( Ghi
chú của người dịch: đây là bài tóm lược, về chi tiết xin mời quư
vị vào xem trang nhà: http://en.epochtimes.com/n2/content/view/7869/.
Đọc sự phân tích nầy của tác giả, chúng ta nhận ra những vấn đề
tương tự của CSVN đang đối đầu v́ họ áp dụng cùng một mô thức kinh
tế)
Lâu nay, nền
kinh tế của Trung Hoa đươc xem như là một phép lạ. Tuy nhiên, nhiều
kinh tế gia người Trung Hoa ở hải ngoại cho rằng nền kinh tế của
Trung Hoa đang rơi vào t́nh trạng suy thoái và trong một thời gian
ngắn sẽ tan ră, với kết quả là kéo theo sự sụp đổ của hệ thống chánh
trị. Tôi không dám nêu ra ở đây một sự nhận định về nền kinh tế
Trung Hoa (điều nầy không thể viết hết trong một bài báo). Tôi sẽ đề
cập một cách đơn giản 9 hiện tượng có thể quan sát được trong nền
kinh tế Trung Hoa, hầu hết mâu thuẫn với nhau và chưa bao giờ thấy
trong các hệ thống kinh tế khác, với hy vọng soi sáng cho một đề tài
phức tạp.
1. Gia tăng
tổng sản lượng quốc nội (GNP) đối chiếu với sự suy giảm thị trường
chứng khoáng:
Thị trường
chứng khoán thường được xem như là đơn vị đo lường của một nền kinh
tế nhưng điều nầy không đúng ở Trung Hoa. Vừa mới đây, nhà cầm quyền
Trung Hoa tuyên bố Tổng Sản Lượng Quốc Nội của 3 tam cá nguyệt đầu
năm 2008 gia tăng 9.90% - một tỷ số thấp nhứt từ 6 năm qua. Trong
khi kinh tế có vẻ tăng trưởng, thị trường chứng khoáng tiếp tục suy
giảm. Sau vài năm gia tăng mạnh mẽ, thị trường chứng khoáng của
Trung Hoa bất th́nh ĺnh mất giá từ tháng 10, và kể từ đó đến nay
chưa hồi phục. Thị trường chứng khoáng ở Thượng Hải rơi từ 6.400
xuống 1.600, mất giá hơn 70%. Không ai có thể cả quyết Tổng Sản
Lượng Quốc Nội hay Thị Trường Chứng Khoáng, dấu hiệu nào thể hiện
cho một h́nh ảnh trung thực về nền kinh tế Trung Hoa.
2. Kém hiệu
năng đối chiếu với tăng trưởng gia tốc:
Vào năm 2003,
một bài viết trên tạp chí Tài Chánh đề cập đến sự mâu thuẫn rộng lớn
của nền kinh tế Trung Hoa. Nước nầy có một nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhứt thế giới, trong khi đó, nền kinh tế của Trung Hoa là một
nền kinh tế kém hiệu năng nếu xét về tỷ số của những ngân khoản cho
vay trong lănh vực không sản xuất. Sự kiện nầy không t́m thấy trong
bất cứ nền kinh tế b́nh thường nào khác. Vào tháng 3 năm 2004, thống
kê của chánh phủ cho biết những tài khoản cho vay trong lănh vực
không sản xuất của 4 ngân hàng quốc doanh lên đến 18.900 tỷ nhân dân
tệ (2.780 tỷ đô la), chiếm khoảng 19% của tổng số tiền cho vay. Tuy
nhiên, Standard & Poor’s ước tính tỷ số nầy thực sự lên đến 45%. Nói
một cách khác, gần đến ½ số tiền tiết kiệm của dân chúng Trung Hoa
đă biến mất.
3. Mức thất
nghiệp cao đối chiếu với sự gia tăng của tổng sản lượng quốc nội:
Theo thống kê
của chánh quyền, hơn ½ sinh viên tốt nghiệp trong năm 2006 không thể
kiếm viêc làm trong ṿng 6 tháng kể từ ngày ra trường. Những sinh
viên tốt nghiệp trong năm 2007 phải đối phó với một t́nh trạng tệ
hại hơn. Thí dụ, 1.600 ứng viên vừa nộp đơn xin một việc làm kế toán
viên sơ cấp và 1.000 sinh viên tốt nghiệp nộp đơn cho một việc trong
một cửa hàng. So sánh với giới sinh viên, những công nhân mất việc
và những nông dân, đất đai của họ bị chiếm đoạt lại càng khó khăn
kiếm việc làm hơn. Nếu nền kinh tế của Trung Hoa tăng trưởng nhanh
chóng th́ tại sao tỷ số thất nghiệp lại có thể lên cao như vậy?
4. Cuộc
sống xa hoa của cán bộ đối chiếu với sự nghèo đói của người dân:
Hai cảnh đời
tại Trung Quốc ngày nay
Khi đề cập đến
tỷ số thất nghiệp so với mức tăng trưởng cao của tổng sản lượng quốc
nội của Trung Hoa, Giáo Sư của đại học Yale, ông Chen Zhivu nói rằng
, tuy Trung Hoa công bố tổng sản lượng quốc nội tăng 10.40% trong
năm 2007, thật ra chỉ có 6.40% ảnh hưởng đến người dân thường. Thực
tế c̣n kém hơn. Làm thế nào Trung Hoa có thể khoe khoang một sự tăng
trưởng mạnh như vậy, trong khi quần chúng của họ không thấy mức sống
được nâng cao? Theo sự t́m hiểu, chánh sách mở cửa được nhà cầm
quyền Trung Hoa phát động từ 3 thập niên vừa qua chỉ đem lại sự giàu
sang cho một bộ phận nhỏ trong xă hội, hầu hết là các cán bộ cao cấp
và những thành phần ưu tú (nói chung, chánh sách mở cửa hàm ư sự gia
nhập WTO và thiết lập 4 khu vực ở miền Nam Trung Hoa như những vùng
kinh tế tập trung vào việc sản xuất để xuất cảng). Đối với người dân
b́nh thường, cuộc sống của họ trở nên khó khăn hơn.
Vào tháng 4
năm 2006, đoàn kiểm tra của đảng Cộng Sản Trung Hoa phổ biến một bản
báo cáo về tài sản và lương bổng của công nhân viên nhà nước. Bản
báo cáo cho biết các giới chức cao cấp và cán bộ chỉ đạo địa phương
đă trở thành một giai cấp ưu đăi trong xă hội. Những cán bộ nầy có
một mức lương trung b́nh từ 8 đến 25 lần cao hơn người dân trong các
đô thị, và từ 25 đến 85 lần cao hơn nông dân. Vào năm 2006, Ngân
Hàng Thế Giới phúc tŕnh 0.40% của người Trung Hoa sở hữu 70% tài
sản quốc gia. Trung Hoa chiếm giải quán quân về việc tập trung tài
sản theo ư nghiă xấu nhứt trên thế giới. Thống kê của LHQ cho biết
có 300 triệu người Trung Hoa sống với 1 đô la hay ít hơn mỗi ngày.
Con số nầy nhiều hơn 6 lần so với con số do chánh quyền Trung Hoa
công bố. Sau khi áp dụng chánh sách mở cửa, nền kinh tế Trung Hoa đă
tăng lên gấp 9 lần, nhưng người dân hưởng rất ít v́ tài sản tập
trung ở chóp bu.
5. Giá trị
đồng tiền cao đối chiếu với nạn lạm phát:
Trên bề mặt,
trị giá cao của đồng tiền đem lại măi lực mạnh, nhưng nạn lạm phát
phi mă đă làm cuộc sống của người dân Trung Hoa khốn khổ hơn. Hăy
lấy giá thịt heo chẳng hạn. Mới đây, giá một cân nhảy vọt từ 4 nhân
dân tệ (0.59 cents) lên 14 nhân dân tệ (2.05 đô la) trong một thời
gian ngắn. Sự khó khăn thể hiện rơ rệt nhứt đối với người nông dân.
Giá gạo tăng cao có nghiă là họ thu được thêm lợi tức và gia tăng
sản xuất. Tuy nhiên, chi phí hạt giống và phân bón gia tăng liên tục,
cuộc sống của người nông dân không bao giờ thăng tiến được. Tại
Trung Hoa, giá cả của hàng hóa kỹ nghệ và sản phẩm nông nghiệp bị
đối xử một cách biện biệt, đó là trở ngại quan trọng nhứt đối với
nông dân. Điều nầy không những ảnh hưởng mức sống của họ mà cả trị
giá của đất đai canh tác, hậu quả là họ mất đất một cách trực tiếp
hay gián tiếp. Vậy ai là người hưởng lợi trong chế độ nầy? Rơ ràng
nhứt là chánh quyền v́ sản phẩm nông nghiệp bị ém giá thấp bất chấp
phí tổn. Không những nông dân bị thiệt hại v́ giá nông phẩm thấp, mà
họ c̣n bị điêu đứng khi giá cao. Điều nầy chứng tỏ một hiện tượng
thật lạ lùng cho thấy đây là một nền kinh tế không lành mạnh. V́ vậy,
làng mạc xơ xác, nông dân nghèo khổ và nền nông nghiệp biến chất là
3 vấn nạn nghiêm trọng, và sẽ gây nên những hậu quả rộng lớn đến nền
kinh tế của Trung Hoa.
6. Giá bất
động sản quá cao đối chiếu việc mua nhà trong sự hốt hoảng:
Giá nhà cửa
quá cao, nhiều người Trung Hoa không đủ khả năng mua nhà. Nhưng dân
chúng vẫn sắp hàng đi mua v́ họ sợ giá nhà sẽ tăng hơn nữa. Nhiều
chương tŕnh cho vay được thiết lập để thủ lợi trong một thị trường
nhà cửa không có kiểm soát. Làm sao người mua nhà hưởng được những
chương tŕnh nầy? Dĩ nhiên là với sự hỗ trợ của các ngân hàng. Muốn
như vậy, họ phải biết phải trái với các nhân viên ngân hàng để các
nhân viên nầy phê chuẩn hồ sơ không hợp lệ.
7. Lăi suất
kư thác cao nhứt thế giới đối chiếu nạn tham nhũng tràn đầy:
Sức mua sắm
nội địa yếu kém đă làm tŕ trệ sự phát triển của nền kinh tế Trung
Hoa. Mức tiêu thụ chỉ chiếm 35% của Tổng Sản Lượng Quốc Gia, trong
lúc trị giá của bất động sản chiếm hơn 50%. H́nh ảnh nầy hoàn toàn
trái ngược với những quốc gia phát triển ở Tây Phương như Liên Hiệp
Âu Châu và Hoa Kỳ, mức tiêu thụ đómg góp hơn 70% và trị giá bất động
sản thấp hơn 20%. Theo thống kê năm 2005, lăi suất kư thác ngân hàng
của Hoa kỳ, Nhựt Bản và Liên Hiệp Âu Châu là 4%, 11.50% và 11.10%,
trong khi lăi suất của các ngân hàng Trung Hoa hơn 40%. Sự kiện khác
thường là tổng số lăi suất nầy cao hơn tổng số lương bổng của Trung
Hoa kể từ thập niên 1990. Thí dụ, trong hai năm 2001 và 2002, tổng
số tiết kiệm hằng năm vượt quá tổng số lương bổng hơn 300 triệu nhân
dân tệ.
8. Phát
triển quá mức đối chiếu với sự ngưng trệ:
Trung Hoa đă
trải qua giai đoạn phát triển kinh tế đáng khích lệ, đem lại sự gia
tăng sản phẩm để thỏa măn nhu cầu của giới tiêu thụ. Trong những năm
gần đây, chánh quyền trung ương đă áp dụng một chánh sách kinh tế
trên b́nh diện quốc gia để giới hạn những vấn đề có thể gây ra bởi
một nền kinh tế phát triển quá nhanh. Nhưng ông Lang Xianping, giáo
sư kinh tế học ở Hồng Kông, nhấn mạnh đến tính cách lưỡng cực của
nền kinh tế Trung Hoa. Trong khi bất động sản và ngân khoản tài trợ
các dự án xây cất tạo nên hầu hết sản lượng nội địa và phát triển
gia tốc, th́ nền kỹ nghệ sản xuất đang bị ngưng đọng. Theo giáo sư
Lang, nâng cao lăi xuất sẽ không ngăn chận được sự sụp đổ của lănh
vực bất động sản, nhung sẽ làm khó khăn cho những hăng xưởng bởi v́
họ thiếu tín dụng ngân hàng.
9. Phát
triển kinh tế nhanh đối chiếu với gia tăng bạo động chống chánh
quyền:
Trong những
năm gần đây, những cuộc nổi loạn chống nhà cầm quyền Trung Hoa có
thể được xếp vào 4 loại: phản đối truất hữu ruộng đất, phản đối
cưỡng chế chiếm đoạt tài sản, phản đối ô nhiểm môi sinh và bất măn
v́ bị đối xử bất công. Thị trường chứng khoáng bị chánh quyền Trung
Hoa sử dụng để thu tiền cho chánh quyền. Dân chúng mua trái khoán
qua các ngân hàng và các hăng xưởng, nhưng thường mất tiền đầu tư và
tiết kiệm. Thị trường bất động sản của Trung Hoa thật độc đáo. Khi
người dân bắt đầu nhận thức được rằng lâu nay họ bị lường gạt, thị
trường chứng khoáng là nguyên nhân gây ra một phần lớn sự phẩn nộ
của người dân khắp nơi ở Trung Hoa. Thị trường bất động sản ở Trung
Hoa cũng vậy, chánh quyền đóng vai tṛ người mua lẫn người bán,
truất hữu ruộng đất của nông dân với giá rẻ và bán lại cho giới địa
ốc với giá thật cao. Hiện nay có hơn 80 triệu nông dân mất đất qua
dịch vụ mua bán của chánh quyền. Những nông dân nầy trở thành những
người không có đất, không có nhà và không có việc làm. Hậu quả của
việc truất hữu đất đai rồi bán lại với giá cao làm gia tăng các
phong trào chống chánh quyền khắp nơi ở Trung Hoa.
|