc Súy Phủ ở Sài G̣n lúc bấy giờ là thế nào. Ta
cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra được nhiều việc rất là tường tận
168 Tờ ḥa ước năm giáp tuất 1874
169 Độc giả hiểu cho rằng những ngày tháng chép trong sách này là
theo ngày tháng Việt Nam chứ không phải là theo ngày tháng Tây.
170 Về sau có bài Chính Khí Ca nói về việc quan ta giữ thành Hà Nội
lúc bấy giờ, và ai hay ai dở cũng chép rơ ràng. Bài ca ấy không biết
ai làm.
171 Những chuyện ở trong Triều lúc bấy giờ, phần nhiều là lấy ở
quyển "Hạnh Thục Ca", của Lễ Tân Nguyễn Nhược thị. Bà ấy là một
người cung phi của vua Dực Tông sau lại làm thư kư cho bà Từ Dụ, cho
nên những việc trong triều bà ấy biết rơ được rơ.
172 Dục Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông
Hoàng con nuôi vua Dực Tông gọi là Dục Đức đường, Chánh Mông đường,
v.v.... Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong th́ người ta cứ lấy tên
nhà học mà gọi.
173 Résident tức là lưu trú quan, nhưng lúc bấy giờ ta chưa quen
dùng chữ ấy, và nhân có chữ consul cho nên mới dùng chữ công sứ.
174 Mỗi một lữ đoàn (brigade) có hai vệ quân, độ chừng bảy tám
ngh́n người, có chức thiếu tướng coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn
(division), có chức trung tướng coi.
175 Có chuyện nói rằng: Khi vua Kiến Phúc se ḿnh, nằm trong điện,
đêm thấy Nguyễn Văn Tường vào trong cung, ngài có quở mắng. Đến ngày
hôm sau, th́ ngài ngộ thuốc mà mất.
176 Tức là ải Chi Lăng ngày trước.
177 Việc Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp ở Huế, sử ta không nói rơ
số quân ta là bao nhiêu. Mà sách Tây có nơi chép là 2 vạn, có nơi
chép là 3 vạn. Nhưng cứ những người biết việc ở Huế lúc bấy giờ, th́
quân ta cả thảy độ chừng non 2 vạn trở lại, chứ không hơn.
178 Khiêm Lăng là lăng của vua Dực Tông, có khi gọi là Khiêm Cung
cũng là đấy.
179 Trường Thi thủa ấy bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây
số.
180 Trương Quang Đản trước làm tổng đốc Bắc Ninh, chống nhau với
quân Pháp, sau về Kinh phải giáng xuống tuần phủ ra giữ thành Quảng
Trị.
181 Người ở La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, con quan nguyên bố chính Lê Kiên.
182 Tôn Thất Thuyết đi đường thượng đạo ra vùng Hưng Hóa rồi theo
thượng lưu sông Đà lên Lai Châu nương tựa vào họ Điêu. Đến lúc nghe
tiếng quân Pháp lên đánh, liền bỏ họ Điêu mà trốn sang Tàu. Con cháu
họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên đến Lai Châu
c̣n có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần hết.
Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một
người như thế mà làm đại tướng để giữ nước, th́ tài ǵ mà nước không
nguy được Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.
183 Sách ông Gosselin chép là Phạm Thuận. Nhưng xét trong sử nước
th́ không có ai làm Phạm Thuận, chỉ có Nguyễn Phạm Tuân trước làm
tri phủ, sau theo vua Hàm Nghi chống cự với quân Phá, rồi bị đạng
phải bắt. Vậy Phạm Thuận tức là Nguyễn Phạm Tuân. nhiều việc, vả lại
nay đi kinh lược chỗ này, mai đi kinh lược chỗ nọ, thành ra khí lược
suy nhược đi, cho nên mới cảm bệnh nặng, đến ngày rằm tháng 10 năm
Bính Tuất (11 tháng 11 năm 1886) th́ mất. Nhà nước đem linh cữu về
Pháp mai táng.
184 Những chuyện nói về việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở
trong sách "Empire d'Annam" của đại úy Gosselin, cho nên những tên
làng tên đất nói ở đoạn này viết không được đúng dấu. Nhưng đại để
là những làng mường ở vùng sông Giai, thuộc huyện Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng B́nh.
185 Hiện nay vua Hàm Nghi c̣n ở Algérie, và đă lấy một người nước
Pháp, được mấy đứa con.
186 Hai bức thư ấy dịch ra chữ Pháp in ở trong sách "Empire
d'Annam" của đại úy Gosselin. Lời lẽ th́ thật là cương nghị đáng bậc
thiếu niên anh hùng. Nhưng v́ thư đă dịch ra chữ Pháp nếu nay lại
theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta th́ sợ không đúng với bản chính, cho
nên không đem vào đây.
187 Việt Minh là tên gọi tắt một đảng cách mệnh gọi là Việt Nam Độc
Lập Đồng Minh do đảng Cộng sản lập ra khi c̣n ở bên Quảng Tây, bên
Tàu, để tránh hai chữ Cộng sản cho người ta khỏi ngờ
188 Có một điều rất kỳ, là viên thống sứ Bắc Kỳ là người đại biểu
chính phủ Bảo hộ mà lại kiêm chức Kinh Lược Sứ là một chức quan của
Triều Đ́nh ở Huế.
189 Trước tôi đă dự bị viết một quyển sách nối theo sách này. Tôi
đă thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Chẳng may đến cuối năm bính
tuất (1946) có cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi bị đốt cháy, sách
vỡ mất sạch, thành ra đành phải bỏ quyển sử ấy mà không làm được
nữa. thiên-hạ hay sao? Sự ước-ao mong-mỏi như thế là cái nghĩa vụ
chung cả chủng-loại Việt-nam ta vậy.
Hết |