Ngày 01 tháng
Sáu, Hội nghị tiếp tục tranh luận về vị trí điều hành cơ quan hành
pháp (...).
Bản kế
hoạch của Virginia đă gợi ra rất nhiều điểm gây tranh căi. Bản kế
hoạch cho rằng vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp phải do cơ quan lập
pháp (quốc hội) lựa chọn. Trách nhiệm của vị trí này sẽ là
thực thi các luật đă được quốc hội phê duyệt. Vị trí này sẽ đảm
nhiệm trong một số năm xác định. Vị trí này sẽ chỉ được trả một
khoản thù lao nhỏ.
Đó là những
điểm làm cơ sở cho cuộc tranh luận. Phải mất vài tuần các đại biểu
mới thảo ra được các chi tiết cho nhiệm vụ và quyền lực của vị trí
đứng đầu cơ quan hành pháp.
Dường như
mọi đại biểu trong Hội nghị Philadenphia đều có ư kiến đối với chức
vụ đứng đầu cơ quan hành pháp. Tất cả họ đều đă ít nhiều suy nghĩ về
vấn đề này từ trước.
Gần như tất
cả các đại biểu đều e sợ vị trí này sẽ được trao quá nhiều quyền lực.
Hầu như không có ai muốn vị trí đứng đầu cơ quan điều hành nước Mỹ
có quyền lực lớn như của một ông vua. Tuy nhiên, nhiều đại biểu tỏ
ra tin vào ư tưởng vị trí đứng đầu cơ quan điều hành quốc gia được
giao cho một người. Trong khi một số khác yêu cầu vị trí đó phải do
ba người đảm nhiệm.
James
Willson của Pennsylvania lập luận ủng hộ ư tưởng một người. Ông cho
rằng vị trí này cần sức mạnh và khả năng để có thể đưa ra những
quyết định nhanh. Những yêu cầu này chỉ được thực hiện tốt nhất khi
để một người thực hiện.
Edmund
Randolph của Virginia lại phản đối quyết liệt. Ông này cho rằng để
một người điều hành sẽ là mầm mống cho chế độ độc đoán quân chủ.
John
Dickinson của Delaware nói rằng ông ta không phản đối ư tưởng về chế
độ quân chủ, về một chính quyền do một ông vua đứng đầu. Ông cho
rằng đó chính là một trong các chính quyền tốt nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, ở nước Mỹ, ông ta nói, vua đă bị loại ra khỏi cuộc bàn
luận rồi.
Cuộc tranh
luận về qui mô của vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp đă tốn nhiều
thời gian. Cuối cùng, các đại biểu đă bỏ phiếu để quyết định. Đại
biểu đến từ bảy bang bỏ phiếu thuận cho ư tưởng một người điều hành.
Ba bang bỏ phiếu chống.
Cuộc tranh
luận cũng đặt ra nhiều câu hỏi khác cho vấn đề này. Một trong số đó
là về thời gian cho nhiệm kỳ. Người ở vị trí này nên giữ một nhiệm
kỳ hay có thể được bầu lại.
Alexander Hamilton cho
rằng cần có nhiệm kỳ dài. Ông lập luận rằng một tổng thống nếu chỉ
giữ quyền trong một hoặc hai năm, nước Mỹ sẽ có rất nhiều cựu tổng
thống và những người này, ông nói tiếp, sẽ đánh nhau v́ quyền lực.
Như thế sẽ tai hại cho ḥa b́nh của đất nước.
Benjamin Franklin lại ủng hộ cho việc được bầu lại. Ông cho rằng
nhân dân chính là người cầm quyền của một nước cộng ḥa. Và tổng
thống chỉ là người phục vụ nhân dân. Do đó, nếu người dân muốn bầu
lại một tổng thống bao nhiều lần th́ đó là quyền của người dân.
Các đại biểu cũng tranh luận về hai đề nghị. Một là cho một
nhiệm kỳ 03 năm với khả năng được bầu lại. Đề nghị kia là chỉ một
nhiệm kỳ kéo dài 07 năm. Kết quả bỏ phiếu rất sít sao. Đại biểu của
năm bang ủng hộ nhiệm kỳ 07 năm. Bốn bang kia chống lại. Vấn đề này
sau đó vẫn tiếp tục được bàn thảo suốt Hội nghị. Cuối cùng, trong
văn kiện tổng kết, Hội nghị đă thống nhất cho nhiệm kỳ tổng thống là
04 năm và có khả năng được bầu lại.
Câu hỏi tiếp theo là làm cách nào để chọn được người đứng đầu cơ
quan hành pháp. Đây là một vấn đề rất khó khăn. Hội nghị phải trải
qua nhiều cuộc tranh luận, bỏ phiếu, rồi lại tranh luận, lại bỏ
phiếu, lại tranh luận. James Willson đề nghị tổng thống sẽ do các
đại diện đặc biệt của dân bầu ra gọi là các đại cử tri. Đại cử tri
lại được chọn ra từ các quận, vùng đă được thiết kế cho phù hợp với
mục đích này.
Nhiều đại biểu không đồng ư với ư kiến này, họ cho rằng hiểu
biết của người dân chưa đủ để có lựa chọn tốt những đại cử tri.
Những đại biểu này nói rằng kế hoạch đó rất khó thực hiện và rất tốn
kém.
Có một đại biểu đưa ra ư tưởng tổng thống sẽ được thống đốc các
bang bầu ra. Các thống đốc của bang lớn sẽ có nhiều phiếu bầu hơn
các bang nhỏ. Không có ai ủng hộ ư tưởng này, nhất là các đại biểu
đến từ các bang nhỏ. Ư tưởng này bị bác bỏ ngay.
Lại có một đề xuất là tổng thống do người dân trực tiếp bầu ra.
Elbridge Gerry của Massachusetts bị sốc ngay v́ ư tưởng này.
“Người dân không hiểu được những vấn đề như thế này,” Elbridge
Gerry nói. “Một vài kẻ gian xảo sẽ dễ dàng đánh lừa người dân ngay.
Cách tai hại nhất để chọn ra tổng thống là để người dân bỏ phiếu bầu.”
Thế là các đại biểu đồng ư để cơ quan lập pháp bổ nhiệm tổng
thống. Nhưng sau đó họ lại bỏ phiếu chống lại phương pháp này và nói
rằng để cho quốc hội các bang chọn ra các đại cử tri để bầu tổng
thống. Nhưng sau đó, cách này cũng không được chấp nhận khi đưa ra
bỏ phiếu. Cuộc tranh luận lại tiếp tục chuyển sang cách bầu trực
tiếp thông qua người dân.
Hội nghị đă phải làm sáu mươi cuộc bỏ phiếu về vấn đề này. Và
cuối cùng toàn Hội nghị đă đồng ư để vị trí đứng đầu cơ quan hành
pháp (tổng thống) được bầu thông qua các đại cử tri do quốc hội của
các bang chọn ra.
Vậy là, có người lên tiếng, chúng ta đă định xong cách chọn ra
tổng thống. Nhưng chúng ta sẽ làm ǵ nếu tổng thống làm những điều
có hại sau khi được nắm quyền? Chúng ta cần có cách để phế truất
tổng thống.
Đúng thế, cả Hội nghị cùng tán thưởng. Cần phải có cách để đưa
ra luận tội tổng thống, xét xử tổng thống và nếu ông ta được chứng
minh là có tội, sẽ phế truất ông ta. Thống đốc Morris của
Pennsylvania lên tiếng ủng hộ việc luận tội. Ông nói rằng một tổng
thống có thể phản bội niềm tin của dân chúng khi bị một thế lực lớn
nào đó tác động.
Các đại biểu đă phê chuẩn
đề xuất phế truất tổng thống khi bị chứng minh đă phạm vào tội hối
lộ, phản bội hoặc các tội nguy hiểm khác.
Vấn đề quan
trọng cuối cùng liên quan tới vị trí tổng thống là quyền phủ quyết
các quyết định của quốc hội.
Trước đó,
không đại biểu nào muốn trao cho tổng thống toàn quyền bác bỏ các
luật. Nhưng đến lúc này các đại biểu đă cảm thấy tổng thống nên có
tiếng nói trong quá tŕnh làm luật. Nếu không có tiếng nói đó, họ
nói, vị thế của tổng thống sẽ rất ít ư nghĩa. Và quốc hội sẽ có
quyền lực như một kẻ độc tài.
James
Madison đề nghị một giải pháp: Tổng thống nên có quyền phủ quyết
luật, nhưng quyền đó sẽ bị bác lại nếu đa phần thành viên quốc hội
bỏ phiếu ủng hộ thêm một lần nữa.
Văn kiện
tổng kết của Hội nghị đă liệt kê thêm các chi tiết cho vị trí người
đứng đầu cơ quan hành pháp (tổng thống). Ví dụ, tổng thống phải là
người được sinh ra tại Mỹ hoặc là công dân Mỹ vào lúc Hiến pháp được
công nhận. Người làm tổng thống phải sinh sống tại Mỹ được ít nhất
14 năm. Tuổi của tổng thống phải ít nhất là 35.
Tổng thống
được trả lương. Nhưng mức lương không được tăng hoặc giảm trong thời
gian đương chức. Tổng thống sẽ là tổng chỉ huy quân đội. Và thường
kỳ, tổng thống phải báo cáo cho quốc hội về t́nh trạng của toàn liên
bang.
Văn kiện
tổng kết Hội nghị cũng định ra những diễn từ cho lời tuyên thệ nhậm
chức của tổng thống. Cứ bốn năm một lần, từ hơn hai trăm năm nay,
mỗi tổng thống đều cất lên lời thề sau:
“Tôi xin
long trọng tuyên thệ, tôi sẽ thực thi trách nhiệm của Tổng thống Hợp
chủng Quốc Hoa Kỳ một cách trung thực và tôi sẽ, bằng mọi khả năng
của ḿnh, ǵn giữ, bảo vệ và che chở Hiến pháp của Hợp chủng Quốc
Hoa Kỳ.” |