A. Sơ tâm về tộc Việt
Tôi học chữ Nho trước
khi học chữ Quốc-ngữ. Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông
tôi không có con trai, mẹ tôi là con út của người. Theo luật triều
Nguyễn, th́ con trai ông tôi sẽ được "tập ấm". Không có con trai,
th́ con nuôi được thay thế. Tôi là "con nuôi" của ông tôi, nên người
dạy tôi học để nối ḍng Nho gia. Tôi cũng được "tập ấm", thụ sắc
phong của Đại-Nam Hoàng đế.
Năm lên sáu tuổi, tôi
được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt Nam. Cũng
năm đó, tôi được học chữ Nho. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đ́nh
Việt-Nam c̣n cho con học chữ Nho, bởi đạo Nho cũng như nền cổ học
không c̣n chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực
tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng v́
muốn làm vui ḷng ông tôi mà tôi học. Các bạn hiện diện nơi đây
không ít th́ nhiều cũng đă học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó
như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đă thuộc làu bộ Tam tự
kinh, rồi sáu tháng sau tôi được học sử.
Tôi được học Nam-sử
bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng quốc ngữ vào
năm bẩy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng
Quốc-ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh, không bằng một phần trăm
những ǵ ông tôi dạy tôi. Thầy giáo (ở trường) biết tôi là cái kho
vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp
nghe về anh hùng nước tôi. Chính v́ vậy, tôi phải lần ṃ đọc những
bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như :
"Đại-Việt sử kư", "Khâm
định Việt sử thông giám cương mục", "An-Nam chí lược", "Việt sử lược"...
Đại cương, mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc
Việt-Nam như sau:
"Vua Đế Minh, cháu ba
đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh,
kết hôn với một nàng tiên đẻ ra người con tên Lộc-Tục. Vua lập đài,
tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Đế
Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái
tử rằng: Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi
Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng
gốc ở ta, phải lấy điều hiếu ḥa mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không
xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử tuyệt
tôn".
Xét triều đại Thần-Nông,
khởi từ năm 3118 trước Tây-lịch, đến đây th́ chia làm hai:
1. Triều Đại Thần Nông Bắc:
- Vua Đế Nghi (2889-2884 trước Tây-lịch)
- Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch)
- Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch)
- Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch)
- Vua Du Vơng (2752-2696 trước Tây-lịch)
Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc
chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng Đế từ năm Giáp-Tư (2697 trước Tây-lịch).
Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng Đế làm kỷ nguyên.
Trong bộ Sử-kư, Tư-mă-thiên khởi chép quyển một là Ngũ đế bản kỷ,
coi Hoàng Đế là Quốc-tổ Trung-quốc.
2. Triều Đại Thần-Nông
Nam :
Thái-tử Lộc-Tục lên
làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch), hiệu là Kinh-Đương, lúc
mười tuổi. Sau này người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc.
Nếu cộng chung, cho đến nay là 4872 năm, v́ vậy người Việt hằng tự
hào rằng đă có năm ngh́n năm văn-hiến.
Xét về cương giới, cổ
sử chép: "Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi, lấy hiệu là vua Kinh-Đương (2),
tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-tây. Vua
Kinh-Đương lấy con gái vua Động-đ́nh là Long-nữ đẻ ra thái tử Sùng-Lăm.
Thái tử Sùng-Lăm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3).
Khi vua Kinh Đương băng hà thái-tử Sùng-Lăm lên nối ngôi vua tức vua
Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-lang. Nước Văn-lang Bắc tới hồ Động-đ́nh,
Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp biển Đông-hải". Cổ
sử đến đây, không có ǵ đáng nghi ngờ. Nhưng tiếp theo, lại chép: "Vua
Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm
con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai
trị, giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp, sau trở thành lạc-hầu,
theo lối cha truyền con nối.
- Hoàng tử thứ nhất
tới thứ 10 lập ra vùng hồ Động đ́nh.
- Hoàng tử thứ 11 tới thứ 20 lập ra vùng
Tượng-quận.
- Hoàng tử thứ 21 tới thứ 30 lập ra vùng
Chân-lạp.
- Hoàng tử thứ 31 tới thứ 40 lập ra vùng
Chiêm-thành
- Hoàng tử thứ 41 tới thứ 50 lập ra vùng Lăo-qua.
- Hoàng tử thứ 51 tới thứ 60 lập ra vùng
Nam-hải.
- Hoàng tử thứ 61 tới thứ 70 lập ra vùng Quế-lâm.
- Hoàng tử thứ 71 tới thứ 80 lập ra vùng
Nhật-nam.
- Hoàng tử thứ 81 tới thứ 90 lập ra vùng Cửu-chân.
- Hoàng tử thứ 91 tới
thứ 100 lập ra vùng Giao-chỉ.
Ngài hẹn rằng: Mỗi năm
các hoàng tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết để chầu-hầu phụ
mẫu". Một truyền thuyết khác lại nói:
Vua Lạc-Long nói với
Âu-Cơ rằng: "Ta là loài rồng, nàng là loài tiên, ở với nhau lâu
không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi
con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần". Các sử
gia Việt tuy lấy năm vua Kinh-Đương lên làm vua là năm Nhâm-Tuất
2879 trước Tây-lịch, nhưng không tôn vua Kinh-Đương với công chúa
con vua Động-đ́nh làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm
quốc tổ, và công chúa Âu-Cơ làm quốc mẫu. Cho đến nay, nếu các bạn
hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào: Chúng
tôi là con rồng cháu tiên, Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ.
Không phải sử gia Hoa-Việt
cho rằng các vua Phục-Hy, Thần-Nông thuộc huyền sử, hay không hẳn là
tổ ḿnh, mà cho rằng triều Phục Hy, Thần Nông là tổ về huyết tộc, mà
không phải là tổ chính trị. Bởi tại phương Bắc từ khi Hoàng Đế lên
ngôi vua, tại phương Nam Lạc-Long lên ngôi vua, mới phân hẳn ra Việt,
Hoa hai nước rơ ràng.
B. Chủ Đạo Tộc Hoa,
Tộc Việt :
Như các bạn đă thấy,
mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp các
bạn cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà
trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu
hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con rồng.
Người Việt lấy biểu hiệu là con rồng và chim âu, gốc tự huyền sử vua
Lạc Long là loài rồng, công chúa Âu-Cơ là loài chim.
Người Do-Thái tự tin
rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. V́ vậy, sau hai ngh́n năm
mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số
bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với
bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân
được Chúa chọn. Người Hoa th́ tin rằng họ là con trời. Cho nên trong
các sách cổ của họ vua được gọi là Thiên-tử, c̣n các quan th́ luôn
là người nhà trời xuống thế pḥ tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng
với văn-minh Hoa-hạ, văn minh Nho giáo đă kết thành chủ đạo của họ.
Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xă hội riêng,
sống với nhau trong niềm kiêu hănh con trời. Cho dù họ lưu vong đến
ngh́n năm, họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng
chính v́ vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ
đánh chiếm, đồng hóa hàng ngh́n nước xung quanh. Nhưng chủ đạo, và
sức mạnh của họ phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt ngày nay.
Từ nguồn gốc lập quốc,
từ niềm tin ḿnh là con của Rồng, cháu của tiên, cho nên người Việt
có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Tộc Việt đă chiến đấu không
ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai ngh́n năm của
tộc Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng
khi bị Bắc xâm, lập tức họ ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia.
Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo
của tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân.
C. Đi T́m Lại Nguồn
Gốc Tộc Việt :
Năm trước, đồng nghiệp
của tôi đă giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về
nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm:
- Thuyết của Giáo sư
Léonard Aurousseau, về cuộc di cư của người U-Việt hay Ngô-Việt sang
Âu-lạc.
-Thuyết của Claude
Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-lạc.
- Thuyết của học giả
Đào Duy-Anh, Hồ-Hữu-Tường, về sự di cư do thời tiết của người Việt
từ Bắc xuống Nam.
- Thuyết của Trần Đại-Sỹ
theo khoa khảo cổ, bằng hệ thống y-khoa ADN.
Cuối cùng các giáo sư
đồng nghiệp đă nhận định rằng: Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ vào hệ
thống khoa học, từ nay không c̣n những giả thuyết về nguồn gốc tộc
Việt nữa, mà chỉ c̣n lại công cuộc t́m kiếm của tôi, rồi kết luận:
"Tộc Việt bao gồm trăm
giống Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang: Đông tới biển,
Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di
cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt di cư xuống Giao-chỉ. Người Việt
di cư từ Nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng.
Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lĩnh thổ của họ, chứ không
phải họ là tộc khác di cư tới đất Việt".
Chính v́ lư do đó, tôi
được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa 1992-1993 này.
Sau đây, tôi tŕnh bày sơ lược về công tŕnh nghiên cứu đó. Tôi xin
nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y khoa, cho nên những nghiên cứu của
tôi đặt trên lư luận khoa học thực nghiệm, cùng lư luận y khoa, nó
hơi khác với những ǵ mà các bạn đă học.
Phương Pháp Nghiên Cứu
:
Trong việc đi t́m
nguồn gốc tộc Việt, tôi đă dùng phương pháp y khoa nhiều nhất, và
phương pháp khoa học mới đây. Tôi đă được giáo sư Tarentino về khoa
Antomie của Ư và giáo sư Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ.
1.Dùng Biện Chứng Y
Khoa vào Khoa Cổ:
Biện chứng căn bản của
người nghiên cứu y khoa là: "Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do".
Biện chứng này đă giúp
tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên
cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là
triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đă từng
tŕnh bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo, đó là thờ
các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có
một cuốn phổ kể sự tích các ngài. V́ theo thời gian, tiểu sử các
ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường.
Cho nên những học giả đi tiên phong nghiên cứu về sử học Việt thường
bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác: "Không có nguyên do, sao có chứng
trạng". V́ vậy tôi đă t́m ra rất nhiều điều lư thú.
Tỷ dụ: Bất cứ một nhà
nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An Đương cũng cho rằng truyện
thần Kim-Quy cho vua móng, làm nỏ bắn một lúc hàng ngh́n mũi tên
khiến Triệu Đà bị bại, là hoang đường, là "ma trâu đầu rắn". Nhưng
tôi lại tin, và cuối cùng tôi đă t́m ra sự thực: Hồi ấy Cao-cảnh hầu
Cao-Nỗ đă chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi
cũng t́m ra khích thước ba loại mũi tên đồng của nỏ này. (4)
Với lư luận y khoa,
với anatomie, với lư thuyết y học mới về tế bào, với những khai quật
của người Pháp ở Đông Dương, của Việt-Nam, của Trung-quốc cùng hệ
thống máy móc tối tân đă giúp tôi phân loại xương sọ, xương ống
quyển, cùng biện biệt y phục của tộc Hoa, tộc Việt, rồi đi đến kết
luận về lănh thổ nước Văn-lang tới hồ Động Đ́nh.
2. Những Tài Liệu Cổ:
Ranh giới phía Nam của
nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đă quá rơ ràng. C̣n ranh giới phía Tây
với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía
Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc quả tới hồ Động-đ́nh, th́ ranh giới
phía Tây chắc phải giáp Ba thục và phía Đông phải giáp Đông hải. V́
vậy tôi đi t́m ranh giới phía Bắc.
Dưới đây là huyền
thoại, huyền sử, mà tôi đă bấu víu vào để đi nghiên cứu.
- Cổ sử Việt đều nói
rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đ́nh.
- Truyền thuyết nói: Đế-Minh lập đàn tế cáo
trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế Nghi,
sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh Đương
sau thành nước Văn lang.
- Truyền thuyết nói:
Sau khi vua Kinh Đương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tam Sơn
trên hồ Động Đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi, có chín
vạn hoa tầm xuân nở.
- Truyền sử nói: Sau
khi Quốc tổ Lạc Long, Quốc mẫu Âu Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương
qui dân lập ấp, dặn rằng: Mỗi năm về Tương-đài trên cánh đồng Tương
chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần.
- Cổ sử nói: Quốc-tổ
dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn
mỗi năm gặp nhau một lần ở cánh đồng Tương.
- Sử nói: Vua nước
Nam-Việt là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán
là Nam quận, Trường sa (Mậu-Ngọ, 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên
giới Nam-Việt với Hán ở vùng này.
- Sử nói rằng: Khi
Trưng-Nhị, Trần-Năng, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đem quân đánh
Trường-sa (năm 39 sau Tây-lịch) th́ nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận,
mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang. (Sự thực đó là Tương-giang thông với hồ
Động-đ́nh). Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam với Hán. Tướng
Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động đ́nh là Phật-Nguyệt. Tướng Hán là Mă-Viện,
Lưu-Long (năm 40 sau Tây-lịch).Nhưng các sử gia gần đây đều đặt nghi
vấn rằng: Làm ǵ biên giới thời Văn-lang rộng như vậy, nếu có chỉ ở
vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Tôi
căn cứ vào những chứng trạng trên để t́m nguồn gốc.
D. Đi T́m Biên Giới
Nước Văn Lang:
1. Núi Ngũ-Lĩnh:
Cuối năm Canh-Thân
(1980) tôi lấy máy bay đi Bắc kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc kinh đi
Trường sa.
Trường-sa là thủ-phủ
của tỉnh Hồ-Nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Động-đ́nh, núi
Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng
Tương đều năm ở tỉnh này.
Tôi đi nghiên cứu với
một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học. Không biết trong thư
giới thiệu, các giới chức y-khoa Trung-quốc ghi chú thế nào, mà khi
tôi tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn-hóa địa phương, họ đều tưởng tôi
tới Trường-sa để nghiên cứu về sự cấu tạo h́nh thể cùng bệnh tật dân
chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thời giờ nghe thuyết
tŕnh của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn
Trường-sa tân điếm, năm trân đại lộ Nhân-dân. Tôi xin cuốn địa
phương chí mới nhất của tỉnh, rồi ṃ vào thư viện ty văn hóa, sở bảo
vệ cổ tích, đại học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay
những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới.
Đầu tiên tôi đi t́m
núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay. Đó là năm dăy núi gần
như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc.
- Một là Đại- Đữu lĩnh,
- Hai là Quế-đương, Kỳ-điền lĩnh.
- Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh.
- Bốn là Lâm-gia, Minh-chữ lĩnh.
- Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh.
Về vị trí:
- Ngọ Thủy-an, Việt-thành
chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-Đông.
- Ngọn Đại-đữu chạy từ
huyện Đại-đữu (nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-Đông.
- Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ
chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng Đông.
- Ngọn Cửu-chân, Đô-lung
chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-Nam tới Gia-huyện tỉnh Quảng-Tây.
- Ngọn Quế-đương từ
Toàn-huyện tỉnh Hồ-Nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-Tây.
Lập tức tôi thuê xe,
đi một ṿng thăm tất cả các núi này. Tôi đi mất mười ngày, gần 1500
cây số.Như vậy là Ngũ-lĩnh có thực, nay có núi đă đổi tên, có núi
vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao khi vua Minh phân chia
từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục, mà lĩnh địa Việt tới hồ Động đ́nh,
mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này:
- Một là vua Đế Minh
tế trời trên núi Ngũ-lĩnh là nơi ngài gặp tiên, rồi chia địa giới.
Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông,
sóng lớn quanh năm, nên vua Nghi chỉ giữ tới Bắc-ngạn mà thôi. C̣n
vua Kinh-Đương th́ sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đ́nh
(một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia.
- Hai là dân chúng
Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu,
phong tục, nên họ theo về Nam, không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đ́nh
mới thuộc lĩnh địa Việt.
Kết luận: Quả có núi
Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này
đúng là nơi phân chia lănh thổ Văn-lang và Trung-quốc khi xưa. Ánh
sáng đă soi vào nghi vấn huyền thoại.
2. Thiên Đài: Nơi Tế
Cáo Của Vua Đế Minh:
Tương truyền vua Đế
Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-đương, phân chia lănh thổ
Lĩnh- Bắc tức Trung-quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là
Thiên-đài. Nhưng dăy núi Quế-đương có mấy chục ngọn núi nhỏ, không
biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào, trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi
thăm dân chúng th́ họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ
Tương giang.
Thiên-đài là ngọn đồi
nhỏ, cao 179 mét , đỉnh tṛn, có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh
có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn,
nhưng không có tăng ni trụ tŕ. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp
ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nên trên mái nhiều chỗ bị vỡ,
bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị ṃn, nhiều chỗ gần như lủng
sâu. Duy nền với cổng bằng đá là c̣n nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị
bong ra. Bên trong, cột, kèo bằng gỗ đă nứt nẻ khá nhiều.
Tại thư viện Hồ-Nam,
tôi đă t́m được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết tay
như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: "Thiên Đài Di Sự
Lục"
Trinh-quán tiến-sĩ
Chu-minh-Văn soạn. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-tông
từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647), nhưng không biết Chu đỗ
tiến sĩ năm nào?
Tuy sách do Chu-minh-Văn
soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không c̣n. Bản này là do người
sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần:
Phần của Chu-minh-Văn soạn, phần chép tiếp theo Chu-minh-Văn của một
sư ni pháp danh Đàm-Chi, không rơ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép
pháp danh các vị trụ tŕ từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy
(1662-1722). Chu-minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông
thuộc loại văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố, cùng thành ngữ
lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. (Nhân viên quản thủ thư
viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc
nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông biết rằng tôi chỉ được học
những loại văn đó từ hồi sáu bẩy tuổi, th́ ông sẽ hết phục!) Tài
liệu Chu-minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Đế Minh đi tuần thú phương
Nam, kết hôn với nàng tiên, sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này
tế cáo trời đất, v́ vậy đài mang tên Thiên-đài, núi cũng mang tên
Thiên-đài-sơn. Ḿnh-Văn c̣n kể thêm: Cổ thời, trên đỉnh núi chỉ có
Thiên-đài thờ vua Đế-Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông Hán. một
tướng của vua Bà tên Đào-hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi
rút tới Quế-đương, ông cùng ngh́n quân lên Thiên-đài lễ, nghe người
giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất quyết tử chiến, khiến
Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường, để
xóa vết tích Việt, Hoa cùng Nam, Bắc, các quan lại được sai sang đô
hộ Lĩnh-Nam mới cho xây ngôi chùa tại đây.
Tôi biết vua Bà là vua
Trưng. C̣n tướng Đào-hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-b́nh vương Đào-Kỳ,
tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Bà Hoàng-thiều-Hoa
chỉ huy trận rút lui khỏi khu Trường-sa, hồ Động đ́nh, đă sai Hiển-Hiệu
đi cản hậu, đóng nút chận ở Thiên đài, đợi khi quân Lĩnh-Nam rút hết,
sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thơ
thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đă không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân
Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây.
Ngoài cổng chùa có hai
đôi câu đối:
Thoát thân Nam thành
xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật-kinh." (Hai câu này ngụ ư
ca tụng thái tử Tất-đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi t́m lẽ giải
thoát, sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.)
Tam bảo linh ứng phong điều vũ thuận, Phật
công hiển hách quốc thái dân an. (Hai câu này ngụ ư nói: Tam bảo
linh thiêng, khiến cho gió ḥa mưa thuận, đó là công lao của nhà
Phật khiến quốc thái dân an.)
Nơi có dấu vết Thiên đài, c̣n đôi câu đối
khắc vào đá:
"Thiên-đài đại đại
phân Nam, Bắc,
Lĩnh-địa niên niên dữ
Việt thường."
(Nghĩa là: Từ sau vụ
tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao thời, phân ra Nam, Bắc.
Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với ḍng giống Việt-thường.)
Chỗ miếu thờ Đào-hiển-Hiệu
có đôi câu đối:
"Nhất kiếm Nam hồ,
kinh Vũ Đế,
Thiên đao Bắc lĩnh,
trấn Lưu-Long."
(Nghĩa là: Một kiếm
đánh trận ở phía Nam hồ Động-đ́nh làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán,
một ngh́n đao thủ ở bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu-Long.)
Kết luận: Như vậy việc
vua Đế-Minh tế cáo trời đất là có thực. V́ có Thiên-đài, nên thời
Lĩnh-Nam mới có trận đánh hồ Động-đ́nh. Hai sự kiện đó chứng tỏ lĩnh
địa Văn-lang xưa quả tới núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh.
3. Cánh Đồng Tương:
Có hai huyền sử nói về
cánh đồng Tương:
- Một là Quốc-tổ dẫn
năm mươi con xuống biển. Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm
tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần.
- Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu
truyền các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, mỗi năm hội tại
cánh đồng Tương một lần.
Tôi đoán: Cả hai vị
quốc tổ Kinh-Đương, Lạc Long sau khi kết hôn, đều đem Quốc-mẫu lên
núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Vậy th́ cánh
đồng Tương sẽ gần đâu đó quanh hồ Động-đ́nh. Phía Nam hồ Động-đ́nh
là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 cây số, lưu vực
tới 92,500 cây số vuông, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-Tây. Vậy cánh
đồng Tương sẽ năm trong lưu vực Tương-giang. Tôi thuê thuyền đi từ
cảng Dương-lâm nơi phát xuất ra Tương-giang là hồ Động-đ́nh, xuống
Nam, qua Tương-âm tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa
Bạch-mă. Đây là địa phận quận Ích-đương. Vô t́nh tôi t́m ra một
nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới
4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ c̣n 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ tŕnh từ
hồ Động-đ́nh trở xuống, trên sông Tương cũng như hai bên bờ chim âu
bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, giống chim này càng nhiều
vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa, thủ
phủ của Hồ-Nam, rồi tới các quận lî Tương-đàm, Chu-châu, Hành-đương,
Quế-đương. Không khó nhọc tôi t́m ra cánh đồng Tương, tức là vùng
trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đ́nh, Nguyên-giang.
Phía Nam là Linh-lăng, Hành-Nam. Phía Tây là vùng Triêu Dương, Lănh
thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ c̣n khu vực tứ giác: Tương-giang,
Nguyên-giang, Liên-thủy và Thạch-khê-thủy. Sau khi t́m ra cánh đồng
Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu, tôi giải đoán như thế này:
"Quốc-tổ Lạc-Long kết
hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng v́
lâu ngày, người ta không nhớ được tên ngài, nên đă lấy con chim Âu,
rất hiền ḥa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đ́nh, Tương-giang,mà gọi tên
là Âu-Cơ (Cơ là bà vợ vua). V́ người ta gọi Quốc-mẫu là Âu Cơ th́ họ
nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh con. Quốc-mẫu là chim Âu, th́ phải đẻ ra
trứng. C̣n con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ
tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm
con, có nghĩa là tất cả dân trong nước đều là con của Quốc-mẫu."
Kết luận: Đă có cánh
đồng Tương, th́ truyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một
lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài, nay chứng cớ
cánh đồng Tương được kiểm điểm, th́ lĩnh địa của tộc Việt xưa quả
tới hồ Động đ́nh.
4. Hồ Động Đ́nh và Núi
Tam Sơn:
Hồ Động-đ́nh nằm ở
phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nới phát tích ra tộc
Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ Bắc, tức đất
Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là
tỉnh Hồ-Nam. Hồ Động-đ́nh nằm trong tỉnh Hồ-Nam. Hồ thông với sông
Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa
nước sông Trường-giang, rồi đổ vào cho Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ
có núi Tam-sơn. Tôi đă lên đây ba lần. Tương truyền các bà Trưng-Nhị,
Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm,
v́ vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rơ phong cảnh để c̣n tả
trận đánh trong bộ Cẩm-khê di-hận (6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ
sâu về mùa cạn là 38.5 mét, về mùa nước lớn là 39.20 mét.Tra trong
chính sử, th́ quả hồ Động-đ́nh thuộc lĩnh địa Văn-lang. Như trên đă
nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Vơng th́ mất vào năm
2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng Đế. Sử gia Trung-quốc
cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây-phương, th́
vua Du-Vơng từ gốc Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng
đồng bằng, ở phương Nam, lấy hỏa làm biểu hiệu nên c̣n gọi là Viêm-Đế.
C̣n vua Hoàng-Đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân
du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nghiệp giầu nhưng
không giỏi vơ bị nên bị thua.
Bộ Sử-kư của Tư-mă-Thiên,
quyển 1, Ngũ đế bản kỷ chép rằng:
...Thời vua Hoàng Đế,
họ Thần-Nông (Bắc) đă suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ
khốn khổ vô cùng. Vua Du-Vơng không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên
Hoàng Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. V́
vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu, th́ Suy-Vưu mạnh
nhất.
Vua Du-Vơng triều Thần-Nông
định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng
Đế. Vua Hoàng Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mă, vỗ về trăm họ,
giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Vơng ở
Bản-tuyền, thành công.
Suy-Vưu làm loạn, không tuân đế hiệu. Hoàng
Đế triệu tập chư hầu, cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống
Suy-Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong
thiên hạ nơi nào không thuận, vua Hoàng Đế đem quân chinh phạt.
Lănh thổ của Hoàng Đế:
Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông; phía Tây tới núi Không-động,
Kê-đầu; Nam tới Giang, Hùng, Tương... (7)
Sông Giang đây tức là
sông Trường-giang. Hùng đây là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi-Nhân
đời Tống tập giải Sử-kư nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa.
Kết luận: Từ chính sử,
huyền sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đ́nh. Khi vua
Hoàng Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, th́ triều Thần-Nông Nam tức họ
Hồng-bàng c̣n kéo dài tới 2439 năm nữa. Lĩnh thổ Trung-quốc thời
Hoàng Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Từ Nam bao gồm khu Trường-sa
hồ Động đ́nh vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy, th́
việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đ́nh, núi Tam-sơn, không c̣n là
huyền thoại nữa, mà thành sự thực lịch sử. Vậy truyện các ngài lên
núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử.
5. Biên Giới Lĩnh Địa
Tộc Việt Thế Kỷ Thứ Hai Trước Tây Lịch:
Sử Hán- Việt đề đều
ghi rằng vào thế kỷ thứ nh́ trước Tây-lịch, thời Triệu-Đà cai trị
lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn c̣n ở vùng Trường-sa, hồ Động-đ́nh.
Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu-Đà lập quốc
ở lănh thổ Lĩnh-Nam. Tần-thủy-Hoàng sai Đồ-Thư mang quân sang đánh
Âu-Lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận: Nam-hải (Quảng
Đông và một phần Phước-kiến), Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-Nam và một phần
Quư-châu), Tượng-quận (Vân-Nam và một phần Quư-châu). Vua An-Dương
Vương sai Trung-tín hầu Vũ-Băo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đem quân
chống, giết được Đồ-Thư, tiêu diệt nửa triệu quân Tần. Tuy vậy vua
An-Dương Vương cũng không chiếm lại vùng đất đă mất.
Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan
Tần là Triệu-Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận,
Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mị-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm
được Âu-lạc, lập ra nước Nam-Việt. Lĩnh thổ nước Nam-Việt gồm những
vùng nào? Không một sử gia chép rơ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ
tẻ, ta cũng có thể biết rằng lĩnh địa Nam-Việt là lĩnh địa thời Văn-lang.
Trong khi Triệu-Đà lập
nghiệp ở phương Nam, th́ cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt: Hạng-Vũ,
Lưu-Bang diệt Tần, rồi Lưu-bang thắng Hạng-Vũ lập ra nhà Hán. Lưu-Bang
lên ngôi vua, sai Lục-Giả sang phong chức tước cho Triệu-Đà. Đúng ra
Triệu-Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng, thân
thuộc, mồ mả của Đà đều ở vùng Chân-Định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ
hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên mà phải lùi bước.
Năm 183 trước Tây-lịch,
Cao-tổ nhà Hán là Lưu-Bang chết, Lă-hậu chuyên quyền, cấm bán hạt
giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu-Đà không thần phục
nhà Hán, xưng đế hiệu, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận.
Trường-sa là quận biên
cương của Hán, vậy ít nhất lănh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sa.
Nam-quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận
biên cương Hán, th́ biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam ngạn sông
Trường-giang.
6. Lĩnh Địa Về Thời
Vua Trưng:
Trong những năm
1978-1979 khi dẫn phái đoàn y khoa nghiên cứu tại các tỉnh cực nam
Trung-quốc như Quảng Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quư-Châu, tôi t́m ra
khắp các tỉnh này, không ít th́ nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng
tôi không t́m được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc
ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ rằng
vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp bốn tỉnh, tôi ghi chú
được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà.
Bây giờ tôi lại t́m
thấy ở Hồ-Nam nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo
tồn di tích cổ, tôi t́m thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ
thứ tám chép sự tích nữ vương Phật-Nguyệt như sau:
"Ngày xưa, Ngọc-Hoàng
thượng đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu. V́ sơ
ư, hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi giận
lôi đ́nh, truyền đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi
đầu thai được mấy ngày, th́ tiên-lại giữ sổ tiên giới tâu rằng có
162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa.Ngọc-Hoàng thượng đế sợ
công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-Y đồng tử đầu
thai theo để dẹp loạn. Thanh-Y đồng tử sợ địch không lại hai công
chúa, có ư ngần ngừ không dám đi. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền Nhị-thập
bát tú đầu thai theo.
Thanh-Y đồng tử đầu thai, sau là vua Quang-Vũ
nhà Hán, Nhị-thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần vơ
tướng thời Đông-Hán. C̣n hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-Chỉ,
vào nhà họ Trưng. Chị là Trưng-Trắc, em là Trưng-Nhị. Lúc Trưng-Trắc
sinh ra có hương thơm đầy nhà, lớn lên thông minh quán chúng, có sức
khỏe bạt sơn cử đỉnh; được gả cho Đặng-thi-Sách. Thi-Sách làm phản,
bị thái thú Tô-Định giết chết. Trưng-Trắc cùng em là Trưng-Nhị phất
cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ
trong một tháng chiếm hết sáu quận Trung-quốc ở phía nam sông Trường-giang:
Cửu-Chân, Nhật-Nam, Giao-Chỉ, Quế-Lâm, Tượng-quận, Nam-Hải. Chư
tướng tôn Trưng-Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà.
Vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán sai Phục-Ba tướng
quân Tân-tức hầu, Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu-Long đem quân
dẹp giặc. Vua Bà sai nữ vương Phật-Nguyệt tổng trấn hồ Động đ́nh. Mă-Viện,
Lưu-Long bị bại. Vua Quang-Vũ truyền Nhị-thập bát tú nghênh chiến,
cũng bị bại. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi
Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông
Trường-giang, hồ Động-đ́nh, oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng
thượng đế sai thiên binh, thiên tướng trợ chiến, cũng bị bại. Ngài
phải sai thần Du-Liệt sang Tây-phương cầu cứu Phật Như-Lai. Đức Phật
sai mười tám vị Kim-Cương, ba ngh́n La-Hán trợ chiến cũng bị bại.
Cuối cùng ngài truyền Quan-Thế-Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt
với Quan-Thế-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau
Quan-Thế-Âm thuyết pháp, nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu."
Ta nhân ngày lành,
viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối:
Tích trù Động đ́nh uy trấn Hán,
Danh lưu thanh sử lực
phù Trưng.
(Nghĩa là: Một trận
Động-đ́nh uy rung Hán tên c̣n trong sử sức pḥ Trưng)
Như thế, tôi đă t́m ra
được: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của ḷng
tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lănh thổ cũ của
người Việt c̣n sót lại. Vua Bà, mà người Trung-hoa thờ như một thứ
tôn giáo, chính là vua Trưng.
Kết luận: Quả có nữ
vương Phật-Nguyệt đánh trận Trường-sa hồ Động đ́nh. Mà có trận hồ
Động-đ́nh th́ lănh thổ thời Lĩnh-Nam quả tới phía Nam sông Trường-giang.
Huyền sử nói rằng: Khi
bà Trưng-Nhị cùng các tướng Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường
đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch), th́ nữ tướng
Trần-thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8).
Thẩm-giang chính là đoạn sông ngắn ở Bắc tiếp nối với hồ Động-đ́nh.
Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần Lư,
Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ đến cúng miếu thờ bà Trần-thiếu-Lan.
Cho nên năm 1980, tôi đă đến đây t́m hiểu. Không khó nhọc, tôi t́m
ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cung cấp, một
đoạn chép "Miếu thờ liệt nữ Trần-tiểu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách
mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn
cả bia đá". Tôi t́m tới nơi th́ miếu chỉ c̣n lại cái nền bằng đá ông,
mộ vẫn c̣n. (9)
7.Nghiên Cứu Những
Khai Vật:
Vào những năm
1964-1965, giáo sư thạc sĩ luật khoa Vũ-văn-Mẫu đang soạn thảo tài
liệu về cổ luật Việt Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là
Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư
tịch cổ nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng với phương pháp phân
tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi
với cụ đă giúp giáo sư Mẫu đọc, soán các thư tịch liên quan đến cổ
luật. Chính v́ vậy tập tài liệu "Cổ-luật Việt-Nam và tư -pháp-sử" có
chương mở đầu "Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ-luật Việt-Nam"(10).
Bấy giờ tôi c̣n trẻ, lại không có đủ tài liệu khai quật của Trung-quốc,
của Bắc Việt-Nam, nên có nhiều chi tiết sai lầm nhỏ. Hôm nay đây,
tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác, anh linh
giáo sư Vũ-văn-Mẫu, xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi
các vị sinh viên về những sai lầm đó.
Triều đại Hồng-Bàng
của tộc Việt xuất phát từ năm 2879 trước Tây-lịch, tương đương với
thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn hóa Bắc-sơn
(11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc Việt, Đông Vân-Nam,
Quảng Đông, Hồ-Nam, người ta đều t́m được những chiếc ŕu thiết diện
h́nh trái xoan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang lại chỉ t́m
được loại ŕu thiết diện h́nh chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó, có một
thứ văn hóa tộc Việt giống nhau.
Sang thời đại văn hóa
Đông-sơn (12) hay đồ đồng (age du bronze): Trong thời gian này đă
t́m được trống đồng Đông-sơn bên bờ sông Mă (Thanh-Hóa) Sự thực
trống đồng đă t́m thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-Nam,
Quư-Châu, Vân-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây; Nam-Đương, Lào (13), Bắc
và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-Đương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc Việt
rồi tới Vân-Nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần, gần như giống
nhau: Đồng 55%, thiếc 15-16%, ch́ 17-19%, sắt 4%. Một ít vàng, bạc.
Khảo về y phục, mồ mả,
cùng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại, cho đến hết thế kỷ
thứ 1 sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường-giang cho đến
Trung, Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Tôi đi đến kết luận:
Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động đ́nh, Tây tới Tứ-xuyên như
cổ sử nói.
E. Tổng Kết
Các bạn đă cùng tôi đi
vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học,
suy luận để t́m về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong chính sử Việt
đều ghi rơ ràng về nguồn gốc tộc Việt. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh
những nhà nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết.
Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau,
mang tên Bách-Việt. Những tên như Âu Việt, Lạc Việt, Đông Việt, Nam
Việt, Việt Thường đều thuộc Bách Việt cả. Cái tên trăm họ, hay trăm
Việt (Bách Việt) phát xuất từ huyền thoại nói vua Lạc Long sinh ra
trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là
con số như ta tưởng ngày nay (14).Các vị cổ học học sổ sử, rồi coi
lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang, lấy mốc là hồ
Động-đ́nh, với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên.
|