Sự Tham
Nhũng có hệ thống ở Việt Nam
Ngô Trọng
Anh
Chào các
bạn! Tôi theo dơi sự tương quan giữa nền kinh tế Việt Nam và nạn
tham nhũng trong nhiều năm. Bản thân tôi nhận xét rằng Chính phủ
cộng sản đă cố tâm thực hiện nạn tham nhũng trong hệ thống kinh
tế Việt Nam để Chính phủ cộng sản làm giàu cho đảng trước khi
chế độ đa nguyên được thực hiện trong tương lai. Người khác có cách
nh́n khác về tương quan ấy. Hôm nay tại đây, tôi muốn thảo luận
tương quan này một cách tích cực, đi xa hơn những ǵ tôi đả thấy.
Việt Nam
đă thực hiện sự tự do kinh tế từ nhiều năm, và đem lại thành quả
tăng trưởng chừng 8% mỗi năm. Con số ấy là một dấu hiệu rất tốt cho
sự tiến bộ kinh tế; tuy nhiên, lỗ hổng giữa giàu và nghèo lại quá
lớn. Do đó, tỷ lệ lớn của sự tăng trưởng kinh tế chắc hẳn phải tập
trung vào thiểu số gồm người giàu, và tỷ lệ tồn tại của sự tăng
trưởng kinh tế rất nhỏ, thế mà lại phải chia cho đa số gồm người
nghèo.
Những
hiện tượng ấy làm cho tôi tự hỏi rằng tự do kinh tế phải chăng là tự
do kinh tế thực sự cho mọi người hay tự do kinh tế chỉ là một sản
phẩm do đảng cộng sản sáng chế để phục vụ một tập thể nhỏ có quyền
lực cùng với thân quyến họ trong một âm mưu đen tối.
Theo ư
tôi, đảng cộng sản Việt Nam đă hiểu rơ sự suy thoái của đảng cộng
sản trên thế giới sau khi Nga Sô sập đổ năm 1991, và đảng cộng sản
Việt Nam rồi sẽ sập đổ, đó chỉ một vấn đề thời gian.
Muốn sống
c̣n đảng cộng sản Việt Nam phải thay đổi ư thức hệ và thay đổi tổ
chức ḿnh để thích ứng với xu hướng mới của chính trị toàn cầu. Ban
lănh đạo đảng cộng sản biết rằng ư thức hệ cộng sản không thích hợp
với khung cảnh xă hội mới ngày nay, và thuyết đa nguyên, tức một xu
hướng mới của không khí chính trị, sẽ nổi bật lên nay mai ở Việt Nam
mà không có sức ǵ cản lại được. Từ đấy, họ đặt kế hoạch biến chuyển
đảng cộng sản thành một đảng chính trị có tài chánh mạnh dưới
danh xưng khác . Họ tin tưởng rằng một đảng phái gồm thành viên
giàu có sẽ làm cho đảng tương lai có toàn quyền lực để tiếp tục cai
trị đất nước. Với suy tư trên, Chính phủ cộng sản gia tăng
tăng tài chánh cho đảng tương lai của họ bằng cách thiết lập một hệ
thống đặc ân kinh tế để hợp thức hóa tài sản quốc gia biến thành tài
sản tư hữu của thành viên cộng sản qua một chuổi phức tạp tham
nhũng có sự phối hợp. Nhờ cách đó đảng cộng sản làm giàu
đảng viên và thân quyến để duy tŕ quyền lực khi chế độ đa nguyên
được thực hiện tại Việt Nam.
Theo dơi
quá tŕnh trong hai mươi năm qua chúng ta có thể thấy rơ hệ thống
đặc ân kinh tế đă điều khiển thế nào một chuổi dài gồm bốn giai đoạn
(tham nhũng).
Giai đoạn I: Thực Hiện Tham Nhũng cho Toàn Xă Hội
Chính
phủ cộng sản
đă khuyến
khích đảng viên cộng sản kinh doanh đầu thập niên 90 bằng cách cho
phép đảng viên cộng sản mở tư doanh thương mại. Phần
lớn đảng viên là quan chức chính phủ có quyền lực điều khiển kinh tế
và chính trị quốc gia. Do đó, đảng viên cộng sản được đặc quyền sử
dụng tài nguyên dưới nhiều h́nh thức như môn bài, giấy phép, học vấn,
thông tin doanh nghiệp, giao thiệp buôn bán giữa các doanh
thương.vân vân.
Nhờ những
đặc ân ấy, đảng cộng sản tạo giúp đảng viên họ
một môi trường tư doanh không-ai cạnh tranh để chiếm độc quyền thị
trường; từ đấy, tiền vốn đảng viên cộng sản phát triển nhanh
chóng để làm giàu cho đảng cộng sản bằng nhiều loại thương mại khác
nhau. Đảng viên cộng dản và gia quyến họ có cơ hội được giáo dục về
thương mại, kỹ thuật, văn hóa, văn chương, khoa học v.v. nhiều hơn
người dân ngoài đảng ở trong nước. Hoàn cảnh thuận lợi trong học vấn
và quyền lực chính trị làm tăng trưởng tư nghiệp họ mạnh hơn, nhanh
hơn những thương nhân khác ngoài đảng cộng sản nói về vốn liếng và
sự bành trướng.
Việc
thuận lợi về thông tin tạo cơ hội làm ăn cho đảng viên ưu tiên trước
những người khác ngoài đảng.
Thí dụ,
đảng cộng sản có ẩn ư hé lộ ra tin tức giúp đảng viên
họ mua đất rẻ tiền ở những vùng mà Chính phủ cộng sản Việt
Nam dự trù sẽ xây cất một khu kỹ nghệ hay khu thương măi. Sau đó
Chính phủ cộng sản Việt Nam phải chuộc với giá cao để đền bù cho
sở hữu chủ đảng viên họ; có nghĩa là Chính phủ cộng sản Việt
Nam đă chuyển nhượng hợp pháp vốn quốc gia thành vốn
tư hữu cho đảng viên cộng sản. Nói tóm, Chính phủ cộng
sản Việt Nam cũng đă cho phép kín đáo đảng viên họ ăn cắp vốn
quốc gia qua danh xưng tham nhũng với các h́nh thức khác như hợp
đồng kinh doanh, dự án quốc gia, buôn lậu, đầu tư quốc tế, vân vân.
Đó là lư do tại sao nạn ttham nhũng thống trị toàn xă hội.Theo
ư cá nhân tôi, đảng cộng sản sáng tạo ra một hệ thống tham nhũng để
làm giàu cho đảng viên cộng sản trên vốn quốc gia và tài sản, và từ
đó phát triển tài chánh cho đảng chính trị tương lai của họ tiếp tục
cai trị nước Việt Nam.
Giai đoạn II: Chuyển nhượng Tài Sản
Sau một
thời gian nhất định cho phép đảng viên hành nghề thương mại,
Chính phủ cộng sản Việt Nam đề xuất một chánh sách mới cấm đảng
viên cộng sản hành nghề thương mại v́ đảng viên cộng sản đă lợi dụng
quyền lực để chiếm ưu thế kinh doanh. Với chánh sách ấy, xem bộ đảng
cộng sản muốn ngăn chận nạn tham nhũng đang truyền bá trên toàn quốc.
Trên thực tế, chánh sách ấy chỉ được dùng để chuyễn
nhượng vốn quốc gia và tài sản sang h́nh thức khác trong kế hoạch
giai Đoạn II của họ, và nhờ đó họ che mắt công luận theo
gịng thời gian. Với số vốn thâu được qua thương nghiệp và số
vốn thâu hoạch qua các cách tham nhũng khác trong giai Đoạn I,
thương nghiệp đảng viên cộng sản phát triển do thân quyến đứng
tên kể từ khi luật cấm được ban hành. Những chiến lược tham
nhũng trong giai Đoạn I vẫn được tiếp tục sử dụng nhưng vừa phải và
rất tinh vi, bỡi lẽ luật chống tham nhũng được thực thi đúng đắn,
đàng hoàng ở vài cấp để tỏ cho thế giới biết rằng chính phủ muốn
chống nạn tham nhũng vậy. Tuy nhiên, đảng viên cộng sản vẫn
dùng quyền lực để gây ảnh hưởng thương mại một cách gián tiếp để
cạnh tranh với thương gia dân sự khác.
Thí dụ
hai công ty xe đ̣ trong một tỉnh nọ. Một trong hai
công ty thuộc thân nhân của quan chức có quyền lực lớn
c̣n công ty kia thuộc thường dân trong tỉnh.
Cảnh sát
công lộ thường ghi phạt lỗi giao thông hay kéo các xe đ̣ của công ty
dân sự, nhưng luôn luôn tránh né đụng đến các xe đ̣ của thân nhân
của quan chức có quyền lực lớn. Thời buổi này, có hàng trăm xe đ̣ ở
Việt Nam phi-cạnh tranh như vậy, họ dùng quyền lực
chính trị để làm giàu cho đảng viên cộng sản và thân quyến. Ở giai
đoạn này, đảng cộng sản sáng chế thành công một giai cấp đảng viên
cộng sản, - giàu có quá sức nếu đem so sánh với người dân ở các từng
lớp tương ứng- , với mục đích chuẩn bị cho đảng chính trị tương lai
của họ tiếp tục cai trị quốc gia.
Giai đoạn III: Chiếm Hữu Tài Sản Quốc Gia
Giai đoạn
này đang xăy ra ở Việt Nam. Nhiều tài sản quốc gia như hàng
không, bệnh viện, hoặc những công ty mủi nhọn hàng đầu đă được tư
hữu hóa bằng cách phát hành cổ phần cho công chúng trong mấy năm gần
đây. Đảng viên cộng sản và thân nhân giàu có dùng vốn liếng
kiếm được do thương nghiệp bất chính và tham nhũng ở Giai Đoạn I và
Giai Đoạn II để đầu tư vào tài sản quốc gia nói trên bằng cách mua
cổ phần, có thể suy rằng tài sản quốc gia đă được chuyển nhượng hợp
pháp cho kẻ đang nắm quyền lực và thân quyến sau khi hệ thống đặc ân
kinh tế được thực hiện một thời gian nhất định. Xin nói thêm rằng kẻ
đang nắm quyền lực và thân quyến có thể có đặc quyền mua cổ phần các
tài sản quốc gia với giá rẽ hoặc có quyền lựa chọn cổ phần.
Với cách đó, đảng cộng sản có thể làm giàu đảng viên thêm bằng cách
chuyển thẳng tài sản quốc gia vào tài sản đảng viên Xin quí
bạn nhớ rằng mọi vốn liếng Việt Nam thâu hoạch được do tài nguyên
thiên nhiên, thuế mà, do vay nợ Ngân Hàng Thế Giới, và do nhiều món
nợ khác mà hậu sinh Việt Nam phải trả vừa vốn lẫn lời trong tương
lai. Theo ư tôi, đảng cộng sản là đảng chính trị duy nhất điều khiển
tất cả vốn liếng quốc gia, mà không có đảng chính trị nào khác
kiểm tra công việc và hiệu năng của họ. Do đó, đảng cộng sản
có khả năng sử dụng vốn liếng và tài sản quốc gia để làm lợi cho
đảng chính trị tương lai của họ trong mọi định hướng hay chiến lược.
Giai đoạn IV
Sự xuất hiện của Tân Đảng Chính Trị.
Giai đoạn
này nay mai sẽ xảy ra khi nào phần lớn vốn liếng quốc gia và tài sản
vào tay đảng viên cộng sản và thân quyến. Họ sẽ làm chủ nhiều công
ty trọng đại và hàng triệu mẫu đất quốc gia.
Bộ phận
lănh đạo đảng cộng sản sẽ thay đổi, không những chỉ danh xưng thành
tên khác khả tín như đảng Lao Động, đảng Nhân Dân, đảng Dân Chủ, đảng
Xă Hội, đảng Cộng Ḥa, đảng Tân Cộng Sản vân vân, mà họ có
thể thay đổi ư thức hệ và tổ chức xă hội để biến dạng thành một xă
hội dân chủ. Thành viên Tân Đảng sẽ là đảng viên đảng cộng sản
có giá trị vốn liếng và tài sản cực kỳ to lớn hơn của thường dân
khác trong xă hội. Gặp trường hợp này, các đảng phái khác sẽ
gặp khó khăn lắm để cạnh tranh với Tân Đảng của đảng viên cộng sản,
lư do v́ Tân Đảng của họ không những được hưởng nền tảng tự do, dân
chủ và nhân quyền như mọi đảng phái khác, nhưng lại có thêm nhiều
vốn liếng tài sản yểm trợ để thắng bầu cử vào các cấp chính phủ.
Nhu vậy đảng cộng sản vẫn tiếp tục điều khiển guồng máy cai trị
Việt Nam dưới tên khác và chủ nghĩa khác.
Đảng cộng
sản đă áp dụng thuyết Zero_Tổng-Số (Zero-Sum)), có nghĩa là
Lời hoặc Lỗ của Phe này được cân bằng chính xác với Lỗ hoặc Lời của
Phe kia. Vốn Lời của đảng viên cộng sản được cân bằng chính xác với
Vốn Lỗ của nhân dân trong xă hội. Sự Tham Nhũng có hệ thống
là phương tiện để thực hiện thuyết Zero_Tổng-Số bằng cách
chuyển nhượng hợp pháp tài sản quốc gia thành tài sản cá nhân đảng
viên cộng sản.
Nạn tham
nhũng xảy ra cố nhiên trên toàn xă hội; cho nên, rất khó ḷng mà
nhận thấy ra đó là mục đích của chính phủ trong thế ẩn ư chính trị
của họ. Với chiến lược ấy, đảng cộng sản đă gia tăng tài chánh cho
Tân Đảng của họ để cạnh tranh với các đảng phái khác một khi chế độ
đa nguyên được thực hiện ở Việt Nam. Đó là một chiến lược thực sự
tai hại cho người dân Việt Nam nhưng cũng vẫn là một dấu hiệu tốt
rằng đảng cộng sản Việt Nam bắt đầu thừa nhận đa nguyên trong tương
lai gần. Cuối cùng, họ không thể nào chống lại xu hướng chính trị
toàn cầu. Bao lâu nữa Tân Đảng chính trị của đảng viên cộng sản mới
xuất hiện ở Việt Nam? Tờ Singapore’s Straits Times vừa rồi đăng tin
đảng cộng sản Việt Nam cho biết thay đổi tên. Tân Đảng chính trị của
đảng viên cộng sản có chấp nhận đa nguyên trong nước? Anh ruột tôi
nói rằng Điều 4 Hiến Pháp hiện tại tuyên bố rằng đảng cộng sản
là lực lượng duy nhất lănh đạoNhà nước và xă hội Việt Nam.
Đảng cộng sản thay đổi tên ra tên mới, như vậy điều 4 của thể chế
hiện hành tự động không c̣n giá trị nữa với danh xưng mới ngoại trừ
họ tuyên bố lại điều ấy. Tôi hoàn toàn đồng ư với anh tôi về lư do
trên v́ ở Giai đoạn IV Sự xuất hiện của Tân Đảng Chính Trị
khởi sự ở cuối chân trời như chúng ta đả thảo luận ở trên.
Cho nên, chúng ta có bổn phận khuyến khích đảng cộng sản
Thay tên Đảng và Không tuyên bố lại Điều 4.
Chúng tôi hy vọng sự thay đổi ấy sẽ xảy ra trong ba hay năm năm
tới.
Với sự
quan sát các giai đoạn kinh tế liên tiếp ở Viêt Nam, bản thân tôi đi
đến kết luận rằng chính Chính phủ cộng sản đă cố ư tạo ra nạn tham
nhũng trong toàn xă hội để tăng trưởng tài chánh cho đảng tương lai
của họ.
Hiểu cách
khác, tham nhũng có thể là sản phẩm tự nhiên trong xă hội do kỹ
thuật tự nó điều chỉnh lấy. Mỗi chúng ta có thể quan sát sự tham
nhũng liên tục ấy qua lăng kính khác nhau. Tôi hy vọng rằng giả
thuyết của tôi không đúng; trái lại nếu mà đúng, th́ xă hội Việt Nam
sẽ hỗn loạn tới mức khó mà truy tầm ra vốn liếng quốc gia và tài sản
khi đa nguyên được thực hiện tại Việt Nam.
Chúng ta
phải chuẩn bị việc này để tránh hỗn loạn. Kính xin quí bạn cung cấp
tài liệu và phổ biến điện thư này cho nhiều độc giả nếu được. Cám ơn
bạn và chúc một ngày đẹp trời.
Dallas,
11/21/2007
Cuong Pham
Ngô
Trọng Anh ghi chú thêm sau khi tạm phiên dịch bản văn Systematic
Corruption in Vietnam của Cường Phạm.
Bản thân
tôi rất khâm phục bài tham luận này và xin đóng góp thêm nhận xét
riêng như sau:
Sự
tham nhũng có hệ thống ở Việt Nam tức Kinh tế thị trường theo định
hướng Xă Hội chủ nghĩa.
1 ― Năm
1977: Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công
thương nghiệp Xă hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công
thương nghiệp XHCN tại miền Nam
2 ― Từ
12/1976: Vơ Văn Kiệt được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Uỷ
viên dự khuyết Bộ Chính trị. Ông tiếp tục giữ chức Bí thư Thành
uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
3 ― Năm
1975 Jean Baudouin Nguyễn Văn Đức, Giám đốc Công Ty Hợp Doanh Đại
Dương ở Khánh Hội, TP Hồ Chí Minh được Vơ Văn Kiệt nâng đở ngơ hầu
kiếm ngoại tệ cho Nhà Nước và tương đối thành công. Hợp doanh có
nghĩa là vừa Tư doanh vừa Quốc doanh.
4 ― Sau
khi đày “ngụy” Quân Cán Chính gồm chuyên viên Cộng Ḥa vào trại cải
tạo và đi kinh tế mới, để cướp tài sản. CSVN lại tiếp tục đày đi
kinh tế mới bằng nhiều đợt Cải tạo như nông nghiệp, thương nghiệp,
công nghiệp v.v. Do đó cái ǵ hữu ích cho xă hội chuyên viên cũng
như vật dụng không c̣n (Chôn dấu hết tài sản và dụng cụ sản xuất)
Kinh tế đ́nh trệ, bế tắt hoàn toàn.
5 ― Đại
Dương giải quyết chuyên viên chỉ huy cao cấp bắng cách dùng toàn
chuyên viên học tập cải tạo được tạm tha như (Kỹ sư, Bác sĩ, Nhà sĩ,
Luật sư, Tham sư hành chánh v.v.). lương bổng tượng trưng đủ cho cá
nhân sống vài ngày nhưng phải làm việc chuyên môn đúng mức. Nhà nước
bảo đảm không chận lại khi có giấy xuất cảnh theo các diện ODP, HO.
Trong trường hợp vượt biên không lọt bị bắt, Nhà nước cho tha cho về
làm việc.
6 ― Đại
Dương giải quyết nạn khan hiếm tài sản và dụng cụ sản xuất bằng
phương pháp hợp doanh: Tư nhân kư hợp đồng với nhà nước. Nhà nước
bảo đảm không tịch thu và khỏi đi kinh tế mới.
7 ― Nhờ
Công Ty xuất khẩu hải sản thành công đem về một số ngoại tệ. Đỗ Mười
bèn yêu cầu Công ty giải thích công việc. Sau đây đại khái như sau:
― Đỗ Mười:
Tại sao không công ty nào kư được hợp đồng với ngoại quốc?
― Đại
Dương: Tại v́ họ không ngoại tệ (tín dụng, tín phiếu, và bất động
sản để bảo đảm).
― Đỗ Mười:
Vậy Nhà nước bảo đảm được không?
― Đại
Dương: Không có thẩm quyền của Nhà nước để trả lời về kinh tế thị
trường.
― Đỗ Mười:
Đại Dương bảo đảm bằng cái ǵ?
― Đại
Dương: Bằng một ông già Việt gốc Hoa, tín nhân dùng khẩu ước với con
cháu Giám đôc các công ty hải ngoại.
― Đỗ Mười:
Vậy cho ông già làm Tổng Giám Đốc.
― Đại
Dương: Nếu vậy th́ ông già hết làm tín nhân Sau đây tôi xin phép
trích tài liệu trong wikipedia về Kinh Tế Thị Trường như sau:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh
8 ―
Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân
làm chủ đạo. Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi
tập trung bởi các cá nhân người tiêu dùng và công ty. Việc định giá
hàng hóa và phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế được cơ bản tiến
hành theo quy luật cung - cầu. Trái với kinh tế thị trường là kinh
tế kế hoạch hóa tập trung.
9 ―
Kinh tế kế hoạch (c̣n được gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung
hoặc nền kinh tế chỉ huy) là một nền kinh tế trong đó Nhà nước kiểm
soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử
dụng các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Trong một
nền kinh tế như vậy, các nhà làm kế hoạch quyết định loại và khối
lượng hàng hóa nào sẽ được sản xuất, các xí nghiệp thực thi việc sản
xuất này, trái ngược với một nền kinh tế phi kế hoạch.Các nền kinh
tế kế hoạch lớn từng tồn tại trước đây là Liên Xô và Trung Quốc (trong
thời kỳ Đại nhảy vọt). Vào đầu những thập niên 1980 và thập niên
1990, chính phủ các nước dần nới lỏng các biện pháp kiểm soát, cho
phép các yếu tố tư nhân tham gia vào quyết định sản xuất, định giá
và phân phối sản phẩm. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới thuộc
nền kinh tế hỗn hợp thay v́ là kinh tế kế hoạch hay kinh tế tư bản
chủ nghĩa thuần túy.
10 ―
Tham Nhũng có hệ thống ở Việt Nam chính là Kinh tế thị trường định
hướng Xă Hội Chủ Nghĩa.
Kinh tế thị trường do Đỗ Mười học nhưng không hiểu đầu thập niên 80,
nhưng “Kinh tế thị trường định hướng Xă Hội Chủ Nghĩa” lại do Đỗ
Mười sáng tạo tuy không giống ai nhưng được Đỗ Mười phát triển bằng
Hệ Thống Tham Nhũng (như bạn Cường Phạm đề cập), và duy tŕ bằng vũ
lực công an. Đỗ Mười là tai họa của Dân Tộc.
Systematic Corruption in Vietnam
Cuong Pham
Hello, friends! I have observed the correlation of Vietnam’s
economy and its corruptions for many years. I personally see that
the communist government has intentionally implemented corruption in
the economic
system of Vietnam so that the communist government can enrich their
party before pluralism is implemented in Vietnam in the future.
Different people have different point of views about this
correlation. Today, I would like to discuss about the correlation
here so that we can share thoughts, and you probably look at the
correlation in positive way further than what I have seen.
Vietnam has implemented economic freedom for many years, and the
result of the economic growth has accelerated about 8% each year.
This number is a very good indication in economic progress; however,
the gap between rich people and poor people in Vietnam is too
large. Therefore, the large percentage of the economic growth must
be concentrated in a small population of rich people, and the very
small remaining percentage of the economic growth must be
distributed to the major population of poor people. These phenomena
put a question to myself that the economic freedom is a real freedom
of economy for everyone, or the economic freedom is just a product
created by the communist party to serve for a small group of people
in power and their relatives for a dark conspiracy.
In my opinion, the Vietnamese communist party has realized the
decline of communism in the world after the fall of Soviet Union in
1991, and the fall of Vietnamese communist party is just a matter of
time. To
survive the Vietnamese communist party must change their ideology
and organization to adapt with the new trend of the world
politics. The leadership of communist party knows that the ideology
of communism is unsuitable to the context of the modern society
nowadays, and pluralism is a new trend of political climate shall
emerge soon or later in Vietnam that they can not resist.
Therefore, they have planed to transform the communist party into
another political party which has a strong finance under a new
name.
They believe that a party of wealthy members shall make the wholly
future party power to continue governing the country. With this
thought, the communist government has raised the finance of their
future party by creating a favor economic system to legalize the
national assets into the personal assets of the communist members
in a complex sequence of corruptions.
In this way, the communist party has enriched the communist members
and their relatives to maintain their power when the pluralism is
implemented in Vietnam. Tracing back to the economic policy of
Vietnam for two decades we can obviously see how the favor economic
system has been operated in a sequence of four phases.
Phase I: the implementation of corruption in
entire society
The communist government of Vietnam had encouraged the communist
members to do business in early 90’ by allowing the communist
members opened their own private business. Most of
communist members were government officials who had power to control
the economy and politics in the country.
Therefore, the communist members were privileged to access into
economic resources in many forms such as business licenses,
education, business information, business relations among economic
parties, and so forth.
With these privileges, the communist party had created a
non-competition environment for its members’ private business to
monopolize the market; therefore, the capital of the
communist members had grown fast to enrich the communist party in
various types of business. The communist members and their
relatives had educational opportunity about business,
technology, culture, literature, science, etc better than other
non-communist people in the country. The advantages of the
education and the political power had boosted their private business
growing stronger and faster than other non-communist business in
term of capital and expansion. The advantage of business
information had created business opportunity for the communist
members before hand of other non-communist people. For example, the
communist party implicitly leaked information for
their members to buy land at cheap prices in areas, where the
communist government of Vietnam had projected to build an industrial
zone or a commercial zone. After that, the communist government of
Vietnam must pay higher price to compensate the owner of the land,
who is communist members; meaning
that the communist government of Vietnam had legally transferred the
national capital to the personal capital of the communist members.
In facts, the communist government of Vietnam also implicitly
allowed its members to steal the national capital in term of
corruptions in many other forms such as business contract, national
projects, smuggles, foreign investment, and so forth. This is
reason why the corruptions had dominated in the entire society.
With my personal opinion, the communist party had created a
systematic corruption to enrich the communist members from the
national capital and assets so that it can raise the finance for
its future political party to continue governing Vietnam.
Phase II: Transition of Assets
After a certain period of time allowing the communist members did
business. The communist government of Vietnam issued a new policy
to prohibit the communist members doing business because the
communist
members were abuse their power to favor their business. This policy
seemed the communist party was willing to prevent the corrupt
spreading in the country. In facts, this policy was just used
to transit their
capital and assets
into another form in the second phase of their plan,
so they can blind public opinion along with time. With the capital
earned from business or/and the capital earned from other type of
corruptions in Phase I, the business of communist members had
continued growing under the name of their relatives
since the prohibitive law established. The strategies of
corruptions in Phase I were still continued using in this phase but
in a moderate mode and more well refined, because the law against
corruption was performed righteous and fairly at some level to show
the willing of the government against the corruption to the world.
However, the communist members still used their political
power to influence their business operation indirectly to compete
with other civilian business.
For example, there were two passenger transportation companies in a
province. One of these two companies belongs to the powerful
authority’s relatives and the other company belongs to
civilian in the province.
Traffic policemen often gave traffic tickets or tow the transport
Vehicles of the civilian company, and they always avoided to touch
the transport vehicles of the powerful authority’s relatives.
Nowadays, hundreds of such the companies in Vietnam have no
competition to enrich the communist members and their
relatives by using political power. In this phase, the communist
party has successfully created a class of the communist members, who
are so rich compared with civilian at different respective levels,
for a preparation of their future political party to continue
governing the country.
Phase III: Possess National Assets
This phase is happening now in Vietnam. Many national assets
such as airline, hospital, or leading edge companies have been being
privatized through issuing stock to the public for recent years.
The rich communist members and their relatives have used capital
which has earned from unfair businesses and corruptions in Phase I
and Phase II to invest on these national assets by purchasing
stocks, inferring the national assets have transferred
legally to people in power and their relatives after the favor
economic system implemented for a certain period of time. In
addition,the powerful authorities and their relatives might have
privileges to purchase the stocks of the national assets at lower
prices or favor stock options. In this way, the communist
party can enrich more their members by transferring the national
assets into the personal assets of their members. Remember
that all capital of Vietnam have obtained from the national natural
resources, national tax, World Bank loans, and other many types of
loans that the posterior of Vietnamese people must pay back both
principle and interests in the future. In my opinion, the communist
party is the only political party to control all capital of the
country, and there are no other political parties to monitor
their work and performance. Therefore, the communist party
can use the national
capitals and assets to benefit their future political party in any
directions or strategies.
Phase IV: The Emergence of New Political Party
This phase shall occur in the future at the time that most of the
national capital and assets belong to the communist members and
their relatives.
They shall own a lot of major companies and million acres of land in
the country. The leadership of the communist party shall not only
change the name of the party to a creditable name such as Labor
Party, People’s Party, Democratic Party, Social Party, Republic
Party, Neo-Communist Party and so forth but they might also change
the ideology and organization of the society to become a democratic
society. The members of the new party shall be the members of
the communist party who have the value of capital and assets
extremely higher than that of other people in the society.
In this case, other political parties shall have a hard time to
compete with the new party of the communist members, because their
new party not only has a fundamental of freedom, democracy, and
human right as that of other political parties, but it also has a
lot of capital to support to win in elections at different
government levels. So the
communist party shall continue controlling the governance of Vietnam
under different name and different doctrine.
The communist party has applied zero-sum theory, which is
Participant’s gain or loss is exactly balanced by the loss or gain
of the other participant. The capital gain of the communist members
is exactly the
total capital loss of other people in the society. The
systematic corruption is an instrument to perform the zero-sum
theory by transferring legally the national assets into the personal
assets of the communist members. The corruption has
naturally occurred in the entire society; therefore, it is very
difficult to see this is an intention of the government in their
implicative policy. With this strategy, the communist party has
raised finance for their future party to compete with other
political party when the pluralism is implemented in Vietnam. It is
a real bad strategy for Vietnamese people but it is still a good
indication that the communist party is going to allow the pluralism
in Vietnam in the near future. Eventually, they can not resist the
trend of the world politics.
How long will the new political party of the communist members
appear in Vietnam? Singapore’s Straits Times recently have reported
the Vietnamese communist party signaled to change its name. Will
the new political party of the communist members allow the pluralism
in the country? My brother says
the article 4 of the current
constitution states that the communist party is the unique force
leading the state and society in Vietnam.
The communist party changes its name to a new name, so the article 4
of the current institution is automatically no longer valid under
the new name political party unless they restate this article again.
I totally agree with him about this reason because the
Phase IV, The Emergence of New Political
Party, begins emerging at horizon as we have
discussed above.
Therefore, our duty is to encourage the communist party changes its
name and do not restate the article 4.
We hope that this change can be occurred in the next three or five
years.
Observing the sequence of the economic phases in Vietnam I
personally conclude the communist government has intentionally
created the corruptions in entire society to raise finance for their
future party.
Alternatively, the corruptions can be the natural products of their
regulating mechanism in the society. Each of us might view this
corrupt sequence at different prisms. I hope that my hypothesis is
incorrect; otherwise, the society of Vietnam shall be messy to trace
back the national capital and assets when the pluralism is
implemented in Vietnam.
We should prepare for this to avoid the mess. Please give some more
input and forward this email to many people as possible.
Thank you and have a good day.
Dallas, 11/21/2007
Cuong Pham
B-
Market Economy with a Socialist Twist:
Ngô
Trọng Anh
1.
In 1977 Do Muoi was Deputy Prime Minister and Head of the State
Committee on Business Reform, in charge of state business reforms in
the South.
2.
Starting in December 1976 Vo Van Kiet was elected alternate member
of the Politburo by the Central Committee while continuing to serve
as Party Secretary of Ho Chi Minh City .
3. In
1975 Jean Baudouin Nguyen Van Duc was Director of Dai Duong, a joint
venture company in Khanh-Hoi, Ho Chi Minh City . Aided by Vo Van
Kiet he was somewhat successful in his assignment to garner foreign
currency for the benefit of the government. The Company was half
private half state-owned.
4.
After sending all military, civil servants and professional members
of the government of South Vietnam to Re-education Camps and New
Economic Development Zones the Communists continued with a series
of other re-education programs in agriculture, business, small
industry etc…As a result things that could be useful to society
including raw materials, tools, even skilled workers, were all
hidden away by the people. The economy ground to a halt.
5. The
Dai Duong Company resolved the problem of shortage of skilled
personnel by giving temporary reprieves to re-education camp
internees with special skills such as engineers, doctors, dentists,
lawyers, civil administrators etc…, demanding from them a full
professional work load in exchange for a symbolic monthly pay that
lasted them just a few days. The government guaranteed not to
interfere if anyone was accepted for emigration by such programs as
ODP or HO. In instances where someone was caught fleeing the
country illegally, the government would just send them back to work
without imprisonment.
6.
Dai Duong solved the shortage in raw materials and resources as well
as in tools of production by using the scheme of joint enterprise
whereby a private individual enters into a joint business enterprise
with the government. On its part the government guaranteed it would
not confiscate the invidual’s property nor dispatch him to a New
Economic Development Zone.
7.
Noticing that Dai Duong had great success in its seafood export
business, Do Muoi asked the Company for an explanation of its mode
of operation. Following is an outline of the exchange:
Do Muoi:
Why are there no companies which have signed contracts with foreign
countries?
Dai Duong: Because we don’t have foreign currency reserves (no
accounts, no letters of credit, no real estate, to use as
collateral or guarantee).
Do Muoi:
Then what about a guarantee by the government?
Dai Duong: Government authority cannot be used as guarantee in a
market economy context.
Do Muoi:
What does your Company use as guarantee?
Dai Duong: We use an old man, a Vietnamese of Chinese descent. He
is our hostage who entered for us into verbal contracts with his
children and grandchildren who lived overseas and who are
themselves directors and executives of foreign companies.
Do Muoi:
Then why don’t we make him Director-General?
Dai Duong: We can’t because then he will no longer be our hostage.
8.
Market economy
http://en.wikipedia.org/wiki/
A true
free market economy is an economy in which all resources are owned
by individuals, and in which decisions about the allocation of those
resources are made by individuals without government intervention.-
and Milton Friedman stated that is a necessary condition for the
creation and sustainability of and . They believed that this
economic freedom can only be achieved in a market-oriented economy,
specifically a free market economy. They do believe, however, that
sufficient economic freedom can be achieved in economies with
functioning markets through price mechanisms and . They believe that
the more economic freedom that is available the more civil and
political freedoms a society will enjoy.
9.
Market in planned economies and in communists states- In the 1980s,
most of the planned economies in the world attempted to transform
themselves into market economies, for various reasons and with
varying degrees of success. In the
n,
this process was known as while ina
the creation of a "sy"
was one element of .
10.
Systematic Corruption in Vietnam is indeed Market Economy with a
Socialist twist. In the early 80’s Do Muoi studied market economy
but he didn’t understand much. Nevertheless he created the so-called
Socialist Guided Market Economy which didn’t resemble anything but
which he pushed by using the scheme of Systematic Corruption (as
revealed by Cuong Pham in this article) and by the use of the brute
force of the state security apparatus.
Do Muoi is
truly a disaster for the Vietnamese people.
Ngô
Trọng Anh
San
Francisco, 12/3/2007 |