Tuy vào năm Sùng Hưng
Đại Bảo thứ 6 [1054] vua Lư Thái Tông đặt tên nước ta là Đại-Việt,
nhưng quốc hiệu này chỉ được dùng trong nội bộ; bấy giờ Trung-Quốc
vẫn gọi nước ta là Giao-Chỉ. Thời vua Lư Anh Tông Chính Long Báo Ứng
năm thứ 2 [1164], nhà Tống đổi Giao-Chỉ thành An-Nam quốc. Kể từ đó
cho đến cuối thời Hậu Lê, tên nước An-Nam được dùng trong việc bang
giao với Trung-Quốc; Riêng trong nước, muốn chứng tỏ sự độc lập, vẫn
dùng quốc hiệu là Đại-Việt (Ngoại trừ nhà Hồ đặt quốc hiệu là Đại-Ngu).
Điều này giải thích tại sao hai nhà viết sử dưới đời nhà Trần, Sử-thần
Lê Văn Hưu đặt tên cho bộ sử là Đại-Việt sử kư; trong khi Lê Trắc,
sống lưu vong tại Trung-Quốc, phải đặt tên cho bộ sử là An-Nam chí
lược.
Trong văn thư giao
dịch với nước ta dưới thời Tây Sơn, nhà Thanh vẫn dùng quốc hiệu
An-Nam. Sau khi thống nhất đất nước, Gia Long gửi biểu văn sang nhà
Thanh xin đặt lại tên nước là Nam-Việt. Việc làm này khiến vua Gia
Khánh cực lực phản đối, v́ sợ Gia Long dùng tên nước cũ thời Triệu
Đà để đ̣i lại đất của Nam-Việt gồm cả hai tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây.
Gia Khánh lại c̣n lo Gia Long thừa thắng xông lên, dùng vơ lực để
dành lại đất, nên ra lệnh báo động đề pḥng tại hai tỉnh này. Dưới
đây là chỉ dụ của vua Gia Khánh ra lệnh cho Tổng-đốc Lưỡng-Quảng Tôn
Ngọc Đ́nh phải đối phó với t́nh h́nh, cùng bác bỏ điều xin của Gia
Long:
Ngày 20 tháng 12 năm
Gia Khánh thứ 7 [13/1/1803]
Dụ các Quân Cơ Đại
Thần: Hôm qua Tôn Ngọc Đ́nh tấu dâng biểu văn thỉnh phong của Nguyễn
Phúc Ánh [Gia Long], Trẫm đă duyệt đọc kỹ, việc xin phong tên nước
hai chữ “Nam-Việt” không thể chấp nhận được. Địa danh “Nam-Việt” bao
hàm rất lớn, khảo sử xưa hai tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây đều nằm ở
trong đó. Nguyễn Phúc Ánh là tiểu Di nơi biên giới, tuy hiện nay có
được toàn đất An-Nam, bất quá lănh thổ bằng đất Giao-Chỉ xưa là cùng,
làm sao lại được xưng là Nam-Việt. Biết đâu đây không phải là ư muốn
khoe khoang tự thị của ngoại Di, xin thay đổi quốc hiệu, để thử bụng
[Thiên triều] trước, đương nhiên đáng bác đi. Đă ra lệnh cho Quân Cơ
Đại-thần soạn thay một tờ hịch dụ, cùng mang nguyên biểu giao cho
Tôn Ngọc Đ́nh trả lại; để xem sau khi nhận được chúng sẽ bẩm báo
phúc đáp ra sao, rồi đợi chiếu chỉ mà liệu biện. Ngoài ra Nguyễn
Phúc Ánh cầu phong quốc hiệu Nam-Việt, rơ ràng tự thị vơ công muốn
đ̣i xin thêm đất. Sợ bọn chúng âm mưu bất trắc, nên lệnh truyền các
quan địa phương tại hai tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây lưu tâm pḥng bị
vùng biển cùng biên giới, quan ải; không được trễ nải lơ là. Nay
truyền dụ các nơi để hay biết. [1]
Nội dung chỉ dụ nêu
trên cho thấy triều đ́nh nhà Thanh xử sự theo lối trịch thượng, vua
Gia Khánh không trực tiếp gửi chỉ dụ cho vua Gia Long, chỉ giao cho
viên Tổng-đốc Lưỡng-Quảng trả lời mà thôi. Gia Long cũng không vừa,
coi như văn thư nhận được chỉ là ư kiến riêng của Tôn Ngọc Đ́nh,
không xứng đáng là một quốc thư, nên lại một lần nữa yêu cầu thẳng
vua Gia Khánh cho đặt tên nước là Nam-Việt.
Ngày 6 tháng 4 năm Gia Khánh thứ tám
[26/5/1803]
Dụ các Quân Cơ Đại-thần:
Tôn Ngọc Đ́nh dâng tấu triệp xin chiếu chỉ để tuân hành về việc tờ
bẩm phúc đáp của Nguyễn Phúc Ánh. Trẫm đă đọc kỹ, Nguyễn Phúc Ánh
cho rằng lời dụ lần trước là ư kiến riêng của Tôn Ngọc Đ́nh, biểu
văn của y chưa tấu lên trên để được nghe quyết định [của Hoàng-đế],
nên lần này vẫn thỉnh phong quốc hiệu Nam-Việt và khẩn xin tấu thay.
Trẫm duyệt biểu văn, lời và ư rất mềm dẻo, hết sức cung thuận. Xưng
rằng nước y trước kia có đất Việt-Thường, nay lấy thêm đất An-Nam [của
Tây Sơn]; không dám quên gốc đă giữ đời nối đời, bèn dùng tên cũ
Nam-Việt, đấy là t́nh thực. Tôn Ngọc Đ́nh hăy truyền hịch cho viên
Quốc-trưởng rằng:
“Lần trước đến xin thỉnh phong quốc hiệu,
danh nghĩa chưa hợp, nên không dám mạo muội tấu đầy đủ. Nay nhận
được biểu phúc đáp, tường thuật đầu đuôi việc dựng nước, xin được
phong tên mới, đă thể theo thực t́nh tâu lên đại Hoàng-đế. Nay nhận
được chỉ dụ rằng:
“Viên Quốc-trưởng có ḷng thành, lần trước
cung kính giao nạp sắc ấn trước đây ban cho [An-Nam] bị Nguyễn Quang
Toản bỏ lại, cùng trói giải bọn giặc cướp ngoài biển; lại cung kính
thỉnh mệnh, nên được soi xét kỹ tấm ḷng thành. Việc cầu phong và
dâng biểu cống; đặc dụ chấp thuận. Đến việc xin đặt tên nước là Nam-Việt,
th́ nước này trước đây có đất cũ Việt-Thường, sau lại được toàn lănh
thổ An-Nam; vậy Thiên-triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ “Việt-Nam”;
lấy chữ “Việt” để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng
chữ “Nam” để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại c̣n có
nghĩa là phía nam của Bách-Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ “Nam-Việt”.
Một khi tên nước đă chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn
thừa hưởng ân trạch của Thiên triều. Hiện đă ra lệnh cho Bồi-thần
đến kinh khuyết thỉnh phong, sắc ấn ban sẽ lấy hai chữ đó làm tên.
Nước ngươi được ban tên đẹp, xếp vào nước ngoại phiên thần phục,
càng đầy đủ sự vinh hiển.”
Tôn Ngọc Đ́nh tiếp
nhận chiếu chỉ này, một mặt truyền hịch dụ Nguyễn Phúc Ánh, một mặt
sai Ủy-viên bạn tống Sứ-thần nước này đến kinh đô dâng biểu tiến
cống. Lưu ư tiết trời nắng nóng, nên cho đi từ từ để tỏ ḷng thể
tuất. Vào khoảng cuối tháng 7 đến kinh đô, lúc này Trẫm tránh nóng
tại sơn trang, gặp dịp Cáp Tát Khắc vào triều cận, lệnh cùng dự yến
luôn một thể. Vẫn để viên Sứ-thần khởi tŕnh từ Quảng-Tây, nhật kỳ
nhớ báo trước khi đi. Đem dụ này truyền để hay biết.” [2]
Văn bản nêu trên đề
cập lời đối đáp khéo léo giữa hai lănh tụ Việt, Trung. Gia Long
tránh né bàn về tên nước thời nhà Triệu, giải thích một cách hợp lư
rằng Nam-Việt là tên ghép đất cũ Việt-Thường của cha ông [địa danh
xưa thuộc miền nam Việt-Nam từ Thanh-Hóa trở vào] và An-Nam của nhà
Tây Sơn. Gia Khánh cũng không vừa, chấp nhận lời giải thích đó,
nhưng ghép hai địa danh Việt-Thường và An-Nam theo một cách khác,
thành hai chữ Việt và Nam. Kể từ đó ta có tên nước là Việt-Nam.
Theo sử Việt, Thượng-thư
Lê Quang Định cầm đầu sứ bộ dâng biểu cầu phong. Ngoài nhiệm vụ này,
sứ bộ đă cố gắng bắt liên lạc với người Việt lưu vong tại Trung-Quốc
để t́m hậu thuẫn. Lúc bấy giờ, có một di thần nhà Lê tên là Lê Quưnh
rất nổi tiếng tại Trung-Quốc, v́ khẳng khái không chịu theo lệnh vua
Càn long cạo đầu gióc tóc theo phong tục Măn Thanh. Lê Quưnh bị giam
hơn mười năm tại nhà tù Bắc-Sở, Bắc-Kinh; đến đời Gia Khánh th́ được
tha, nhưng bi quản chế tại một trại lính trong thành. Có lẽ tiếng
tăm Lê Quưnh được nhóm phản Thanh phục Minh truyền sang Nông-Nại [Đồng-Nai],
nên vua Gia Long biết tiếng Lê Quưnh [3] . Con Lê Quưnh là Lê Doăn
Trác xin gia nhập vào phái đoàn để được sang Trung-Quốc t́m cha,
được chấp thuận cho làm Hành-nhân.
Chắc Sứ-bộ Lê Quang
Định đă bố trí gặp Lê Quưnh tại Trác-Châu để bàn bạc, trước khi vào
cung đ́nh triều yết. Nhưng chẳng may việc Lê Quưnh đến Trác-Châu bị
tiết lộ; căn cứ vào chỉ dụ của vua Gia Khánh đề cập sau đây, vụ án
liên lụy đến một số người:
Ngày 30 tháng 7 năm
Gia Khánh thứ tám [15/9/1803]
Dụ Nội Các: Bọn Miên
Chí tâu “Người An-Nam tên Lê Quưnh ngầm đến Trác-Châu t́m gặp con y,
nay xin giao cho phủ Thuận-Thiên chiếu theo lệ xét xử.”
Lê Quưnh là viên quan
của phiên bang nơi biên giới, phạm tội nên bị giam. Vào năm Gia
Khánh thứ 5 [1800] được Trẫm đặc cách phóng thích, mệnh an sáp tại
ngoài doanh hỏa khí, cấp lương tiền như lính Bát Kỳ; vẫn giao cho
quan phụ trách trông coi, không được tự ư đi ra ngoài. Nay Lê Quưnh
cùng Lư Bỉnh Đạo nói dối xin đi thăm mộ Lê Duy Kỳ [vua Lê Chiêu
Thống], được doanh này cho hai người lính hộ tống. Đi đến khoảng phụ
cận cầu Lư-Cấu, Lê Quưnh thừa lúc sơ hở bỏ đi, quân hộ tống chỉ đưa
được Lư Bỉnh Đạo trở về, riêng Lê Quưnh th́ đi thẳng đến Trác-Châu.
Qua viên Tri-châu này thẩm vấn, y khai rằng “Nhân nghe tin trong số
Cống-sứ Việt-Nam có con y là Lê Doăn Trác giữ chức Hành-nhân, trên
đường đến kinh đô; nên y đi thăm hỏi sự t́nh.” Bọn Lê Quưnh trú tại
xưởng Lam-Điện, làm sao biết được Lê Doăn Trác theo phái đoàn Cống-sứ
Việt-Nam đến kinh đô? Huống Sứ-thần nước này đến Trác-Châu vào ngày
25, Lê Quưnh đến ngay vào ngày hôm sau, cớ sao được tin nhanh như
vậy? Vả lại bọn Lê Quưnh muốn đi ra ngoài để thăm gặp, th́ cứ bẩm
lên viên Đại-thần cai quản, để được tâu lên, đợi chiếu chỉ chấp
thuận mới có thể đi được. Sao y chưa tŕnh rơ ràng lại ngầm đi [đi
chui], quả thực không tuân lệnh quản thúc. Ngoại trừ việc giáng chỉ
đem các quan viên trong doanh phân biệt xét xử; nay truyền lệnh
doanh phụ trách cùng phủ Thuận-Thiên giải giao bọn Lê Quưnh, Lư Bỉnh
Đạo hai người đến bộ H́nh để thẩm vấn. [4]
Lời đàn hạch nêu trên
có vẻ nghiêm trọng, nhưng cuối cùng chỉ là “giơ cao đánh sẽ.” Những
câu hỏi quan trọng như “Tại sao Lê Quưnh biết được con ḿnh đến kinh
đô? Tại sao biết Sứ-thần Việt-Nam đến vào ngày 25?” ắt phải liên
quan đến sứ bộ Việt-Nam lúc bấy giờ, nhưng có lẽ v́ lư do ngoại giao
nên lờ đi không nhắc đến. Sau khi thẩm vấn, Lê Quưnh được tha, cho
quản chế tại xưởng Lam-Điện như cũ, riêng viên quan chuyên trách
quản lư Lê Quưnh th́ bị đày đi Ô-Lỗ-Mộc-Tề; nội dung được đề cập qua
chỉ dụ dưới đây:
Ngày 15 tháng 8 năm
Gia Khánh thứ tám [30/9/1803]
Lại dụ Nội Các: Bộ
H́nh đă đem viên Tham-lănh Bảo Thiện đối chất xác minh với Lê Quưnh
rồi soạn tấu triệp tŕnh lên như sau:
“Bọn người An-Nam Lê Quưnh cư trú tại xưởng
Lam-Điện, do Tham-Lănh Bảo Thiện chuyên trách quản lư. Nhân Lê Quưnh
xin phép đi thăm Cống-sứ, Bảo Thiện không bẩm lên quan Đại-thần cai
quản, bèn tự chấp thuận cho đi, hành động thuộc loại chuyên quyền tự
ư. Khi Lê Quưnh cung khai việc này, viên Đại-thần cai quản đích thân
hỏi viên Tham-lănh, y không thừa nhận; rồi Quân Cơ Đại-thần chuyển
chiếu chỉ hỏi tường tận, sau ba bốn lần cung khai y vẫn không nói rơ
sự thực. Đến khi giải giao Bảo Thiện đến bộ H́nh đối chất với Lê
Quưnh, y không c̣n bao che được, rốt cuộc phải thừa nhận.”
Y thuộc lọai giảo hoạt,
nếu chỉ giao về bộ nghị xử th́ e quá nhẹ; nay truyền lệnh cách chức
Bảo Thiện, phát văng đến Ô-Lỗ-Mộc-Tề [5] hiệu lực, để chuộc tội. C̣n
bọn Lê Quưnh, Lư Bỉnh Đạo đă được hỏi rơ và cũng không phải ngầm đi,
mọi việc đều hợp lẽ; nay lại giao cho doanh Hỏa-Khí an sáp tại xưởng
Lam-Điện, hăy lưu tâm quản thúc, không được tự ư đi ra ngoài sinh
chuyện. Điều cung khai rằng Lê Quưnh trên đường đi t́nh cờ gặp viên
quan Mông-Cổ họ A, c̣n đơn vị hiệu cờ cùng tên th́ không nhớ rơ;
cũng không cần tra cứu thêm nữa. [6]
HBT
[1]Hồ Bạch Thảo, bản dịch Cao Tông Thực Lục
trang 250, phần chữ Nho trang 411.
[2]Bản dịch Cao Tông Thực Lục, trang 251,
phần chữ Nho trang 413
[3]La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hăn, tập 2,
trang 924; trích lại từ Quốc Sử Di Biên của Thám-hoa Phan Thúc Trực.
[4]Bản dịch Cao Tông Thực Lục, trang 253,
phần chữ Nho trang 414.
[5]Ô-Lỗ-Mộc-Tề: Địa danh, thuộc tỉnh Tân-Cương.
[6]Bản dịch Cao Tông Thực Lục, trang 255,
phần chữ Nho trang 416. |