Thử đọc lại
truyền thuyết Hùng Vương (1):
Quốc tổ mang
hai gịng máu
Nguyên Nguyên
Bài này thử
quan sát lại truyền thuyết ‘Con rồng cháu tiên’ dưới một góc độ
tương đối mới, dựa vào những sự kiện, hiểu biết nửa cũ nửa mới. Đặc
biệt, những sự kiện xưa cũ vẫn thường dễ quên, bỏ sót hoặc lướt qua
trong quá khứ.
Truyền thuyết
con rồng cháu tiên của dân Việt, hay sự tích mối t́nh duyên giữa Âu
Cơ và Lạc Long Quân là một câu chuyện đă trở thành cổ sử, được
truyền tụng trên dưới 600 năm. Bởi vấn đề quá rộng và hết sức phức
tạp, chúng tôi đă cố gắng tách rời ra nhau thành từng đề tài một,
nhỏ và giới hạn. Bài này, viết tiếp theo ngay bài '18 đời vua Hùng:
Một ư niệm về liên tục', sẽ viết một cách khái quát về truyền thuyết
vua Hùng, vị quốc tổ mang hai gịng máu Việt và Thái, và sẽ tránh đi
vào chi tiết các vấn đề liên hệ tương cận, như nước Xích Quỷ, nước
Văn Lang, cũng như bờ cơi ranh giới của các ‘nước’ này. Và lại chia
thành 2 bài (phần):
Bài 1: Dữ kiện
của truyền thuyết: Đối chiếu với ‘truyện cổ’ của người Mường
Bài 2: Bối cảnh
của truyền thuyết: Nước Sở của thời Xuân Thu Chiến Quốc.
1. NHỮNG ĐIỂM
QUAN TRỌNG DỄ QUÊN
Viết về Họ Hồng
Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:
'Cứ theo tục
truyền th́ Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú
phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng
tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi
lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục
làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cơi
nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam), phía Nam
giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên),
phía Đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương
Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quăng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây
Lịch?) và lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lăm, nối
ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc
Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một
trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''Ta là ḍng dơi
Long-quân, nhà ngươi ḍng dơi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không
được. Nay được trăm đứa con th́ nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, c̣n 50
ta đem xuống bể Nam Hải.''
Sau đó
vẫn theo 'truyền thuyết' Lạc Long Quân phong cho người con trai
trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Hùng Vương cai trị
nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, th́ bị Thục
Phán, từ biên cương phía Bắc, đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là
An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công
Nguyên (TCN).
Truyền
thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân, rồi 18 đời Hùng Vương, tự nhiên trở
thành một thứ 'quốc sử' chính thống cũng bởi truyền thuyết đă được
đề cập đến trong hai bộ sử có tầm vóc, có thể nói lớn nhất, của nước
Nam. Thứ nhất là bộ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, và thứ
hai, bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đầu tiên viết bằng chữ
quốc ngữ.
Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư [2], xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh
Tôn, chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân,
rồi Hùng Vương vào sử sách nước Việt. Trước thời Đại Việt Sử Kư Toàn
Thư, có 2 bộ sử nữa, nhưng hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết
Lạc Long Quân. Đó là Đại Việt Sử Kư của Lê Văn Hưu, xuất hiện năm
1272, và Đại Việt Sử Lược [3] với tác giả khuyết danh, ra đời trong
khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy
thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên xử dụng khi soạn
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Đại Việt Sử Lược thất lạc nhiều năm, nhưng
về sau được một vị quan nhà Thanh t́m được ở một thư khố bên Tàu.
Chuyện
tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như: Phù Đổng
Thiên Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh,..., thật ra được Ngô Sĩ Liên nhập
vào bộ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, từ những sách thuật chuyện u linh
hoang đường như: 'Việt Điện U Linh Tập', và 'Lĩnh Nam Chích Quái',
xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14. Đặc biệt 'Lĩnh Nam Chích Quái', do
tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu
vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở
ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (770-221 TCN).
Những
ai đă đọc qua một hai chương sách đầu của bộ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư
đều để ư Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối 'chương' về thời Hồng
Bàng [2], bày tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ: 'Cái thuyết nói
50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế'. C̣n Sơn Tinh
Thủy Tinh th́ ông cho: 'rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không
có sách, hăy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi'.
Ngô Sĩ
Liên đă đoán rất đúng: Khi 'cóp' các truyền tích từ 'Việt Điện U
Linh' hoặc 'Lĩnh Nam Chích Quái' vào cổ sử, ông đă gieo nghi ngờ và
thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho măi đến ngày nay. Mặc dù
đă căn dặn kỹ: 'tin sách chẳng bằng không có sách' (tận tín thư bất
như vô thư) [2].
Trước
khi đi vào việc quan sát trở lại nội dung và ư nghĩa của các chi
tiết câu chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân, chúng ta hăy nh́n lại một
vài điểm quan trọng, sơ khởi, vẫn thường dễ bị quên lăng, hoặc thiếu
sót trong quá khứ.
(i)
Vua chúa thời huyền sử và biểu tượng
Khi
nghiên cứu về cổ sử, các sử gia cũng như nhà khảo cứu từ Đông sang
Tây vẫn thường xuyên dựa trên những chuyện cổ tích và truyền thuyết
trong dạng trinh nguyên (thí dụ: xem [5]). Trinh nguyên, được nhấn
mạnh ở đây để phân biệt với những bản được thêu dệt, thêm mắm thêm
muối. Thí dụ: dạng thêm mắm của chuyện Lạc Long Quân có thể như thế
này: 'Sau khi chia tay, Lạc Long Quân mới dặn đám con đi theo mẹ,
tức Âu Cơ, khi có chuyện ǵ cứ lên núi hú lên 9 tiếng, Lạc Long
Quân sẽ bay về cứu cấp.' Hoặc đưa ra đầy đủ danh sách của 18 vị
Hùng Vương, nhưng luôn luôn quên rằng các tên vua Hùng viết toàn
bằng chữ Hán, thí dụ: Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương, ..., y như thể
nước Văn Lang là một trong mấy trăm nước chư hầu nhà Châu ở miền
phía Bắc sông Dương Tử vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu. Và tự
đưa truyền thuyết vào một ngơ cụt của mâu thuẫn: Hùng Vương, bởi
xưng vương hiệu bằng tiếng Hoa, chắc nói với dân Lạc bản địa toàn
bằng tiếng Hoa, trước các sắc tộc Hoa Nam, và trước khi người Hán
mang tiếng Hoa đến xứ đó, cả ngàn năm.
Thêm
vào đó, rất ít khi chúng ta nh́n vào những nhân vật ở thời huyền sử
như một biểu tượng của thời đại, chứ không phải…người thật. Xin viện
dẫn thí dụ cụ thể bằng cách sơ lược các huyền sử người Hoa.
Người Tàu ban đầu tự xưng nước họ là Trung thổ, Trung
nguyên, rồi Trung quốc. Nước ở chính giữa mặt đất. Khi nền văn minh
của họ đă tiến lên chế độ phong kiến đế quốc, bất cứ cái ǵ ở ngoài
biên cương họ cũng đều cho man di mọi rợ hết. Phía Bắc có Bắc địch,
Đông th́ Đông Di, Nam gọi Nam man, và Tây có Tây Nhung. Họ cho họ
mạng Thổ (theo thuyết Ngũ Hành), bởi ở miền Trung thổ, màu vàng theo
sát với màu đất loess (có người dịch: hoàng thổ), tạo nên bởi cát
phù sa do gió và băo táp tải đến. Họ sống bên bờ sông có nước màu
vàng (của đất loess) - nên gọi sông đó luôn là sông vàng, tức Hoàng
Hà. Một trong 3 ông vua đầu tiên của họ mang tên Hoàng Đế, với nghĩa:
vua của đất vàng. Từ đó, Tần Thủy Hoàng Đế, mới 'chôm' luôn để đặt
cho tước hiệu của ông, mang nghĩa ông Hoàng Đế nguyên thủy của nhà
Tần, tức Ch'in. Người Tây phương phiên âm Tần, đọc Ch'in, thành ra
Chine, rồi China, để chỉ nước Tàu.
Truyền
thuyết dựng nước của Tàu thường được kể như sau.
Trước
hết là Bàn Cổ. Bàn Cổ từ trong trứng nhảy ra đầu đội trời chân đạp
đất, đến 18 ngàn năm, rồi chết. Thân thể và tứ chi, lông tóc, mắt
mũi của Bàn Cổ biến thành muôn vật trong vũ trụ, với trung tâm là
nước...Tàu.
Sau
Bàn Cổ ít lâu đến thời Tam Hoàng và Ngũ Đế. Có nhiều giả thiết khác
nhau về tên của 3 vị Hoàng với 5 vị Đế đó. Tam Hoàng thường kể đến
nhất gồm có:
Hoàng Đế, Phục
Hi, và Thần Nông. C̣n những vị Ngũ Đế quen thuộc nhất bao gồm: bà Nữ
Oa (đội đá vá trời), vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun). Nghiêu truyền
ngôi cho Thuấn. Thuấn truyền ngôi cho Yũ (Vũ). Yũ thiết lập nên nhà
Hạ, triều đại đầu tiên của Trung Hoa. Nhà Hạ truyền đến 18 đời th́
bị mất về tay Thành Thang, dựng nên nhà Thương (Shang), cũng c̣n gọi
Ân (Yin). Theo thứ tự từ đầu, chỉ có Nghiêu và Thuấn là có vẻ bán
huyền thoại [6], tức có thể là ‘người’ có thật. Cũng có thể không
phải người. C̣n mấy vị Tam Hoàng, Ngũ Đế th́ hoàn toàn mang đầy tính
huyền thoại, dùng làm biểu tượng cho thời đại, cho nền văn minh, có
vẻ đúng hơn. Nhà Hạ có thật hay không, cũng không chắc. Nhưng nhà
Thương đă được chứng minh là có thật, bằng các tài liệu khai quật
của ngành khảo cổ. Tuy nhiên các niên đại cho đến nay vẫn chưa có
thống nhất. Bởi sử sách chỉ được viết rầm rộ sau khi nhà Hán của Liu
Bang nhất thống được nước Tàu vào năm 206 TCN. Đại khái, nhà Thương
bắt đầu khoảng năm 1700 TCN và kết thúc vào khoảng 1100 TCN. Tây
Châu: 1100-771 TCN và Đông Châu: 770-221 TCN. Và nhà Tần ở vào giữa
Đông Châu và Hán: 221-207 TCN.
Tam
Hoàng với Ngũ Đế hoàn toàn mang tính huyền thoại. Nh́n một cách khoa
học và khách quan hơn, các vị này phải được xem như biểu tượng cho
thời đại, cho nền văn minh. Biểu tượng cho một khối dân tộc, hoặc
nền văn minh và tŕnh độ làm lụng sinh sống của dân tộc đó, ở vào
thời đó. Thí dụ, Phục Hi đặt ra bát quái, Kinh Dịch. Một chuyện
hoang đường, nhưng có thể cho biết vào thời đó người Hoa bắt đầu
biết sắp xếp đời sống tâm linh, và tư tưởng của họ cho ra hệ thống,
cho có bài bản. Thần Nông là ông vua dạy dân chúng về nghề nông và
trồng dược thảo, chữa bệnh. Thần Nông cũng là người khám phá ra trà.
Biểu tượng thời đại Hoa chủng tiến lên canh nông như một phương tiện
kinh tế chính. 'Hoàng Đế' rất có thể được dùng để chỉ một ư niệm về
quyền lực của xă hội vừa mới được h́nh thành. Hoàng đế cũng có thể
chỉ thủ lĩnh của bộ lạc nguyên thủy tại đất màu vàng. Hay tù trưởng
liên minh của một số bộ lạc. Tên đầu tiên của nước Tàu có thể là đất
Hoàng. Và dân Hoa là dân ở đất màu Vàng (Hoàng).
Cũng ở dạng
biểu tượng, rất có thể bà Nữ Oa thuở ban đầu đứng đầu danh sách.
Nhất là danh sách về Tam Hoàng. Bởi bà tượng trưng cho xă hội theo
Mẫu hệ. Nhưng về sau, khi xă hội đă biến sang Phụ hệ rồi, người Hoa
xê dịch vị trí nguyên thủy của bà xuống dưới, rồi qua lại lung tung.
Khác với xă hội Nhật, Thái Dương thần nữ vẫn giữ vững vị trí tổ Mẫu
dân Nhật, bất chấp thay đổi từ Mẫu hệ sang Phụ hệ. Nhiều xă hội c̣n
theo mẫu hệ ngày nay vẫn c̣n dùng một vị nữ thần làm thánh tổ cho xă
hội hoặc cho một ngành canh nông kinh tế nào đó. Như bà Thần Lúa của
dân Mạ ở Việt Nam theo trích dẫn từ [7], như sau:
'Uur Yaang Koe,
bà Thần Luá xuất hiện dưới dạng h́nh của chim Sum Tôk vàng tươi và
chim Sum Tii đỏ rực... Chúng đậu trên cây đa Jrii và trên dây leo
Klac. Chúng ỉa cứt xuống, cứt hoá thành lúa...
... Rồi khi
trồng hột lúa, con người gặt về trăm hột. Bà Thần Lúa sống nơi đất
có mặt trời ấm áp sưởi cho hột lúa, nơi có mưa trời làm mát thân lúa,
nơi có mưa lớn tràn suối tràn hồ...' (Dân ca Mạ) [7].
(ii) Mâu thuẫn dễ quên trong truyền tích Hùng Vương
Thời
Thần Nông trước thời nhà Thương, nhà Châu cũng cả mấy ngàn năm. Ngay
đến thời nhà Thương, Hoa chủng nguyên thủy chỉ tập trung ở một hai
tỉnh ở bên sông Hoàng Hà, như Thiểm Tây, phía Nam của Hà Bắc và Sơn
Tây, và phía Bắc của Hà Nam, ngày nay. Đất khác của người khác: Ngay
ở thời Xuân Thu (thế kỷ 8-5 trước Công Nguyên), chỉ nội ở miền Hoa
Bắc có đến trên dưới 1000 'nước' lớn nhỏ khác nhau [6]. Không hề có
chuyện tuần thú đi qua nước này nước kia như ở các đời sau. Tức Đế
Minh, nếu chỉ cháu 3 đời của Thần Nông, chưa thể có được một lănh
thổ lớn hơn 1 tỉnh hiện nay của nước Tàu. Không cách ǵ ông ta đi
tuần thú được tới phương Nam của sông Dương Tử. Ở phương Nam đó,
người ta hăy c̣n nói nhiều thứ tiếng Yueh (Việt) [17] khác với tiếng
Tàu. Như vậy Đế Minh chỉ có thể đi ‘tuần thú’ tuốt xuống phía Nam
của rặng Ngũ Lĩnh, nếu và chỉ nếu ông ta là người đồng chủng với các
bộ lạc ở khu vực đó. Không thể nào ông ta một người thuộc Hoa chủng
có thể xuyên rừng băng núi đi vào lănh thổ các chủng Yueh (Việt) như
vậy được. Bởi, như sẽ tŕnh bày trong bài tới, chủng Yueh [17] rất
man rợ (dưới mắt chủ quan ta đây của Hoa chủng), và ngôn ngữ hăy c̣n
bất đồng. Chủng Yueh ngay vào thời Xuân Thu Chiến Quốc hăy c̣n chiếm
địa bàn phía Nam sông Yương Tử và một số vùng ngay ở phiá Bắc lan
tới sông Hoàng Hà. Tiêu biểu nhất, là nước Sở, tức phần lớn Hồ Bắc
và Hồ Nam, và khu vực Động Đ́nh Hồ - được thành lập vào khoảng năm
1100 TCN.
Hai sự
kiện chưá nhiều mâu thuẫn vẫn thường bị bỏ sót:
Thứ
nhất: Tên hiệu của tổ tiên gần và ngay cả của Hùng Vương đều viết
theo chữ Hán ṛng.
Đặc
biệt, Kinh Dương Vương hoàn toàn một thứ tên hiệu thuần Hán, rất có
khả năng mang nghĩa vua của đất Kinh và Dương. Hai châu Kinh và
Dương chính là hai châu chính của nước Sở (sẽ đi vào chi tiết trong
bài 2). Các vương hiệu của Hùng Vương, theo ‘truyền thuyết’ cũng
hoàn toàn viết bằng chữ Hán: Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương,… trước
khi người Hán đến xứ đó trên dưới 2800 năm.
Bởi
‘Hùng Vương’ là một tên hiệu chữ Hán, chỉ có một trong hai chuyện đă
xảy ra:
MỘT:
Hùng Vương là người gốc Tàu, hay lai ‘Tàu’, không biết tiếng của dân
bản địa. Do Lạc Long Quân dẫn đến áp đặt làm ‘vua’ cai trị dân địa
phương. Như vậy Hùng Vương chỉ có thể một quan thái thú đầu tiên chứ
không thể nào là quốc tổ được. Không có huyết thống và DNA giống như
loại của dân địa phương. Truyền thuyết theo như ‘Việt Nam Sử Lược’,
khác với kiểu Mường, như sẽ tŕnh bày phía dưới, đặc biệt nhấn mạnh
100 con của Âu (Cơ) và Lạc (Long Quân) toàn là con trai. Như vậy
không có cách ǵ Hùng Vương đă trở thành thủy tổ của ḍng giống Lạc
Hồng hết. Chỉ có thể vua Hùng các đời sau, nếu vua thứ 1 và các vua
kế tiếp đều lấy dân bản địa làm vợ [8].
Về
việc ‘gốc Tàu hay lai Tàu’, rồi đây chúng ta sẽ thấy rơ, Hùng Vương
không có mang một giọt máu Tàu nào hết. Chỉ thuần chủng Yueh trong
khối ‘Bai Yue’ (tức Bách Việt). Đặc biệt, khối chủng Bách Việt có
hai chi lớn: Chi Âu Việt (tức Thái) và Lạc Việt (tức Việt Nam).
HAI:
Nếu Hùng Vương là người có gịng máu Lạc như họ của cha (Lạc Long
Quân), và có DNA giống y như dân bản địa, Hùng Vương không bao giờ
xưng hiệu là Hùng Vương cả. Bởi như vậy dân trong xứ sẽ không hiểu
đó là ǵ. Nhất là nếu kể năm 2879 TCN năm bắt đầu. Ngay lúc đó ở bên
Tàu chế độ phong kiến hăy chưa h́nh thành. Hoàn toàn không có chuyện
‘vương tước’ cùng các nước chư hầu. Chính vào lúc đó ở bên Tàu, lănh
thổ chỉ chừng 1-2 tỉnh bây giờ, người ta chưa hề biết đến những chức
tước như ‘vương hầu bá tử nam’.
Thứ
hai: Truyện tích theo bản Việt, dựa theo và xuất xứ từ bản Mường,
chú ư đến đám theo Lạc Long Quân. C̣n truyện Mường, chính là bản gốc,
chỉ chú ư đến bà Âu Cơ và đám con theo bà lên miền rừng núi.
Cả hai
bản đều nói lên sự chia tay giữa chồng Lạc Long Quân và vợ Âu Cơ,
rất giống nhiều vụ ly dị thời thế kỷ 21. Mỗi bên có quyền giữ phân
nửa con. Không bản nào nói rơ những ǵ xảy ra cho đám kia. Mẹ ai và
Cha ai nấy giữ, nấy thờ.
Đây
chính là điểm sơ suất trầm trọng nhất của giới khảo cứu Việt, kể cả
Ngô Sĩ Liên, người đầu tiên đă ‘cóp’ truyền tích người Mường vào sử
Việt, mà không để ư đến sự chia tay đó. Chỉ trừ B́nh Nguyên Lộc [4],
không một quyển sách nào từ xưa đến nay có trích dẫn bản Mường về
truyện cổ Âu Cơ, đầu tiên đă được dẫn trong quyển sách nghiên cứu về
xă hội và phong tục Mường của Jeanne Cuisinier [9] xuất bản thời
tiền chiến. Bản Mường cũng đă đề cập đến vụ chia tay đầy nước mắt đó.
Sơ
suất thứ nhất về danh xưng Hùng Vương, đă từng được bàn căi từ thời
tiền chiến [4]. Nhất là khi có xu hướng cho rằng lănh tụ của xứ Văn
lang đă được gọi Lạc Vương. Danh xưng ‘Lạc Vương’ này cũng lại một
danh xưng chỉ xuất hiện sau khi người Hán đến chiếm đóng và đô hộ
Giao Chỉ quận. Cũng là một thứ từ Hán ṛng, được đặt bởi người Tàu.
Bắt nguồn từ những khám phá đầu tiên của người Hán đối với tổ chức
xă hội Việt ở thời thượng cổ. Cũng có nghĩa vào lúc phát hiện được
h́nh thái tổ chức xă hội của Giao Chỉ thời chưa bị xâm chiếm, chưa
chắc đă chính xác, người Tàu không hề gọi đó là nước Văn Lang với
lănh tụ là Hùng Vương. Thật vậy, theo trích dẫn [4], tên Văn Lang và
Hùng Vương hoàn toàn vắng bóng trong tất cả thư tịch của Tàu thời
xưa. Danh xưng ‘Lạc Vương’ khởi xuất trước tiên từ một đoạn ngắn
thường được các sách trích dẫn, từ các bộ sách cổ như Thủy Kinh Chú,
Quảng Châu Kư, Giao Châu Ngoại Vực Kư (xem [4] hoặc [10]): ‘Khi xưa,
vào thời mà xứ Giao Chỉ chưa chia thành quận huyện, đất đó có ruộng
Lạc, nước lên xuống ở ruộng tùy thủy triều. Dân làm ruộng đó mà ăn.
V́ vậy gọi đó là dân Lạc. Lập ra Lạc Vương, Lạc hầu, Lạc tướng để
coi các quận huyện. Có nhiều Lạc tướng mang ấn đồng giải lụa xanh’.
Nhiều
tác giả từ đó thêu dệt thêm: Lạc hầu chỉ quan văn, và Lạc tướng chỉ
quan vơ. Chử văn Tần [11] có lẽ cũng cảm thấy có cái ǵ lấn cấn, nên
cho rằng các tác giả thời sau đă nh́n tổ chức xă hội cổ xưa với quan
điểm của chế độ phong kiến: phân biệt quan văn và quan vơ. Tức dùng
các thứ ngôn ngữ hoặc phân loại của đời sau gán ghép cho đời trước
[13]. Theo thiển ư và xin được nhấn mạnh, điểm lổng chổng và to tát
nhất chính ở danh xưng ‘Hùng Vương’, hoặc ngay cả ‘Lạc Vương’, đều
là những từ Hán ṛng. Không có chất ǵ nôm-na theo kiểu tiếng bản
địa trong đó hết. Nó được đặt nên có thể vài trăm năm sau khi người
Hán đă áp đặt nền đô hộ lên dân xứ đó.
Sơ
suất thứ hai về một kết cục tràn đầy nước mắt giữa nàng Âu và chàng
Lạc, bị bỏ sót hằng thế kỷ, có lẽ gây ra bởi thiếu thốn hiểu biết về
văn hoá người Mường, và không để ư đến truyện cổ Ngu Cơ được dẫn
trong quyển sách về Mường của Jeanne Cuisinier [9]. Gần đây sơ suất
này đă được Cung Đ́nh Thanh, trong một quyển biên khảo mới nhất [12]
thiên nặng về chủ thuyết cho rằng văn minh Á Châu xuất phát từ miệt
dưới chứ không phải ở Hoa Bắc, để ư đến và ‘hiệu đính’ với trích
dẫn các tài liệu ‘ngoại vi’ và không có nơi truyền tích nguyên trinh
của đồng bào Mường. Theo hiệu đính đó, hai nhóm con theo cha và theo
mẹ, trước khi chia tay đă nhất trí ‘bầu’ người con trưởng lên ngôi
vua, lấy hiệu Hùng Vương, và cai trị cả hai miền rừng núi và đồng
bằng ven biển.
Chử
văn Tần [11] và Cung Đ́nh Thanh [12] đă để ư đến cả hai điểm lổng
chổng nhất của truyền thuyết. Nhưng rất tiếc, lại lướt nhanh qua. Có
lẽ do ở một tiền đề cứng nhắc: thuyết Âu Cơ có đă lâu đời, và Âu Cơ
là một người có thật.
Sau
đây chúng ta hăy xem qua truyền thuyết nguyên trinh của người Mường
mà chính Ngô Sĩ Liên đă chép từ quyển ‘Lĩnh Nam Chích Quái’. Quyển
này lại ghi chép và biến đổi, truyện cổ tích người Mường từng được
truyền miệng qua nhiều năm trong chốn dân gian.
2. MỘT TRUYỆN
CỔ HAI TRUYỀN THUYẾT
Theo
quyển sách đồ sộ nhất về người Mường của Jeanne Cuisinier [9], người
Mường có rất nhiều truyện cổ tích và truyền thuyết. Hai truyền tích
lớn người Việt đă vay mượn thẳng từ nguồn Mường chính là chuyện Sơn
Tinh Thủy Tinh và bà Âu Cơ, mà người Mường phát âm theo kiểu Quảng
Đông: Ngu Kơ.
Truyền
tích bà Ngu Kơ của Mường được kể như sau [9]:
Ngày
xửa ngày xưa, có một nàng công chúa xứ Mường tên là Ngu Kơ, mang
tiền kiếp một con nai có đốm ngôi sao (cerf étoilé), cưới một ông
hoàng tử con byua Yịt tên Lương Wong, gốc vốn loài cá. Ít lâu sau,
Ngu Kơ sinh được 50 con gái và 50 con trai. Nhưng rồi cơm không lành
canh chẳng ngọt. Từ ở chỗ con cái không đủ đồ ăn thức uống, Ngu Cơ
và Lương Wong ưa căi vă với nhau. Cuối cùng, Ngu Kơ và Lương Wong
đành phải chia tay, đôi ngả đôi ta. Ngu Kơ dẫn 50 người con lên miền
rừng núi, và Lương Wong dẫn 50 người con kia xuôi về miền sông biển.
Ngu Kơ và đám con tạo nên những ḍng vua chúa mặc áo màu đen, và
Lương Wong, các gia đ́nh vua mặc áo màu vàng.
Dân
Mường thờ kính bà Ngu Kơ như mẫu tổ và thường làm cờ có h́nh con nai
đốm sao, như một vật tổ để tưởng nhớ đến bà.
So
sánh truyền thuyết Ngu Kơ của Mường với Âu Cơ của Việt, ta có thể
thấy:
Cả hai
truyền thuyết đều kết cục bằng một sự chia tay. Một đám 50 người con
theo papa Lạc xuôi về miền sông biển đồng bằng. Năm mươi người con
kia đi theo Mẹ Ngu Cơ (hay Âu Cơ) đi lên miền rừng núi. Nhưng cần để
ư ngay, bản Việt chỉ ṛng con trai, không có con gái. Bản Mường có
50 trai, 50 gái.
(i) Ngu Kơ và Âu Cơ
Ngu Kơ’ là lối phát âm của người Mường, và cũng của tiếng
Quảng Đông, cho ‘Âu Cơ’ theo tiếng Việt [14].
Ṿng đai ở biên giới Hoa-Việt kéo từ
Vân Nam qua Quí Châu, đến Quảng Đông, vào thuở cổ thời chính là địa
bàn của chủng Việt, chi Thái. Hai nước oai hùng nhất ở vùng này
chính là Tây Âu và Nam Chiếu. Hoàn toàn do người Thái làm chủ.
Qua một vài bài khác, chúng ta sẽ thấy người Mường chính là
hậu duệ của người Tây Âu. Và
dân Tây Âu rất có khả năng được bổ sung trong ṿng thiên niên kỷ
trước Công Nguyên bởi dân Thục và dân Sở (xem bản đồ). Cả Thục (tức
Tứ Xuyên bây giờ), lẫn Sở (Hồ Bắc & Hồ Nam) khi xưa do chủng Yueh (Việt)
làm chủ. Trong đó có chi Âu (= Thái) và chi Lạc (= Việt), và một số
các nhóm người dân tộc khác. Đặc biệt dân Âu làm chủ lực, tức thành
phần ṇng cốt đa số. Nhưng vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên,
cả Thục lẫn Sở đều bị nước Tần, thuộc chủng Hoa (Tàu), thôn tính.
Khi mất nước dân Thục và Sở đều phải chạy riết về phía Nam, rồi bổ
sung vào dân bản địa có sẵn tại Nam Chiếu và Tây Âu (xem [18] & [19]
cùng những tra cứu từ internet [20]).
Nam
Chiếu, trước đó mang tên Điền Việt, rồi Đại Lư (với ngón Nhất Dương
Chỉ trong truyện Kim Dung), và hiện nay chính là tỉnh Vân Nam. Nam
Chiếu đă từng chống trả bước Nam tiến của người Hán, măi cho đến
khoảng thế kỷ 13, th́ bị quân Mông Cổ (nhà Nguyên) thôn tính. Nhà
Nguyên sau đó đưa di dân từ miệt Bắc xuống định cư ở Nam Chiếu (thí
dụ: xem [6]). Chính ở vào thời điểm này, người Nam Chiếu và các sắc
tộc ở miền biên giới, dưới sức ép của việc t́m lănh thổ riêng để
sinh sống, đă tràn sang An Nam và khu vực Lào và Thái Lan ngày nay,
tạo dựng nên nước Xiêm và nước Lào. Nhiều khối người dân tộc ở Bắc
phần hiện nay cũng từ phía Bắc tràn qua vào thời đó. Đọc lịch sử
nước Thái Lan, ngay cả trên internet, chúng ta sẽ thấy người Thái
Lan nh́n nhận dân họ gốc ở miền Hoa Nam, đặc biệt Nam Chiếu. Và
vương quốc Thái đầu tiên mang tên Sukhothai được thành lập vào năm
1238 sau Công Nguyên [21].
Tây Âu
cũng giống như nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến quốc, đă là một vùng
đất của chủng Thái, có một quá khứ hết sức oai hùng. Đó là cuộc
chiến chống Tần bằng lối du kích kéo dài suốt 3 năm [16]. Đây là một
chủng Việt rất kiên cường, mà sử Việt rất thường hay nhầm lẫn là dân
Việt Nam, măi cho đến thời hiện tại (thí dụ [11]).
Nói
chung, nếu nh́n vào bản đồ ta có thể thấy địa bàn chủng Thái (tức Âu)
nằm ở miền Trung nước Tàu, trong khoảng Hồ Bắc (phía Bắc sông Dương
Tử và Hồ Động Đ́nh), và kéo xuống đến biên giới Hoa-Việt ngày nay.
Chủng Việt (tức Lạc) lại chiếm dăi đất ven biển ở phía Đông nước Tàu.
Chạy từ khu vực tỉnh Sơn Đông xuống đến tận Phúc Kiến (tức nước Mân
Việt hồi xưa).
Nổi
tiếng nhất trong chi Âu là các nước: Sở, Tây Âu và Nam Chiếu. Sở ban
đầu là một nước bao gồm toàn các thứ rợ (đặc biệt chủng Yueh). Nhưng
chỉ vài trăm năm sau, trở nên Hoa hoá, hùng cường và thật … văn minh.
Sở Trang Vương chính là một trong 5 vị Bá hạng nhất vào cuối thời
Xuân Thu.
Lừng
danh nhất trong chi Lạc chính là nước Ngô, nước Việt (Câu Tiễn) và
nhóm du mục nay đây mai đó, gọi Bách Bộc hay Bộc Việt, ngày xưa xuất
phát từ miền Sơn Đông, địa bàn của rợ Đông Yi hay Lai Yi (xem [4] và
[22]). Nước Việt dưới thời Câu Tiễn cũng là một nước oai hùng nằm ở
địa bàn Chiết Giang - Thượng Hải ngày nay. Việt thôn tính Ngô dưới
thời Ngô Phù Sai. Nhưng về sau, vào năm 333 TCN, bị Sở hợp sức với
Tề tiêu diệt.
Trở
lại với Ngu Kơ và Âu Cơ. Người Lưỡng Quảng và người Mường có khuynh
hướng đổi âm qua lại giữa /Âu/ và /Ngu/. Âu Cơ, người Mường biết là
Ngu Kơ, theo tiếng của họ. ‘Âu Cơ’ cũng là một tên của người phái nữ
gốc Sở. 'Âu Cơ' đọc theo quan thoại là /Yu ji/ hay có khi /Ou ji/.
Và theo Quảng Đông chính là /Ngu Kơ/. Độc giả các truyện Tàu chắc
c̣n nhớ Tây Sở Bá Vương Hạng Yũ (Xiang Yu) vào đêm cuối cùng khi đại
bại bởi Lưu Bang, đă được một người ái cơ họ Ngu (có phát âm như /Yu/
theo kiểu quan thoại) múa kiếm để giải sầu. Người Hoa có thể gọi
người ái cơ đó của Hạng Yũ là 'Ngu Cơ'
虞
姬
[15], nếu đọc theo lối phát âm Quảng Đông (và...Mường). Y hệt như 'Ngu
Cơ' dùng để gọi bà 'Âu Cơ'
嫗
姬
.
Tóm
lại, /Ngu Cơ/ đọc theo quan thoại là /Yu ji/. / Âu Cơ/ cũng vậy. Có
thể là /Yu ji/ và cũng có thể /Ou ji/. Ngu Cơ chính là Âu Cơ. Người
Việt gọi Âu Cơ, Quảng Đông và Mường phát âm như Ngu Cơ.
Nhưng,
xin để ư:
- Âu
Cơ theo bản Việt là người gốc Động Đ́nh Hồ, cũng thuộc Sở (chủng
Thái).
- Ngu Cơ theo
bản Mường, là công chúa Mường (chủng Mường, cũng là chủng Thái)
(ii)
Bước nhảy vọt về thời gian và không gian
Có
một điểm rất quan trọng trong truyền thuyết, theo bản Việt, đă cần
đến một số ư niệm của văn minh Tây Phương, mới có thể hiểu rơ được.
Các ư niệm này thật ra chỉ được phổ biến rộng răi vào thế kỷ 20.
Đó là
các ư niệm ‘quantum’ và ‘fast forward’.
‘Quantum’ là một ư niệm của khoa vật lư học, do Max Planck đề ra vào
đầu thế kỷ thứ 20. Đại khái, Max Planck cho biết có một số đặc tính
vật lư chỉ có thể giải thích được bằng số lượng riêng theo từng đơn
vị trọn. Thí dụ, so sánh giữa các bậc thang, xây bằng bê tông để leo
lên núi, và cách lên núi bằng con đường dốc lài lài. Khi lên núi
bằng cách bước lên những bậc thềm xi măng, mỗi một mức sẽ gia tăng
một độ cao nhất định. Không có cái vụ nửa mức thang, một phần sáu
bước thang, v.v. Chỉ có: 1, 2, 3, … N, bước thang mà thôi. Riêng
biệt từng đơn vị trọn. Đối với người đi lên núi theo đường dốc lài
lài, có khi bước này dài hơn bước kia, ngắn hơn bước nọ. Sự gia tăng
bất chừng, khi lớn khi bé. Gia tăng độ cao biến chuyển từ 0 cho đến
bước dài nhất người có thể bước được. Bước dài nhất lại khác nhau
tùy người. Người chân dài bước dài hơn, người chân ngắn bước ngắn
hơn. Tức không biết chắc chắn được mỗi bước đi lên núi sẽ thu ngắn
quăng đường đến đâu. Nhưng lên núi theo bậc thang lại xác định được
theo từng bước một. Đó là ‘quantum’. Mỗi một quantum bằng với một
bậc thang.
‘Fast
forward’ là một ư niệm dễ hơn. Bởi ra đời sau khi các máy cassette
nghe nhạc, hoặc đầu máy video. ‘Fast forward’ chính là bấm vào nút
cho băng quay nhanh về trước. Để nghe các bản nhạc phiá sau của băng
nhạc, hay xem những đoạn sau của phim. Ngày nay, ư niệm này đă đi
vào ngôn ngữ Tây phương. Thí dụ đọc một bài viết trên báo thuật lại
chuyên xưa, tự nhiên ta thấy người viết ghi: ‘Fast forward’. Rồi
tiếp theo ngay bằng những ǵ xảy ra 10-20 năm sau.
Cả
hai ư niệm ‘Quantum jump’, tức nhảy lùi, hay nhảy vọt tới bằng những
lượng xác định và đo được, và ‘Fast forward’ tức quay nhanh thời
gian, đều hiện rất rơ trong truyền thuyết ‘con rồng cháu tiên’.
QUANTUM JUMP:
Biên giới xứ
Xích Quỷ của chủng Yueh ở thời Kinh Dương Vương: rất rộng. Giáp nước
Thục, Động Đ́nh Hồ, biển Nam Hải, nước Chiêm.
Biên giới nước
Văn Lang thời Hùng Vương: tự nhiên bị thu lại rất nhỏ - chỉ trong
ṿng Bắc Việt mà thôi. Nhỏ hẹp hơn bằng rất nhiều ‘quanta’ - rất đột
xuất. Ai cũng có thể dễ dàng suy đoán ra lănh thổ nhỏ hẹp này, nếu
căn cứ vào đoạn sử về việc Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc và sát
nhập vào Nam Việt sẵn có, bao gồm phần lớn Lưỡng Quảng. Nước Âu Lạc
trước đó lại chính là xứ của người Lạc đă bị Thục Phán với dân quân
từ Tây Âu đến xâm chiếm [19].
Việc
biên cương của dân ‘Việt’ tự nhiên nhảy xuống một cái rụp, đă cho
thấy:
- Vào đầu
truyện, ở thời Đế Minh cháu 3 đời của Thần Nông, không có những địa
danh như Thục, Động Đ́nh Hồ, biển Nam Hải, nước Chiêm,…, hoặc nhân
danh như ‘Kinh Dương Vương’, Lạc Long quân,… Toàn những tên dùng
tiếng Hoa ṛng. Bởi vào thời huyền sử, ngót 3 ngàn năm trước Công
Nguyên, cái chủng Hoa hăy c̣n là những bộ lạc nhỏ ở bên sông Hoàng
Hà, chưa thể có một kiến thức hoặc ư niệm ǵ hết về các địa danh nói
trên, tại các vùng đất thuộc chủng khác.
- Nếu nh́n
dưới một góc độ khác, chủng của Thần Nông, Đế Minh, Kinh Dương Vương,
Lạc Long Quân, Âu Cơ, kéo luôn đến đám con của bà Âu và ông Lạc,…
đều không phải chủng Tàu. Họ phải thuộc một số chủng khác có địa bàn
kéo suốt phía Nam sông Yương Tử, nên mới có thể đi tuần thú hoặc
thay đổi biên cương lănh thổ của từng nhóm con cháu như vậy.
- Việc suy
giảm lănh thổ hay địa bàn sinh sống của dân Bách Việt hoặc hai chi
chủng Âu và Lạc, xuống rất nhiều ‘quanta’, chỉ có thể giải thích
bằng một cuộc bỏ chạy hay di tản của đám dân đó. Hoặc v́ ‘mất nước’,
hoặc chạy đến một địa bàn mới nhỏ hẹp hơn.
FAST FORWARD
Fast
forward mới thật ly kỳ, và đă trốn tránh được bao nhiêu quan sát
dưới kính hiển vi, kéo dài hằng thế kỷ.
Đế Minh: cháu
3 đời Thần Nông => một ‘nhân vật’ huyền sử. Xuất hiện ít lắm 2800
năm TCN. Vào thời này: nước Tàu chỉ bằng 1-2 tỉnh bây giờ ở khu vực
bên sông Hoàng Hà, tỉnh Thiểm Tây & Sơn Tây. Hoa chủng chưa làm chủ
đến vùng đất Kinh (tức nước Sở), ở phía Nam. Rất có thể tổ chức hăy
c̣n trong dạng bộ lạc hay liên minh bộ lạc.
Đế Minh đi
tuần thú phương Nam, đến Ngũ Lĩnh, gặp nàng tiên. Rồi lấy nàng tiên
đó sinh ra hai con: Đế Nghi + Lộc Tục. Lộc Tục xưng là Kinh Dương
Vương, làm vua nước Xích Quỷ, vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 TCN).
Kinh Dương
Vương ‘thành hôn’ với con gái vua xứ Động Đ́nh Hồ => sinh ra Sùng
Lăm lấy hiệu Lạc Long Quân.
Rơ
ràng tác giả chính của ‘truyền thuyết’ đă bấm nút Fast forward (quay
băng nhanh) ngay từ lúc cho ‘Đế Minh’ đi tuần thú phương Nam. Với
những địa danh và nhân danh chỉ xuất hiện vào thời Xuân Thu, trên
2000 năm sau khi Đế Minh vừa mới chào đời.
Nói
một cách nôm na:
Vào thời Đế
Minh ra đời, không ai biết Động Đ́nh Hồ hoặc Ngũ Lĩnh ở đâu. Chưa có
nước Sở, chưa có đất Kinh và đất Dương. Không ai có khái niệm thế
nào là ‘Vương’. Chỉ có thể có Hoàng Đế, một trong Tam Hoàng.
Đến lúc Đế
Minh bắt được chuyến bay của China Airlines, chuyến 2879TCN, người
ta thấy xuất hiện những nơi danh lam thắng cảnh, những địa danh nhân
danh, ít lắm 2000 năm sau khi Đế Minh ra đời, mới có.
Fast forward một lần nữa. Đến lúc Âu Cơ chia tay với Lạc Long Quân.
Lạc đi về miền đồng bằng gần biển, chọn người con trưởng lên ngôi
vua, xưng là Hùng Vương. Để ư họ Hùng là một họ của vua nước Sở.
Trước sau có đến hai mươi mấy đời mới dứt. Toàn họ Hùng, tiếng Sở
gọi là Mị (xin xem bài số 2). Tính trung b́nh 30 năm một thế hệ, ta
thử làm một bài toán:
- từ Đế Minh đến Lộc Tục tức Kinh Dương Vương: 30 năm
-
từ Kinh Dương Vương đến Sùng Lăm, tức Lạc Long Quân: 30 năm
-
từ Lạc Long Quân đến 100 đưá con với Âu Cơ: 30 năm
- từ lúc sinh ra 100 con đến khi chúng trưởng thành: 30 năm
Như vậy từ khi Kinh Dương Vương lên làm vua nước Xích Quỷ
đến lúc Hùng Vương số 1 xưng vua ở xứ ‘Văn Lang’ có thể kéo dài
khoảng 90-100 năm.
Năm Kinh Dương Vương lên ngôi vua: 2879 TCN
Năm Hùng Vương bắt đầu cai trị xứ ở phương Nam: 2879 – 100 = 2779
TCN.
Vào năm 2779 TCN, ở toàn cơi lục địa bây giờ gọi Trung Quốc,
trừ triều đại nhà Hạ thuộc huyền sử, những chỗ khác chưa biết đến
chế độ thế tập. Đặc biệt đất Kinh Cức tức Kinh man chưa được nhà
Châu biết đến. Và cũng chưa có nước Sở với những ông vua mang họ Mị
tức Hùng.
Việc khai sinh Hùng Vương, trước sau chỉ 6 đời sau Thần
Nông chính là kết quả của việc bấm nút Fast Forward của tác giả.
Quay nhanh từ khoảng năm 2779 TCN đến khoảng 1122 TCN, khi nước Sở
thành lập. Bởi chỉ từ thuở đó (1122 TCN) người dân Sở mới bắt đầu
biết đến ư niệm: vua mang họ Hùng và tước Vương: Hùng Vương [23].
Thật ra truyền tích ngay từ lúc Đế Minh bắt đầu đi tuần thú
phương Nam đă bị Fast Forward, quay nhanh, đến tận thời Xuân Thu
Chiến Quốc ở bên Tàu (770-221 TCN).
Theo thiển ư một hệ luận hết sức quan trọng đă bắt nguồn từ
chỗ không để ư đến vấn đề Quantum Jump và Fast Forward trong truyền
tích Âu Cơ. Đó là các sử gia từ đời này sang đời nọ đều quên đối
chiếu cổ sử với biến động lịch sử chung quanh. Bởi ở chỗ truyền tích
đă bị FAST FORWARD không có báo động, người khảo cứu khi chăm chú
vào những huyền thoại di cư xảy ra vào thời Đế Minh, Lạc Long Quân,
rồi Hùng Wang thường lầm tưởng mấy ông tổ này đi đến xứ của người
nước Nam trong khoảng 2880-2780 TCN mà thôi.
Họ hoàn toàn không biết câu chuyện đă được Fast Forward đến
đời Xuân Thu Chiến Quốc ở bên Tàu. Tức thời có chiến tranh loạn lạc
gây ra bao nỗi kinh hoàng, chết chóc. Cũng là thời có di cư di tản
hằng khối. Toàn là Nam tiến bằng đường bộ lẫn đường thủy.
Chỉ trừ một vài nhà khảo cứu thời tiền chiến như Aurousseau,
Madrolle,…, c̣n như tất cả các sử gia hay những nhà nghiên cứu, viết
lách, đều dễ bị rơi vào cái hố đă được đào sẵn. Ở chỗ truyền tích có
Fast Forward mà không có báo động.
Aurousseau cho rằng chính đám thần dân nước Việt của Câu
Tiễn, sau khi bị Sở thôn tính (333 TCN), đă di tản bằng đường bộ về
hướng nước Nam. Rồi hội nhập với dân bản địa dựng nên nước Nam [4]
[10].
Madrolle bài bác thuyết của Aurousseau và cho rằng chỉ có
dân Mân Việt (tức Triều Châu & Phúc Kiến ngày nay) mới là thành phần
chủ lực. U Việt xa xôi quá [4] [10].
Một lí do khác đă gây nên sơ suất đáng tiếc này, nay đă trở
thành một thông lệ lớn, bắt nguồn từ chỗ nhiều vị bắt đầu tra cứu từ
ở cổ sử Tàu. Nhưng vô t́nh, không để ư sử Tàu, từ cổ chí kim, luôn
luôn bị sức ép chính trị của một quốc gia lớn có quá nhiều chủng tộc
khác biệt. Và được viết trên quan điểm 'trung ương' của một nước Tàu
nhất thống của chủng Hán. Tất nhiên sẽ không chú ư đến mọi sắc tộc
đă bị đàn áp hay thua trận, mất nước. Hoặc đă được đồng hoá. Và sẽ
ít khi đề cập đến các vụ di tản khổng lồ của dân các nước đă bị...nuốt,
ngay từ thời Thượng cổ cho đến loạn lạc thời sau nhà Đường (Ngũ Đại,
v.v.).
Thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN), tiếp theo là nhà
Tần rồi Hán Sở tranh hùng, v.v. là một thời khủng khiếp nhất, kéo
dài khoảng gần 800 năm. Chiến tranh liên miên. Ở nhiều trận chiến,
khi bị đại bại quân sĩ bị chém đầu như rạ. Ngoài ra c̣n nạn đói kém
v́ thiên tai mất mùa, và do ảnh hưởng chiến tranh. Các chủng tộc hồi
đó khác biệt về ngôn ngữ hăy c̣n ít, nhất là có nhiều chi chủng rất
gần nhau trong đám Bách Yiệt. Lại đặc biệt không có đ̣i hỏi hộ chiếu
hay thị thực khi đi qua vùng này hay vùng khác. Như vậy chuyện di
tản hằng khối người phải xem như một chuyện hiển nhiên quan trọng
nhất trong việc khảo cứu về nguồn gốc dân tộc. Thế nhưng đây cũng là
chuyện hay bị bỏ sót.
B́nh Nguyên Lộc [4] quan sát rất tỉ mỉ về cổ sử Tàu và bảo
vệ luận thuyết của ông, cho rằng Mă Lai I đến Bắc Việt cách đây 5000
năm, rồi được bổ xung bằng Mă Lai II, cách đây 2500 năm. Tác giả Mă
Lai duyệt hết sách vở, Đông Tây đủ thứ, nhưng đă không dành đến 1
ḍng để cho biết thời điểm Mă Lai II, chính là cực điểm thời Xuân
Thu ở bên Tàu, cách đây khoảng 2500 năm.
Chử văn Tần [11] thu thập các bài viết trong nhiều năm của
ông, và cho xuất bản thành quyển sách dày về 'Văn minh Đông Sơn'.
Trong đó ông có đưa một nhận xét rằng kiểu dáng của nhiều đồ khai
quật cho thấy có sự xuất hiện của một nhóm người mới vào khoảng thế
kỷ thứ 6-7 trước Công Nguyên. Nhưng hoàn toàn không đề cập đến những
biến động chiến tranh loạn lạc ở bên Tàu vào thời đó (thế kỷ 8-2
trước Công Nguyên).
Cung Đ́nh Thanh [12] t́m về nguồn gốc văn minh Việt Nam,
bằng những tài liệu khoa học mới, cho biết rất có thể văn minh Hoa
Hạ được xuất phát từ khu Hoà B́nh hoặc khu Sundaland, thuộc vùng Mă
Lai - Inđô, nay đă ch́m dưới biển. Nhiều tài liệu dẫn cho biết những
cuộc di dân rầm rộ cách đây trên 5000 năm, được đối chiếu với mực
nước biển lên xuống. Ngược lại ở phần nhận xét về di dân, tác giả
chỉ qui cho loạn lạc ở đời nhà Tần là nguyên nhân của các cuộc di
dân Nam tiến. Khá trễ, và lại bỏ quên thời khủng bố của Đông Chu
liệt quốc.
Nếu đối chiếu với lịch sử lập quốc Thái Lan chẳng hạn, ngay
bằng cách truy cập trên mạng, ta sẽ thấy vấn đề có vẻ giản đơn hơn.
Sử nước Thái cho biết rơ họ có gốc gác miền Hoa Nam nước Tàu. Đặc
biệt nước Nam Chiếu, tức Đại Lư (của Đoàn Dự trong truyện Kim
Dung), hay Điền Việt thời xa xưa. Chủng Thái có được quốc gia đàng
hoàng rất trễ, vào thế kỷ 13. Sau khi quân Mông Cổ đánh chiếm và đưa
di dân từ phía Bắc xuống để trị bọn này. Trước khi nước Thái Lan và
Lào được thành lập - chủng Thái cũng bơ vơ như nhiều sắc tộc khác (như
Hmong), ở miền Hoa Nam, và thường hay quấy phá nước An-Nam và miền
cực Nam nước Tàu. Đặc biệt sử Thái ghi rơ: vào khoảng năm 600 trước
Công Nguyên, có một đám di cư thuộc chủng Thái tràn vào đất Thái Lan
hiện nay, xuất phát từ miền Hoa Nam. Thời đó đúng vào lúc cực điểm
của chiến tranh Xuân Thu. Chiến tranh giữa nhà Châu hay Tần với nước
Ba và nước Thục, hay đám rợ Tây Nhung.
3. THỬ GIẢI MĂ MỘT TRUYỀN THUYẾT
Đọc đi đọc lại hai truyền thuyết, một Mường một Việt, ta có
thể chú ư đến những điểm nổi bật như sau:
(i) Bản Mường của chính người Mường ‘sáng tác’
Bản Mường có những nét đặc trưng cho thấy do chính người
Mường ‘sáng tác’.
Trước hết, vấn đề Mẫu hệ. Người Mường thờ phượng và xem Âu
Cơ như tổ mẫu của họ. Tức cho đến lúc truyền thuyết được tạo dựng xă
hội Mường hăy c̣n một xă hội theo mẫu hệ. Âu Cơ và 50 người con theo
bà tạo nên những gia đ́nh vọng tộc lănh đạo các xă hội Mường. Điểm
này cho thấy họ vẫn nh́n nhận xă hội Mường vào thời tạo dựng truyền
thuyết bao gồm nhiều bộ lạc tuy cùng chung chủng tộc nhưng có khác
nhau chút ít. Ăn khớp với mô tả của Cuisinier về xă hội Mường ở từng
khu vực khác nhau.
Để ư, giới lănh đạo tộc Mường, theo Âu Cơ, mặc áo màu đen,
giới lănh đạo Việt, theo Lạc Long Quân, mặc áo màu vàng. Không ăn
khớp với thuyết Ngũ Hành của người Tàu. Nếu cho đám Lạc mang mạng
Thủy (loài cá, loài rồng), họ phải có áo màu đen, chứ không phải
vàng. Đám Lạc đi về miền biển hướng Đông, cũng có thể mang mạng Mộc,
màu xanh, chỉ hướng Đông. Nhưng truyền thuyết Mường lại cho họ mặc
áo màu vàng. Tương tự đám con theo Âu Cơ lên rừng núi, nói theo
người Hoa, sẽ mang hành Mộc (rừng có nhiều cây) hoặc hành Thổ (núi
toàn đất lô nhô), nằm ở phía trong. Mộc có màu xanh, Thổ màu vàng.
Nhưng truyền thuyết Mường cho họ màu Đen. Tức cả hai màu áo cho biết
người Mường không bị tiêm nhiễm bởi cái thuyết Ngũ Hành, rất phổ
thông với văn hoá Hoa từ xưa đến nay. Truyền thuyết của Mường chắc
chắn không có bàn tay người Hoa sáng tác hay hiệu đính.
Quan trọng hơn nữa, do ở điểm ‘gia đ́nh các vua chúa mặc áo
đen’, truyền tích đă cho biết xă hội Mường từ thuở đó vẫn không tiến
lên xă hội vua chúa phong kiến, h́nh thái quốc gia nhà nước như xă
hội Lạc Việt, theo như bản truyền thuyết của Việt chủng. Bởi ‘gia
đ́nh vua chúa’ mang nghĩa những người con theo Âu Cơ mỗi người làm
thủ lĩnh một bộ lạc riêng nhưng liên hệ với nhau.
Quan trọng hơn hết, Âu Cơ mang trong người huyết thống và
DNA của người Mường 100%. Người Mường thuộc chi chủng Thái xuất phát
từ miền cực Nam nước Tàu, và có lẽ tới xứ dân Lạc rất sớm, khoảng
vài trăm năm trước Công Nguyên. Tên Âu Cơ y hệt như tên người ái cơ
gốc dân Sở của Hạng Yũ, và cũng y hệt như tên cái xứ có chủng Thái
làm thành phần chủ lực: Tây Âu [24].
(ii) Lạc Long Quân và gịng máu Việt
Truyền thuyết Việt khi dựa vào truyền thuyết Mường, đă đổi
Lương Wong sang họ Lạc nhằm chỉ chủng tộc ông Long Quân này chính là
chủng Việt (Việt Nam).
Bởi truyền thuyết Việt có đề cập đến Kinh Dương Vương,
truyền thuyết đă không để chỗ hở khi kèm một người thuộc chủng Việt
vào nước Sở. Thật vậy khi nước Sở mới được thành lập, nước này chỉ
bao gồm phần chính là châu Kinh, tức đất Kinh Cức hay Kinh Man hoặc
Kinh Việt. Trong một bài tới, chúng ta sẽ thấy thành phần chủ lực ở
đất Kinh Việt chính là người Yueh (Việt) thuộc chủng Thái. Vài trăm
năm sau, nhất là dưới thời Sở Trang Vương, nước Sở trở nên hùng
cường, văn minh hơn. Nhưng đồng thời cũng bị đồng hoá với Hoa chủng.
Khi đó, Sở bành trướng thêm lănh thổ. Lan xuống vùng Hồ Nam chung
quanh Động Đ́nh Hồ. Rồi tiến chiếm đất đai ở hướng Đông, của vùng
đất nước Ngô và Việt xưa. Đặt tên miền đất phía Đông đó là châu
Dương hay Dương Việt. Khác với châu Kinh, rất có khả năng, châu
Dương chứa phần lớn người dân thuộc chủng Lạc, chứ không phải chủng
Âu.
Như vậy nếu hiểu theo biểu tượng, Kinh Dương Vương bao gồm
hai chủng lớn ở đất Kinh và đất Dương. Đất Kinh có chủng Âu, tức
Thái. Đất Dương, chủng Lạc, tức Lạc Việt hay Việt Nam sau này.
Tác giả truyền thuyết muốn cho ‘chắc ăn’ đă gán cho ông
Long Quân cái họ LẠC, để cho mọi người không thể nào lầm được. Lạc
Long Quân là một người Việt chủng Lạc 100%.
Như vậy, Hùng Vương con trai cả của Âu Cơ và Lạc Long Quân,
nếu là người thiệt, chắc chắn là một người mang hai gịng máu: Thái
và Việt. Tức chủng Âu và chủng Lạc.
(iii) Ư nghĩa khác của truyền thuyết
Như đă bàn đến phía trên, theo bản Việt, Âu Cơ sinh ra 100
người con toàn là trai. Như vậy Hùng Vương số 1 không thể nào trở
thành quốc tổ được. Chỉ có bua Hùng các đời sau nếu họ tiếp tục lấy
vợ người bản địa.
Trên b́nh diện này, bản Mường có vẻ hay ho hơn. Có nam có
nữ. Đầy đủ cơ sở để các byua Hùng, ngay từ số 1, trở thành quốc tổ
của chủng lạc hồng. Mặc dù chúng ta vẫn biết chuyện anh em bà con
gần lấy nhau không phù hợp với khoa học và luân lư Khổng Mạnh, nhưng
ở vào thời nhiễu nhương chưa được hoàn toàn văn minh đó, từ Ai Cập
đến Trung quốc của thời Xuân Thu Chiến quốc, anh em họ hàng vẫn
thường lấy nhau. Đọc Đông Châu Liệt quốc chúng ta vẫn thấy vua nước
Sở ngủ với cháu gái, và vua nước Tề giao hoan với em gái ruột. Điểm
lấn cấn này lập tức sẽ được ‘hoá giải’ ngay nếu chúng ta xem Âu Cơ,
Lạc Long Quân, và ngay cả Hùng Vương chỉ là những biểu tượng, chứ
không phải người thật. Bởi thực tế vẫn có những dấu hiệu cho biết họ
chỉ là biểu tượng.
Thứ
nhất là Thần Nông. Ngày nay ở Hồ Bắc có nhiều tượng thờ Thần Nông
với đầu mang sừng tlâu. Thần Nông do đó là biểu tượng, qua h́nh
người đầu trâu, chỉ thời đại dân chúng bắt đầu biết canh nông.
Thứ hai: Kinh Dương Vương, ngầm chỉ dân chúng hai đất Kinh
và Dương, thuộc địa bàn nước Sở.
Thứ ba: Theo kiểu Mường, Âu Cơ chính là con nai có đốm sao.
Người Mường thờ con nai, như
thờ Âu Cơ. Con nai ưa sống ở miền núi rừng. Âu Cơ biểu tượng cho
nhóm dân tộc có địa bàn miền rừng núi. Chính là chủng Âu, tức Thái,
tức Mường.
Thứ tư: Theo kiểu Mường và Việt, Lạc Long Quân mang giống
cá hoặc rồng. Cá và rồng đều
sống dưới nước. Lạc Long Quân chính là biểu tượng dân sống vùng đất
gần sông gần biển. Ăn khớp với địa bàn chủng Yueh Việt, tức Lạc, kéo
dài từ vùng Sơn Đông xuống tận đến Nam Phúc Kiến, và ở vùng Giao Chỉ
- Bắc Việt, b́nh nguyên sông Hồng.
Thứ
năm: Hùng Vương rất có khả năng chỉ nhóm người đầu tiên ‘di tản’ đến
sinh sống tại b́nh nguyên sông Hồng, bổ sung với dân bản địa, bao
gồm 2 chủng chính: Âu (Thái) và Lạc (Việt).
(iv)
Một phân ly không tránh khỏi
Nh́n
lại bản Việt, chúng ta thấy truyền thuyết chịu ảnh hưởng của Hán tộc,
sau nhiều thế kỷ dưới ách đô hộ Bắc phương.
Thứ
nhất, bản Việt cho thấy dân Lạc chuyển sang phụ hệ trước dân Mường.
Có con trưởng trở thành vua Hùng và truyền lại 18 đời theo lối thế
tập. Ảnh hưởng chủng Hoa. Bản Việt lại mang tính trọng Nam
khinh nữ cho đám con bà Âu Cơ toàn con trai. Điểm này dẫn ngay đến
hố mâu thuẫn cho biết Hùng Vương số 1 không thể nào thành quốc tổ
dân bản địa ở đó được trừ phi ông và các con cháu đời sau lấy vợ từ
dân bản địa.
Bản
Việt cũng không được hay ho, hoặc được lô-gích, bằng bản Mường, ở
chỗ không thèm để ư những ǵ sẽ xảy ra cho Âu Cơ và 50 người con
trai kia sau khi phân ly. Những ǵ sẽ xảy ra cho chính Lạc Long Quân.
Cụ Lạc về hưu, hưởng thú điền viên, ngày ngày đi bắt tôm hay chăng?
Bản
Mường ghi rơ: Đám theo Âu Cơ trờ thành một đại gia đ́nh các vua chúa
mặc áo màu đen. Mang ư nghĩa, đứa nào cũng trở thành quan lang, hay
lănh tụ từng bộ lạc riêng hết. Đám theo Lạc Long Quân cũng vậy. Tuy
xuôi miền đồng bằng gần sông gần biển, họ cũng trở thành đại gia
đ́nh các tù trưởng bộ lạc mặc áo vàng.
Ư
nghĩa truyền thuyết cũng cho thấy đám theo Âu Cơ lâu năm chày tháng
da sẽ trở màu đen, và đám theo papa Lạc da sẽ giữ vững màu vàng.
Nhưng
cả hai bản đều kết thúc bằng một sự phân ly. Rất ăn khớp với lịch sử.
T́nh
duyên giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân có thể biểu tượng cho việc Thục
Phán, người gốc nước Thục chủngÂu ( Thái), đem quân dân từ nước Tây
Âu sang chiếm lĩnh xứ sở của dân Lạc. Tạo thành nước Âu Lạc. Thục
Phán lên ngôi vua và xưng là An Dương Vương. Mở đầu một thí nghiệm
thử thách hợp chủng Âu và Lạc.
An
Dương Vương phải chăng mang nghĩa Vua đă trị An được dân xứ Dương.
Xứ Dương tức Dương Việt hay châu Dương bao gồm thành phần chủ lực là
dân Lạc ở vùng phía Đông của nước Sở xa xưa. Đó là năm 258 TCN
[25].
Về
sau, Triệu Đà sát nhập xứ Âu Lạc với Nam Việt, tức một phần lớn của
nước Tây Âu cũ. Rồi đến năm 111 TCN, tướng Hán Lộ Bác Đức đem quân
chiếm hết miền Hoa Nam, kể cả nước Nam Việt.
Sau
đó ít lâu, nhà Hán tách rời phía Bắc Nam Việt ra khỏi xứ của người
Lạc.
Phiá
Bắc bao gồm dân chủng Âu (tức Thái) gọi tên Quảng Châu.
Phía Nam đặt
tên Giao Châu với phần lớn là dân Lạc.
Chia
ly giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân chính là sự tách rời nhau giữa hai
chủng Âu và Lạc, qua phân chia Nam Việt thành Quảng Châu và Giao
Châu.
Riêng
ở Giao Châu người chủng Âu, tức binh lính và di dân đă theo Thục
Phán, có lẽ cảm thấy bơ vơ nên di tản về miền rừng núi và lâu năm
trở thành người Mường. Âu cũng lại chia tay với Lạc ngay trong đất
hợp chủng Giao Châu.
Tháng 3, 2005
Nguyên Nguyên
Ghi Chú
[1] Trần Trọng
Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục
xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
[2] Ngô Sĩ
Liên và cộng sự (1479). Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Thanh Việt và Phạm
Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá
Thông Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xă Hội Việt Nam được tŕnh
bày đầy đủ trên mạng internet: perso.wanadoo.fr/charite
[3] Khuyết
Danh (1377-1388) Đại Việt Sử Lược. Người dịch: Nguyễn Gia Tường.
Người hiệu đính: Nguyễn Khắc Thuần. Nxb Thành Phố HCM (1993). Có bản
được lên mạng tại perso.wanadoo.fr/charite
[4] B́nh
Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam.
Nxb Xuân Thu (USA) tái
bản.
[5] Stephen Oppenheimer (2001) Eden in the East – The Drowned
Continent of Southeast Asia. 2nd Impression. Phoenix
[6] Nguyễn Hiến Lê (2002) Sử Trung Quốc. Nxb Văn Hoá
[7] Phan Lạc Tuyên (2000) Nghiên Cứu & Điền Dă. Nhà Xuất Bản Trẻ.
[8] Bên Tàu, thời nhà Châu anh em bà con, nhất là trong hoàng tộc,
vẫn thường lấy nhau. Y hệt như bên Ai Cập vào thuở cổ thời. Muốn
kiểm chứng, xin đọc lại Đông Châu Liệt Quốc, một truyện hư cấu phần
lớn, nhưng dựa sát vào các sách cổ sử Trung Hoa như: Xuân Thu, Kinh
Thi, Sử Kư, Tả Truyện,…
[9] Jeanne
Cuisinier (1946) Les Mương – Géographie humaine et sociologie.
Institut
d’Ethnologie. Paris
[10] Keith Weller Taylor (1983) The Birth of Vietnam. University of
California Press.
[11] Chử Văn Tần (2003) Văn Hoá Đông Sơn - Văn Minh Việt Cổ. Nxb
Khoa Học Xă Hội.
[12] Arthur Cotterell (1995) China – A History. Pimlico (Random
House)
[13] Thí dụ về lối dùng phân loại đời sau để gán cho đời trước: Dùng
cụm từ ‘Cố vấn an ninh quốc gia’ để gán cho Quản Trọng, quân sư của
vua nước Tề. Gọi bà Trưng Nhị bằng chức ‘Tổng Tham Mưu Trưởng’ của
quân đội bà Trưng Trắc,…
[14] Xin xem: Nguyên Nguyên (2005) ‘Phải chăng người Việt cổ đă biết
tiếng Anh? I = Ai = Tôi’. Báo mạng: Talawas.org
[15] /Ji/ {姬
} quan thoại = 'Cơ' trong tiếng Việt. ‘Cơ’ có thể được phát âm như
'Kỹ', thí dụ người Ca Kỹ
歌
姬
. Nhưng tiếng Hoa (quan thoại) chỉ có một lối viết, một lối đọc:
姬
/Ji/ . Chuyện người hùng Hạng Yũ (Vũ) có thể t́m thấy trên nhiều
mạng khi t́m 'Xiang Yu'.
[16] Hoài Nam Wương Liu An (cháu của Liu Bang) thuật rơ trận chiến
theo lối du kích của dân Tây Âu trong quyển 'Hoài Nam Tử', 'xuất
bản' trong khoảng thế kỷ 2 trước Công Nguyên (xem [4] & [10]. Trong
cuộc chiến đó, quân Tần giết được vua Tây Âu là Trạch (Dịch) Hu
Tống. Dân Tây Âu (tức Âu 'Việt') rút vào rừng kháng chiến và giết
lại được tướng Tần là Uất Đồ Thư. Một nhầm lẫn khác: nước Tây Âu
Lạc. Thật ra không có nước nào mang tên nước Tây Âu Lạc cả. Chỉ có
nước Tây Âu và nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc nằm về phía Tây của Nam Hải.
(xem [4] & [10]). Đặc biệt B́nh Nguyên Lộc đă dành cả một chương để
bàn về vấn đề này cùng những dụng ư khá mập mờ của những học giả
Pháp, khi họ xuống cấp Trạch Hu Tống, vua nước Tây Âu, thành tù
trưởng. Thảo luận về Tây Âu của tác giả ‘thuyết Mă Lai’, có thể xem
rất giống với kết luận của các nhà nghiên cứu Âu Mỹ ngày nay (thí
dụ: xem [10] & [19])
[17] 'Việt' là một trong những từ bị biến âm bởi quốc ngữ. Đại đa số
những sắc tộc chung quanh đều phát âm 'Việt' bắt đầu bằng âm /Y/.
Mường gọi /Yịt/. Nam bộ phát âm /Byiệt/. Nhật gọi /Beto/ rất gần với
kiểu Nam bộ /Byiệt/. Dân Quảng Đông gọi /Yuet/ hay /Yueh/. Hồ Nam
(Sở) đọc /Yuệ/. Quan Thoại phát âm như /yuế/. Người Hẹ (tức Hakka)
gọi /Yuet/. Chỉ có người Triều Châu (Mân Việt xưa) đọc /Wật/.
[18] Henri
Roux (1954) Quelques Minorités Ethniques du Nord-Indochine.
France-Asie. Janvier-Février 92-93. Tome X. Đặc biệt, theo tài liệu
này, người Thái đen và Thái trắng tại Bắc phần chính là hậu duệ
người nước Thục (tức Tứ Xuyên ngày nay).
[19] Xem
website của British Council về gốc gác của binh lính Thục Phán: dân
Tây Âu,
Viet%5FNam/Directories/Vi_ACYAIw-7879_ADs-t_Nam_Cultural_profile/-3194.html
[20] Website
sau đây cho đầy đủ danh sách các triều vua chúa bên Tàu:
hostkingdom.net/china.html#Ch’u. Một vài pinyin cho việc tra cứu: Sở
= Chu (hay Ch’u); Châu = Zhou; Tề = Qi (hay Chi); Tần = Qin; Tấn =
Jin; Thần Nông = Shen Nong; Hồ Nam = Hunan; Hồ Bắc = Hubei; Thiểm
Tây = Shaanxi; Cam Túc = Gansu; Việt = Yue (hay Yueh); Đông Đ́nh Hồ
= Dongtinghu; Tứ Xuyên = Sichuan; Thục = Shu; Vân Nam = Yunnan;
Dương Tử = Yang Tze; Hoàng Hà = Huang he; Người Miêu = Hmong; Hẹ =
Hakka;…
[21] Để ư
người Thái rất lận đận về chuyện lập quốc. Nhưng cũng c̣n may mắn
hơn nhiều sắc tộc c̣n bị kẹt lại Trung Hoa và VN, như người Hmong và
Choang. Đặc biệt người Choang dân số khoảng 19 triệu xấp xỉ bằng dân
số nước Úc. Người Thái Lan tuy không bị hội chứng 5000 năm văn hiến
nhưng cũng có vẻ thích nhận vu vơ những nền văn minh cũ ở miền đất
đó là do ở tiền nhân của họ. Đặc biệt văn minh trồng lúa nước (Non
Nok Tha, gần Korat – 4000 TCN), di vật bằng đồng (Ban Chiang gần
Udon – 3600 TCN),… Đặc biệt trong tiếng Thái, có từ ‘KOW’ mang hai
nghĩa, dùng để chỉ ‘gạo’ và ‘bữa ăn’. Có phát âm và lối dùng y như
tiếng Việt: CƠM. ‘Cơm’ nghĩa chính là ‘gạo đă nấu chín’ và nghĩa
khác cũng là ‘bữa ăn’: ‘Anh ăn cơm chưa?’. ‘Ăn cơm’ ở đây có nghĩa
‘bữa ăn’. Y như tiếng Thái.
[22] Đường
Nhạn Sinh, Bạo Thúc Diễm & Chu Chính Thư (2002) Mưu Trí thời Xuân
Thu. (Ông Văn Tùng & Vũ Ngọc Quỳnh dịch). Nxb Văn Nghệ, TP HCM
[23] Thật ra
họ Hùng của vua chúa nước Sở là từ phiên dịch của người Hoa từ một
tiếng nước Sở: Mị, mang nghĩa ‘con gấu’ (xin xem bài số 2). Hùng
Yịch chính là một đại thần nhà Châu được vua Thành Vương ban cho đất
Kinh Việt để cai trị và ngăn chận bọn rợ Việt ở đó cho khỏi quậy vào
‘Trung thổ’. Đó là năm 1122 TCN. Đến đời Hùng Thông, con cháu mười
mấy đời của Hùng Yịch thấy nước ḿnh đă hùng cường nên tự ư vỗ ngực
xưng vương: Sở Vũ Vương (740-689 TCN). Con cháu tiếp nối của Hùng
Thông tiếp tục xưng vương, và vẫn giữ họ Hùng. Nhiều người vẫn
thường lấy cớ tự dạng Hùng Vương của nước Nam viết khác với Hùng
Vương nước Sở. Nhưng điều này chẳng có ǵ quan trọng, bởi những từ
này đều được viết bằng tiếng… Tàu. Do người Tàu tự ư cải biên. Y hệt
như tên Âu Cơ chỉ mẹ của Hùng Wang và tên người ái cơ của Hạng Vũ.
Viết khác nhau, nhưng phát âm như một.
[24] Keith
Weller Taylor trong website của riêng ông có thể t́m thấy trên mạng
internet, qua bài phỏng vấn của đài BBC đă đề cập đến Hai Bà Trưng
có quê quán nằm trong lănh địa người Mường: Mê linh. Giả thuyết Hai
Bà Trưng mang gốc Mường rất có khả năng, nếu chúng ta đối chiếu với
một hai dữ kiện lịch sử rất quan trọng. Thứ nhất, gia đ́nh hai Bà có
vẻ theo Mẫu hệ, kiểu người Mường. Thứ hai, khi Hai Bà dấy quân khởi
nghĩa chống lại Tô Định, hai Bà được sự hưởng ứng của toàn dân ở
vùng Nhật Nam, Cửu Chân và Hợp Phố. Đặc biệt để ư đến Hợp Phố thuộc
Quảng Châu, chứ không phải Giao Châu. Quảng Châu tức Tây Âu cũ:
chủng Thái, nguồn gốc người Mường. Những anh hùng dân tộc khác cũng
có thể mang chủng Mường (tức Thái) gồm có: Lê Lị (tức Lê Lợi), Lê
Hoàn, và Đinh Bộ Lĩnh. Bởi Lê Lị người khởi xướng triều đại nhà Lê
mang gốc Mường, nên Nhượng Tống trong bản dịch đầu tiên của Đại Việt
Sử Kư Toàn Thư, theo trích dẫn [4], đă cho rằng Ngô Sĩ Liên v́ muốn
bợ đỡ các vua nhà Lê nên đă đem các truyền tích rặc Mường nhét vào
quyển sử kư đồ sộ của nước Nam.
[25] Gần đây
các sách Việt Nam ưa sửa đổi năm Thục Phán sang chiếm nước Nam là
năm 208 TCN. Theo thiển ư, những quan tâm đến chi tiết hay các lối
phát âm, phiên dịch chữ Hán đă dễ đưa việc khảo cứu đi lạc hướng. |