Đă tu c̣n sợ
chi tù
Chữ tù liền với
chữ tu một vần!
(Thơ Tuệ Nghiệp)
Hoàng Hải Thủy
Năm 1982, sau
lần đi tù hai năm trở về mái nhà xưa, tôi mới được quen biết anh Cao
Hữu Đính. Những vị từng sống ở Huế, Thừa Thiên và những vị Phật tử
miền Trung chắc nhiều người biết anh Cao Hữu Đính. Anh Đính qua đời
trong căn nhà của anh đường Trương Minh Giảng - quăng gần cổng xe
lửa số 6 - vào năm 1991. Anh nguyên là Tổng Thư Kư Liên Ban Tôn Giáo
Chống Độc Tài năm 1963, là Giáo sư Đại Học Vạn Hạnh. Anh hơn tôi đến
gần hai mươi tuổi.
Tôi được gập
anh ở nhà anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Năm ấy - năm 1982 - tôi viết
một số bài kể chuyện linh tinh về đời sống của nhân dân Sài G̣n dưới
ách cộng sản, gửi sang Mỹ, Pháp, Úc. Tôi đưa vài bài tôi viết để anh
Đính đọc. Anh nói:
- Trước đây tôi
có nghe tên anh nhưng tôi không đọc anh. Tôi vẫn tưởng anh chỉ viết
được tiểu thuyết thôi, không ngờ anh viết chính luận cũng được quá.
Từ đó anh Đính
mến tôi, hay đến nhà tôi, sốt sắng và chân t́nh giúp đỡ vợ chồng tôi.
Anh chị Đính sống tương đối thoải mái về tiền bạc hơn rất nhiều
người Sài G̣n những năm đen tối, cơ cực đến rùng rợn ấy. Anh chị có
bẩy tám người con, năm người sống ở nước ngoài. Tất cả các con anh
chị đều thành đạt.
Là người nghiên
cứu Phật giáo và tham gia phong trào chấn hưng đạo Phật từ những năm
1940, anh Đính biết khá nhiều về giới giáo sĩ Phật giáo ở miền Trung
Việt Nam. Những lúc vui chuyện anh kể cho tôi nghe về tiểu sử, hạnh
kiểm, hành động, công đức tu hành của những vị lănh đạo của Phật
giáo như Ḥa Thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Ḥa Thượng Thích
Trí Thủ, Quảng Độ, Thiện Minh, Trí Quang, Đức Nhuận, Nhất Hạnh,
v.v...
Là người ngoại
đạo tôi nghe những chuyện trên rồi quên ngay. Một sáng đầu năm 1984
anh đến nhà tôi, cho tôi biết:
- Công an mở
chiến dịch bắt bớ, khủng bố Phật giáo đồ. Lần này coi bộ nặng. Tuệ
Sỹ, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Thích Nữ Trí Hải bị bắt trong ngày hôm
qua. Chưa biết c̣n những ai bị bắt nữa.
Và anh nói:
- Tuệ Sỹ, Lê
Mạnh Thát, Trí Hải là... la crème du Buđhisme, tinh hoa của Phật
giáo.
Vài ngày sau
anh cho tôi biết thêm về vụ bắt bớ lớn này:
- Tuệ Sỹ, Lê
Mạnh Thát, Trí Hải là ba người con cưng của Ḥa Thượng Thích Trí
Thủ. Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát bị bắt ở chùa Già Lam, Phú Nhuận. Cô Trí
Hải đang lập một tịnh xá ở trên Hố Nai, dùng làm nơi cư trú, tu hành
cho những tăng ni không có tên trong sổ hộ khẩu của chùa nào. Công
an đi xe đến tận nơi mời Trí Hải về Sài G̣n. Buổi sáng Ḥa Thượng
Thích Trí Thủ được mời đến trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc., ḥa thượng được
nghe một cuộn băng ghi lời cung khai của một tăng sinh Già Lam bị
bắt v́ tội phản động. Tăng sinh này khai Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ni Cô
Trí Hải là những người trong ban lănh đạo tổ chức phản động. Nghe
nói tổ chức này lớn lắm, dự định lập chiến khu, gây bạo động trong
thành phố, có súng. Khi trở về chùa Già Lam, công an đă đến bắt Tuệ
Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ḥa Thượng Trí Thủ ứa nước mắt.
Vài ngày sau
nữa anh Đính cho tôi biết Ḥa Thượng Thích Trí Thủ, Pháp Chủ Phật
Giáo Việt Nam, đă tạ thế. Tại họa dồn dập đến với những Phật tử. Đấy
là tháng Ba năm 1984. T́nh h́nh của tôi cũng đen tối không kém.
Nhiều sự kiện xẩy ra cho tôi thấy là xe bông công an thành Hồ lại
sắp sửa đến tận nhà đưa tôi đi lần nữa.
Tháng Giêng năm
1984 có tin nói về một đài phát thanh chống Cộng mới được phát sóng.
Một số người ở miền Trung t́nh cờ bắt được băng tần của đài này. Tin
ấy truyền về Sài G̣n. Giữa tháng Hai anh Đính và tôi nghe được đài
này. Đây là Tiếng Nói của Đài Phát Thanh Kháng Chiến Mặt Trận Phục
Quốc Hoàng Cơ Minh.
1984-1999...
Mười lăm năm trôi qua thật nặng nề mà cũng thật nhanh. Đài Phát
Thanh Kháng Chiến năm ấy phát thanh năm lần một ngày, mỗi lần một
giờ. Đài yếu, rất khó bắt. Người nào có duyên với đài th́ may tay có
lời, bắt được tiếng nói ngay bất kể máy thu thanh xấu, rệu ră, lăo
liệt, nhiều người có máy tốt ṃ đài cả nửa giờ vẫn không ra. Một giờ
phát thanh quá dài. Đài Kháng Chiến phát thanh bằng băng thâu sẵn,
ba bốn ngày mới thay một băng, tin tức không có, gần như phát toàn
những bài viết đả kích cộng sản. Vợ chồng tôi phấn khởi t́m nghe đài,
chúng tôi xúc động khi nghe nhạc hiệu của đài, bài "Việt Nam Minh
Châu Trời Đông" - nhạc, lời ca thật hay nhưng chúng tôi đă lăng quên
cùng năm tháng - chúng tôi muốn đứng tim khi nghe Thái Thanh hát bài
"Quê Em... Quê em miền trung du... Đồng quê lúa xanh rờn... Giặc
tràn lên cướp phá... Anh về quê cũ, đi diệt thù giữ quê... Giặc tan
đón em về..."
Năm ấy Thái
Thanh c̣n sống ở Sài G̣n. Người ở đây nhưng tiếng hát của người lại
ở một nơi nào xa lắm vọng về. Nghe tiế ng hát Thái Thanh trên làn
sóng Đài Phát Thanh Kháng Chiến tôi nghĩ đến những cái gọi là giả
chân, chân giả của cơi đời này. Rơ ràng là tiếng hát của Thái Thanh
nhưng lúc đó Thái Thanh đâu có hát.
Một tối lúc 11
giờ đêm, tôi mở nghe đài Kháng Chiến. Cái radio Sony mười lăm, mười
sáu tuổi đời - nó đến với tôi khoảng năm 1966, 1967 - nằm bên tôi
trên căn gác nhỏ, nhưng Alice nằm t́nh tang trên cái vơng treo ở
dưới nhà lại nghe được tiếng nó rơ hơn tôi. Nguyên nhân là hệ thống
truyền âm trong căn nhà nhỏ của chúng tôi hết sức ly kỳ. Đêm ấy vợ
chồng tôi cùng nghe một bài b́nh luận viết về các văn nghệ sĩ Quốc
Gia Việt Nam Cộng Ḥa. Đại ư của bài này là trước 1975 văn nghệ sĩ
miền Nam có cái lỗi là đă không tích cực chống Cộng, nhưng sau 1975
văn nghệ sĩ miền Nam có cái hay là không một người nào cộng tác với
Việt Cộng.
Và đây là
nguyên văn một lời trong bài b́nh luận ấy tôi nghe và nhớ măi:
- ...Trong năm
1983 chúng ta đă được đọc văn thơ chống Cộng của Hoàng Hải Thủy,
Hoàng Cầm, Nguyễn Chí Thiện...
Tôi bồi hồi xúc
động với những cảm giác vui lo. Tôi được kể tên trước Hoàng Cầm, thi
sĩ tôi rất ái mộ, văn nghệ sĩ đàn anh của tôi. Hết giờ phát thanh
tôi lọ mọ đi xuống gác, nói với vợ tôi:
- Em nghe rơ
đài nói đến tên anh không? Chắc chúng nó phải bắt anh thôi, chúng nó
không để anh yên đâu...
*
Lê Mạnh Thát,
Tuệ Sỹ, Ni Cô Trí Hải bị bắt ngày 30 tháng Ba, 1984. Chừng một tuần
sau Ḥa Thượng Trí Thủ viên tịch. Hai giờ sáng rạng ngày mùng 2
tháng 5, 1984 xe bông của Sở Công An Thành Hồ lại đến cửa nhà tôi
rước tôi đi.
Tôi trở lại cái
gọi là Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, nơi sáu năm trước tôi đă
sống hai năm và đă thoát ra. Trở vô lần này tôi lại vào biệt giam
Khu C Một. Như Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai, tôi như Thúy Kiều lần
thứ hai nh́n thấy ảnh Ông Thần Mày Trắng. Lần trước tôi nằm biệt
giam số 6, rồi pḥng tập thể số 7, lần này tôi nằm biệt giam số 10,
rồi pḥng tập thể số 6 Khu C Một.
Vào pḥng tập
thể số 6 tôi được xếp nằm cạnh một thanh niên trạc ngoài ba mươi
tuổi. Chú gọi tôi là bác, tôi gọi chú là chú. Chúng tôi làm quen.
Khi nghe chú nói chú là tu sĩ chùa Già Lam, bị bắt v́ tội phản động,
tôi vội hỏi tên chú là ǵ. Anh Đính cho tôi biết tên người tăng sinh
Già Lam cung khai. Khi biết chú không phải là người tăng sinh đó tôi
nói cho chú biết tin Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ni Cô Trí Hải đă bị bắt
và Ḥa Thượng Trí Thủ đă qua đời.
Chú lờ mờ biết
tin ba tu sĩ mới bị bắt nhưng chưa biết tin Ḥa Thượng Pháp Chủ đă
viên tịch. Chú cho tôi biết chú và chừng hai mươi người trong nhóm
chú bị bắt đă ba năm. Năm đầu chú bị giam ở đây, Số 4 Phan Đăng Lưu,
rồi chú và các bạn trong ban tổ chức bị chuyển sang Chí Ḥa sống hai
năm, chú và vài người trong nhóm mới bị đưa từ Chí Ḥa trở lại đây
để tái thẩm vấn. Nghe tôi nói linh tinh về những chuyện Phật giáo,
Phật tử, thượng tọa, ḥa thượng, chú hỏi:
- Bác không
phải Phật tử sao bác biết những chuyện đó?
- Ông Cao Hữu
Đính cho tôi biết - Tôi trả lời - Tôi gập ông Đính gần như mỗi ngày.
Qua chú tôi
được biết một số tu sĩ Phật giáo và Phật tử liên kết với một số tín
hữu Thiên Chúa giáo - trong số này có nhiều người ở Hố Nai - thành
lập một tổ chức chống Cộng. Nhiều người bị bắt từ ba năm trước nhưng
họ không chịu khai ra những người lănh đạo họ. V́ họ không chịu khai
nên họ cứ bị giam măi. Người tăng sinh bị giam đến ba năm trong sà-lim
ở Chí Ḥa quá khổ cực - suốt ngày đêm ở trần, quần sà-lỏn, chịu muỗi
cắn, đi tiểu, đi cầu vào cái sô để bên ḿnh, suốt ngày đêm bị c̣ng
chân vào cây sắt, bẩy ngày mới được tắm một lần, ăn cơm với muối,
v.v... - chịu không nổi đă phải cung khai. Lời khai của tăng sinh
đáng thương này được thu vào băng và Ḥa Thượng Trí Thủ được mời đến
nghe cuộn băng này. Do đó Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ni Cô Trí Hải và
Thượng Tọa Đức Nhuận bị bắt.
Người tu sĩ Già
Lam trẻ tuổi sống thân thiết với tôi bẩy, tám tháng trời trong Pḥng
Tù số 6 sinh quán ở Thừa Thiên, thuộc một gia đ́nh Phật tử thuần
thành. Ông thân của chú hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
ông cậu ruột của chú trụ tŕ một ngôi chùa ở Thừa Thiên. Chủ kể tôi
nghe lúc nhỏ chú tu trong chùa của ông cậu, chú bất măn khi thấy bà
mẹ chú lên thăm chùa bị ông cậu chú bắt làm nhiều việc quá nặng nhọc
cho nhà chùa. Chú có tâm hồn văn nghệ, thích thơ và làm thơ khá hay.
Rất tiếc tôi không nhớ bài thơ nào của chú. Chú tặng tôi hai chữ "Tuệ
Nghiệp," tôi tặng chú câu thơ:
- Đă tu c̣n sợ
chi tù
Chữ tù liền với
chữ tu một vần.
Mỗi tháng người
tù được nhận thực phẩm gia đ́nh gửi vào tiếp tế một lần. Đồ nuôi của
tôi nghèo, ăn được hai ba ngày là hết, chú tu sĩ cho tôi ăn đồ chay
của chú. Chú khéo tay, mượn dao của anh em xắt dưa leo, trộn chanh
và muối mè, làm gỏi. Tù nhân không được dùng dao, đũa; chén bát,
muỗng ăn toàn bằng nhựa, nhưng pḥng tù nào cũng giấu được một hai
miếng kim khí mài trên nền xi măng làm dao. Nhờ chú tôi được ăn món
gỏi vỏ chuối. Chú lấy vỏ chuối xứ treo lên, phơi khô, ngâm nước cho
bớt chất đắng, xé nhỏ ra từng sợi, vắt chanh, nêm bằng muối đậu, ăn
cho có chất sơ. Chú kể ngày xưa các ông quan triều đ́nh Huế lên chùa
chơi với ông cậu của chú thường xin nhà chùa cho ăn món mít non kho.
Cái gọi là Trại
Tạm Giam số 4 Phan Đăng Lưu - đường Chi Lăng của ta xưa, canh Ṭa
Tỉnh Trưởng Gia Định cũng của ta ngày xưa - là trung tâm thẩm vấn
của Sở Công An Thành Hồ. Gần như tất cả những người dân Sài G̣n bị
bắt đều bị đưa vào đây chịu thẩm vấn. Sau khi xong phần thẩm vấn,
chừng một năm sau, người tù sang Nhà Tù Lớn Chí Ḥa chờ ra ṭa hoặc
đi trại lao động cải tạo. Khoảng tháng Ba năm 1985 chú bạn tù của
tôi rời Số 4 Phan Đăng Lưu để trở lại Chí Ḥa. Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát,
Ni Cô Trí Hải cùng sang Chí Ḥa trong tháng này. Tháng Năm 1985 đến
lượt tôi đặt chân xuống Thánh Địa Chí Ḥa.
Buổi trưa, tôi
tay ôm, tay xách hành lư, mùng mền, chiếu, theo các bạn tù đi cùng
chuyến xe bước vào trung tâm thánh địa. Đứng trong sân tôi ngửng
nh́n. Chỉ thấy song sắt và song sắt. Tôi nghĩ: Người Sài G̣n bị bắt
đi tù nếu chưa vào khám lớn Chí Ḥa th́ vẫn chưa biết tù đầy là ǵ.
Nh́n lên những tầng lầu cao vây tṛn tôi bồi hồi tự nhủ: "Đây là Chí
Ḥa. Với người tù Sài G̣n th́ đây như là Đại Học Harvard của sinh
viên Mỹ, Eaton của sinh viên Anh, Sorbone của sinh viên Pháp..." Tâm
trạng tôi lúc ấy như ḍng suối cuồn cuộn trôi. Tôi sợ hăi và tôi
kiêu hănh. Sống dưới chế độ xă hội chủ nghĩa đi tù v́ tội chống đối
chế độ là một thành tích tốt. Trong hai mươi năm, từ 1954 đến 1975,
tôi đă sống, đă hưởng thụ, đă để cho những người khác chết, để cho
vợ con những người khác khóc. Bằng những năm tháng tù đầy này tôi
trả một phần nào cái nợ đượcyên b́nh, được đóng góp phần bổn phận
của tôi trong công cuộc chống Cộng chung của dân tộc. Tôi chỉ là một
người tù tầm thường. Nhiều người tù như tôi đă chết cô đơn, tức tưởi
trong nhà tù lớn nhất Đông Dương này. Rất có thể tôi sẽ không c̣n
sống để đi ra khỏi những ṿng tường thành này, nhưng nếu ngày nào
trở về được tôi sẽ thầm kiêu hănh v́ tôi đă có những ngày đêm sống
trong Nhà Tù Lớn Chí Ḥa.
Sang Chí Ḥa,
chú tu sĩ Già Lam bạn tôi ở trên tầng gác thứ tư khu ED, tôi ở Pḥng
10 Tầng Hai khu này cùng với Trí Siêu Lê Mạnh Thát. Ba năm sau - năm
1987 - nhóm Già Lam và nhóm bị gọi là bọn Biệt Kích Cầm Bút chúng
tôi mới "được" ra ṭa. Có án rồi, chú tu sĩ và tôi gập lại nhau
trong pḥng 20 Khu FG Nhà Tù Chí Ḥa. Chúng tôi nằm đây chờ đi trại
lao động cải tạo. Nhóm Già Lam đi khỏi Chí Ḥa trước nhóm chúng tôi.
Duyên nợ tôi với chú chưa hết. Chú lên trại Z 30 A, Xuân Lộc, Đồng
Nai. Sau chú chừng hai tháng một buổi trưa mùa xuân xe tù cũng đưa
tôi đến Z 30 A. Ở đây tôi gập lại tất cả những người trong nhóm Già
Lam.
*
Thời gian
qua... Với ngày như lá, tháng như mây. Thơ Thanh Nam. Những ngày tù
đầy gian khổ rồi cũng trôi qua. Anh em chúng tôi bị bắt tám người,
hai người chết trong tù. Ở Z 30 A được chừng nửa năm chú tu sĩ bạn
tôi bị đưa ra một trại lao cải ở miền Trung. Tôi đến Z 30 A vào một
buổi trưa mùa xuân, tôi rời Z 30 A cũng vào một buổi trưa mùa xuân,
tết nguyên đán mới qua chừng mười mấy ngày.
Người tù tiễn
chân tôi ra đến cổng trại Z 30 A là Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát.
Trước sau tôi đă sống gần Trí Siêu đến năm năm trời. Trở về mái nhà
xưa đầu năm 1990, năm 1991 được tin chú tu sĩ Già Lam đă hết án, tôi
đến chùa Già Lam thăm chú. Nay tôi gọi chú là thầy, chú vẫn gọi tôi
là bác. Chú giữ pḥng Triển Lăm Văn Hóa - Thủ Công phẩm của chùa.
Công việc thật thích hợp với chú.
Năm 1994 tôi
sang Hoa Kỳ. Cuối năm 1998 hai người tù Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương, Trí
Siêu Lê Mạnh Thát ra khỏi tù. Bị án 20 năm, đến năm 2004 mới hết án,
hai thầy trở về chùa sớm được 5 năm. Tôi nh́n thấy ảnh Trí Siêu bận
đồ bà ba trắng, đi với Tuệ Sỹ, trên đường đi vào chùa Già Lam, đăng
trên báo.
Ngày mùa hạ
nóng ở Rừng Phong... Nhớ những ngày tù đầy mười mấy năm trước ở quê
nhà, nhớ những người bạn tù từng thương yêu, an ủi tôi, nâng đỡ tôi
trong cơn hoạn nạn, tôi viết bài này. Tôi hy vọng bài viết của tôi
sẽ đến tay những người bạn tù của tôi ở quê nhà.
Hoàng
Hải Thủy |