Chuyện làm đồng
xưa đă ăn sâu vào tiềm thức của người dân Nam Bộ. Mấy mươi năm nữa, đồng
hành với quá tŕnh phát triển của đất nước, phương tiện khoa học kỹ thuật
được áp dụng sâu rộng vào sản xuất nông nghiệp. Những nếp sản xuất xưa dần
bị mai một. Lớp trẻ dần không thể h́nh dung nổi chiếc xa đạp nước, gàu day
(dây) tát nước, và ngay cả động tác làm cỏ dùng phảng như phát cỏ, chế cỏ,
lạn cỏ là như thế nào !
Thuở xưa, đất Nam
Bộ rộng răi, lại rất màu mỡ, chỉ cần phát cỏ mà cấy nhưng thu hoạch rất
cao: có tỉnh chỉ cần gieo một hộc giống lúa, có thể thu hoạch được 300
hộc. Nhiều giống lúa được sử dụng vào sản xuất như tàu hương, ba túc,
huyết rồng, tàu vững, nàng chol…v.v. Về nếp th́ có nếp bà bóng, nếp than,
nếp ruồi…v.v. Lúa, nếp giống được ngâm ủ kỷ, khi đă nẩy mầm mạnh th́ đem
gieo mạ, khoảng hai tháng th́ nhổ mạ để cấy. Cứ vào tháng 6 ta bắt đầu
gieo mạ, tháng 8 cấy, và tháng giêng năm sau th́ thu hoạch. Tuy nhiên, ở
Nam Bộ việc làm ruộng có nơi sớm, nơi muộn khác nhau, đều tuỳ thuộc ở địa
thế từng vùng đất ruộng cao hay đất trũng.
Người dân nông
thôn có thói quen là vào khoảng canh 3 gà gáy sáng th́ thức dậy, chuẩn bị
nấu cơm để ăn đi “làm đồng”. Cơm có thể là cơm tẻ hoặc cơm nếp. Đặc biệt,
cơm nếp được nấu lên rất là thơm và dẻo. Sau đó, cơm nếp đem trộn đều với
dừa cứng cạy, nạo nhỏ, sẽ tạo thành một món ăn rất được mọi người dân ưa
thích. Cơm nấu xong được đựng trong diệm, thau hoặc lấy mo cau để gói. Cơm
nếp có thể ăn với đường mía hoặc mắm cá lóc, cá rô kho tộ hoặc tôm kho tàu
c̣n ngon ǵ bằng !
Khi mưa nặng hạt,
nông dân bắt đầu nhổ mạ; ruộng cạn th́ dùng đ̣n xóc để gánh mạ, c̣n ruộng
sâu th́ dùng cây trúc hoặc dây mây để kéo mạ đem ra ruộng cấy đă chuẩn bị
sẵn. Ngoài ra, nông dân c̣n sử dụng tấm lỉa (ván mạ) để kéo mạ bằng trâu.
Sau khi gieo mạ
cấy lúa xong cũng là lúc nông nhàn. Người nông dân làm vườn, chăn nuôi và
cùng tham gia các hoạt động văn hoá văn nghệ như ḥ vè, đối đáp, xem hát
bội, sân khấu cải lương. Nét độc đáo của người dân nông thôn là rất thích
xem hát như hát bội vào những dịp cúng đ́nh. Mỗi làng thường có một cái
đ́nh, nơi thờ Thành hoàng và các vị Tiền hiền, Hậu hiền có công khai mở và
phát triển làng. Bên cạnh sân khấu hát bội, người dân c̣n rất “mê” xem cải
lương; hễ nghe có đoàn hát về đến làng hoặc các làng lân cận, th́ đến xế
chiều, từ trẻ nhỏ đến người lớn đều náo nức đi xem hát. Bọn trẻ, cha mẹ
không cho đi th́ trốn nhà để xem hát cho bằng được. Có đêm, nghệ sĩ đang
diễn tuồng bất chợt trời đỗ mưa, người dân vẫn đội đầu dưới mưa để xem hát
đến phút chót.
Trước đây, nông
dân làm ruộng chỉ 1vụ/ năm, v́ cây lúa thời kỳ này có thời gian sinh
trưởng rất là dài, khoảng 5 – 6 tháng mới thu hoạch được; lại phải “ trông
mưa”.
Cuối những năm
60, ở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long bắt đầu gieo tŕnh diễn các giống lúa
ngắn ngày, c̣n gọi là lúa “Thần Nông” đạt kết quả khả quan. Dần về sau,
lúa thần nông mới được trồng phổ biến. Một số nơi, lúa mùa đương tốt, phát
bỏ chuyển sang trồng lúa thần nông.
Khoảng cuối tháng
10 đầu tháng 11 mưa tạnh hoặc có mưa th́ mưa nhỏ, không ảnh hưởng đến lúa
chín. Lúc này, ngoài đồng cạn nước, cá tôm dồn lại giữa “rún cày” vô số
kể; và cũng là lúc vào vụ bắt cá cạn. Nhà nào có đ́a th́ đi tát đ́a bắt
cá. Bắt cá th́ phải lấy rổ mà xúc. Một người bắt cá giỏi nhất th́ cần
phải vài ngày mới bắt hết cá ở dưới một cái đ́a. Tôm cá được đựng vào cần
xé mà gánh về nhà. Một khung cảnh thật là nhộn nhịp. Tôm cá quá nhiều, bà
con nông dân lựa những con cá lớn, xẻ ra, phơi khô hoặc làm mắm. Cá nhỏ
hơn được rửa sạch đem để vào lu, khạp ủ kỷ, nấu nước mắm. Nước mắm được
nấu rất là thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng chẳng thua ǵ các loại nước mắm
hảo hạn.
Ăn Tết cổ truyền
xong, ngoài đồng lúa đă chín vàng, cũng là lúc vào vụ thu hoạch. Trước khi
ra đồng, người nông dân có một tập tục làm một mâm cỗ cúng “xuống đồng”.
Đồng thời, chọn một người làm ruộng giỏi nhất trong làng “dở hộp” (cắt lúa
trước) với ư nghĩa là cầu mong cho một vụ mùa bội thu. Tinh thần tập thể
được gắn kết từ lâu đời. Nhiều gia đ́nh hợp lại “mần dần công”(đổi công).
Đến khi lúa đă vào nằm yên trong bồ, th́ người nông dân lại làm thêm một
mâm nữa để cúng Thần Nông nhằm tạ ơn.
Hồi này, không có
máy cắt lúa, phần nhiều là sử dụng ṿng gặt; về sau có lưỡi hái, lưỡi
liềm. Lúa được cắt, lấy thân lúa để bó lại thành từng lọn nhỏ, dùng trâu
cộ lúa bó về các nền cḥi, chất cà lan. Lúa được đạp bằng trâu. Dưới ánh
trăng rằm, từng đôi trâu nhẹ bước chân trên từng bó lúa c̣n thơm mùi rạ.
Tiếng cười đùa rộn ră một miền quê. Đêm càng sâu, ánh trăng vằng vặc, lúa
đă trơ rơm, từng đôi nam nữ cùng nhau bắt bó(dùng mỏ xải để giũ rơm).
Những cụ già, em trẻ dùng trang hoặc bù cào để kéo lúa trải đều ra sân,
rồi quét kiểu (lấy chổi chà quét phần rơm c̣n sót lại trên mặt lúa).
Sáng ra, những hạt
lúa vàng óng ánh đă đầy sân, nắng ấm ban mai cũng dần ló dạng. Lúa được
đem phơi se vỏ, th́ dùng thúng xúc để giê. Giê lúa bằng quạt chiếu hoặc
gió trời. Về sau, người dân biết chế tạo xa quạt lúa bằng tay, rồi máy.
Bên cạnh sử dụng trâu để đạp lúa, c̣n h́nh thức đập bồ, máy tuốt hạt. Khi
máy móc được sử dụng th́ có máy suốt tay; việc thu hoạch lúa đở tốn công
hơn. Mỗi vụ người nông dân thu về 10-15 giạ/ công là trúng lắm rồi.
Nếp cũ đồng quê
Nam Bộ c̣n biết bao điều thú vị ! Từ những phong tục tập quán sinh hoạt
hằng ngày, đến những phương cách t́m kế sinh nhai trên các kênh rạch.
Những chiếc xuồng câu nhẹ lướt trên kinh, những cánh diều tuổi thơ bay lên
cao vút giữa nền trời xanh. Và cùng những ước mơ…v.v.
Nét văn hóa Nam
Bộ vào những ngày giáp tết
Mỗi độ xuân về,
h́nh ảnh Tết quê vẫn c̣n đọng măi trong kư ức của mỗi người dân Nam Bộ.
Khung cảnh Tết xưa đầy vẽ nguyên sơ, chất phác và nồng ấm t́nh người. Hễ
Tết, c̣n gần non một tháng là dân trong làng lại rộn lên không khí chuẩn
bị cho “ba ngày Tết”. Từ lo việc đồng áng, tát ao bắt tôm cá hoặc dọn dẹp
nhà cửa cho tươm tất, hợp đồng với nhau đi chợ Tết đến việc chuẩn bị một
ít nếp ngon, quết bánh phồng để cúng ông bà.
TÁT AO NGÀY GIÁP
TẾT
Vào khoảng trung
tuần tháng 12 âm lịch, đồng quê lúa chín một màu vàng rực, hương thơm ngào
ngạt, là báo hiệu một mùa xuân mới. Lúc này, đồng ruộng dần cạn nước, râm
rang tiếng cá vẩy đuôi, đớp mồi, nghe rất vui tai; Ai thích ăn cá lóc
nướng trui hoặc cá rô kho tộ, th́ chỉ cần giựt tổ kiến vàng để bắt kiến
cánh xào với mỡ, thơm phưng phức làm mồi, ra ruộng câu. Trong nhấp nháy là
đầy giỏ, tha hồ mà lựa. Đêm đến th́ dùng khạp, đi nhận hầm ở các đầu
ruộng, đến tờ mờ sáng ra thăm th́ nào là cá, rùa, rắn để mang về nhà.
Sau ngày đưa Ông
Táo về Trời, không khí Tết càng thôi thúc ḷng người, ruộng đồng cạn
nước, rộn rịp cá tôm, dồn lại giữa “rún cày”; và cũng là lúc vào vụ bắt cá
cạn.
Sáng ra đồng,
người th́ xách giỏ, kẻ gánh cần xé, những cô gái th́ cầm rổ xúc đi tát
đ́a, bắt cá theo rún cày, hoà trong tiếng cười đùa thật rộn ră. Bắt cá th́
dùng rổ mà xúc, đựng vào cần xé mà gánh về nhà. Một khung cảnh thật là
nhộn nhịp.
Nét văn hoá cộng
đồng của cư dân Nam Bộ c̣n được hiện rơ trong t́nh cảm, tinh thần đoàn kết
giúp đỡ nhau qua việc bắt cá “vần công”.
Gần đến Tết, hễ
khi nghe nhà nào tát ao, tát đ́a, th́ cả xóm cùng nhau sang bắt phụ . Bọn
trẻ th́ chuẩn bị giỏ để đi “bắt hôi” (bắt phía sau chủ đ́a. Nói là đi bắt
hôi nhưng có khi bắt được cả tôm càng xanh. V́ thời này, người dân chủ yếu
làm lúa mùa mỗi năm một vụ, không sử dụng các chất độc hại như ngày nay,
nên tôm cá rất dồi dào. Đi bắt hôi về, để dành ăn có khi gần cả tuần,
nhiều nhất là cá đen (cá lóc, trê…), cá trắng (cá sặc, thác lác…) và có
khi được cả cua đinh.
Thời này, Tát một
cái đ́a, chỉ riêng tôm càng xanh có dư năm mươi kư; người dân đem đi chợ
bán một ít, để mua đồ về chuẩn bị cho ba ngày Tết; số c̣n lại th́ thường
làm món tôm kho tàu. Món ăn khoái khẩu của bọn trẻ vẫn là tôm xỏ cọng dừa,
nướng rơm ăn rất ngọt và thơm. C̣n lại, bà con nông dân lựa những cá lớn
đem rộng, để dành ăn Tết hoặc xẻ ra phơi khô, làm mắn để sau Tết ăn đi làm
đồng. Những con cá nhỏ hơn th́ được rửa sạch đem để vào lu, khạp ủ kỷ, nấu
nước mắm. Nước mắm được nấu từ cá rất thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng
chẳng thua ǵ các loại nước mắm hảo hạng. V́ vậy, mà cách ăn uống của
người dân Nam Bộ rất hào phóng được hiện rơ qua cách dùng đũa nghiêng để
gắp cá.
QUẾT BÁNH PH̉NG ĂN
TẾT
Khoảng thượng tuần
tháng Chạp, khung cảnh miệt vườn vốn dĩ yên tỉnh, lại rộn lên tiếng chày
quết bánh phồng. Khoảng hai ba giờ sáng, người dân thôn quê bắt đầu thức
dậy, đi quết bánh vần công. Người th́ chuẩn bị đem nếp xuống sông để xả
cho sạch, xay đậu xanh, người th́ rửa chày cối quết bánh.
Bánh phồng có
nhiều loại tuỳ theo nguyên liệu làm bánh mà có cách gọi khác nhau, đặc
biệt hương vị của mỗi loại bánh phồng đều có nét đặc trưng riêng như bánh
phồng nếp khi nướng lên ăn rất gịn, xốp; bánh phồng ḿ ngọt, gịn đậm;
bánh phồng sữa rất béo. Để bánh ngon phải thực hiện đầy đủ các công đoạn.
Nên chọn nếp phải dẽo như nếp bà bóng, nếp mỡ, không bị lẫn gạo; men tốt,
dầu dừa phải béo, trứng gà phải mới. Nếp ngâm với men độ khoảng 3 ngày,
rửa sạch, bắt xửng lên để xôi.
Khi trên bếp đang
tiến hành xôi th́ bên ngoài cũng đang chuẩn bị chày, cối quết bánh, ống và
giấy cán, chiếu phơi. Khi xôi thấy hạt nếp mềm th́ đem ra cối quết ngay.
Để quết được một ổ bánh, người quết phải có sức khoẻ và sự phối hợp nhịp
nhàng giữa người quết và người vùa (đảo bánh). Làm bánh, người vùa bánh
rất quan trọng, người lành nghề sẽ thấy rơ qua bàn tay nhanh nhẹn. Lúc
đầu, xôi c̣n nóng dính cối, người vùa dùng nước đậu xanh thấm tay, đảo
bánh. Khi thấy bánh đă nhiễn, th́ vào đường cho bánh vừa độ ngọt, rồi tiếp
tục vô nước đậu đến khi đạt yêu cầu, th́ nhanh chóng chuyển sang bộ phận
bắt bánh và cán bánh, đem phơi. Các công đoạn phải làm nhanh nhẹn, kẻo để
bánh bị nguội phải hấp lại. Khi bánh vừa ra ḷ th́ trời cũng vừa hửng
sáng. Trong quá tŕnh cán bánh nên dùng ḷng đỏ trứng gà đă luột, nấu với
dầu dừa tha lên giấy, ống cán; để bánh không bị dính, bánh bóng và thơm
ngon hơn.
Sau khi bánh đă
được phơi khô, th́ dùng nước dừa nấu vừa ấm để tắm bánh, rồi đem ra phơi
lại cho khô, đóng gói. Nếu không thực hiện công đoạn này th́ khi bánh được
nướng không chuồi nở ra, như dân gian đă đặt gọi tên là bánh phồng.
Bánh phồng thường
được nướng bằng củi mo nan hoặc rơm mới và dùng gắp tre để nướng là ngon
nhất. Bánh nướng có thể ăn ngay để đủ gịn hoặc phơi sương cuốn với mứt
rừng để hương vị bánh pḥng càng đậm đà hơn.
Ngoài bánh phồng,
bánh tráng cũng không thể thiếu trong mỗi bửa ăn ngày Tết. Bánh tráng được
làm từ gạo. Hồi ấy, mỗi năm khi sắp đến Tết là người dân thôn quê hợp lại
nhau đắp ḷ, tráng bánh. Cái món bánh tráng ướt cuốn với dừa cứng cạy đă
nạo sẵn, và đậu xanh chín, ăn vào sẽ cho ta cái hương vị rất đặc biệt: vừa
ngọt của bánh, vừa béo của dừa và đậu xanh. Hoặc bánh tráng nhúng nước,
cuốn rỏi dưa cải với cá lóc nướng trui, tôm nướng hay chút thịt heo kh́a
nước dừa, chấm với nước mắm chua ngọt, c̣n ngon ǵ bằng ! Cái bánh phồng
Nam Bộ không chỉ là một món ăn độc đáo mà c̣n là một sản phẩm văn hoá đặc
trưng của cư dân nơi đây vào những ngày giáp Tết.
Ngày nay, tuy
cuộc sống đă có nhiều đổi thay, nhưng đâu đó trong tâm hồn của mỗi người
dân Nam Bộ, không sao quên được tát ao, bắt cá vần công, khung cảnh và
tiếng quết bánh phồng d́u dặt giữa đêm quê; hồi hợp được cha mẹ cho đi chợ
Tết. Và, lớp trẻ ngày nay ít có dịp để thưởng thức cái hương vị nồng ấm
ấy. Hy vọng, những nét văn hoá này, sẽ được bảo tồn và phát huy hơn nữa,
để lớp trẻ hiểu hơn về t́nh làng nghĩa xóm vào những ngày đón xuân.
Thới Hoà, ngày 20
tháng 11 năm 2006 |