Sóng Thần

Sóng Thần tiếng nói của người viễn xứ, gửi về quê hương yêu dấu, niềm tin và hy vọng Dân Chủ Đa Nguyên

 
 
    Việt Sử
 

Lược-Sử Kinh Dịch Tại Việt -Nam

Việt Chi Nguyễn-Hu Quang

        Giống như Nhật-Bản, Triều-Tiên và Đài-Loan ở phương Bắc, Nước Việt-Nam ta, với b́nh-phong Trường-sơn về phiá Tây, chịu ảnh-hưởng sâu rộng cuả văn-hoá Trung-Hoa cả về ngôn-ngữ lẫn điển-tịch, khác hẳn các nước ở phiá Tây b́nh-phong này (Lào, Kampuchea, Thái-lan) lại hấp-thụ văn-hoá Ấn-độ. Để tôn-trọng triết-thuyết Âm-dương cuả Kinh Dịch, trong bài này tôi sẽ dùng dấu mũ '-' (superscript) để biểuthị các năm trước công-nguyên (TCN).

Vậy thử hỏi Kinh Dịch được truyền-bá sang Việt-Nam từ bao giờ ? Sau đây xin nhắc qua tiến-tŕnh Kinh Dịch ở Trung-Hoa trước Đời Tần và t́m hiểu v́ sao Kinh Dịch nguyên-thủy cuả thời Xuân-Thu (722--481-) bên Trung-Hoa được hội-nhập, duy-tŕ và tiếp-tục phát-triển liên-tục trong xă hội Việt-Nam.

Cứ theo như Thiên Xuân-Quan, Chương Tông-bá trong sách Chu Lễ ??, quan Thái-bốc có nhiệm-vụ trông coi ba bộ Kinh Dịch thời Tam-Đại (Hạ, Thương/Ân, Chu):

1. Dịch Nhà Hạ ?(2183--1752-?), mệnh-danh Liên-sơn ??, lấy quẻ Cấn ?kép (6 vạch) làm chuẩn và dùng Lịch Nhà Hạ với Kiến Dần ??là tháng giêng và khởi đầu bằng tiết Lập-Xuân ??;

2. Dịch Nhà Thương ?/Ân ?(1751--1112-), mệnh-danh Quy tàng??, lấy quẻ Khôn ? kép (6 vạch rời) làm chuẩn và dùng Lịch Nhà Thương với Kiến Sửu ?? là tháng giêng và khởi đầu bằng tiết Tiểu-Hàn ??;

3. Dịch Nhà Chu ?(1111--249-), mệnh-danh Chu Dịch ??, lấy quẻ Kiền ?kép (6 vạch liền) làm chuẩn và dùng Lịch Nhà Chu với Kiến Tư ??là tháng giêng và khởi đầu bằng tiết Đại-Tuyết ??.

Hai bộ Dịch Liên-sơn và Quy-tàng đă thất-truyền từ loạn Vĩnh-gia đời Tấn mặc dù cuối đời Tây-Hán (206--8) cha con Lưu-Hướng ??, Lưu-Hâm ?.có nguy-tạo ra hai Kinh này, như luận-bàn cuả các danh-sĩ Tiền Mục ?? hay Khuất

Vạn-Lư ???. Vải thưa che mắt thánh: trong khi Chu Dịch sinh sau mà Chính Kinh vỏn vẹn có 715 chữ và toàn-bộ chỉ gồm 24 107 chữ trong khi chính-văn, hai Kinh nguỵ-tạo lần lượt dài đến hai và bốn vạn chữ.

Thời Chiến-quốc (480--222-), Tam-giáo Nho, Lăo, Mặc lần lượt chọn Chu Dịch, Quy-tàng và Liên-sơn làm Thánh-kinh theo như luận-cứ cuả học-giả Trương-Lập-Văn ???. Kể từ Tuỳ, Đường đến giờ, Tam-giáo Nho, Đạo, Thích (hay đúng hơn Phật-giáo Thiền Tông) đều dùng chung một quyển Chu Dịch làm căn-cơ như ta thấy rất rơ khi đọc kỹ các danh-tác trong Kinh Bộ, Dịch-loại cuả Tứ-Khố Toàn-Thư .???, hoặc gần ta hơn, trong Bộ Hoàng-Thanh Kinh-giải Dịch-loại Vựng-biên ???????? hay Bộ Dịch-kinh Tập-thành ????cuả Nhà Dịch học Nghiêm-Linh-Phong biên-tập.Hay ít nhất cũng đọc qua các tác-phẩm về Dịch cuả các Nhà Trị Dịch Vương-Bật ??, Khổng-Dĩnh-Đạt ???, Lư Đỉnh-Tộ ???, Thích-Trí Húc ???, Lưu Nhất-Minh ?.?, Lư-Quang-Điạ ??., Lư-Đạo-B́nh ???,

Vương Phu Chi ???, Khuất Vạn-Lư v.v. Chu Dịch gồm Cổ Kinh ??, tức chính-văn, hoàn-tất chậm nhất vào thế-kỷ 8 TCN, và Dịch-Truyện ??, c̣n gọi là Thập-Dực .?, tức phụ-lục cho Kinh Dịch, hoàn-tất chậm nhất vào thế-kỷ 3 TCN. GS David Keightley, một sử-gia có uy-tín cuả Đại-học California tại Berkeley, có dùng tiếng ghép 'vô-nhiễm' (immaculate) để ám-chỉ việc 'đi hia đội măo'cho các tác-phẩm không rơ tác-giả. Như vậy, tác-giả vô-nhiễm cuả Cổ-Kinh là Văn-Vương Cơ Xương ??.?và con ông là Chu-Công Cơ Đán ??.?và tác-giả vô-nhiễm cuả Dịch-Truyện là Khổng-tử ??(551--479-). Từ cuối đời Đông-Hán (25-320), Kinh Dịch đă mặc-nhiên thống-lĩnh quần-kinh kể cả Thập-tam Kinh ..?, Tam-Huyền .? (Dịch, Lăo, Trang), Tứ Huyền .? (Dịch, Lăo, Trang, Thái Huyền) lẫn các Kinh-điển Tiên-Tần- Hán khác cũng như kinh-tịch các đời sau, kể cả Trấp-Nhất-Kinh ?.?do Đoàn-Ngọc-Tài ??? (1735-1815) chủ-xướng.

Thế th́ ai đă là người đầu tiên truyền-bá Kinh Dịch sang Việt-Nam và xứng-đáng làm Học-tổ cuả chúng ta? Đă từ lâu Sĩ-Nhiếp (187-226) nghiễm-nhiên được Bắc-sử coi là 'Giao-Châu Học-tổ' và chính Ông là người đă xin với Hiến-đế đổi Giao-chỉ thành Giao-châu. Nhưng ông chỉ là một viên Thái-thú Giao-Châu nhân-từ, am-tường Tả-thị Xuân Thu ???? là một quyển sử Nước Lỗ và Thượng-Thư ??tức Kinh Thư là một quyển sách nói về vương-chế-sử Trung-Hoa thời Ngũ-Đế (mà giải nghiă phổ-thông nhất là: Hoàng-Đế, Chuyên-Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn), Tam-Đại (Hạ, Thương, Chu). Nhưng đối với Khổng-Giáo, các sách này chỉ là hai trong 13 Kinh trong đó có Ngũ-Kinh, Luận-ngữ ??, Mạnh-tử ??, Nhĩ-Nhă ??và Hiếu-Kinh ??, hoặc 21 Kinh (tức 13 Kinh cộng thêm Đại-Đới-Kư ???, Quốc-ngữ ??, Sử-kư ??, Hán-thư ??, Tư-trị Thông-giám .???, Thuyết-văn Giải-tự .???, Chu-Bễ Toán-Kinh ????và Cửu-Chương Toán-thuật .???). Ông không hề mở trường dạy học. Gia dĩ, trước ông cũng đă có các người Giao-chỉ như Lư-Tiến, Lư-Cầm, Trương-

Trọng cũng đỗ-đạt ra làm quan như Ông: Lư-Tiến làm đến Thứ sử Giao-chỉ, Lư-Cầm làm đến Tư-lệ Hiệu-uư, c̣n Trương-Trọng làm đến Thái-thú Kim-thành.

Ngay đến Lưu-Hi ??, tác-giả 'Thích Danh'?., một quyển tự-vị dùng âm-huấn, phỏng theo Nhĩ-Nhă và cũng là một Thái-thú Giao-Châu khác, có mở trường dạy học đàng hoàng tại Giao-Châu, cũng không xứng đáng danh-nghiă này, v́ Ông chỉ dạy vài kinh-điển chữ nho và cách đọc chữ nho theo lối Cổ-Hán-Việt thời đó mà thôi.

Người đầu tiên chắc-chắn có truyền-bá Kinh Dịch sang Việt-Nam và xứng-đáng làm Học-tổ cuả chúng ta chính là Ngu-Phiên ?? (164-233), tự Trọng-Tường ??. Ông là người Cối kê, Dư-diệu, Nước Ngô (220-280) thời Tam-Quốc. Tổ-tiên ông giỏi Dịch năm đời liền. Ông là người hiếu-học, có chí-khí, giỏi Dịch và cũng giỏi luôn nghề binh-bị. Đầu tiên, ông thờ Thái-thú Cối-kê Vương-Lăng, cũng là người sành Dịch. Con ông này là Vương-Túc có chú-thích Kinh Dịch. Ông giữ chức Công-tào, quan ở quận coi việc tuyển-thự công-lao. Sau khi đánh bại Vương-Lăng, Tôn-Sách, em Tôn-Kiên, vẫn dùng ông trong chức-vị cũ, lấy lễ coi ông như bạn và luôn luôn nghe theo lời bàn-bạc cũng như can-gián cuả ông. Sau khi ông thi đỗ mậu-tài, Ngụy-Vương (220-265) Tào-Tháo có vời ông về kinh-đô làm Tư-không (coi bang-sự). Chẳng những ông không nhận lời mà c̣n nói miả: Đạo Chích mà cũng biết dùng tiền dư dụ-dỗ con nhà lành sao? Sau khi lên ngôi Vua, Ngô Tôn-Quyền cho ông làm Kỵ-đô-uư. Tính ông thẳng nên sau nhiều lần can-gián bị huỷ-báng, ông xin về Đan-dương, Kinh-huyện dạy học. Ít lâu sau, ông lại được Tôn-Quyền cho phục-chức.

Chứng nào tật nấy, ông lại c̣n mắc thêm tật nát rượu. Có lần say mèm, ông rút đoản-kiếm ra đâm Đại-tư-nông Lưu-Cơ (coi về bang-giáo). Nhờ đồng-liêu tận t́nh nói giúp, ông mới được miễn-tội. Lại có lần Tôn-Quyền bàn chuyện thầntiên với Trương-Chiêu. Phiên chỉ thẳng vào mặt Chiêu mà nói rằng: Các người toàn là đồ chết tiệt cả sao mà nói chuyện thần-tiên. Làm ǵ có người tiên trên cơi trần này. Tôn-Quyền nổi trận lôi-đ́nh, tả-hữu chế-riễu thậm-tệ. Rốt cuộc Phiên bị đày sang Giao-Châu, lúc đó đang là thuộc-điạ Nhà Ngô.

Phiên học rộng, nghe nhiều, nên dù bị tù-đày cũng vẫn chăm việc mở trường dạy học không biết mệt. Có khi môn-sinh lên đến mấy trăm người. Sang Giao-Châu được hơn mười năm th́ ông mất, hưởng thọ 70 tuổi. (Xin tham-khảo thêm tiểutruyện Ngu-Phiên trong Tam-Quốc-Chí .??cuả Trần-Thọ ?? Đời Tấn cũng như Kinh-tịch-chí ???trong Tuỳ-thư ?? và Đường-thư ??).

Ông có chú-giải các sách Chu Dịch ??, Luận-ngữ ??, Quốc-ngữ ??, Lăo-tử ??, Chu Dịch Tham-đồng-khế ????? cuả Ngụy Bá-Dương đời Đông-Hán, Thái-Nguyên ??tức Thái-Huyền-kinh ???cuả Dương-Hùng ??(53--18) , có trước-tác các sách như Chu Dịch Nhật-Nguyệt Biến-lệ ??..??, Chu Dịch Tập-lâm ????, Luật-lịch ?., Minh-dương Thích-Tống ????. Nay các sách này đều thất-truyền cả.

Đời Thanh có Trương Huệ-Ngôn ???dựa vào các thư tịch đời sau mà viết ra bẩy bộ sách về Dịch-thuyết cuả Họ Ngu. Ngoài ra ta c̣n có các sách tương-tự cuả Giang Thừa Chi ???, Hoàng-Thích .., Lưu Phùng-Lộc ???, Hồ Tường Lân ???, Từ-Ngang ??, Lư-Nhuệ ?., Lê Dưỡng-Chính ???, Từ Cân-Đ́nh ???và nhất là Song-Kiếm-Di Dịch-Kinh Tân chứng ??.????cuả Vu Tỉnh-Ngô ???. Các sách này quan-trọng ở chỗ giữ lại được rất nhiều dật-tượng, dật-số thời Tây-Hán cuả Kinh Dịch nguyên-thủy mà ta không c̣n thấy trong đa-số các bộ Chu-Dịch khác hiện c̣n giữ được.

Phải chăng nhờ Ngu-Phiên mà 11 thế-kỷ sau, nền Việt Dịch vẫn tiếp-tục phát-triển với tác-phẩm thất-truyền nay có triển-vọng tái-truyền, 'Tứ-thư Thuyết-ước' .?.? cuả Đại-Việt-Nho Chu-An ??(1292-1370). Số là trước khi Giáo sư Lê Hữu Mục dời Việt-Nam sang Canada, ông Nguyễn-Văn Y, trước 1975, tùng-sự tại Viện Khảo-cổ Sài-g̣n, có trao tay cho Cụ Mục một quyển sách nhan-đề là 'Tứ-thư Thuyết-ước'.

Sách đă được Cụ Mục chuyền tay cho nhiều vị trong học-giới Việt-Nam ở Montréal. Tôi không được nghe ai phát-biểu ư kiến ǵ cả.

Măi đến muà Thu năm 1994 sách mới đến tay tôi. Sách khuyết mấy trang đầu và mấy trang chót. Mấy trang đầu được ai kia thế vào bằng mấy trang lạc lơng. Nay xin tŕnh quí độc-giả để tường và tồn-nghi. Bài Tựa sách được Xích-thủy Minh-viên Quang-nguyệt Lăo-nhân viết xong ngày 22.12.1870 (Đồng-trị Canh-ngọ, Mău nguyệt, Chí nhật), nghiă là 500 năm sau khi Chu Tiều-ẩn qui-tiên. Một mất mười ngờ: phải chăng đây là một trong những quyển sách cuả ta, đă bị giặc Minh đem về Kim-lăng hồi đầu thế-kỷ thứ 15 cùng với các sách quư khác như Bách-thế Thông-kỷ ???? cuả Trần Nguyên-Đán ?

Sách thường được viết dưới dạng vấn-đáp như Dịch Đồng-tử vấn ????cuả Âu Dương Tu ???(1007-72). Cuối sách có 10 bài Tứ-tuyệt trong đó chỉ có mỗi một bài thứ hai là có một câu thất-luật và dựa vào văn-khí toàn sách cũng như ngữ-học lịch-sử đối-chiếu, tôi nghi tác-giả là người Việt-nam hay cùng lắm là người Quảng-đông hay Hồ-Nam. Nhất là sách có vài điểm làm tôi ngờ ngợ đây chính là sách thấttruyền cuả Chu-An v́ tôi đă t́m ra được dăm luận-cứ không căi lại được và ở ngoài tầm với cuà các nhà Hán Nôm nếu không rành Thập-Tam-Kinh, hay đúng hơn, Trấp-Nhất-Kinh và cổ-âm-vận-học lịch-sử.

Có vài yếu-nhân khác đời Trần cũng có bàn đến Kinh Dịch. Như Hưng-Đạo Đại-Vương Trần-Quốc-Tuấn ??????? (1226-1300) có đề-cập Dịch trong 'Binh-thư Yếu-lược'?? ??, hay gần ta hơn, trong lần ngự-bút tháng 12 năm 1965 tại B́nh-nghị-thất, Chuà Tam-Tông-Miếu, Sài-g̣n mà tôi có vinh-hạnh tham-dự. Hay như Vua Trần Minh-Tông ??.(1314-1329) có bài bát-cú Độc Dịch ??:

..??????

????????

Tam tuyệt vi biên Đại-Dịch-Kinh,

Kiền Khôn toàn tại thử thân h́nh.

Di thời tĩnh kiến dương tiêu-tức,

Trấn nhật tiềm quan vật phát-sinh.

Phủ ngưỡng nhược năng tâm bất tạc,

Hành tàng hà xứ Đạo vô thành?

Phong lư nhất trụ trầm hương niểu,

Đề điểu sổ thanh xuân trú t́nh.

Xin tạm dịch là:

Đọc Dịch.

Dịch-Kinh ba bận đứt lề,

Kiền Khôn toàn-bộ thu về thân ta.

Lúc đi tĩnh thấy dương hoà,

Ngầm trông muôn vật dần-dà đối-song.

Xét xem ḷng chẳng thẹn ḷng,

Hành tàng, chốn chốn ngoài trong Đạo thành.

Ḷ hương khói đă xoay vành,

Ngày xuân chim hót trên cành líu-lo.

Đại-Việt-Nho Băng-hồ Trần Nguyên-Đán ?????(1325-90), cháu bốn đời cuả Thượng-tướng Trần-Quang-Khải (1241-94) có viết 'Bách-thế Thông-kỷ', đề-cập rất nhiều hiện tượng thiên-văn Tiên-Tần nhưng đă bị giặc Minh tịch thu đem về Kim-lăng. Cháu ngoại Ngườ́, ???.-c-trai Nguyễn-Trăi (1380-1442) trong 'Quốc-âm Thi-tập'(QÂTT) ???? thường gọi Chu Dịch là Hi-Kinh ??, Hi-Dịch ??hay Kinh gọn lỏn giống như ngày nay ta gọi đàn bầu tức đàn gáo hay đàn độc huyền là đàn kinh vậy:

QÂTT20. Ngày nhàn mở quyển xem Chu Dịch.

QÂTT107. Song mai hoa điểm quyển Hi-kinh.

QÂTT125. Một quyển Hi-kinh một triện hương.

QÂTT178. Dứt vàng chăng chớ câu Hi-Dịch.

QÂTT156. Lăy phải th́-trung Đạo ở Kinh.

QÂTT166. Nối nghiệp tiên-nhân đọc một Kinh.

Đôi khi tiếng 'chu' trong Chu Dịch lại phải đọc thành chua (âm-tố tiếp-vỹ a) và có nghiă là chú-thích, tương-tự như trường-hợp các cặp tiếng đơn Cổ-Hán-Việt/Hán-Việt Đường-Tống: ngự ?/ngựa, tự ?/tựa, cự ?/cựa, lự ?/lựa, chủ ?/ chúa, cứ ?/cứa, lư ?/lừa, lị ./lịa v.v.):

QÂTT79. Tỏ tường phiến sách con chua Dịch.

QÂTT119. Nha tiêm tiếng động yên chua Dịch.

Lúc th́ Tiên-sinh dùng các quẻ trong Kinh để diễn-ư như:

QÂTT2. Dợ đứt Khôn cầm bà ngựa dữ (quẻ số 2).

QÂTT58. Nên chăng đành lẽ Kiện Thương Chu (quẻ số 6).

QÂTT144.Cho hay Bĩ, Thái măi lề cũ (quẻ số 11 và 12).

Lúc th́ Tiên-sinh lại dùng Dịch-lư để cấu-tứ. Nào là âm dương tiêu-trưởng, doanh-hư, nào là cương/nhu, mất/c̣n, đắc/thất, được/thua, được/mất v.v.:

QÂTT104. Tiêu-trưởng, doanh-hư, một phút dời.

QÂTT25. Hỉ-nộ, cương-nhu tuy đă có.

QÂTT182. Cao thấp cùng xem sự mất c̣n.

QÂTT57. Đắc th́ thân-thích chen chân đến;

Thất sở láng-giềng, ngoảnh mặt đi.

QÂTT103. Bành đươc thương thua con tạo-hoá.

QÂTT109. Được thú làm quan mất thú quê. v.v.

Người diễn ca trước tiên Kinh Dịch hẳn là Trạng Bùng Phùng Khắc-Khoan ???(1528-1613) với tác-phẩm Chu Dịch Quốc-âm-ca ?????, nay đă thất-truyền.

Ngoài ra ta c̣n có một số sách Hán Nôm khác giảng nghiă Chu Dịch và các đề-tài liên-hệ, phần nhiều do các tác-giả vô danh soạn như: Dịch-kinh Chính-văn Diễn-nghiă ??????,

Dịch-nghiă Tồn-nghi ????, Dịch-truyện Tiên-chú Bị-khảo ??????, Dịch Xuân Tinh-nghiă ????v.v.

Các danh-sĩ cũng để lại cho chúng một vài bộ Kinh

Dịch như:

Dịch Phu Tùng-thuyết ???.và Dịch-Kinh Phu-thuyết ???.cuả Quế-Đường Lê Quư-Đôn ?????(1726-84);

Chu Dịch Vấn-giải Toát-yếu ??????và Dịch-Kinh Đại toàn

Tiết-yếu Diễn-nghiă ????????cuả Phạm Quư

Thích ??.(1759-1825);

Hy-Kinh Lăi-trắc ????cuả Phạm Đ́nh Hổ ???(1768-

1839);

Chu Dịch Quốc-âm Giải-nghiă ??????cuả Đặng Thái

Bàng ???;

Trúc-đường Dịch-Kinh Tuỳ-bút ?????? cuả Tiến-sĩ

Ngô Thế-Vinh .??;

Dịch Phu Tùng-kư ???? cuả Tiến-sĩ Nguyễn Nha ??;

Dịch-Kinh Giảng-nghiă ???? cuả Phạm Đan Sơn ???;

Dịch-quỹ Bí-áo-tập ??.?? cuả Thái Thiện-Dưỡng???;

Chu Dịch Cứu-nguyên ???? cuả Lê-Văn-Ngữ ??..

Có những sách chỉ chuyên dạy làm văn sách về Kinh Dịch trong các kỳ Thi Hương như: Hy-kinh Sách-lược ???? v.v.

Có những sách chỉ chuyên về bói toán như: Bốc Dịch Lược-biên ????, Dịch-số Cầu-thanh-pháp ?????, Thái Ất Dị-giản-lục ?.??. cuả Lê Quư-Đôn, Thái Ất Thống-tông Bửu-giám ?.?.??.

Các sách như Tả Ao Phụ Hưng Tiên-sinh Điạ-lư Quư-cơ Chân-truyền ??????.?????, An-Nam Cửu-long-kinh ??.?? v.v. lại chuyên về Kham Dư tức Phong-thuỷ.

Ngay cả về Đông-y chúng ta cũng có 'Hải-thượng Lản Ông Y-tông Tâm-lĩnh Toàn-trật' ?.??..???? cuả Lê-Hữu-Trác ??? (1724-1791), trong đó thiên 'Vận-khí Bí-điển'có chép lại câu cuả cổ-thư: 'Có học Kinh Dịch mới học được thuốc', v́ lư-do giản-dị các lư-thuyết quan-trọng trong Đông-Y đều dưạ vào Kinh Dịch cả.

Việt-Nho cuối cùng hẳn là Tam nguyên Vị xuyên Trần Bích San .?????? (1838-1877), tác-giả cuả bài thơ bất hủ:

???.????.???????.????

Tam niên tam thướng Hải-vân-đài,

Nhất điểu thân khinh độc văng hồi.

Thảo thụ bán không đê nhật-nguyệt,

Kiền-Khôn chích nhăn tiểu trần-ai.

Văn phi sơn-thủy vô kỳ khí,

Nhân bất phong-sương vị lăo-tài.

Hưu-đạo Tần-quan chinh lộ hiểm,

Mă đầu hoa tận đới yên khai.

đă được Cụ Tô-nam Nguyễn-Đ́nh Diệm dịch:

Nhẹ bỗng ḿnh chim lối Hải-vân,

Ba năm qua lại đủ ba lần.

Nửa con mắt ngó trần-ai hẹp,

Sát ngọn cây trông nhật-nguyệt gần.

Chửa dạn phong-sương tài chửa luyện,

Không pha sơn-thuỷ bút không thần.

Mây lồng cổ ngựa hoa đua nở,

Có hiểm ǵ đâu lối ải Tần!

Hồi c̣n làm Tuần-phủ Hà-nội, có lần Đề-đốc Dupré ở Sài-g̣n có dắt theo một con chó đến thăm Cụ. Chó quen thói nhẩy bàn độc nên bị Cụ sai lính lệ đập chết chó. Chính v́ chuyện chó chết này mà Cụ phải nuốt giấy bản tự-tử khi được Vua Tự-đức triệu vào Kinh làm Chánh-sứ sang Pháp dự cuộc đấu xảo năm 1877 ở Paris, thể theo lời yêu-cầu cuả chính Dupré. Trong công-đường, lúc nào Cụ cũng cho treo Bài Hữu Minh mà tôi c̣n nhớ rơ qua cố-giáo-sư Hoàng-Trần Hoạch, cháu ngoại Cụ, và ân-sư Cụ Sơn-mai Hoàng-Khôi: ???????

Nhạn độ hàn-đàm, nhạn quá nhi đàm bất lưu ảnh; phong lai sơ trúc, phong quá nhi trúc bất lưu thanh. Cố quân-tử sự lai nhi tâm tắc ứng, sự khứ nhi tâm tuỳ không.

Xin lược dịch ra là:

Đầm thu nhạn đậu rồi bay,

C̣n đâu bóng nhạn, đầm hay không đầm?

Trúc thưa gió thổi ầm-ầm,

Thoảng qua, tiếng gió khôn cầm, trúc ơi!

Cho nên quân-tử ở đời,

Sự lai tâm ứng, sự dời tâm không.

Kể từ khi chữ Quốc-ngữ chính-thức thay thế chữ Nho và chữ Nôm, cũng có mươi bộ Dịch được xuất-bản, như 'Kinh Dịch' cuả Cụ Ngô-Tất-Tố (Mai-lĩnh xb), 'Chu-Dịch' cuả Cụ Phan Bội-Châu (Khai-trí xb), 'Dịch-Kinh Tân-khảo' cuả Ông Nguyễn Mạnh-Bảo (do Nhà In Sen Vàng ấn-hành), 'Kinh Chu-Dịch Bản-nghiă' cuả Cụ Cử Nguyễn-duy Tinh (Trung-tâm Họcliệu xb), 'Kinh Dịch, Đạo cuả Người Quân-tử' cuả Nguyễn Hiến-Lê (Văn-nghệ xb), 'Dịch-Kinh Đại-Toàn' cuả Bác-sĩ Nguyễn-văn Thọ (Tác-giả tự xb) v.v. Tất cả các bản Việt-Dịch chỉ có mỗi bản cuả Cụ Cử Nguyễn-duy Tinh là tương-đối đầy đủ về kinh-truyện-văn và ít sai nhất về âm-nghiă cổ.

Thập niên 1960, nhiệt-trào học Dịch sôi nổi với Hội Dịch-lư Việt-Nam do Giáo-sư Xuân-Phong Nguyễn-văn Ḿ lănh đạo với sự phụ-tá đắc-lực cuả kỹ-sư Lê Phú-Kỉnh.

Cần nói ngay là Dịch cuả Văn-minh Hồng-hà (Hoà-B́nh) giống Dịch nguyên-thủy cuả Văn-minh Hoàng-hà ở chỗ trọng âm-dương giao-biến mà coi thường ngũ-hành Kim Mộc Thủy Hoả Thổ, một thứ-tự rất Việt-Nam có ghi trong Bạch-hổ-thông cuả Ban-Cố, tác-giả bộ sử bất-hủ Tiền-Hán-Thư. Trong khi Dịch cuả Văn-minh Dương-tử-giang lại coi nặng ngũ-hành sinh-khắc mà xem thường lư-thuyết âm-dương. Chu-tŕnh khắc đi theo năm cạnh ngôi sao (Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, Hoả khắc Kim), c̣n ṿng sinh lại đi theo chiều kim đồng-hồ trên ṿng tṛn ngoại-tiếp ngôi sao Ngũ-hành này (Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim).

Vô-h́nh trung, Kinh Dịch vạn-biến, vạn năng dạy chúng ta Đạo Làm Người, bất chấp chủng-tộc, ngôn-ngữ, tín-ngưỡng, văn-hoá, chính-trị, giai-cấp, kiến-thức v.v. Ta chỉ cần ápdụng bốn nguyên-lư bất-dịch, tự-dich, biến-dịch và giaodịch cuả duy-biến biện-chứng-pháp (Dialectics of change) vào đời sống hằng ngày là bao ưu-hoạn đều tan biến hết.

Ngay như lá cờ Quốc-gia mầu vàng ba sọc đỏ, luôn luôn nhắc nhở chúng ta là ba vạch liền biểu-tượng quẻ Kiền đơn Tiên-thiên ở phương nam và tượng-trưng ba miền Bắc, Trung, Nam. Màu đỏ sắt son là chính-sắc cuả Viêm-thiên tức Trời Nam. Nền vàng biểu-trưng mầu da cuả giống ṇi cũng như mầu Đất Việt. Trời đất, âm-dương đày-đủ cả. Mà ta biết rằng quẻ Kiền dẫn đầu 64 quẻ cuả Kinh Dịch với Đại-tượng-từ:

.??????.???? Thiên hành kiện. Quân-tử dĩ tự-cường bất tức) nghiă là: Trời vận-hành mạnh, quân-tử noi theo đó mà tự-cường không ngừng.

Trái lại, đảng-kỳ cuả Việt-Minh tức Cộng-sản Việt-Nam trá-h́nh, biến thành quốc-kỳ hồi Cách-mệnh tháng 8 năm 1945, lá cờ đỏ sao vàng, manh-nha âm-mưu cưỡng-chiếm Miền Nam ba mươi năm sau. Quả thật, cờ đỏ biểu-trưng cho Cộng sản quốc-tế khát máu, c̣n sao vàng tượng-trưng, theo nghiă hẹp, cho ba kỳ cộng với hai nước Miên, Lào cho đủ năm, và theo nghiă rộng, cho năm châu mà Cộng-sản quốc-tế từng mong chiếm trọn đúng theo định-nghiă ḥa-b́nh thế-giới cuả chính Lénine. Hơn nữa, Hoả (đỏ) sinh Thổ (vàng): Nga-Hoa vốn dĩ là cha mẹ cuả CSVN như ta thấy rất rơ trong việc 'Dâng Người' năm xưa cho Liên-sô và CS Đông Âu, hay gần đây, trong việc 'Dâng đất, Dâng Nước' cho TC. Ngôi sao biểu-đạt triết-lư ngũ-hành tương-khắc cuả CS: khắc cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè và đồng-bào. Hà chính mănh ư hổ ????? (chính sách hà-khắc mạnh hơn hổ). Ước ǵ mỗi người Việt tự-do là một Vơ-Ṭng đả hổ.

Tiện đây cũng xin mượn lời Đức Chuá Jésus Christ mà nói với bọn Pharisiens tân-thời tức Ngụy-Hà-Nội với quốc-kỳ và quốc-ca khát máu (trong lời bài Tiến Quân ca, Đỗ-Hữu-Ích tức Anh-dương, nội một tuần trong tháng 9 năm 1945, đă sửa 'in máu' quá lộ liễu thành 'pha máu' kín-đáo hơn) rằng: Reddite quae sunt Vietnamiensis Vietnamiensibus, et quae sunt religionis religione (Hăy trả lại cho Việt-tộc những ǵ cuả Việt-tộc và hăy trả lại cho Liên-tôn giải-cộng những ǵ cuả liên-tôn giải-cộng). Nguyện-cầu Nhân-kiệt Địa-linh Việt-Nam sẽ phù-hộ cho Sóng thần (Tsunami) cách-mạng năm Đinh-hợi/Mậu-tí (2007-2008) giải-trừ hoàn-toàn chính-thể 'Xuống Hàng Chó Ngựa'cuả Cộng-sản Việt-Nam.

Việt Chi Nguyễn-Hu Quang

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :