Anh Hùng Đông-A
Gươm thiêng Hàm tử
Lịch-sử tiểu thuyết
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
Quyển I
Thư viện Việt-Nam tại Hoa-kỳ
độc quyền đưa lên Internet
ANH HÙNG ĐÔNG-A
Gươm thiêng Hàm tử Q1
Lịch sử tiểu thuyết
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
Tác giả giữ bản quyền.
Copyright @ Trần Đại-Sỹ
All right reserved.
Cùng một tác giả
Do Nam-á Paris xuất bản, tái bản nhiều lần.
Anh hùng Lĩnh-Nam, 4 tập, 1318 trang.
Động-đ́nh hồ ngoại sử, 3 tập, 880 trang.
Cẩm-khê di hận, 4 tập, 1305 trang,1992.
Do Thư viện Việt-Nam và Xuân-thu Hoa-kỳ ấn-hành.
Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản:
Anh hùng Tiêu-sơn, 3 tập, 1120 trang,
Thuận-Thiên di sử, 3 tập, 1080 trang,
Anh-hùng Bắc-cương, 4 tập, 1556 trang,
Anh-linh thần-vơ tộc Việt,4 tập,1708 trang,
Do Đại-Nam Hoa-kỳ ấn hành.
Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản 2001.
Cốt tủy Tử-vi tuổi Tư, 1 tập, 362 trang,
Nam-quốc sơn-hà, 5 tập, 2230 trang,
Anh hùng Đông-a : Dựng cờ b́nh Mông, 5 tập 2566 trang.
Dịch cân kinh, 390 trang, 2003.
Do Thư-viện Việt-Nam, California,
Hoa-kỳ ấn hành.
Giáo huấn t́nh dục bằng y học Trung-quốc,
(Sexologie Médicale chinoise), 3 tập, 1280 trang.
Những chữ viết tắt trong sách này.
AHBC Anh-hùng Bắc-cương
AHLN Anh-hùng Lĩnh-Nam
AHĐA-DCBM Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh
Mông
AHTS Anh-hùng Tiêu-sơn
ALTVTV Anh-linh thần vơ tộc Việt
ANCL An-Nam chí lược
CEP Coopérative Européenne
Pharmaçeutique (Liên hiệp các viện bào chế châu Âu)
CKDH Cẩm khê di hận
CMFC Commité Médical Franco-Chinois
(Ủy ban trao đổi y học Pháp-Hoa)
DTLSVH Di tích lịch sử văn hóa được xếp
hạng
IFA Institut Franco-Asiatique (Viện
Pháp-Á)
KĐVSTGCM Khâm định Việt sử thông giám
cương mục
ĐĐHNS Động-đ́nh hồ ngoại sử
ĐNLTCB Đại-Nam liệt truyện chính biên
ĐNLTTB Đại-Nam liệt truyển tiền biên
ĐNNTC Đại-Nam nhất thống chí.
ĐNTLCB Đại-Nam thực lục chính biên
ĐNTLTB Đại-Nam thực lục tiền biên
ĐVSTT Đại-Việt sử kư toàn thư
MCMS Mông-cổ mật sử
NS Nguyên-sử
TS Tống sử
TTDS Thuận-thiên di sử.
Đi t́m dấu tích về
Ba cuộc b́nh Mông tộc Việt
thế kỷ thứ XIII.
Phần này, tôi viết cho độc giả trẻ, muốn t́m nguồn tài liệu về Mông-cổ,
về ba cuộc chiến tranh Việt-Mông. Xin các vị cao minh bỏ qua, chẳng
nên bận tâm.
Các bạn trẻ thân.
Tôi viết những gịng này dành cho các bạn. Hy vọng rằng nó sẽ giúp
các bạn những bước đầu t́m hiểu về Mông-cổ . Nhất là hướng dẫn các
bạn đi t́m tài liệu, cách xử dụng tài liệu về ba cuộc b́nh Mông của
người Việt.
1. Giầu ḷng yêu nước,
nghèo nàn thư tịch.
Cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông của dân tộc Việt Nam vào đầu thế
kỷ thứ 13 thực là vĩ đại. Thế nhưng, cho đến nay, những thư tịch
biên chép quá ít, quá sơ lược. Nếu các bạn mở bất cứ bộ sách viết về
Mông-cổ bằng tiếng Anh, Pháp, Đức nào ra cũng thấy ghi rằng : Mông-cổ
thắng khắp từ Á, sang Âu, đặt ách cai trị. Chỉ bại duy nhất tại Việt-Nam
và Nhật-bản. Thế nhưng khi các bạn mở kho tàng lịch sử Việt-Nam ra,
th́ hỡi ơi! Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT), Việt sử lược (VSL),
Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), chỉ dành đâu mươi
mười lăm trang chép lại mà thôi. Các sách sau này, chỉ mô phỏng của
ba bộ trên, rồi vẽ rồng, vẽ rắn thêm vào. Đau đớn thay, mô phỏng
luôn cả những cái sai lạc của người xưa.
2.Đi t́m di thư tiền nhân
Bộ sách ghi chép đầy đủ các chiến thắng Mông-cổ, được soạn
thảo ngay sau cuộc chiến, mang tên Trung-hưng thực lục. Trong đó
những người có công đều được ghi danh, và vẽ h́nh, nay không c̣n .
Hai bộ Binh-thư yếu lược, Vạn-kiếp tông bí truyền thư của Hưng Đạo
vương không t́m ra vết tích.
Đến đây chắc các bạn đặt câu hỏi: Thế tại sao, hiện người
Việt đang lưu hành bộ Binh-thư yếu lược, được dịch sang Việt-ngữ?
Thưa đây là người sau ngụy tạo.
Ba bộ sách trên, tôi biết rằng năm 1407, Trương Phụ đă cướp
mang về Kim-lăng. Hồi Bát-quốc đánh nhà Thanh vào cuối thế kỷ thứ
19, chiếm Kim-lăng. Trong 8 đoàn quân đó, có hai đoàn thuộc nước
tŕnh độ văn hóa cực cao là Nhật-bản và Pháp. Hai đoàn quân này đă
mang về nước khá nhiều sách. Trong đó có những sách mà Trương Phụ
cướp từ Đại Việt. Tôi đặt nghi vấn: Biết đâu trong số sách mà Pháp,
Nhật mang đi chả có ba bộ sách trên? V́ vậy tôi gắng công đi t́m.
Đầu tiên, tôi t́m trên đất Trung-quốc.
Trong thời gian theo phái đoàn trao đổi y học Pháp-Hoa (1976-1999),
hễ có dịp là tôi vào những thư viện Trung-quốc ṃ mẫm. May ra! Nhờ
vào vị thế khi th́ là thông dịch viên, khi th́ là giảng viên, khi
th́ là tổng thư kư, gần đây là trưởng phái đoàn. Đoàn của tôi là
đoàn trao, tức giảng dạy tại các đại học y khoa. Tôi nghiễm nhiên
trở thành quư khách của Trung-quốc, nên không bị kỳ thị, không bị
nghi ngờ. Hơn nữa được quư mến, nên thư viện nào tôi muốn vào, đều
được chiều theo ư. Đầu tiên tôi t́m ở các thư viện trung ương, thư
viện cấp tỉnh của 5 tỉnh cực Nam Trung-quốc là Quảng Đông, Quảng Tây,
Vân Nam, Quư Châu, Hồ Nam. Không thấy ! Kiên chí, tôi ṃ xuống thư
viện cấp huyện, thư viện các đại học Văn-khoa, đại học Sư-phạm. Biệt
tăm ! Tôi biết rằng tại thư viện Bộ-chỉ huy Quân-sự năm tỉnh cực Nam
và thư viện Bộ Tư-lệnh ba quân khu mà lănh thổ tiếp giáp với Việt-Nam
là nơi tàng trữ tất cả tài liệu nghiên cứu về chiến tranh Hoa Việt.
Tôi xin vào nghiên cứu, th́ bị từ chối theo kiểu ngoại giao « Đây là
tài liệu quá chuyên môn dành cho những sĩ quan tham mưu nghiên cứu.
Ông là thầy thuốc. Ông có đọc cũng không hiểu ǵ ». Không nản ! Tôi
biết rằng cổ, kim; Đông, Tây, các bà đều thích đẹp ; và cồng bà bao
giờ cũng mạnh hơn lệnh ông. Tôi vận động ân huệ của các bà mà tôi
ngoại giao bằng lột da mặt, cắt mắt, làm mũi cao, làm môi trái đào,
lấy mỡ bụng. Thành công. Tôi được vào tất cả các thư viện trên ṃ
mẫm. Thế nhưng, tôi vẫn không t́m ra tông tích ba bộ sách của tổ
tiên. Đau thực! Tuy không t́m ra, nhưng tôi cũng được đọc mấy bộ
sách quư, có tính cách tài liệu như :
_ Nam Việt, Âu Lạc tác chiến khảo lược. Ban nghiên cứu, Sở tác
chiến, Bộ Chỉ-huy quân sự tỉnh Quảng Tây biên tập. Nội dung nghiên
cứu về cuộc chiến tranh giữa Triệu Đà và Thục An Dương vương.
_ Đông Hán, b́nh Giao-chỉ khảo lược. Sở nghiên cứu, cục Tác-chiến,
bộ Tổng Tư-lệnh quân đội Nhân-dân, Trung-quốc. Nội dung nghiên cứu
về những trận đánh của vua Trưng với Mă Viện.
_ Tam thế Bạch-đằng nghiên cứu. Sở nghiên cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tư-lệnh
Hải-quân Trung-quốc. Nội dung nghiên cứu ba trận Bạch-đằng về thời
vua Ngô, vua Lê và thời Trần. Phụ đính có luận về trận Hàm-tử,
Chương-dương, Tây-kết.
_ Quách thị Nam chinh, là bộ nhật kư hành quân của Quách Quỳ, tướng
tư lệnh đội quân Tống sang đánh Đại Việt năm 1077.
_ Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ kư, nhật kư hành quân của Triệu Tiết,
tướng phó tư lệnh quân đội Tống sang đánh Đại Việt năm 1077.
_ Nguyên triều chinh tiễu An-Nam khảo bị, sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến,
Bộ Tổng tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc. Nghiên cứu về ba cuộc
Mông-cổ sang đánh Đại-Việt.
_ Minh đại, chinh tiễu An-Nam lược khảo. Sở Nghiên -cứu, Cục
Tác-chiến, Bộ Tổng Tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc. Nội dung
nghiên cứu về những trận đánh giữa quân Minh do Trương Phụ, Mộc
Thạch chỉ huy đánh Hồ Quư Ly, và những trận đánh của vua Lê Thái-tổ
với Liễu Thăng, Vương Thông.
_ Càn Long chinh Nam nghiên cứu khảo bị. Sở Nghiên-cứu, Cục
Tác-chiến, Bộ Tổng Tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc. Đây là tài
liệu dài nhất, tổng cộng 320 trang A4. Nội dung nghiên cứu về nguyên
do thất bại của Tôn Sĩ Nghị. (Các bạn nên nhớ, 320 trang chữ Hán,
nếu dịch sang Việt ngữ phải 900 trang. Nếu sang Anh, Pháp ngữ c̣n
dài hơn nữa).
Cũng nên nói ở đây : Khác với các sử gia Trung-quốc, khi viết về
Việt-Nam, luôn gọi là Giao-chỉ, Nam-man, An Nam, rồi dùng những từ
lăng nhục. Các sĩ quan Trung-quốc khi soạn những tài liệu trên đă
b́nh luận rất vô tư. Việt có sở trường, sở đoản ǵ th́ nói thực.
Những lời b́nh luận rất chính xác.
Tại Trung-quốc không t́m thấy, tôi vẫn không nản chí. Tôi lại bỏ
sang Nhật-bản, ṃ vào đủ các thư viện, mà cũng tuyệt vô âm tín.
Trong thời gian này, giáo sư Trần Kinh Ḥa (1914-1997), của đại học
Soka cũng từng cố gắng t́m kiếm, mà...hỡi ôi! Vô ích. Như vậy là mất
vĩnh viễn rồi. Tiếc thay! Buồn thay!
3. Trở về với nguồn thư tịch nghèo nàn
Tôi đành trở về với bộ ĐVSKTT. Nhưng bộ này chép quá sơ sài
về ba cuộc kháng Nguyên-Mông, th́ làm sao có thể dựng lại chi tiết
các trận đánh? Ấy là không kể Ngô Sĩ Liên đă có những sai lầm quan
trọng như:
_ Thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đắm trong trận
Bạch-đằng.
_ Nguyễn Khoái bắt được Áo Lỗ Xích.
_ Thoát Hoan cũng bị bắt.
Biết rằng ĐVSKTT có nhiều sai lầm, tôi đi t́m bộ KĐVSTGCM.
Bộ này do Quốc-sử quán triều Nguyễn soạn (1859). Các sử gia triều
Nguyễn đă tham khảo thư tịch Trung-quốc như:
_ Nguyên sử của Tống Liêm đời Minh.
_ Nguyên sử loại biên tức Tục hoằng giản lục của Thiệu Viễn B́nh đời
Thanh.
_ Nguyên sử bị vong lục của Vương Quang Lỗ đời Minh.
_ Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm.
Nhưng KĐVSTGCM cũng vấp vào những sai lầm:
Trận Vân-đồn xẩy ra vào tháng 12 niên hiệu Trùng-hưng thứ 3
(5-1 tới 2-2-1288) khi thủy quân Nguyên tiến vào nước ta.
Lại chép lầm rằng:
Trận Vân-đồn xẩy ra vào tháng giêng năm Trùng-hưng thứ 4 (3-2 tơí
2-3 năm 1288) lúc Ô Mă Nhi đem chiến thuyền đi đón Trương Văn Hổ.
Nghĩa là sai lệch một tháng, sai lầm về vị trí trận đánh.
Sự sai lầm này, khiến các sử gia gần đây viết bằng chữ quốc ngữ cũng
sai theo. Mà thảm thay, cho đến nay, tôi nêu ra, chưa chắc thiên hạ
đă chịu phục thiện.
Khi vua Lê khởi binh, muốn cho có chính nghĩa, đă tôn một người con
cháu vua Trần là Trần Cảo lên làm vua. Lúc thành đại nghiệp th́ đem
giết chết. Sau đó giết tất cả những công thần, nguyên là con cháu
nhà Trần, truy lùng gịng dơi nhà Trần rất gắt. Sử ghi, Lê Lợi giết
Tả-tướng quốc Trần Nguyên Hăn, một nhân vật uy tín bậc nh́ sau nhà
vua, chỉ v́ ông là cháu của Trần Nguyên Đán. V́ vậy trong suốt thời
gian nhà Lê trị v́ (1458-1779) không một văn gia nào dám chép những
chiến công của ba cuộc kháng Nguyên-Mông. Măi tới triều Nguyễn, mới
có những sử gia soạn:
_ Trần đại vương b́nh Nguyên thực lục.
_ Vạn yên thực lục.
_ Trần triều thế phả hành trạng.
_ Trần gia điển tích thống biên.
Hầu hết những bộ này chỉ mô phỏng ĐVSKTT, VSL, ANCL hoặc những huyền
sử, những di sử, những gia phả.
4.T́m tư liệu trên bia đá, minh
Một trong những nguồn tài liệu tuy rời rạc, lẻ tẻ, nhưng nếu đem
khai thác, ta cũng t́m ra được nhiều điều cần thiết. Đó là bia đá,
mộ chí, các bài minh khắc trên những quả chuông. Tại viện Khoa-học
Xă-hội Hà-nội, có những bản văn :
_ Bia công chúa Phụng Dương, vương phi Chiêu Minh đại vương Trần
Quang Khải, do Lê Củng Viên soạn năm 1293, có nói tới việc rút lui
của triều Trần ra khỏi Thăng-long năm 1285.
_ Bài minh khắc trên quả chuông Thông-thành quán tại Bạch-hạc năm
1321. Bài minh có nhắc đến cuộc chiến đấu của Chiêu Văn vương Trần
Nhật Duật trong cuộc kháng chiến lần thứ nh́. Quả chuông này do
chính vương trông coi đúc.
_ Bia chùa Hưng-phúc, khắc năm 1324 phát hiện tại huyện Quảng-xương,
tỉnh Thanh-hóa. Nội dung có nói đến cuộc kháng chiến của dân chúng
xă Yên-duyên, trấn Thanh-hóa, chống Toa Đô năm 1285.
T́m trong các gia phả
5.1. Tại Đại-hàn
Nếu bia đá, minh chỉ cho những tài liệu rời rạc, th́ những bộ gia
phả cổ, do chính người đương thời, hoặc con cháu nhiều đời chép nối
tiếp...lại cho tôi những chi tiết rất quan trọng.
Tháng 8 năm 1980, khi đi trong phái đoàn Pháp, dự đại hội y khoa tại
Hàng-châu, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-cao. Trong phái đoàn
có bác sĩ Lư Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lư Diệp
Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon), từ cuộc gặp gỡ này, tôi được đọc
Tiêu-sơn truyền phả hay Hoa-sơn phả. Sách chép tay của con cháu Kiến
B́nh vương Lư Long Tường tại Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong
Nin Gun), tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) , Bắc Triều-tiên. Kiến B́nh
vương Lư Long Tường là thuyền nhân Đại Việt, đến Cao-ly năm 1226.
Năm 1983, tôi được gặp ông Lư Gia Trung, hậu duệ của Kiến Hải vương
Lư Dương Côn, thuyền nhân Việt lưu lạc tại Cao-ly năm 1150. Dịp này
tôi được đọc Tinh-thiện Lư thị tộc phả của hậu duệ của Kiến Hải
vương.
Hai gia phả này cung cấp cho tôi ít nhiều liên quan đến
Mông-cổ, Đại Việt. (Xin đọc bài Nguyên-tổ hai gịng họ Lư tại
Hàn-quốc, phụ lục quyển 3, Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông).
5.2. Tại Trung-quốc
Hồi sinh tiền, phụ thân tôi có nói rằng: Chiêu Quốc vương Trần Ích
Tắc, bội anh, phản cha, hại nước, đầu hàng Mông-cổ. Nay hậu duệ rất
đông, sống ở Trường-sa. Sau này có dịp, nên sang...nhận họ. May mắn,
tháng 8 năm 1990 , tôi làm trưởng phái đoàn Pháp, sang trao, tại đại
học y khoa Trường-sa với đề tài Giải phẫu bằng Laser. Trước khi đi
nửa tháng, tôi cho đăng trên tờ báo địa phương một đoạn:
"Giáo sư Trần Đại-Sỹ trưởng khoa Sinologie tại đại học Paris, muốn
liên lạc với hậu duệ của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, để t́m hiểu
về một giai đoạn lịch sử Hoa-Việt thế kỷ thứ 13. Xin liên lạc với ca
sĩ Trần Diệu Nghi địa chỉ như sau..."
Báo đăng liên tiếp 7 ngày. Khi tôi đến, th́ Diệu Nghi trao cho tôi
18 bức thư của 18 người, họ đều nhận là trưởng của các chi. Các chi
sống rải rác ở Trường-sa, Hồ-nam, Linh-lăng, Quế-dương, Liễu-châu.
Nhưng họ cải chính rằng Nguyên-tổ của họ là Trần Ích Tắc th́ đúng,
song tước không phải là Chiêu Quốc vương, mà là An Nam quốc vương.
Tôi giật ḿnh, chợt nhớ lại: Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc hàng
Mông-cổ được Nguyên Thế-tổ Hốt Tất Liệt phong cho làm An Nam quốc
vương (1285).
Tôi muốn đến tận nơi, để gặp 18 chi. Tính chung việc di chuyển đi 18
nơi, trong 5 tỉnh, tôi phải vượt ít nhất 8 ngh́n cây số, mất rất
nhiều thời gian, sức lực. Bác sĩ Vareilla Pascale đại diện CEP (Coopérative
Européenne Pharmaçeutique) đề nghị tôi làm một việc giúp CEP. CEP sẽ
đài thọ ẩm thực, cư trú, di chuyển cho 72 người về một khách sạn lớn
nhất trấn Nhạc-dương hội họp. Như vậy vừa làm lợi cho kinh tế Pháp,
vừa thân mật, vừa tiết kiệm được sức lực. Không phải v́ tôi tiếc
tiền, mà sợ kiệt sức, hơn nữa muốn làm lợi cho kinh tế Pháp, tôi
đồng ư.
Tôi viết thư mời đại diện 18 chi về trấn Nhạc-dương, bên hồ
Động-đ́nh. Tổng số người lên tới 90. Các bạn trẻ thử tưởng tượng xem,
tự nhiên 90 người cùng một gịng họ, kéo nhau về chiếm hết các pḥng
trong khách sạn hạng sang, mà người trả tiền lại là một bà Đầm, rồi
bầy biện tế lễ, ăn uống linh đ́nh...Công-an địa phương điên đầu lên,
theo dơi, báo cáo, đặt câu hỏi rắc rối đến như thế nào ? Nhà cầm
quyền địa phương vùng Nam Trường-giang thường dị ứng (allergy) với
những cuộc họp họ hàng quá đông như vậy. Song họ biết nước Pháp
không có ǵ thù nghịch với Trung-quốc. Tôi lại hoạt động y học tại
Trung-quốc trải 15 năm, luôn đem lại sự giao hảo, trao đổi rất tốt
đẹp giữa Pháp và Trung-quốc ; nhất là ḥa giải những bất đồng ư kiến
nhỏ giữa phái đoàn Pháp và các đại học Trung-quốc. V́ vậy không ai
nghi ngờ ǵ cả. Để tỏ ra ḿnh quang minh chính đại, tôi mời ông
Bí-thư đảng bộ Cộng-sản Trường-sa tới...tham quan.
Đại diện các chi cùng tôi đem gia phả ra đối chiếu, để chỉnh đốn
những chỗ sai lầm. Truy gia phả, họ t́m ra ông Trần Định Nhân là
thống tôn, cháu đời thứ 27 của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Ông
Nhân hiện là viên chức cao cấp của Trường-sa. Trong 18 gia phả, có
hai phả rất chính xác, giống hệt nhau. Đoạn chép từ Triệu-tổ Phương
Chính hầu Trần Tự Minh, tể tướng triều An Dương vương đến cháu đời
thứ sáu Chiêu Quốc vương giống nhau không sai lấy một chữ. Như vậy
chứng tỏ cả hai cùng sao từ một phả gốc. Hai phả giống nhau đó là:
_ Trần-gia Bắc-tông chính phả. Của chi bốn tại xă Lănh-thủy, thị xă
Trường-sa, tỉnh Hồ-Nam, Trung-quốc.
_ Chiêu-Quốc di hậu lục. Của chi 2 tại trấn Nhạc-dương, tỉnh Hồ-Nam,
Trung-quốc.
Quan trọng nhất là phần từ Mục-tổ hoàng đế Trần Tự Kinh (1103) đến
Trần Nhân-tông (1293) do chính Trần Ích Tắc chép. Đương thời vương
là người có văn tài xuất chúng, nên vương ghi rất chi tiết, văn
phong hoa dạng muốn ngang với văn của Tư-mă Thiên trong Sử-kư. Nhờ
đó, mà tôi thu thập được nhiều chi tiết cực kỳ quư báu về cuộc chiến
tranh Mông-Việt. Điều đáng tiếc là lúc nào vương cũng coi Đại-Việt
như một quận của Trung-quốc, dùng niên hiệu của các vua Trung-quốc.
Khi xử dụng tài liệu của vương phải rất thận trọng.
Tiếc rằng, sau cuộc họp đó, giữa tôi với ông Trần Định-Nhân có những
đụng chạm lớn, đưa đến không nh́n mặt nhau. Nguyên do, chúng tôi
chuyển phả từ cổ văn ra Bạch-thoại, rồi dự trù cho in đoạn từ
Triệu-tổ Trần Tự Minh (257 trước Tây-lịch) tới hết triều Trần
(1400). Bài tựa do tôi viết. Tôi viết bằng cổ văn. Sau đó sẽ dịch
sang Việt-ngữ. Bài tựa tôi dùng câu đầu của Lê Qúy Đôn trong Đại
Việt thông sử:
" Ngă Đại Việt vi văn hiến chi bang,
Thượng vi thiên tử,
Hạ vi thần thứ".
Nghĩa là: Nước Đại Việt ta là nước văn hiến. Trên có vua, dưới có
thần dân. Ông Định Nhân sửa là:
"Ngă đích Trung-quốc, thị vi Hoa-hạ văn hiến đích đại bang".
Nghĩa là: Nước Trung-quốc ta là nước lớn, văn hiến Hoa-hạ".
Văn sửa là văn Bạch-thoại, ngớ ngớ, ngẩn ngẩn.
Rồi đoạn sau
" Tự Đinh, Lê, Lư, Trần, đỉnh lập nhất phương.
Hào kiệt, anh hùng, liệt nữ thời thời trấn quốc, dữ Bắc-phương tề vị
nhi lập."
Nghĩa là: Tự Đinh, Lê, Lư, Trần, đứng riêng một cơi. Hào kiệt, anh
hùng, liệt nữ đời đời giữ nước, với Bắc-phương ngang vai cùng đứng.
Ông đ̣i sửa thành:
" Tự Đinh, Lê, Lư, Trần giai đê đầu quy phục Thiên-triều,
Niên niên tu cống, xưng thần, đắc vũ lộ ân sủng, sắc phong vi vương".
Nghĩa là: Từ Đinh, Lê, Lư, Trần đều cúi đầu quy phục Thiên-triều.
Hằng năm tu cống, xưng thần, được ban ơn mưa móc, phong cho tước
vương.
Tôi không đồng ư, dĩ nhiên tôi không bỏ tiền ra in. Ông Trần Định
Nhân cũng giữ luôn bản thảo, không trao lại cho tôi.
Năm sau, 1991 tôi lại cầm đầu phái đoàn CEP đi Trường-sa. Lần này
trong phái đoàn c̣n có bác sĩ Trần thị Phương-Châu, gịng Hưng-Hiến
vương, con thứ ba Hưng Đạo vương. Thời gian tháng 8, trúng vào ngày
giỗ Thái-tổ Trần Thừa. Tôi rủ ông Trần Định-Nhân cùng các chi giỗ
chung. Dĩ nhiên tài chánh do tôi với Châu đài thọ. Ông Nhân từ chối,
nhưng các chi khác lại đồng ư. Để tỏ cho các bạn Pháp, Trung-quốc
biết, chúng tôi tuy mang Pháp-tịch, tuy được trọng đăi, nhưng chúng
tôi không quên nguồn gốc. Tôi nhờ một nhà hàng lớn ở Nhạc-dương làm
cỗ, rồi mời phái đoàn Pháp, cùng chính quyền Nhạc-dương, Trường-sa
đến dự. Oâng Định Nhân đi trong phái đoàn chính quyền Trườùng-sa. Số
người tham dự lên tới 457 người, gồm 90 người là khách. C̣n lại là
Trần tộc. Giữa bữa tiệc, ông Nhân đứng lên phát biểu ư kiến: Rằng
đất Việt-Nam từ xưa là lănh thổ Trung-quốc. Rằng hiện nay, và măi
măi cũng vẫn là của Trung-quốc. Rằng mảnh đất Việt-Nam hiện bị thế
lực quốc tế tách khỏi tổ quốc như Hương-cảng, như Đài-loan. Rằng
tương lai sẽ phải trở về với tổ quốc. Lập tức ông bị cử tọa (phái
đoàn Trung-quốc) la ó, phản đối. Sau vụ này ông bị mất chức, rồi trở
thành chủ quán cà phê ở Tương-Âu, ngoại ô Trường-sa. Từ đấy, dù có
nhiều dịp gặp lại, mà tôi với ông không nói chuyện riêng với nhau.
5.3. Tại quốc nội.
Nếu khi sưu khảo tại Đại-hàn, tại Trung-quốc tôi gặp may, th́ tại
Việt-Nam tôi không gặp may. Bản phả mà tôi có dễ dàng là bản Trần
tông ngọc phả. Sách chép tay của gịng Hưng Vũ vương, con trưởng
Hưng Đạo vương, tại Hải-hậu, Nam-định. Bộ phả này chép từ Hưng Đạo
vương cho tới năm 1920. Song quá giản lược. Năm 1978, một người học
tṛ thân tín của tôi là bác sĩ Trần thị Phương Châu có đem bộ Trần
gia di phả. Sách chép tay của gịng Hưng Hiến vương, con thứ ba của
Hưng Đạo vương, tại Bát-tràng đến để so vai, xem ai lớn, ai nhỏ,
rồi nhờ tôi dịch sang tiếng Việt dùm. Cuốn phả này thuật hành trạng
của Hưng Hiến vương tỷ mỉ. Căn cứ vào đó, tôi rút ra được rất nhiều
chi tiết về cuộc b́nh Mông thứ nh́ và thứ ba. Bộ phả thứ ba là bộ
Trần gia ngọc phả, sách chép tay thư viện Khoa-học xă hội. Tôi tham
khảo dễ dàng. Bộ phả thứ tư mà tôi được đọc là bộ Trần đại tộc chính
phả của gịng Hưng Nhượng vương, con thứ nh́ của Hưng Đạo vương.
Nguyên vào năm 1995, tôi gặp ông Trần Quốc T. tại Hà-nội. Ông là hậu
duệ đời thứ 27 của Hưng Đạo vương. Như vậy ông ngang vai với tôi.
Chúng tôi nhận họ. So gia phả, ông phải gọi tôi bằng anh. Ông trao
cho tôi bộ phả này, nhờ dịch dùm. Đây là bộ sách chép tay của gịng
Hưng Nhượng vương tại Cổ-am. Lập tức tôi dịch, đọc vào băng cassette
cho ông. Tôi mất 3 tuần để làm công việc dịch thuật. Tôi dặn ông
chép lại, đánh máy. Năm sau tôi trở về sẽ hiệu đính. Nhờ bộ này, tôi
mới biết rơ Hưng Nhượng vương không phải là Tuệ Trung thượng sĩ, như
tôi lầm từ trước đến giờ. Cũng nhờ phả này tôi biết rơ hành trạng
của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. Hầu không tử trận như ĐVSKTT ghi sơ
lược, mà hoăng năm 1348. Cũng năm 1995, nhân hành hương tại đền thờ
Hưng Nhượng vương ở Cửa Ông, thuộc tỉnh Hạ-long, một vị giữ đền có
đặt câu hỏi với tôi rằng: Vương hoăng khi c̣n đang trấn thủ Bắc-cương,
th́ táng tại đây. Sau đó vương phi về Cổ-am sống, th́ khi hoăng cũng
táng tại Cổ-am. Tại sao lại có mộ của vương và vương phi táng song
song nhau?
Nhân trong phái đoàn của tôi có kỹ sư địa chất Jean Marc Zimmermann,
lập tức ông đem máy Scaner ra ḍ, th́ chỉ thấy có một quan tài. Sự
kiện này dường như ban trị sự báo cáo lên cấp trên. Cũng do đó một
nữ tín chủ thấy xung quanh mộ tiêu điều quá, bỏ tiền ra xây một thềm
rộng, đẹp. Hai mộ chỉ c̣n một mà thôi. Không biết có phải do xây lại
bị động mồ, hay v́ nguyên cớ nào, mà trong năm 1996-1997-1998, hậu
duệ của vương...nhiều người bị tù, bị mất chức, bị chết. Họ đổ thừa
tại tôi Scanner nên mới có vụ xây lại gây tai vạ. Hè năm 1998, tôi
tới thăm ông Trần Quốc T. để xin sao chụp bộ gia phả, cùng hiệu đính
bản dịch. Ông khai chiến vơí tôi, đ̣i tôi phải bồi thường 100 ngh́n
đô. Tôi tŕnh bầy rằng tôi chỉ làm scanner thôi. C̣n xây thềm, bỏ
hai mộ cũ, xây mộ mới là chính quyền. Nhưng ông nhất định bắt đền
tôi. Ông quy chụp tôi là Việt-gian, là tay sai của C.I.A, là Ngụy
Sài-g̣n, là Bành-trướng Trung-Quốc... cử về Việt Nam để yểm phá đất
linh. Nếu tôi không là ông thầy dạy vơ, nếu tôi đi một ḿnh th́ có
lẽ đă mất mạng.
4. T́m trong kho tàng Trung-quốc
4.1. Chính sử
Nếu sử Việt nghèo nàn, chép vắn tắt bao nhiêu, th́ sử
Trung-quốc chép về cuộc chiến tranh Mông-cổ , Đại Việt lại nhiều vô
cùng, đa dạng vô cùng. Tuy vậy, để giúp các bạn có thể nh́n rơ hơn,
đỡ mất thời giờ hơn, tôi chỉ đưa ra những bộ thực sự có giá trị, hơn
nữa là bộ sách nguyên thủy. C̣n những bộ sau chỉ mô phỏng từ bộ
nguyên thủy th́ tôi bỏ qua.
Trung-hoa có 24 bộ chính sử, chép về 24 triều đại lớn. Các
bộ này chép theo nguyên tắc của Tư Mă Thiên trong bộ Sử-kư. Nội dung
phân ra : Bản kỷ chép các đời vua. Thế gia, chép các vương, hầu có
tính cách cha truyền, con nối. Liệt truyện chép tiểu sử các bà vợ
vua, các quan, các nước ung quanh, cùng những nhân vật nổi tiếng dù
là gian thần, trộm cướp. Biểu, bảng liệt kê các sự kiện theo thời
gian. Chí, chép văn học, quan chế, thiên văn, lịch số v.v.
Thường các bộ này do một cơ quan về sử của triều đại sau, chép về
triều đại trước. Như sử quan triều Nguyên, soạn bộ Tống-sử. Sử quan
triều Minh soạn bộ Nguyên-sử . Các cơ quan sử này, mỗi thời mang một
tên khác nhau. Tác giả ít khi là một người.
Bộ chính sử chép về Mông-cổ và triều Nguyên, do sử thần
triều Minh là Tống Liêm, Vương Vỹ vâng lệnh Minh Thái-tổ soạn năm
1369. Cái đáng trách là bộ Tống-sử, do sử thần triều Nguyên, một
triều đại mà dân Trung-quốc gọi là Hung-nô, Thát-đát, rợ phương Bắc...
soạn ; lại rất vô tư, rất chi tiết, rất đầy đủ. C̣n bộ Nguyên sử, do
sử thần Minh triều soạn lại luộm thuộm, thiếu sót, sai sự thực nhất
trong 24 bộ chính sử. Nguyên do chỉ v́ phải hoàn thành trong ṿng
một năm. Lại nữa, các sử thần triều Minh không biết chữ Thổ-phồn là
chữ lúc đầu Mông-cổ xử dụng. Họ lại không biết tiếng Mông-cổ vốn là
tiếng đa âm, trong khi tiếng Trung-quốc là tiếng đơn âm. Thành ra
những tài liệu mà triều Nguyên để lại ở sử quán Bắc-kinh trở thành
vô dụng.
Trong Nguyên sử, ta có thể t́m thấy những sử liệu liên quan đến
chiến tranh Nguyên-Mông với Đại-Việt :
_ Bản kỷ đệ tam, Hiến-tông kỷ, quyển 3.
_ Bản kỷ đệ tứ, Thế-tổ kỷ, quyển 4.
_ Liệt truyện 96, An-nam, quyển 209,
_ Liệt truyện 97, Chiêm-thành, quyển 210.
Truyện các văn thần, vơ tướng liên quan đến Đại-Việt như :
_ Liệt truyện 8, Tốc Bất Đài, Ngột-lương Hợp-thai, quyển 121.
_ Liệt truyện 15, A Truật, A Lư Hải Nha, quyển 128.
_ Liệt truyện 16, Lai A Bát Xích, Lư Hằng, quyển 129.
_ Liệt truyện 18, Áo Lỗ Xích, quyển 131.
_ Liệt truyện 20, Toa Đô, quyển 133.v.v.
V́ Nguyên sử thiếu sót, luộm thuộm, nên sau này đời Minh, Thanh và
cả Dân-quốc có nhiều bộ sử ra đời, bổ sung, hiệu đính như:
Về đời Minh.
_ Nguyên sử tục biên của Hồ Túy Trung.
_ Nguyên sử bị vong lục của Vương Quang Lỗ.
_ Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm.
Về đời Thanh.
Về đời Thanh, nhiều sử gia viết về Mông-cổ, cũng dễ hiểu. V́ các sử
gia đời Minh muốn viết những sự thực không đẹp của Minh Thái-tổ
trong cuộc chiến Minh-Nguyên phải e dè. Lư do khác là, tổ tiên của
nhà Thanh chính là Kim Ngột Truật nhà Kim. Mà Kim gốc từ bộ lạc
Nữ-chân, một bộ lạc trong vùng Thảo-nguyên như Mông-cổ. Họ hiểu
nhiều ngôn ngữ, phong tục Mông-cổ
_ Nguyên sử loại biên của Thiệu Viễn B́nh.
_ Bổ Nguyên sử thị tộc biểu, Bổ Nguyên sử nghệ văn chí, Nguyên sử
thập di, của Tiền Đại Hân.
_ Nguyên sử bản chứng, của Uông Huy Tổ.
_ Nguyên sử tân biên, của Ngụy Nguyên.
_ Nguyên sử dịch văn chứng bổ, của Hồng Quân.
_ Mông-Ngột nhi sử, của Đỗ Kỳ.
_ Tân Nguyên sử, của Kha Thiệu Mẫn.
Một bộ sử, mà khi nói đến tác giả, tôi muốn lợm giọng, đó là bộ An
Nam chí lược của Lê Trắc (Có sách chép là Lê Tắc). Y nguyên là môn
khách của Chương-hiến hầu Trần Kiện. Y cùng Kiện đầu hàng Nguyên năm
1285. Cũng nên nhắc ở đây, Kiện là con trai của Tĩnh-quốc vương Quốc
Khang. Khi An-sinh vương phi tức công chúa Thuận Thiên có thai ba
tháng, th́ bị Trần Thủ Độ ép đem vào cung làm hoàng hậu của vua Trần
Thái-tông. Cái thai đó sau sinh ra Quốc Khang. Quốc Khang không phải
là con vua, nên tuy là anh cả mà không được truyền ngôi. Ngôi vua
truyền cho em là Thái-tử Hoảng, tức vua Thánh-tông. Sau khi hàng
Nguyên, bọn Trần Kiện được Thoát Hoan đưa về Trung-quốc. Hưng Đạo
vương cho phục binh giết Kiện và bộ thuộc. Trắc thoát chết, mang xác
Kiện về g̣ Ôn-khâu táng. Y được Nguyên trọng dụng. Thời gian ở
Nguyên, y viết bộ An Nam chí lược. Nội dung, y đứng trên cương vị
thần tử Trung-quốc, luôn bóp méo lịch sử Việt. Tuy vậy trong bộ sử
này chép lại rất nhiều điều trọng đại ba cuộc b́nh Mông của Đại Việt.
Tôi xin căn dặn các bạn trẻ trước: Khi xử dụng An Nam chí lược phải
hết sức thận trọng.
4.2. Phả, bia đá, minh.
Nhiều vô cùng. Có một kho tàng vĩ đại, viết về nhưng tiểu tiết,
những truyện lặt vặt, những nhân vật nhỏ bé mà các sử gia bỏ qua. Đó
là những cuốn địa phương chí, nhân vật chí của những xă, những huyện
thuộc Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam. Những cuốn này cho tôi nhiều
chi tiết rất quư trong việc t́m hiểu về thời gian Mông-cổ cai trị
Trung-quốc, về ba cuộc xâm lăng Đại Việt. Hiện những tập sách nhỏ
này nằm rải rác ở các thư viện trung ương Liễu-châu, Côn-minh,
Quảng-châu hoặc tại thư viện Đại-học văn khoa, hoặc thư viện cấp
huyện, thậm chí cấp xă. Trong khi tiếp xúc với các giáo sư sử học,
nhân chủng học, và ngay cả những vị có trọng trách về văn hóa của ba
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam như:
Quảng Đông: Quảng-châu, Kỳ-giang, Dương-giang, Đài-sơn, Phật-sơn.
Quảng Tây: Liễu-châu, Nam-ninh, Ngọc-lâm, Hợp-phố, Khâm-châu, Long-châu.
Vân Nam: Côn-minh, Khai-nguyên, Văn-sơn, Điền Bắc, Khúc-tĩnh.
Các vị ấy cũng không hề biết rằng trong thư viện thống thuộc ḿnh
lại có những cuốn sách như vậy. Các vị ấy c̣n khuyên tôi chẳng nên
chú ư đến những tiểu tiết nhỏ nhặt. Họ đâu có biết rằng những cái
nhỏ bé ấy, nó như những viên gạch, tôi dùng để xây lâu đài vĩ đại.
Giáo sư Chung Vũ Ninh gọi tôi là con mọt sách lớn nhất mà ông gặp.
Dưới đây tôi chỉ đưa ra tên những tập quan trọng mà thôi.
_ Đại-lư di hậu lục, Vô danh, Minh. Thuật trận đánh của Đoàn Hưng
Trí với Ngột-lương Hợp-thai, y bị bắt.
_ Di tộc kỷ sự bản mạt, Vương Doăn, Minh. Chép về tộc Di ở Vân Nam,
cuối sách dành ra 15 trang nói về số phận 5 vạn quân Đại-lư theo
Ngột-lương Hợp-thai sang đánh Đại Việt.
_ Khúc-tĩnh nhân vật chí, Minh, Vô danh. Chép tiểu sử một số nhân
vật vùng Khúc-tĩnh, Vân Nam. Trong đó có 7 người theo Mông-cổ đánh
Đại Việt bị giết.
_ Điền Bắc chư thần chí, Minh, Đoàn Đại. Chép sự tích 25 thần ở Diền
Bắc, Vân Nam. Trong đó có tới 9 thần vào thời Mông-cổ cai trị.
_ Thát-đát cảo lục, Minh,Vơ Doăn Cương. Chép những thống khổ của dân
chúng vùng Quảng Tây phải gánh chịu trong ba cuộc chiến tranh
Mông-Việt.
_ Mông-thát di hận, Minh, Uông Huy, Chép những thống khổ của dân
chúng vùng Quảng Đông, Quảng Tây trong thời gian bị Mông-cổ cai trị.
Trong đó có ba lần đánh nhau với Đại Việt.
_ Đại-lư cổ sự lục, Minh, Uông Kinh. Chép những truyện kỳ lạ tại
triều đ́nh Đại-lư trong khoảng 1200-1257. Có chép cuộc chiến tranh
giữa Mông-cổ với Đại-lư.
Và hằng trăm sách lặt vặt khác.
Nếu thời Tống đă có bộ Tống triều công thần bi kư, đă giúp tôi khi
viết Nam-quốc sơn hà, th́ đời Nguyên, những loại bi kư lại rải rác,
hiếm hoi. V́ các văn gia Trung-nguyên coi người Mông-cổ là thứ rợ
Thát-đát, chỉ biết cướp bóc hăm hiếp, mà không có văn hóa, nên khi
các danh nhân Mông-cổ chết, ít đươc soạn bi kư kỷ niệm. Những bài bi
kư này, chính tác giả đă đưa vào thi hay văn tập của ḿnh:
Diêu Toại (1238-1314) trong Mục-am tập có bài kư nói về:
_ Sứ giả Nguyên là Trương Đ́nh Tân, đến Đại Việt năm 1269.
_ A-lư Hải-nha (Ariq Qaya), tướng tấn công Đại Việt năm 1285.
_ Trong bài Dĩnh-châu vạn hộ Để công thần đạo bi, có đề cập tới
chiến cuộc Mông-cổ với Chiêm, Việt.
Tô Thiên Tước (1294-1352) trong Nguyên triều danh thần sự lược, có
bi kư của:
_ A Truật (Aju), con trai Ngột-lương Hợp-thai, cầm quân đánh Đại
Việt năm 1958 do Vương Vân soạn.
_ Khac Kha Sun do Lưu Mẫn Trung soạn.
Cũng Tô Thiên Tước, trong Từ khê văn cảo, có bia chép về Lư Thiên
Hạo, một tướng thủy quân Nguyên, bị bắt trong trận Bạch-đằng năm
1288.
Bia trước đền Ôn Đức, thờ viên Thiên-phu trưởng tiếp viện lương thực
cho Ngột-lương Hợp-thai năm 1258, bị giết. Bia này do tôi phát hiện
tại xă Kiến-thủy, huyện Khai-nguyên, tỉnh Vân Nam.
4.3. Những chi tiết vụn vặt giá trị khác.
Một tài liệu, không phải là sử, được biên soạn vào đời
Nguyên, mang tên Hoàng triều kinh thế đại điển, tác giả là Triệu Thế
Diên và Ngu Tập soạn vào năm 1330-1331, dưới sự kiểm soát của
Thân-vương Mông-cổ Đác-khan Khác-kha-sun (Darqan Qarqasun). Sách này
hiện chỉ c̣n lại một chương đầu, in trong bộ Vĩnh-lạc đại điển. Nội
dung nói sơ đến cuộc chiến tranh với Đại Việt, Chiêm-thành, các sự
kiện được ghi rơ ngày, tháng, năm.
Một vài bài kư sự, thơ phú thù phụng của những sứ thần
Mông-cổ qua Đại Việt, cũng ghi lại đôi ba nét về thời cuộc. Đó là
các bộ:
An Nam hành kư của Từ Minh Thiện.
Trần Cương Trung thi tập của Trần Phu.
5. T́m trong kho tàng Âu-Phi
Quân Mông-cổ từng đánh phá các nước Trung Đông và hầu hết các nước
châu Âu, rồi đặt nền cai trị đến mấy trăm năm. Thế nhưng trong
Nguyên sử, chỉ dành đâu có mấy trang nói về cuộc ra quân kinh thế
hăy tục này. Đương thời sử gia các nước bị tai vạ đều ghi chép rất
tỷ mỉ. Trong cuộc sưu tầm, tôi t́m thấy những bộ sử lớn của các nước
sau đều tường thuật về biến cố này: Iran, Irak, Syrie, Afghanistan,
Hung-gia-lợi, Ba-lan, Nga-sô, Tiệp-khắc, Đức, Áo. Những nước thoát
khỏi tai ách này gồm Pháp, Ư, Anh, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha. Trong
các bộ sử đó, th́ bộ sử biên niên của nhà sử học Iran là Allah Rasid
ud-Din (1247-1318) có giá trị nhất. Trong bộ sử này, có nói qua về
vụ Thoát Hoan bị Đại Việt đánh bại.
Sang thế kỷ thứ 18-19-20, nhờ Đông Tây thông thương, các sử gia Âu-Phi
tham khảo thư tịch những nước Á-châu, họ viết về Mông-cổ rất chi
tiết. Song không sách nào nói đến ba cuộc b́nh Mông của Đại Việt cả.
Họ chỉ lược vài gịng, với nghi vấn: Mông-cổ bại ở Nhật-bản và Việt-Nam.
V́ sách quá nhiều, tôi chỉ lựa những bộ thực sự có giá trị, ghi
trong phần tài liệu đính kèm. Các bạn có thể mua về đọc.
6. Vấn đề tên của người Mông-cổ
Trong khi viết 11 quyển về thời Lĩnh Nam, 19 quyển về thời
Tiêu-sơn, tôi chưa bao giờ gặp khó khăn về vấn đề tên của nhân vật.
Những tên trong 30 quyển trên, hầu hết là tên Trung-quốc, Đại Việt,
rất dễ dàng cho tôi. Thảng hoặc gặp những tên Ấn-độ, Chiêm-thành,
th́ tôi cứ dùng tên Hán-Việt mà tiền nhân đă dùng, rồi ghi cạnh đó
tên phiên âm bằng tiếng Phạn như :
Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci)
Tăng-giả Nan-đà (Samvananda)
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)
Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II)
Bây giờ, tôi gặp khó khăn khi viết tên người Mông-cổ. Từ thủa c̣n
thơ, tôi học sử, gọi tên người Mông-cổ bằng tên phiên âm Hán-Việt
trong Nguyên-sử in đời Thanh, riết rồi thành quen. Khi tôi vào tuổi
13-14, học sử Thế-giới bằng tiếng Pháp, tôi gặp tên Mông-cổ mà người
Pháp phiên âm, làm tôi bàng hoàng như:
Thành-cát Tư-hăn là Gengis Khan.
Tốc Bất Đài là Sũbơdai.
Mộc Hoa Lê là Muqali.
Mông Ca là Mơngka.
Thế nhưng, mỗi khi có dịp đọc một quyển sách có liên quan đến Mông-cổ,
tôi lại mất th́ giờ rất nhiều thời giờ quy những tên trong sách ra
tên Hán Việt quen biết. V́ các tác giả người Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Ư,
họ phiên âm theo tiếng nước họ. Rồi ngay trong một nước, mỗi tác giả
lại phiên âm khác nhau. Lôi thôi! Rắc rối!
Tại sao?
Nguyên thủy, Mông-cổ chỉ là một tộc nhỏ trong vùng Thảo-nguyên. Họ
sống theo chế độ lều trại, không văn hóa, không có chữ viết. Khi
chinh phục Thổ-phồn, Thành-cát Tư-hăn mới dùng văn tự nước này làm
văn tự Mông-cổ. Lúc đánh đế quốc Khwarezm, Mông-cổ lại dùng văn tự
Ả-rập. Lúc Hốt Tất Liệt đặt nền móng cai trị ở Yên-kinh, họ lại dùng
Hán-văn. Đến năm 1288, Mông-cổ dùng tới 16 văn tự khác nhau. Mỗi
nước phiên âm tên Mông-cổ theo ư họ. Ngay trong cùng một nước, mà
mỗi người tùy ư phiên âm riêng. Cái phức tạp là ở chỗ đó.
Trước 1201, Mông-cổ cũng như các bộ tộc ở vùng Thảo-nguyên, cứ sau
trận đánh với nhau, th́ bên thắng bắt tất cả đàn ông của bên bại làm
nô lệ. C̣n vợ, con gái của kẻ thù, bắt làm tỳ thiếp cho ḿnh. Sau
khi thắng bộ tộc Năi-man, một bộ tộc văn minh, Thành-cát Tư-hăn bỏ
lệ ấy. Ông sát nhập hai bộ tộc làm một, cho người Năi-man được sống
b́nh đẳng như người Mông-cổ. Sự rộng lượng này đưa Mông-cổ trở thành
nước lớn. V́ vậy, từ đấy, khi đánh đến đâu, ông tuyển người địa
phương bổ xung tổn thất. Ông dùng người địa phương làm tướng. Cho
nên, trong quân Mông-cổ có nhiều tướng gốc Á-rập, Âu-châu, Thổ-phồn,
Tây-hạ, Thát-đát, Cao-ly, Trung-quốc. Lại c̣n những tên Thánh của
Hồi-giáo, Thiên-chúa giáo...Tên của họ, đối với chúng ta ngày nay
cũng đă rắc rối rồi, huống hồ hồi đó !
V́ vậy có t́nh trạng mạnh ai, người ấy phiên âm. Nói đâu xa, gần đây,
Paris thành Ba-lê, Moscou thành Mạc-tư-khoa. California thành Gia-châu,
Canada thành Gia-nă-đại. Montesquieu thành Mạnh Đức Tư Cưu. Karl
Marx thành Mă Khắc Tư.
Năm 1976, khi tôi mới làm việc cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Tên
cúng cơm là Commité médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC). Trước
những danh từ, mà chưa ai dịch, hoặc dịch nhưng chưa thống nhất, tôi
cứ sáng tác bừa ra. Lúc đầu, nhiều anh em viết sách kêu trời, v́ họ
đă dịch rồi. Nay họ phải đổi lại. Tỷ như Rhum des foins, người bị
chứng này khi hoa nở th́ bị dị ứng mũi, mắt. Tôi dịch là hoa khai
thế lệ. Nghĩa là hoa nở, nước mắt nước mũi chảy. Tiền trả xa lộ, bao
năm đă dịch là xa lộ phí, tôi dịch là tiền măi lộ. Tiền eo-phe tại
Hoa-kỳ, tiền RMI tại Pháp tôi dịch là tiền chẩn bần. Địa danh
Chamonix tôi dịch là Đại-lang sơn tuyết phong. Tổng-thống Clinton,
tôi dịch là Kha-lâm-tông. Thuốc Viagra tôi tương đại là Uy-nhi-cương
có nghĩa là uống Viagra vào, th́ cái nớ cứng lên, hùng dũng. Trước
sau dịch từ Hoa-văn ra Pháp-văn và ngược lại, tôi đă sáng tác ra gần
700 từ. Thế mà, bây giờ những từ đó, trở thành chính thức.
Trở lại những tên Mông-cổ. Cái gă con trai Tốc Bất Đài, nguyên soái
Mông-cổ đánh Đại Việt lần thứ nhất vào năm 1258, Nguyên-sử chép là
Ngột-lương Hợp-thai, Ngột-lương Cáp-thai. ĐVSKTT chép là Ngột-lương
Hợp-đải. ANCL chép là Ngột-lương Cáp-đải. Thông-giám tập lăm chép
là Ô-đặc-lư Cáp-đạt. Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo vương lại là Cốt-đải
Ngột-lang. Bột-lan Hợp-đáp-nhi, Nguyên sử chép là Bột-lỗ Hợp-đáp-nhi;
ANCL chép là Lư-la Hợp-đáp-nhi, Sách-la Cáp-đáp-nhi.
Lối phiên âm này, vào thời Nguyên, Minh đă hỗn loạn như thế. Sang
thời Thanh, năm 1781, vua Càn Long cho thành lập một ủy ban, soạn bộ
Liêu, Kim, Nguyên tam sử ngữ giải. V́ tổ tiên của nhà Thanh là Kim
Ngột Truật. Mà Kim vốn gốc là bộ lạc Nữ-chân, một trong các tộc
thuộc vùng Thảo-nguyên như Mông-cổ. Cho nên ủy ban phiên âm các tên
trong Liêu-sử, Kim-sử, Nguyên-sử thành âm Măn-thanh, ghi bằng Hán-văn.
Thế là...rối loạn càng thêm rối loạn. Lộn tùng phèo hết. Ngột-lương
Hợp-thai được đổi thành Ô-lan Cáp-đạt, A-lư Hải-nha thành A-nhĩ Cáp-nhă.
Bản in Nguyên-sử mà tiền nhân dạy tôi, là bản in đă sửa đổi theo
phiên âm Càn Long. Măi tới năm 1978, khi theo Ủy-ban trao đổi y học
Pháp-Hoa sang Hồ Bắc, tôi đọc bộ Nguyên-sử cũ, mới bật ngửa ra cái
sự khác nhau. Trong dịp này nhờ điều trị cho giáo sư sử học Cao Toàn
An, tôi được ông giảng giải chi tiết về sự phiên âm này. Tôi như
người mù đươc mở mắt về vấn đề phiên âm.
Bởi vậy khi đọc sử Trung-quốc giai đoạn này rất dễ lầm lẫn.
_ Ông Hoàng Thúc Trâm trong tác phẩm Trần Hưng Đạo lầm rằng A Truật,
A Châu là hai người khác nhau. Thực ra A Truật là phiên âm đời Minh.
C̣n A Châu là phiên âm đời thanh.
_ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược lầm Tích-lệ-cơ-ngọc thành
Tích-lệ và Cơ-ngọc.
_ Nhà sử học Nhật-bản Yamamoto Tatsuto lầm Ḥa-lễ-hoắc-tôn thành Ḥa-lễ
và Hoắc-tôn.
_ Các dịch giả bộ KĐVSTGCM của viện Sử-học Hà-nội cắt I-lặc-cát-đại
thành Y-lặc và Cát-đại.
Vậy trong hai bộ tôi viết về thời b́nh Mông này, sẽ phiên âm ra sao?
Theo sách Anh? Nhưng sách Anh nào? Theo sách Pháp? Nhưng sách Pháp
nào? Tôi nhận ra cách phiên âm của các nước châu Âu tuy khác biệt
nhau, nhưng đại lược giống nhau. Chỉ cần biết tên đó do một nước
phiên âm, khi gặp tên đó do nước khác phiên âm cũng đoán ra. Như
Thành-cát Tư-hăn, họ phiên âm là Gengis Khan, Cjensitan, Chsgengista...
C̣n trong sách của tôi, tôi nghĩ: Thôi th́ dầu sao tôi cũng từng là
người thông dịch Pháp-Hoa trong 24 năm, tôi tự quyết định lấy. Quyết
định này đặt trên căn bản sao cho giới trẻ Việt, dù ở trong nước,
hay ở hải ngoại không bị lầm lẫn, dễ dàng nắm được vấn đề khi đọc
sách Việt, khi đọc sách Trung-quốc hay sách Anh, Pháp, Đức ! Nguyên
tắc đó là:
1. Dùng tên phiên âm của Nguyên-sử, mà lịch sử Việt từng dùng. Tên
này quen với người Việt. Không cần biết tên đó phiên âm thời Nguyên-Minh
hay Càn Long. Sau đó chú giải một trong cách phiên âm của Tây-phương.
Tỷ như khi nói tới Triết Biệt, tôi giữ nguyên, rồi chú giải ngay
cạnh hoặc bên dưới là Jăbă. Hốt Tất Liệt chú giải cạnh là Qubilai.
Ngột-lương Hợp-thai chú giải cạnh là Uryangqadai.
2. Ngược lại khi chép những tên, mà sử Việt không nói tới, Nguyên sử
có nói tới, tôi dùng tên phiên âm Nguyên-sử. Như sông Onon, tôi chép
là Long-lư hà, rồi chú giải cạnh. Như tên một thành ở biên giới Mông-cổ,
Tây-hạ, Nguyên-sử gọi là Lực-cát-lư doanh, tôi vẫn giữ nguyên, nhưng
chú giải cạnh là Wolohai.
3. Những tên người, đất chỉ xuất hiện ở Mông-cổ, hoặc Tây-phương,
Trung Đông, mà Nguyên sử không nói tới, tôi tự phiên âm, rồi chú
giải phiên âm của Tây-phương bên cạnh.
Hy vọng, với tuổi trẻ hiếu học, với những bước đầu tôi đi qua, để
lại; các bạn dễ dàng t́m hiểu về Mông-cổ, t́m hiểu về trang sử anh
hùng của tộc Việt ta trong ba lần b́nh Mông.
Paris ngày 19 tháng Chạp, năm Mậu Dần.
Nhằm ngày 4 tháng 2 năm 1999.
Một đoạn ngắn gia phả họ Trần
Dịch nghĩa
Từng nghe rằng: Thấy muôn núi trùng trùng, điệp điệp mà xét đến tột
cùng ngọn núi Tu Di(1). Xem thấy sông lạch mênh mông mà suy tận cùng
đến tinh tú. Thế nên nhà phải có gia phả, cũng như nước phải có sử
sách, đó là điều thật không thể thiếu vậy?
Xưa, các triều đại của nhà Ngu, nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu, sự liên
quan trong gịng họ mỗi đời đều thấy rơ.
Gịng dơi họ Trần nhà ta, nguồn gốc từ Mân-châu (2) trước chọn đất
An-sơn (Nay thuộc huyện An-hưng, tỉnh Khánh-an), sau di xuống làng
Tức-mặc. Ông tổ tên Hồng-Phúc (3), nhờ tích đức, lũy nhân, nên tiếp
nhận được thế đất Thái-đường (Nay thuộc xă Thái-đường, huyện Hưng-nhân,
tỉnh Thái-b́nh).
Ngôi đất ấy, sách Phong-thủy gọi là
"Liên hoa kết nhụy, dĩ nhan sắc đắc thiên hạ"(4)
Về sau, quả nhiên đức Trần Thái-tông (Thuộc chi thứ trong họ) được
họ Lư truyền vị, lên ngôi báu, trải 14 đời vua. Nếp nhà nhân hậu,
con cháu phồn vinh, thịnh vượng. Há bảo rằng : Không thể lường máy
tạo, khó tính nổi mệnh trời, đầy dẫy sóng cuồn cuộn, để đạt thành sự
nghiệp từ ngàn xưa đến ngàn sau.
Kế đến, gịng họ dời về cư ngụ tại phường Hà-khẩu, đất Hà-thành,
cũng đời đời ǵn giữ nếp nhà, nên hàng sĩ phu, quan lại, nay chính
là họ Đặng-Trần đó. (5)
Chi trưởng họ nhà ta, trung hiếu nề nếp, kính giữ thần chức. Thời kỳ
nhà Trần đang thịnh th́ nếp nhà vinh hiển, cùng gánh vác chia sẻ lẽ
hưng suy của Xă Tắc....(6)
Chú giải
(1) Tu-di, ngọn núi không có trên địa cầu.
Thấy thuật trong kinh Phật. Ở đây, ư muốn nói: Nguồn gốc của các
ngọn núi trên thế gian.
(2) Thời An Dương vương, vùng Nam-hải bị Triệu Đà chiếm,
Phương-chính hầu Trần Tự Minh, di gia thuộc xuống vùng Giao-chỉ.
(3) Hồng Phúc là tên thụy của Trần Tự Kinh, sau được truy tôn là
Mục-tổ hoàng đế (1103-1190).
(4) Nghĩa là hoa sen kết thành nhụy. Nhờ nhan sắc mà được thiên hạ.
Ư chỉ con gái Nguyên-tổ Trần Lư là Trần thị Kim Dung, kết hôn với
vua Lư Huệ-tông, mà cháu là Trần Cảnh được Lư Chiêu-hoàng tuyển làm
chồng, rồi được nhương ngôi.
(5) Khi bị giặc Hồ Quư Ly cướp ngôi. Con cháu các vua Trần phiêu bạt
khắp nơi, trốn tránh. Đổi họ thành Đặng, khi họ Hồ bị quân Minh bắt,
một số đổi ra họ Đặng Trần.
(6) Chi trưởng chỉ con cháu An-sinh vương Trần Liễu với các
vị Hưng-ninh vương Trần Quốc Tung, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, Vũ
Thành vương Trần Quốc Doăn.
Bài tán của Tŕnh Quốc-công Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi đọc gia phả Trần
tộc.
Phiên âm.
Đông-sơn chi dương,
Húc nhật hoàng hoàng,
Căn thâm phái dẫn.
Thịnh truyền mỹ chương,
Liên chi quỳnh cán,
Dịch tự thư hương.
Phong hùng hải biểu,
Vũ nhuận phân hương.
Lan giai dụ ấm,
Quế tịch đằng phương.
Phúc điền lợi ích,
Nhân trạch an khang.
Cầu đồ thư bảo,
Tần vi thi chương.
Ư kim vi liệt,
Chấn cổ hữu quang.
Trắc giáng cụ nhĩ,
Tại thượng, tại bàng.
Ái như nhập hộ,
Tư hồ đăng đường.
Nghĩa thâm truy viễn,
Tố tự Thiên-trường.
Ô! Hoàng ngọc phổ,
Đỉnh Hạ, đôn Thương.(1)
Tŕnh Quốc-công,
Cổ-am Bạch vân Nguyễn tiên sinh bái tán
Dịch
Ấm phủ non Đông,
Mặt trời rực rỡ,
Rễ sâu lan tỏa.
Nền thịnh sáng hồng!
Gốc quỳnh liền cành,
Thư hương tiếp nối,
Gió hùng biển cả.
Mưa nhuận thôn trang,
Thềm lan ôm ấp,
Vườn quế ngát hương.
Phúc điền sinh lợi,
Nhân trạch an khang.
Đồ thư quư báu,
Thi chương thơm lừng.
Nay vẫn rạng rỡ,
Nguồn sáng chấn hưng.
Trắc giáng đă đủ,
Ở trên, ở dưới,
Phảng phất vào cửa,
Suy niệm đăng đường.
Nghĩa sâu truy xa,
Từ cung Thiên-trường.
Ôi ! Hoàng ngọc phổ,
Đỉnh Hạ, đôn Thương.
Tŕnh Quốc-công Bạch-vân
tại làng Cổ-am bái tán.
Chú giải
(1). Hưng-Đạo vương có bốn vương tử, đều là đại tướng lậïp nhiều
công trong cuộc chống Mông-cổ lần thứ nh́ và ba. Cả 4 đều được phong
vương, có thái ấp riêng: Hưng-Vơ vương, Hưng-Nhượng vương, Hưng-Hiến
vương, Hưng-Trí vương. Cho đến nay, dù mất nhiều công sưu tầm, tôi
cũng không t́m ra di duệ của Hưng-Trí vương. Bài tán này, tôi thấy
trong hầu hết các gia phả thuộc gịng Hưng-Vơ, Hưng-Nhượng,
Hưng-Hiến vương. Không biết Tŕnh Quốc-công Nguyễn Bỉnh Khiêm đă làm
năm nào?
(2). Non Đông để chỉ núi Thái-sơn, ư nói công đức sinh thành của tổ
tiên. Nhưng sườn non Đông ở đây có nghĩa: Sườn có nghĩa là chữ phụ.
Chữ phụ với chữ Đông thành chữ Trần.
(3) Thiên-trường, tên một trấn, nơi phát tích của gịng họ Trần. Nay
thuộc Nam-định và Thái-b́nh.
(4) Đỉnh Hạ, nhà Hạ bên Trung-quốc, khi thống nhất thiên hạ, đă đúc
chín cái đỉnh tượng trưng cho chín châu, để ở kinh đô,tỏ rơ quyền đế
vương. Đôn Thương: Nhà Thương nối tiếp nhà Hạ, đúc chín cái đôn, để
chín cái đỉnh của nhà Hạ lên trên, tượng trưng nhà Thương kế tục nhà
Hạ, làm chủ thiên hạ. Toàn ư câu này muốn nói, triều Trần do đức mà
được Thiên-hạ.
Thư tịch về Mông-cổ,
và ba cuộc b́nh Mông của tộc Việt,
thế kỷ thứ XIII.
Sách Việt ngữ.
So sánh với sách Trung-quốc, Nhật-bản, Cao-ly hay bất cứ các sách
Tây-phương, th́ sách báo Việt-ngữ viết về ba cuộc b́nh Mông quá ít,
quá sơ lược. Tuy nhiên tôi cũng ghi vào đây.
Chu Thiên, Chống quân Nguyên, Sở học liệu, Bộ Văn-hóa giáo dục VNCH,
Đại Nam California, USA tái bản.
Đào Duy Anh, Lịch-sử Việt-Nam, Sở học liệu, Bộ Văn-hóa giáo dục VNCH,
Đại Nam, California, USA tái bản.
Đào Duy Anh, Tài liệu về cuộc kháng chiến của nhà Trần đă ngăn chặn
sự bành trướng của Mông-cổ xuống Đông Nam Á, Nghiên cứu lịch sử, số
12, Hà-nội tháng 9 năm 1962.
Đào Duy Anh, T́m các đèo Khâu-cấp và Nội-bàng trên đường dụng binh
của Trần Hưng Đạo. Nghiên cứu lịch sử số 66, Hà-nội tháng 9 năm
1964.
Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược
Nguyên-Mông thế kỷ thứ XIII. Nhà xuất bản Khoa-học xă hội Hà-nội
1975.
Nguyễn Ngọc Thụy, Về con nước thủy triều trong trận Bạch-đằng năm
1288, Nghiên cứu lịch sử số 63, Hà-nội tháng 6 năm 1964.
Nguyễn Văn Dị, Văn Lang, Nghiên cứu về trận Bạch-đằng năm 1288,
Nghiên cứu lịch sử số 49, Hà-nội tháng 4 năm 1963.
Phạm Ngọc Phụng, T́m hiểu chiến thuật, chiến lược thời Trần Lê,
Hà-nội 1963.
Trần Hà, Xung quanh trận Bạch-đằng năm 1288, Nghiên cứu lịch sử số
46, Hà-nội tháng 1 năm 1963.
Trần Huy Liệu, Kỷ niệm 675 năm trận chiến Bạch-đằng, Nghiên cứu lịch
sử số 50, Hà-nội tháng 5 năm 1963.
Trần Trọng Kim, Việt-Nam sử lược, Sở học liệu, Bộ Văn-hóa giáo dục
VNCH, Đại Nam, California, USA tái bản.
Văn Tân, Bàn thêm về nguyên nhân khiến cho cuộc kháng chiến chống
quân Mông-cổ hồi thế kỷ thứ 13 đi đến thắng lợi. Nghiên cứu lịch sử
số 66, 67 tháng 9-10 năm 1964.
Sách chữ Hán
Đây là loại sách viết bằng chữ Trung-quốc, nhưng tôi gọi là
sách chữ Hán, để phân biệt với sách do người Trung-quốc viết. Chữ
Trung-quốc, trong quá khứ, tổ tiên ta đă dùng làm văn kiện, thi cử
mấy ngh́n năm, được gọi là chữ Hán đă quen. Một vài bộ, do họ Lư tại
Đại-hàn, gốc là con cháu Lư Dương Côn, Lư Long-Tường sang kiều ngụ,
đă viết, nhưng khi viết, họ đứng trên danh nghĩa người Việt, cũng
được ghi vào mục này. Nói nôm na ra mục này ghi : Sách chữ
Trung-quốc do người Việt viết.
Tuy nhiên khi viết bộ An-Nam chí lược, Lê Tắc đă đứng trên
lập trường là thần tử nhà Nguyên ; con cháu Chiêu-quốc vương Trần
Ích-Tắc khi chép gia phả, cũng luôn coi ḿnh là người...Trung-quốc ;
v́ vậy những sách ấy được ghi vào mục tài liệu Trung-quốc.
Sách chữ Hán do người Việt viết tuy nghèo nàn, nhưng lại là
tài liệu rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-cổ
của tổ tiên ta xưa.
Một số lớn sách, chép về các anh hùng, không mấy quan trọng
mà tôi đă ghi chú ngay dưới các sự kiện, th́ không chép vào đây.
Cao-ly sử, thư viện quốc gia Hán-thành, Đại-hàn.
Chiêu-Quốc di hậu lục. Sách chép tay của con cháu Chiêu-Quốc vương
Trần Ích-Tắc, tại trấn Nhạc-dương, tỉnh Hồ-Nam Trung-quốc.
Đại-Nam nhất thống chí, bản Tự-Đức, chép tay.
Đại-Việt sử kư toàn thư, Trần Kinh-Ḥa chú giải, Đông-kinh đại học,
Đông-dương Văn-hóa nghiên cứu sở xuất bản, niên hiệu Chiêu-ḥa thứ
59.
Đại-Việt sử kư, đời Tây-sơn.
Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục, Quốc-sử quán triều Nguyễn,
bản in 1881.
Nam-sử tập biên, của Vũ Văn Lập. Bản chép tay của thư viện Khoa-học
xă hội Hà-nội.
Tiêu-sơn truyền phả. Sách chép tay của con cháu Kiến B́nh vương Lư
Long Tường tại Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Nin Gun), tỉnh
Hoàng-hải (Hwang-hạc) , Bắc Triều-tiên.
Tinh-thiện Lư thị tộc phả. Bản chép tay của thư viện quốc gia
Hán-thành, Nam Hàn.
Trần gia di phả. Sách chép tay của gịng Hưng Hiến vương tại
Bát-tràng.
Trần gia ngọc phả, sách chép tay thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.
Trần gia điển tích thống biên. Sách chép tay của thư viện Khoa-học
xă hội Hà-nội.
Trần Hưng Đạo vương cựu tích. Sách chép tay của thư viện Khoa-học xă
hội.
Trần Kiến-trung thực lục hay Vạn-yên thực lục. Sách chép tay của thư
viện Kha-học xă hội, Hà-nội.
Trần đại tộc chính phả. Sách chép tay của gịng Hưng Nhượng vương
tại Cổ-am.
Trần đại vương b́nh Nguyên thực lục, bản chép tay của thư viện
Khoa-học xă hội Hà-nội.
Trần tông ngọc phả. Sách chép tay của gịng Hưng Vũ vương tại
Hải-hậu, Nam-định.
Trần triều thế phả hành trạng. Sách chép tay của thư viện Khoa-học
xă hội Hà-nội.
Trần vương truyện khảo, của Trần Duy Vôn 1931, sách chép tay của thư
viện Khoa-học xă hội, Hà-nội.
Trần-gia Bắc-tông chính phả. Sách chép tay của con cháu Chiêu-Quốc
vương Trần Ích-Tắc tại xă Lănh-thủy, thị xă Trường-sa, tỉnh Hồ-Nam,
Trung-quốc.
Việt-sử tổng vịnh, bản in đời Tự-Đức bản in đời Tự-Đức 1874).
Tài liệu Trung-quốc,
Nguồn tài liệu này quá phong phú, nhưng lại quá phức tạp.
Nếu chép hết, có lẽ tới vài ngh́n bộ. Ở đây tôi chỉ ghi tên những bộ,
hội đủ điều kiện sau :
_ Có giá trị nhất, nguồn gốc rơ ràng.
_ Có tàng trữ tại các thư viện lớn, hoặc thư viện các đại
học tại Hoa-kỳ, Pháp, Canada, Anh, Đức, Đông-kinh, Hán-thành và thư
viện Khoa-học xă hội Hà-nội.
_ Có giá trị nguyên thủy. Tỷ như cùng một sự kiện, một tác
giả chép rồi có nhiều tác giả khác lấy làm căn cứ viết các bộ khác,
th́ tôi chỉ ghi tên bộ nguyên khởi.
_ Có liên hệ tới cuộc chiến Nguyên-Việt.
_ Những bộ sử, mà tác giả viết vào thời gian 1949 tới 1998,
trong tinh thần Marxisme, Léninisme, Maoisme không mấy trung thực,
tôi không ghi vào đây. Tuy nhiên một vài bộ do các cơ sở quân đội
soạn có giá trị cao. Các bộ này được dùng làm tài liệu tham khảo cho
các sĩ quan chỉ huy tham mưu, cho các trường quân sự cao cấp, tuy
rất khô khan, nhưng lại có nhiều giá trị về t́nh báo, về chiến thuật,
chiến lược, tôi cũng ghi vào đây.
An-Nam chí lược, của Lê Trắc, Trần Trung-Ḥa chú giải, Đông-kinh đại
học, Đông-dương văn hóa nghiên cứu sở xuất bản, niên hiệu Chiêu-ḥa
thứ 59.
An-Nam chí nguyên, của Cao Hùng Trưng, Cẩm-chướng thư cục
Thượng-hải, 1921.
B́nh Tống lục, của Lưu Mẫn Trung, đại học Văn-khoa Triết-giang,
1978.
Chân-lạp phong thổ kư, Chu Đạt-Quan trong bộ Cổ kim đồ thư tập thành.
Trung-hoa thư cục xuất bản, 1973.
Chiêu-bổ tổng lục, Thủ-sơn các tùng thư.
Chư phiên chí, của Triệu Nhữ-Quát, Đông-kinh đại học, Đông-dương văn
hóa nghiên cứu sở xuất bản, niên hiệu Chiêu-ḥa 54.
Hắc-thát sự lược, của Bành Đại-Nhă và Từ Đỉnh, đại học văn, khoa
Giang-tô 1970.
Hoa-di dịch ngữ, bản trong Hàm-phàn lâu bí níp.
Kinh thế đại điển tư lục, bản trong Nguyên-văn loại.
Kinh thế đại điển, bản trong Vĩnh-lạc đại điển.
Liêu Kim Nguyên sử ngữ giải, soạn năm 1781, bản của Giang-tô thư cục.
Mông-ngột-nhi sử, của Đỗ Kỳ, 1934.
Mông-thát bị lục, của Triệu Hồng, bản trong Mông-cổ sử liệu từ chủng
hiệu chú của Vương Quốc-Duy, viện nghiên cứu Thanh-hoa học hiệu.
Mục-am tập, của Diêu Toại, bản của đại học sư phạm Bắc-kinh 1979.
Đại-lư hành kư, của Quách Tùng-Niên, Kỷ-văn trai tùng thư.
Đào-viên học cổ lục, của Ngu Tập-Nguyên, Cẩm-chướng thư cục
Thượng-hải 1924.
Đảo di chí lược, của Uông Đại-Nguyên, bản của Cổ-học vựng san 1911.
Nguyên hành tỉnh thừa tướng b́nh chương chính sự niên biểu, của Ngô
Đ́nh-Nhiếp trong Nhị thập ngũ sử bổ biên.
Nguyên đại bạch thoại bí tập lục, nhà xuất bản Khoa-học xă hội,
Bắc-kinh 1955.
Nguyên đại Vân-nam sử địa tùng khảo, của Hạ Quang-Nam, Trung-hoa thư
cục Bắc-kinh xuất bản 1976.
Nguyên điển chương, bản niên hiệu Quang-tự, 1908.
Nguyên sử bản chứng, của Uông Huy-Tổ, nhà xuất bản Khoa-học xă hội,
Bắc-kinh 1978.
Nguyên sử bị vong lục, của Vương Quang-Lỗ, nhà xuất bản Khoa-học xă
hội, Bắc-kinh 1978.
Nguyên sử dịch văn chứng bổ, của Hồng Quân, Quảng-nhă thư cục 1900.
Nguyên sử kỷ sự bản mạt, của Trần Bang-Chiêm, Thương-vụ ấn thư quán
Hương-cảng 1973.
Nguyên sử loại biên, của Thiệu Viên-B́nh, nhà xuất bản Khoa-học xă
hội Bắc-kinh, 1978.
Nguyên sử nghệ văn chí, của Tiêu Đại- Hân, nhà xuất bản Khoa-học xă
hội Bắc-kinh, 1978.
Nguyên sử ngoại di truyện địa lư khảo dị,của Đinh Khiêm, nhà xuất
bản Khoa-học xă hội Bắc-kinh 1978.
Nguyên sử đồng danh lục, của Uông Huy-Tổ, Quảng-nhă thư cục.
Nguyên sử tân biên, của Ngụy Nguyên, Cẩm-chướng thư cục Thượng-hải
1920.
Nguyên sử, Tống Liêm tổng biên tập, Trung-hoa thư cục xuất bản.
Nguyên Thánh vũ thân chinh lược, bản của Đông-kinh đại học, không rơ
năm xuất bản.
Nguyên thị tộc biểu, của Tiêu Đại-Hân, nhà xuất bản Khoa-học xă hội,
Bắc-kinh 1978.
Nguyên triều bí sử, tân dịch bản của Chu Ngân-Danh, đại học sư phạm
Trường-sa 1980.
Nguyên triều chinh tiễu An-Nam khảo bị, sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến,
Bộ Tổng tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc.
Nguyên triều danh thần sự lược, của Tô Thiên-Tước, đại học văn sử
Thượng-hải 1979.
Nguyên văn loại, của Tô Thiên-Tước, Thương-vụ án thư quán 1958.
Quách-thị Nam chinh, con cháu Quách Quỳ, bản photocopie của Bộ
Chỉ-huy quân sự tỉnh Quảng-Tây.
Tân Nguyên-sử, của Kha Thiệu-Mân, đại học Văn-sử Giang-tô, 1977.
Thành-cát Tư-hăn Tây-chinh khảo lược, Sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến,
Bộ Tư-lệnh quân khu miền Tây Mông-cổ, 1960.
Thiên Nam hành kư, của Từ Minh-Thiệu, đại học Văn-sử Vân-nam 1976.
Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ kư, con cháu Triệu Tiết, bản
photocopie của Bộ Chỉ-huy quân-sự tỉnh Quảng-Tây.
Tục tư trị thông giám, của Tất Nguyên, Trung-hoa thư cục 1966.
Vân-Nam chí lược, của Lư Kinh, đại học Văn-sử Vân-Nam 1976.
Việt kiệu thư, của Lư Văn Phượng, bản chép tay của thư viện Khoa-học
xă hội Hà-nội, và đại học Văn-sử Quảng-châu 1982.
Nguồn tài liệu tiếng Tây-phương
Tài liệu gốc Mông-cổ
thế kỷ XIII-XVII
Altan Debter (Livres d'Or), source introuvable du XIII° siècle (le
début de sa rédaction pourrait remonter à 1225) sur l'histoire de la
lignée de Gengis-Khan, gardée dans le Trésor de l'Etat. La source
chinoise Sheng-Wu T'sin - Tseng Lu en dérive ainsi que la source
arabo-perse de Rasid ud-Din.
Monggol-un Ni uca Tobcian (Histoire Secrète des Mongols),
probablement écrite en caractères ụgur en 1228 (perdue) et en
caractères chinois vers 1240 ; traduite en chinois en 1370 sous le
titre Yüan-ch'ao pi-shi. Suivant les versions :
_ du texte mongol Monggol-un ni ucaa tobci'an, de E. HAENISCH, Die
Geheime Geschichte der Mongolen, Leipzig 1949 ; P. PELLIOT, Histoire
Secrète des Mongols, Paris 1949 ; M. OLSUFIEVA, Storia Segreta dei
Mongoli (version italienne du texte reconstitué par l'universitaire
russe SERGEJ KOZIN), Milan 1973 ;
_ du texte chinois Yuan-tch'ao pi-chi (extraits), de E. HAENISCH,
Untersuchungen über das Yüan-ch'ao pi-shi, die Geheime Geschichte
der Mongolen, Leipzig 1937.
Cinggis-Qahan-u Hujahur (Les origines de Gengis-khan), rédigé en
1228, faisant peut-être partie de l'Altan Dëbtër, incorporé à
l'Histoire Secrète.
Altan Tobci (Histoire d'Or), chronique anonyme datant peut-être de
1604. D'après la version de C. R. Bawden (in « Gưttinger Asiatische
Forschungen », I), Wiesbaden 1954.
Altan Tobci (Histoire d'Or), chronique rédigée en 1667 environ par
le prince Lubdzandandzin, descendant de Dayan-Khan. D'après la
version de E. Haenisch, Die letzen Feldzüge Cinggis Han's und sein
Tod (in « Asian Major », IX), Leipzig 1933.
Cahan-Tëuqë (Histoire blanche), chronique du XIII° siècle concernant
le culte de Gengis-Khan, attribuée à Qubilạ-Khan.
Version de Zamca-rano, the Mongol chronicles of the Seventeeth
Century (in « Gưtt. Asiat. Forschungen », III) ; N. Pallisen, Die
alte Religion der Mongolen und der Kultus Tschingis-Chan's (in «
Numen »), Leiden 1956.
Ssanang-Ssetsen Chung-tajsi, Ërdëny-yin tobci (l'histoire
précieuse), saga mongole de 1662. D'après la version de I. J.
Schmidt, Geschichte der Osst-Mongolen und ihres Fürstenhauses, St.
Petersburg 1829.
Tài liệu Mông-cổ thế kỷ XVIII-XIX
Isibaldan, Ërdëny-yin ëriqë (La couronne de joyaux), chronique
khalkh de 1835.
Jimbadorji, Bolur Toli (Le miroir de cristal), chronique de
1834-1837. Les trois sources de la version raccourcie de W.Heissig
(in « Monumenta linguarum Asiae Maioris »), Copenhag 1958-1961-1962.
Lomi (desscendant de Dayan-Khan), Mongyol Borjihid oboy-un tëuqë
(Histoire du clan des Mongols Borjigin), chronique de 1732-1735.
Rasipungsuy, Bolur ëriqë (La Couronne de cristal), chronique de
1774-1775.
*Les deux sources de la version de W. Heissig (in « Monumenta Serica
»), Peiping 1945-1946.
Sirëgëtü-Güosi Dharma, Altan kürdün mingyan gëgësütü bicig (Le livre
de la roue d'or aux mille rayons), chronique de 1739.
Những tài liệu khác, tuy ngắn, nhưng
khá quan trọng, rải rác trong các tạp chí Tây-phương ghi ở cuối phần
này. Trong đó có các bài:
_ Yëqë Mongyol ulusun ün-düsun-u altan tobci (Histoire d'Or des
origines de l'Empire des Grands Mongols), rédigée en 1765 par le
lama ( ?)
_ Mërgën-gëgën, Subut ëriqë (La couronne de perle),
_ Cinggis-un tëuqë (Histoire de Gengis),
_ Cinggis qahan-un auiriyangyui sastir (Esquisse d'une histoire de
Gengis-khan),
_ Tayji Cinggis qahan-un tëuqë (Histoire du noble Gengis-khan),
_ Kưkư Tuy (Batnière bleue) [des Mongols bleus au temps de Gengis],
Tài liệu Măn-châu
Ilan Gurun-i Suduri (Histoire des trois royaumes) ou des trois
dynasties Liao, Kin e Yüan, rédigée en langue tartare vers 1646 sur
l'ordre de l'empereur mandchou Shun-shi, et subdivisée comme suit :
_Tai-Liao Gunrun-i suduri (Histoire du grand règne Leao), dans la
version de M. Conon von der Gabelentz, Geschichte der Grossen Tai-liao,
St. Petersburg 1877. Du texte chinois Liao-shi (Annales Leao), voir
les versions partielles de De Mailla, op. Cit., C. Visdelou,
Histoire de la Grande Tartarie, Maestricht 1780 ; E. Bretschneider,
Karakhitai (in « Mediaeval researches », cit.).
_ Aïssin Gurun-i suduri (Histoire de l'empire des Kin), version de
C. De Harlez, Histoire de l'Empire de Kin ou Empire d'Or, Louvain
1887.
_ Dais Yuwan Gurun-i suduri bithe (Histoire de l'empire des grands
Mongols), dans la version partielle de C. De Harlez, Manuel de la
langue mandchoue, Paris 1884. Pour cette source, cf. le texte
chinois de Yüan-shi (Annales Mongoles).
Kưke Sudur (Chronique bleue) (des origines impériales de la grande
dynastie Yüan), rédigée en 1840 par INJANASI et WANGCUNBALA. Dans la
version raccourcie de W. HEISSIG, Über die Kưke sudur (in «
Monumenta Serica », VIII) et dans la traduction partielle de O.
LATTIMORE , The Mongoles of Manchuria, Boston 1934.
Tài liệu Tây-tạng
JIGS-MED NAM-MK'A, Hor chos byun (1818), dans la version de G. HUTH,
Geschichte des Buddhismus in der Mongolei, Strasbourg 1902.
GÜÜSI DGELIGS NORBU, Qad-un tëuqë (Histoire des Rois), rédigées dans
la seconde moitié du XVIII° siècle.
Tài liệu ARABO-PERSANES
thế kỷ XIII-XIV
AL-BEIDGAWY ABD ALLAH, Anwar at-tanzil (Perles de l'Histoire) (XIII°
siècle).
AL-JUZJANI ABU 'UMR-I-'USMAN, Tabaqat-i-Nasiri (1260), dans la
version de H. G. RAVERTY, A general history of the Muhammadan
Dynasties of Asia (in « Bibliotheca Indica »), Londres 1881.
AL-MARRAKUSY ABD AL-WAHID, al-Kawakib ou al-Rasad (XIII° siècle)
extraits in PETIS DE LA CROIX, op. bibl.
AN-NUWAIRI, Nihayt al-arab (Le but ultime) (XIV° siècle).
EL-KAZHANI
ABD ALLAH, Zubdet el-Tawarikh (1303).
« Rasid ud-Din a dignement
dépouillé le malheureux Abd Allah el-Kazhani. Il a tout bonnement
fait recopier son
œuvre
et s'est contenté de la signer lorsqu'elle a été terminée et a
refusé de lui verser la somme qu'il lui avait promis » écrit E.
Blochet p. 144-145 et 151-152) dans son commentaire à la version de
Rasid ud-Din.
EL-NESAWI MOHAMMED, K'amil ut-Tawarikh (L'Histoire vraie)
(1231-1241), suivant la version de O. HOUDAS, Histoire du Sultan
Djelal ed-din Mankobirti prince du Kharezm par Mohammed en-Nesawi,
Paris 1895.
IBN AL-ATHỴR IZZ AD-DIN, Al-K'amil fi't-Tawarikh (La somme des
histoires) (1233), extraits, par BARBIER DE MEYNARD, Histoire des
Atabecs de Mosul (in
�Recueil
des Historiens des Croisades�, H. O., II), Paris 1872-1906; et in M. D'OHSSON LE BARON, op.
bibl., et BARTHOLD, op. bibl.
JUWAYNI ALA-AD-DIN'ATA-MALIK, Tawarikh-i-Fahangusa (Histoire du
conquérant du monde (1257-1260), suivant la version de G. R. SCARCIA,
Gengis-Khan, Il Conquistatore del mondo, Milan 1962.
QAZWINI ABDOLLAH MUSTAWFI, Tawarikh-i guzida (Histoire choisie), (XIVè
siècle).
RASID ED-DIN FADL ALLAH, Djami at-tawarikh (Annales Historiques)
(1303), qui a puisé lui-même dans Juwaini et dans le Livre d'Or
mongol. Dans les versions de M. D'OHSSON LE BARON (extraits),
œuvre bibliographique dérivée des sources (Cf. ci-dessous) ; E.
QUATREMERE, Histoire des Mongols de la Perse écrite en persan par
Raschid-Eldin, Paris 1836 ; E. BLOCHET, Introduction à l'histoire
des Mongols de Fadl Allah Raschid ed-Din, Leyden-London 1910.
WASSAF ABDULLAH BEN FAZLOLLAH DE SCIRAZ, Tajziyato'l-amsar (Sivisiion
des contrées) (1302-1312), extraits in M. D'OHSSON LE BARON, op.
bibl.
Tài liệu ARABO-PERSANES
thế kỷ XV-XVI
Abulcayr, Fateh name Tawarikh el-Osman (Le livre de l'histoire
d'Osman) (XVI° siècle) extraits dans Petis de la Croix, op. bibl.
Al-Makrizi Taki-Eddin Ahmed, Kitab as-suluk fi ma'rifa tawarikh al-muluk
(Introduction à la connaissance de l'histoire des rois) XV° siècle,
dans la version incomplète de : E. Blochet, Histoire d'Egypte, Paris
1908. E. quatremère, Histoire des Sultans Mamlouks de l'Egype, Paris
1845.
ez-Zemji Moayn ed-din Mohammed d'Esfizar, Rawzat ul-ennat,, fi
evsaf medinet il Herat (Les jardins xélestes, ou description de la
ville de Hérat) (XVI° siècle) extraits par Barbier De Meynard (in
“Journal
Asiatique”,
1860).
Hâfiz-Abrû, Zubfat et-Tawarikh (Crème de l'histoire) (XV° siècle)
dans la version raccourcie de K. Bayani, Chronique des Rois Mongols
en Iran, Paris 1936.
Khondemir o khwandamir, Habib us-siyar (L'ami des biographies) (XVI°
siècle) extraits de L. Bouvat, Empire Mongol, Paris 1927, et
Histoire des Khan Mongols et de la Transoxiane (in
“J. A.”, 1852).
Mirkhond ou Mirkhwand, Rawzat us-Safa (Jardin de Pureté) (XV°
siècle), traduit de l'anglais par E. Lamairesse, Jardin de Pureté,
Paris 1894. De l'original Vie de Djenghiz-Khan, Paris 1841 (texte
persan) et Histoire des Samanides, Paris 1845 (texte persan traduit
par M. Defrémery).
Sheref-ed-Din Ali Yazdi, Zafer-name (Le livre de la victoire)
(1424), dans la version de Petis de la Croix, Delf 1727.
Tài liệu ARABO-LATINES
Abul-Pharakio Gregorio sive Bar Hebraeus (XIII° siècle, écrit en
syriaque), Historia Orientalis, Oxoniae 1672; Chronicon Syriacum,
etc., Lipsiae 1789.
Abul Fesa Ismaỵl ibn Ali al-Ayyubi (xiii-xiv° siècles) Annales
Muslemici arabice et latine, Hafniae 1789.
Butrus ubn ar-Rahib (xiii° siècle) Chronicon Orientale, Parisiis
1685.
Tài liệu ARMÉNO-GEORGIENNES
Haython ou Hethum (xiii-xiv° siècles) Liber Historiarum partium
Orientis sive passagium Terrae Sanctae, Haganoae 1529 (Cf. aussi lla
version italienne, in Rmusio, op. bibl.).
Guiragos o Kirakos (xiii° siècle), Chronique d'Arménie, extraits
traduits par M. Ed. Dulaurier, Les Mongols, d'après les histoiriens
arméniens (in
“journal
Asiatique”,
1858).
Vartan (xiii° siècle) Histoire universelle (de la création du monde
à 1269 après J.-C.) extraits traduits par M. Ed . Dulaurier, op. cit.
(in
“J. A.”, 1860).
_ Pour les sources arméniennes, cf. aussi Bilbliothèque Historique
Arménienne, et plus particulèrement
“Choix et extraits des historiens arméniens”
par M. Ed. Dulaurier, Paris 1856-1859; Recueil des historiens des
croisades, Documents arméniens, Paris 1839.
_ Pour les sources géorgiennes, cf. Chronique géorgienne, trad.
par M. Brosset jeune, Paris 1831.
Tài liệu Nga-sô
Vladimirskij Serapion, archimandrite des Grottes (xiii° siècle),
auteur de cinq sermons; d'après M Gorlin, Sérapion de Vladimir,
prédicateur de Kiev (in
“Revue de Etudes Slaves”, XXIV), Paris 1948.
Le Dit de la ruine de la terre russe (xiii° siècle, d'après Gorlin
(in
“Byzation”,
XXII), Paris-Bruxelles 1953.
Chronique de Halic-Volinia (xiii° siècle, d'après D. Cizevkij, Über
den Stil der Galizish Volinischen Chornik (in
“Südost-Forschungen”, XII) Munich 1954.
Zadonscina (L'épopée de Don) (xv° siècle), d'après A. Mazon, La
Zadonscina: réhabilitation d'une
œuvre
(in
“Revue
des Etudes Slaves”,
XVIII), Paris 1938, et J. Blankoff, Les présages dans le Dit d'Igor
et la Zadonxcina ((in
“Annuaire de l'Institut de
Philologie et d'Histoire Orientales et Slaves”, XV), Bruxelles 1960.
Karamzin, M., Histoire de l'Empire de Russie, d'après les textes
originaux des anciennes Annales russes; traduits par St. Thomas et
Jaufret, Paris 1819/26.
Tài liệu Tây-phương
vùng Địa-trung hải
Bongarsius, J., Gesta Dei per Francos, sive Orientalium Expeditonum
et Regni Francorum Hierosolimitani Historia a variis illius aevi
Scriptoribus literis tradita,
Joinville, Jean sire de, Histoire de Saint Louis, IX nom, roi de
France, Paris 1668.Hanoviae 1611.
Rogerii, Miserabile Carmen, super destructione Regni Hungariae per
Tartaros facta (in "“Monumenta
Germaniae Historica”,
XXIX), Hannoverae 1892.
Simon de saint-Quentin, Histoire des Tartares (Historia Tartarorum),
publiée par J. Richard, Paris 1965.
Tài liệu chính yếu xử dụng
Barthold, F. w., Turkestan down to the Mongol invasion, Oxford 1928.
Bazin, A., Le siècle des Youên, Paris 1850.
Bretschneider, E., Mediaeval researches from Eastern Asiatic Source,
Londres 1888.
Cahun, L., introduction à l'histoire de l'Asie. Turcs et Mongols des
origines au 1405, Paris 1896.
Deguignes, M. J., Histoire générales des Huns, des Turcs,des
Mongols, et des autres Tartares Occcidentaux (ouvrage tiré des
Livres Chinois et des Manuscrits Orientaux de la Bibliothèque du
roi), Paris 1756.
D'Ohsson, C. le Baron, Histoire des Mongols, depuis Tchinguiz-Khan
jusqu'à Timour Bey ou Tamerlan, La Haye 1834.
Douglas, R. K., The life of Fenghiz-Khan, translated from the
Chinese, Londres 1877.
Grousset, R., L'Empire Mongol, Paris 1941.
Hammer-Purgstall, Geschichte der Goldenen Horde in Kiptschak, Pesth
1840.
Harlez, C. J. De, La Religion nationale des Tartares orientaux, avec
le Rituel Tartare de l'empereur K'ien-Long (d'après les textes
indigènes), Bruxelles 1887.
Herbelot, baron d', Biblothèque Orientale ou Dictionnaire universel
contenantt généralement tout ce qui regarde la connaissance des
Peuples de l'Orient, Maestricht 1776.
Moule, A. C., Christians in China before the years 1550, Londres
1930.
Petis de la Croix, père, Histoire du grand Genchizcan. Premier
Empereur des Anciens Mongols et Tartares (traduite et compilée de
plusieurs Auteurs et de Voyageurs Européens), Paris 1711.
Istoria del gran Genghizcan, primo Imperadore deglintichi Mongoli e
Tartari (edizione italiana di F.Pitteri), Venise 1737.
Visdelou, C. e Galand, A., Bibliothèque Orientale (supplément à
celle de D'Herbelot), Maestricht 1780.
Vladimirtsov, B. J., Cingis Khan, Paris 1948.
Le régime social des Mongols. Le féodalisme nomade, Paris 1948.
Tài liệu sử địa thời Trung-cổ
Abul feda Géographie (traduite de l'arabe en fraçais et accompagnée
de notes et d'éclaircissements par M. Le Bon Mac Guckin de Slane),
Paris 1840-1848.
Descriptio Chorasmiae et Mawaralnahrae, Londini 1650.
Barbaro, G., Suoi viaggi alla Tana e in Persia (cf. Ramusio).
Bergeron, P., Voyages faits principalement en Asie dans les
xii-xiii-xiv-xv° siècles, La Haye 1735.
Edrisi, Géographie d'E. (traduite de l'arabe en français d'après
deux manuscrits de la Bibliothèque du Roi et accompagnée de notes
par P. Amédée Jaubert), Paris 1836-1840.
Jean du Plan Carpin, Voyage chez les Tartares (Historia Mongalorum)
par G. Pullè, Milan 1956.
Guillaume de Rubrouck, Itinerarium ad partes orientales.
Fra Ladislao, Relatio de Tartaria aquilonari (an 1287) (in
“Biblioteca
bio-bibliografica della Terra Santa e dell'Oriente Francescano”,
III), Quaracchi 1925.
Odoric de Pordenone, Chronica ex Codice Bibliothecae Vaticanae nunc
prium edito (in
“Monumenta
Historica ad Provincias Parmensem et Placentinam pertinentia”,
III), Parmae 1855.
Jean de Mandavilla, I viaggi di (Ouvrages de vulgarisation) Bologne
1870.
Hiouen-Thsang, Histoire de la vie de H.-T., et de ses voyages dans
l'Inde depuis l'an 629 jusqu'en 645 par Hoẹ-li et Yen-Thsong (trad.
du chinois par Stanislas Julien), Paris 1853.
Holder-Egger, De invasione Tartarorum fragmentum Carmina de Regno
Ungariae destructo par Tartaros (in
�Monumenta
Germaniae Historica�, XXIX), Hannoverae 1892.
Ibn Battuta, I viaggi di I. B. par Gabrieli, Florence 1961. Rihla
(Journal de route).
Interiano, G., Della vita de' Zichi altrimenti Circassi (Cf.
Ramusio). Itinéraires russes en Orient (trad. pour la Société de
l'Orient Latin par Mme B. De Khitrowo), Genève 1889.
Mas'udi, Les Prairies d'Or (trad. Barbier de Meynard et Pavet de
Courteille; revue et corrigée par C. Pellat), Paris 1962-1965.
Palladius, G. H. Eps., De Gentibus Indiae et Bragmanibus, Londini
1668.
Marco Polo, Il Milione (texte en langue du xviii° siècle
“L'Ottimo”),
par le comte G. B. Baldelli Boni, Florence 1827; par E. Camesasca,
Milan 1965.
Ramusio, G. B., Della navigationi et viaggi, Venise 1563, 1554,
1565.
Rusticiano da Pisa, I viaggi di Marco Polo descritti da R. da
P.(traduits et illustrés par V . Lazari, par L. Pasini), Venise
1847.Sinica Franciscana, vol. I: Itinera et relationes fratrum
minorum saeculi XIII et XIV, par P. Anastasius Van den Wyngaert OFM)
Quaracchi 1929.
T'sersteven A., I precursori di Marco Polo (I due Maometani,
Giovanni del Pian del Carpine, Guglielmo di Rubruk), Milan 1960.
Tài liệu tổng quát
Abu-I-Ghzi : Histoire des Mongols et des Tartares, publiée, traduite
et annotée par le Baron Desmaisons, St. Petersbourg 1874.
Almeyda, Manuel d', Historia general de Ethiopia a alta ou Preste
Foam, etc., Coimbra 1660.
Auril, P., Voyage, etc., avec une description de la Grande Tartarie,
Paris 1692.
Belloni, G. (militaire italien), Storia dei Tartari, Milan 1825.
Blake R-Frye R. : History of the Nation of the Archers (the Mongols)
by Grigor of Akane, Havard Journal of Asiatic Studies vol 12 Dec.
1949. N° 3-4.
Bretschneider E. : Mediaeval Researches from Eastern Asiatic
Sources, London 1888.
Chavannes E. : Inscriptions et pièces de chancelleries chinoises er
l'époque mongole. T'oung Pao 1904, 1905, 1908.
Chy Fa Hian, Foe Koue ki ou relation des Royaumes Bouddhiques:
Voyage dans la Tartarie, dans l'Afghanistan et dans l'Inde exécuté à
la fin du iv° siècle, tr.
Du chinois par M. Abel Rémusat, Paris 1836.
Cleave F. W. : The Sino-Mongolian Inscription of 1362 in Memory of
Prince Hindu, Harvard Journal of Asiatic Studies vol 12, June 1949,
pp.2-93.
Cleaves F. W. : The Sino-Mongolian Inscription of 1338 in Memory of
Jinguntei HJAS vol 14, June 1951, pp. 1-104.
Coedès G. : Les états hindouisés d'Indochine et d'Indonésie Paris
1948.
D'Ohsson C. : Histoire des Mongols depuis Tchinguiz-khan jusqu'à
Timour-bey ou Tamerlan, La Haye-Amsterdam 1834-1835.
Dalla Persia all'India, attraverso il Belucistan, Milan, 1912.
Feer, L., La puissance et la civilisation mongoles au troisième
siècle, Paris 1867.
Finot L. : Les inscriptions du Cirque de Mi-son, BEFEOI 1904.
Gaubil P.A. : Histoire de Gentchiscan et de toute la dynastie des
Mongous, ses successeurs, conquérant de la Chine, Paris 1739.
Grenard, F., Gengis-Khan, Paris 1935.
Grousset R. : L'Empire des steppes, Paris 1939.
Grousset R. : L'Empire Mongol (1re phase), Paris 1941.
Grousset, R., Le Conquérant du Monde, Paris 1944.
Haenisch E. : Mangol-un niuca tobca'an (Yuan-ch'ao pi-shi). Die
geheime Geschichie des Mongolen, Leipzig 1937.
Haenisch E. : Worterbuch zu Manghol-un niuca tobca'an, Leipzig 1937.
Hambis L. : Le chapitre CVII du Yuan-che. Les généalogies impériales
Mongoles dans l'histoire chinoise ancienne de la dynastie Mongole,
Leyden 1945.
Harlez C. de : Histoire de l'Empire de Kin ou Empire d'Or (Aisin
gurun-i suduri bithe), trad.
Du mandchou, Louvain 1887.
Howorth, Sir H., History of the Mongols from the IX to the
XIX century, Londres 1876-1888.
Hubert E. : La fin de la dynastie de Pagan BEFEO IX, 1901
Laet, J. De, De Imperio Magni Mogolis, sive India vera
commentarius, Lugduni Batavorum 1631.
Lamb, H., Genghis-Khan, New-York 1956.
Martinius, M., De Bello Tartarico Historia, Amstelodami
1655.
Maspéro G. : Le Royaume de Champa, Paris - Bruxelles 1928.
Minuccio Minucci, Storia inedita dei Tartari (De Tartaris), écrite
en 1598 par M. M. Arcivescovo di Zara, par A. Marani (d'après les
“Annali del Liceo-Ginnasio
Mamiani”),
Rome 1967.
Mosheim, J. L. von, Historia Tartarorum Ecclesiastica, Helmstadii
1741.
Parker, E. H., A thousand years of the Tartars, Londres 1895.
Pauthler C. : Le livre de Marco Polo, Paris 1865.
Pelliot P. : Les Mongols et la papauté, Revue de l'Orient-chrétien,
XXIII, 1-2 et XXIV, 3-4, Paris 1922-1924.
Pelliot P. : Mémoires sur les coutumes du Cambodge de Tcheou Ta-kouan.
Oeuvres posthumes de Paul Pelliot III, Paris 1951.
Pelliot P. : Notes sur l'histoire de la Horde d'or. Oeuvres
posthumes de Paul Pelliot II, Paris, 1950.
Pelliot P.-Hambis L. : Histoire des campagnes de Gengis-Khan, Cheng-wou
ts'in-cheng lou, traduit et annoté, T.I, Leiden, 1951.
Percheron, M., Sur les pas de Genghis-Khan, Paris 1956.
Poucha P. : Die geheime Geschichte der Mongolen als Geschichtsquelle
und Litteraturdenkmal, Praha, 1956.
Prawdin M. : L'empire mongol et Tamerlan, Paris, 1937.
Rashid-ed-Din : Djami et Tévarikh, ed. Par E. Blochet, t. II.,
Contenant l'histoire des empereurs mongoles successeurs de Tchinkkiz
Khogan. Gibb Memor. Ser. XVIII.
Ratchnevsky, P., Un code des Yüan, traduction, introduction et note,
avec préface de P. Pelliot, Paris 1937.
Schmidt S. J. : Geschichte der Ost-Mongolen und ihres Furstenhauses
ver fasst von Ssanang Ssetsen Chungtaidschi der. Ordus, St
Petersbourg, 1829.
Steven H., Trans-Himalaja, Mailan 1910.
Vladimirtsov B. : Gengis-khan, trad. par. M. Carsow, Paris, 1948.
Vladimirtsov B. : Le régime social des Mongols. Le Féodalisme
nomade, trad.
Par Michel Carsow, Paris, 1948.
Yamada N. : Ghenko-The Mongol Invasioon of Japan, London, 1916.
Yule, H. : The book of Marco Polo, edited by H. Cordier London,
1921.
Báo chí, tập san.
Acta Oriantalia Academiae Scientiarum Hungariae, Budapest.
Asia Major, Leipzip.
Asiatic researches, Calcurta-Londres.
Bibliocheca Orientalis, Leiden.
Bulletin of the School of Oriental and African Studies, Londres.
Byzantion, Patris-Bruxelles.
Go¨¨ttinger Asiatische Gorschungen,Wiesbaden.
Journal Asiatique, Paris
Monumenta Serica, Peiping.
Numen, Leiden.
Orientalia Suecana, Uppsala.
Oriens, Leiden.
Revue de l'Orient de Chrétien, Paris.
Revue des Etudes Slaves, Paris.
T'oung Pao, Leiden.
Hồi Thứ Mười Một
Sách lược trấn Bắc,
Bấy giờ là niên hiệu Nguyên
phong thứ 7 (1257) đời vua Thái tông nhà Trần. Tháng 12, Thái sư
Mông cổ Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh 20 vạn quân, gồm 10 vạn
Lôi kỵ, 10 vạn hàng binh Đại lư tiến đánh Đại Việt.
Hưng Đạo vương thiết kế:
-
Binh tướng Mông cổ đều là
Kị binh, thiện chiến, hung dữ. Vũ khí chính của họ là cung-tên.
Từ tướng dến quân của họ đều sống trên vùng Thảo nguyên cực Bắc,
đồng cỏ mênh mông. Khí hậu vùng cực Bắc quanh năm lạnh đến xé da,
cắt thịt. Người ngựa đều chịu lạnh rất giỏi. Chiến thuật của họ sở
trường về dàn quân trên những vùng đất khô, trên cánh đồng rộng. Gần
đây sau khi đánh sang Tây vực, họ chế ra máy bắn đá phá thành.
V́ vậy họ tung hoành khắp Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, và mấy chục nước
Tây vực không nơi nào đương nổi. Trong lần thiết triều, hồi họ mới
tới Bắc cương, Thái sư (Trần Thủ Độ) đă giảng giải rất kỹ về lịch sử,
phong tục, tồ chức chính trị, luyện quân cùng chiến² thuật của họ.
Chúng ta đều thuộc nằm ḷng rồi.
Chính sách của Thái tổ Hốt Tất Liệt là: mỗi khi đánh vùng, một thành,
họ kêu gọi quan lại, tướng sĩ, dân chúng đầu hàng. Nơi nào tuân theo
th́ họ cấm quân sĩ tuyệt đối không được hăm hiếp, giết người, cướp
của, đốt nhà. Quan lại, binh tướng họ vẫn cho tồn tại. Họ sẽ dùng
binh tướng đầu hàng làm tiên phong đánh các vùng khác. Quan lại,
tăng lữ phải đốc thúc dân chúng cung ứng lương thảo, cùng người lao
dịch cho họ. V́ vậy họ không cần tiếp vận lương thảo từ Mông cổ
sang.
Bây giờ họ sang đánh ta, ta
phải đối phó ra sao? Căn bản:
-
Vô hiệu sở trường của họ,
Biến sở trường của họ thành
sở đoản.
Dùng sở trường của ta,
Biến sở đoản của ta thành
sở trường.
Ta phải áp dụng bẩy điều:
Một là, về chiến thuật, tuyệt đối ta không dàn quân đánh với họ.
Nếu ta cũng dàn quân đối địch với họ là đem sở đoản của ḿnh, đấu
với sở trường của họ. Địa thế của ta, đường của ta từ Bắc cương
về Thăng long nhỏ hẹp, chỉ cho phép kị binh đi hàng một, đi chậm,
không thể phi nhanh. Trên đường có nhiều cầu nhỏ, kị binh
không thể qua. Ấy là không kể nhiều đoạn lầy lội, ngựa bị lún
chân. Địa thế khiến Kị binh của họ không c̣n tung hoành được.
Hai là, khí hậu của ta thấp nhiệt, muỗi, vắt, sâu, bọ nhiều.
Người ngựa của họ vốn sống ở Thảo nguyên lạnh lẽo, không thể chịu
nổi khí hậu, đầy đặc lam chướng của ta. Người của họ chỉ ăn thịt,
nay sang ta phải th́ thịt hiếm, họ phải ăn cơm, cá, tôm, rau, đậu.
Họ không có khả năng dánh cá, bắt tôm. Người, ngựa của họ ăn rau,
đậu, cỏ của ta, đầy sâu bọ, kiến ruồi. Cả người, ngựa uống nước
có cung quăng, đỏng đảnh độc. Chỉ cần mươi ngày, chậm lắm là một
tháng th́ không cần đánh, thời khí, lam chướng, bệnh tật... giết
giặc giùm ta.
Ba là, hiện ta không có những thành cao, hào sâu, đóng quân trấn
giữ. Sở trường phá thành, công kiên của họ một lần nữa trở thành
vô dụng. Trong khi đó, toàn quốc, mỗi làng-ấp của ta ngoài có hào
sâu, trong có lũy tre bao bọc. Kị binh của họ không thể dàn ra
tấn công, sở trường của họ trở thành sở đoản. Khi kị binh phải rời
ngựa, th́ sức chiến đấu thua bộ binh, lại càng thua nông dân của
ta vốn lội bùn, bơi sông rất giỏi.
Bốn là, với thói quen, Mông cổ đi đến đâu dùng quan lại, dân chúng
cung đốn lương thảo. Lương thảo 20 vạn người ngựa do vua quan Đại lư
mới đầu hàng cung đốn chỉ có giới hạn. Họ nghĩ rằng đánh sang ta, họ
sẽ dùng quan lại đầu hàng ép dân chúng cung đốn, hoặc cướp lấy.
Nhưng lương thảo của ta đều cất rải rác ở làng xă. V́ vậy ta cần kéo
dài thời gian, lẩn tránh, đợi lương thảo của họ cạn; muỗi, ruồi, lam
chướng, sốt rét đánh binh tướng của họ bệnh tật, mệt mỏi; ta thắng
họ dễ dàng.
Năm là, ta dẫn dụ cho họ vào sâu trong lănh thổ, họ phải dàn quân ra
đóng đồn pḥng vệ. C̣n, ta phân tán tướng sĩ về các trang, ấp,
huấn luyện dân chúng, cùng dân chúng chiến đấu giữ làng. Ta biến
cả nước là thành, toàn dân là binh. Rồi ta quan sát, thấy địch đi lẻ
lẻ th́ tấn công. Tấn công xong lại phân tán. Giặc không biết ta ở
đâu. Như vậy Kị binh trở vô dụng.
Sáu là, đợi cho giặc mệt mỏi, ta xuất quân bao vây đánh các đoàn
quân đóng bảo vệ đường từ biên giới về Thăng long. Chính sách bắt
hàng quan cung đốn lương thảo không thành. Đem quân đi cướp lương
của dân th́ gặp phải sức kháng cự của làng xă. Lương tiếp viện hoặc
bị cạn, hoặc đường vận chuyển bị chặn. Lương tuyệt th́ quân tan.
Thứ bẩy, Mông cổ không quen
thủy tính, ta dùng Thủy quân lưu động chuyển quân, đánh cắt đường
tiếp vận; hoặc tập trung quân tấn công. Ngựa của họ không thể lội
ruộng. Ta dùng Ngưu binh đánh Kị binh.
Đó là dùng sở trường của ta, đánh sở đoản của họ�.
Sách lược định rồi, triều
đ́nh, hậu cung, quan lại, vợ con tướng sĩ ... phân tán vào các làng
xă. Triều đ́nh lại truyền lệnh cho dân chúng di tản khỏi Thăng
long. Nhưng v́ một là dân chúng tiếc của, hai là tŕ nghi, ba là
chậm chạp. V́ vậy khi giặc tới Thảo lâm, mà dân Thăng long vẫn c̣n
phân nửa chưa di tản.
Hưng Đạo vương lệnh cho:
_ Vũ Uy vương Nhật Duy
trấn nhậm vùng Bắc cương, bao gồm từ biên giới tới Kinh Bắc. Nhiệm
vụ chính giai đoạn đầu là làm chậm bước tiến của giặc. Giai đoạn hai
là phục binh đánh viện quân, cùng các đoàn tiếp vận lương thảo.
_ Nhân Huệ vương Khánh Dư
trấn nhậm vùng Tây Thăng long.
_ Khâm Thiên đại vương Nhật
Hiệu trấn nhậm vùng Đông Nam Thăng long.
_ Hưng Ninh vương Quốc Tung
tổng lĩnh lực lượng phản công.
_ Để khích cho giặc khinh
địch, chính Nguyên Phong hoàng đế cùng tướng quân Lê Tần, dàn
Thủy, Bộ, Kị, Ngưu binh tại B́nh lệ nguyên ngăn giặc.
Trận đánh phải làm sao đạt ba nhiệm vụ:
Thứ nhất đánh cho giặc biết binh tướng Đại Việt can giảm, thiện
chiến, nhưng quân ít, nên phải thua.
Thứ nh́, cần bảo tồn lực lượng.
Thứ ba, đánh thực mau, rút thực nhanh, phân tán vào làng xă.
_ Lập hai pḥng tuyến tại
Phù lỗ, Cụ bản, mục đích làm chậm bước tiến của giặc, để triều đ́nh
đủ thời gian di tản dân chúng khỏi Thăng long.
Diễn tiến các trận đánh đúng như kế hoạch, duy một biến cố xẩy ra:
Khâm Thiên đại vương không tuân lệnh Hưng Đạo vương, dàn quân tại
cánh đồng Văn chống giặc. Đại bại! Ba hiệu quân tinh nhuệ bị
đánh tan.
Khi quân Mông cổ vào Thăng long, một số dân chúng cưỡng lệnh triều
đ́nh, không di tản, bị giặc tàn sát khủng khiếp. Ngột Lương Hợp Thai
ra lệnh đốt sạch cung điện, nhà cửa. Cũng như khi dánh sang các nước
phương Tây, y sai tập trung dân lại từng khu, lựa lấy những thợ giỏi,
những nghệ nhân, những đàn bà con gái đẹp. C̣n bao nhiêu chúng giết
sạch. Thăng long biến thành băi đất hoang! Nhưng dân chúng, quan lại
trên toàn quốc vẫn không kinh sợ, cương quyết chống giặc.
Quân dân thấy giặc tập trung đông th́ phân tán; thấy giặc đi lẻ lẻ
th́ tập trung tấn công. Quân dân Việt cứ như những bóng ma, đặt đạo
quân Lôi kị thiện chiến của Mông cổ trong thế bị động.
Sau hơn tháng, thấy người, ngựa Mông cổ, phần bị tiêu hao trong các
trận đánh nhỏ, phần th́ bệnh do thời khí, lam chướng, phần v́ mệt
mỏi do muỗi, ṃng, vắt. Hưng Đạo vương quyết định phản công. Mặt
trận Bắc cương, Vũ Uy vương đánh chiếm tất cả các đồn từ biên giới
tới Kinh Bắc. Bốn căn cứ chính Thảo lâm, B́nh lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ
bản là nơi đồn trú lương thảo, bị quân dân Đại Việt tràn ngập.
Tại Thăng long, Hưng Ninh vương thách Ngột Lương Hợp Thai quyết
chiến tại Đông bộ đầu. Mông cổ chỉ có Lôi kị, trong khi quân Việt
phối hợp nhịp nhàng Kị binh, Bộ binh, Ngưu binh, Thủy binh. Trận
đánh diễn ra thực kinh khủng. Một bên là đạo quân tinh nhuệ từng sải
vó ngựa khắp vùng Thảo nguyên, đánh tan những đạo binh tinh nhuệ
nhất của Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, Đại lư; từng đại phá những đạo
binh thần thánh của Thập tự quân, những đạo quân Thánh chiến Hồi
giáo quyết tử. Một bên là dân-quân Việt hiền hậu, nhưng lâm đường
cùng lấy cái chết để bảo vệ đất Tổ, bảo vệ làng xă, bảo vệ bố mẹ,
anh em, vợ con và chính bản thân ḿnh. Trận đánh từ giờ th́n (7-9
giờ), tới giờ dậu (15-17 giờ), trên bờ Kị binh, Bộ binh hai bên bất
phân thắng bại. Nhưng về chiều, Mông cổ bị Thủy quân đánh vào hông
trái, Ngưu binh vượt đồng lầy đánh vào hông phải. Mông cổ bị bại,
lập trận cố thủ trong những ngôi nhà dân chúng. Đúng lúc đó tin báo:
Mặt trận phía Đông Nam, Thái tử Hoảng phá giặc, chiếm lại những vùng
đất bị giặc đặt quan cai trị, rồi tái chiếm Thăng long.
Đạo binh hùng mạnh
nhất thế giới bị tuyệt nguồn tiếp vận lương thảo, tiến lên th́ không
đủ sức, mà rút th́ không đường. Thống lĩnh đại binh là Thái sư Ngột
Lương Hợp Thai. Giám quân là pḥ mă Hoài Đô. Con trai Ngột Lương Hợp
Thai là đại tướng A Truật (Aju). Tất cả đều khuất thân xin Trung Vũ
đại vương Trần Thủ Độ nghĩ t́nh huynh đệ, mở ṿng vây cho cha con,
tướng lĩnh, cùng tàn quân rút về Trung nguyên.
Ghi chú,
Ngột Lương Hợp Thai, là tên Hán Việt. (phát âm theo Mông cổ là U ri
ang khai đai, Uriyangqadai), con trai của đệ nhất thân vương, đệ
nhất khai quốc công thần Mông cổ Tốc Bất Đài .
Hoài Đô, tên Hán Việt (
phát âm theo Mông cổ là Khai Đu, Qaidu). Luật từ thời Thành Cát Tư
Hăn, mỗi đạo quân có một tướng tư lệnh chịu trách nhiệm chỉ huy,
quyết định tác chiến. Ngoài ra c̣n một người trong hoàng tộc quyết
định về cai trị dân chúng, kiểm soát binh, tướng.Hoài Đô lĩnh nhiệm
vụ này.
Thái sư Trần Thủ Độ, nghĩ lại những t́nh cảm thời thơ ấu sống tại
Thảo nguyên với Ngũ thiết điêu, cũng muốn mở ṿng vây tha cho người
xưa Ngột Lương Hợp Thai cùng đám bại binh. Tuy uy quyền ông lớn hơn
Nguyên Phong hoàng đế, mà không thể tự chuyên: v́ tướng thống lĩnh
binh mă Bắc cương là Vũ Uy vương, tính khí hào hiệp, nhưng không dễ
ǵ vương đồng ư việc này. Tướng trấn thủ Kinh Bắc là Nhân Huệ vương,
một vị vương vốn thù ghét Mông cổ tận xương tủy, th́ hy vọng ǵ
vương tha cho chúng? Chỉ tướng bao vây Đông bộ đầu là Hưng Ninh
vương, người có tâm Bồ tát th́ hy vọng. Cái khó khăn nhất của Thái
sư là phải nói sao với Hưng Đạo vương, người cầm quyền Tiết Chế, mà
từ trước đến giờ Thái sư luôn nghi ngờ, chèn ép vương?
Tóm lại cả bốn vị vương đó
khí phách đều khác phàm, mỗi người một tư cách, một hành trạng. Thái
sư không thể ra lệnh cho bất cứ vị vương nào. Oâng đành xin thiết
triều để triều đ́nh quyết định.
Nguyên Phong hoàng đế
thiết triều trên một chiến thuyền của hạm đội Thần phù ở bến Chương
dương. V́ toàn quốc trong thời kỳ chiến tranh, nên mọi lễ nghi đều
tiết giảm.
Đầu tiên Trung vũ đại vương
Trần Thủ Độ tŕnh bầy về t́nh bạn giữa Thảo nguyên ngũ điêu với
vương. Vương xin triều đ́nh một đặc ân là mởû ṿng vây cho nghĩa đệ
Ngột Lương Hợp Thai cùng bại binh rút khỏi Đại Việt. Vương nhấn mạnh
về Ngột Lương Hợp Thai:
� Y là một đại tướng đại tài
của Mông cổ. Hồi Thành Cát Tư Hăn xua quân sang đánh các nước phương
Tây, y theo đạo binh của cha là Tốc Bất Đài. Chỉ với 35 ngh́n quân,
đạo binh này truy sát đại đế Mộ Hợp Mễ khắp đế quốc của ông. Thế mà
nay y thống lĩnh 20 vạn quân, bị ta phá trong thời gian không đầy
một tháng. Truyền thống của Mông cổ là khi bị bại ở bất cứ mặt trận
nào, họ sẽ dốc quân nghiêng nước sang đánh cho kỳ thắng mới thôi. V́
vậy già này xin thiết triều khẩn cấp, để bệ hạ cùng chư vị đại thần
định kế sách đối phó�.
Nhân Huệ vương Trần Khánh
Dư cương quyết:
_ Mông cổ là bọn tàn ác
không thể tưởng tượng nổi. Khi vào Thăng long chúng đốt phá cung
thất đă đành, chúng c̣n giết hết dân chúng, đốt sạch nhà cửa. Đàn bà
th́ chúng hăm hiếp xong rồi lột quần áo ném vào lửa. Trẻ con th́
chúng cho ngựa dẵm lên. Thần nghĩ, chúng hung ác, dữ hơn beo, hơn
cọp, độc hơn rắn rết. Ta có bắt được cọp, beo, rắn rết, thả chúng
ra, chúng cũng vẫn là beo, là cọp, là rắn, là rết. Huống hồ bọn ác
quỷ Mông cổ? Như Thái sư nói, tương lai chúng sẽ c̣n sang báo thù.
Chúng báo thù th́ ta đánh. Ta há sợ chúng sao?
H́nh ảnh những xác chết trẻ
con bị cháy đen thui, đám thiếu nữ 12-13 tuổi bị những tên lính Mông
cổ khổng lồ đè ra hiếp dâm, hiếp xong chúng chặt chân, chặt tay,
nh́n nạn nhân lăn lộn kêu khóc giữa tiếng cười man rợ của bọn ác quỷ
hiện ra. Vương nghiến răng:
_ Vậy bây giờ ta bao vây
tiêu diệt hết bọn tàn ác này. Đối với tù binh, ta đem đốt chết, hay
xẻo thịt. Có như vậy bọn sau tới, thấy cái gương bọn đi trước, chúng
sẽ kinh sợ không dám tàn ác nữa.
Thái sư Thủ Độ đưa mắt nh́n
người cháu gọi bằng ông chú (em của ông nội): mới ngày nào c̣n là
cậu bé mà ông nuôi trong dinh như con, bây giờ thành một nam tử hùng
vĩ, khí phách hiên ngang, dám chống lại ông. Oâng lắc đầu thở dài.
Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung đưa ư kiến:
_ Mông cổ từng chiến thắng
Kim, Liêu, Tống, Đại lư và không biết bao nhiêu nước vùng Tây vực.
Bây giờ họ đánh ta với mục đích dùng hàng binh, dùng tài nguyên của
ta đánh phía sau Tống. Họ ước tính rằng ta sẽ đầu hàng dễ dàng như
Đại lư. Họ đâu ngờ bị ta đánh bại? Thần đề nghị ḿnh dùng đức cảm
hóa chúng. Ta mở ṿng vây, chu cấp lương thảo, dùng lời ngọt dẫn dụ
chúng rằng trước đây tiền nhân ta là Lư Long Phi, Trần Thủ Huy, Trần
Thủ Độ từng giúp Mông cổ dựng nước. Thế mà Mông cổ lại sang cướp
nước ta, như thế là làm mất cái hào khí của Thành Cát Tư Hăn. Ta
nhất định không thù oán, ta vẫn duy tŕ tinh thần của tiền nhân Đại
Việt với Mông cổ. Trước cuộc chiến, Mông cổ sai sứ đ̣i Bệ hạ phải
tuân theo sáu điều kiện:
Một là đích thân quốc vương
phải vào chầu,
Hai là đem trưởng nam làm con tin,
Ba là kê biên dân số,
Bốn là phải chịu quân dịch,
Năm là phải nộp thuế, lương thảo.
Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) *
Ghi chú,
* Mông cổ đặt tại mỗi nước
chư hầu một số chức quan hơi giống như hồi 1884 - 1945 người Pháp
đặt tại Việt Nam. Trên cao nhất là một viên Toàn quyền. Phủ Toàn
quyền có nhiều chức quan như một nước nhỏ kiểm soát triều đ́nh. Mỗi
tỉnh một viên Công sứ kiểm soát việc cai trị. Chức quan của Mông cổù
gọi là Đa gu ra tri, dịch sang tiếng Hán là Đạt lỗ hoa xích.
Chúng ta bác bỏ,
không tuân theo bất cứ điều ǵ. Thế th́ bây giờ nếu Mông cổ muốn, ta
sẵn sàng gửi một hoàng tử có tài nghiêng trời lệch đất sang làm con
tin, cũng để giúp họ, nối lại t́nh xưa. Sau đó ta lại dùng hậu lễ
nhún nhường, chịu tuế cống. Như vậy tránh được chiến tranh th́ là
điều đại phúc cho trăm họ Hoa, Việt.
Thái tử Hoảng tỏ ra đồng ư với Hưng Ninh vương:
_ Tâu, sách lược của Nhân
Huệ vương, bao vây giết hết giặc, xử tử bọn tù binh th́ làm cho dân
chúng, tướng sĩ hả dạ. Mông cổ nghe tin sẽ căm thù ta ghê gớm. Nay
cái thế của Ngột Lương Hợp Thai: Lôi kị tuy bị bại, bị giết, bị cầm
tù trên năm vạn; họ c̣n gần năm vạn. Quân Đại lư cũng c̣n sáu vạn .
Nếu bây giờ bao vây diệt hết 11 vạn quân của họ, th́ ít ra ta cũng
tổn thất vài ba vạn người. Binh thư nói: đạo làm tướng sao cho
toàn quân là thượng sách, phá quân là điều không thể, và không nên
dùng. Hưng Ninh vương dùng ḷng dạ từ bi, quảng đại của một Bồ
tát đưa ra đề nghị ấy thực hợp với t́nh thế hiện nay. Con xin phụ
hoàng xét thuận lời tâu của vương, may ra tránh được chiến tranh.
Hoặc giả kéo dài thời gian báo thù của Mông cổ càng lâu càng tốt, để
ta có đủ thời gian chỉnh bị binh mă, lương thảo.
Nguyên Phong hoàng đế hỏi
Vũ Uy vương:
_ C̣n con! Con thống lĩnh
binh mă vùng Bắc cương, con nghĩ sao về vụ này?
Vũ Uy vương là con đầu ḷng
của nhà vua, văn mô, vũ lược. Vương ḥa thuận với tất cả các
em đă đành, vương c̣n t́m đủ cách kết hợp thâm t́nh với hoàng tộc
lẫn văn vơ bách quan. Từ năm 13 tuổi, vương được phong vùng
Tây Bắc cương làm lănh thổ riêng. Miền Bắc cương Đại Việt hồi ấy
được chia làm hai: Đông cương và Tây cương. Đông cương
thuộc Ngũ yên, được phong cho An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột
nhà vua. Tây cương được phong cho Vũ Uy vương, lấy con sông Hồng
hà làm ranh giới Đông-Tây. Đông cương, phía Bắc giáp Quảng Tây,
Quảng Đông của Tống. Tây cương giáp Quảng Tây, Đại lư, Lăo
qua.
Vương tâu:
_ Chúng ta có hai đường lối
hành động. Một là của Nhân Huệ vương. Hai là của Hưng Ninh vương và
Thái tử. Ta phải chọn đường lối nào có lợi cho Đại Việt. Thực hành
đường lối của Nhân Huệ vương ta được ǵ? Mất ǵ? Của Hưng
Ninh vương ta được ǵ? Mất ǵ?
Vương ngừng lại để cử tọa
suy nghĩ. Trong soái thuyền, thân vương, hoàng tộc bách quan triều
Nguyên Phong đều là những người chính khí dọc ngang trời đất, trí
tuệ chói ḷa. Nay đứng trước quyết định một kế sách giữ nước trong
hoàn cảnh cực kỳ quan trọng. Ai cũng trầm tư suy nghĩ. Khoang thuyền
có hơn trăm người, mà không một tiếng động. Chỉ có tiếng gió heo may
thổi vi vu ngoài song cửa, tiếng sóng vỗ ŕ rào vào mạn thuyền. Đâu
đó tiếng vạc ăn đêm kêu lạc lơng trong bầu trời đông.
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải phá tan cái không khí tịch mịch ấy
bằng câu hỏi Vũ Uy vương:
_ Theo anh, cả hai đường
lối, chúng ta có một cái ǵ chung chung, không thể bỏ qua chăng?
_ Chú Quang Khải hỏi câu
này, thực phải.
Vũ Uy vương trả lời: Thời
Lư, tiền nhân Lư Long Phi từng giúp Mông cổ. Tổ tiên ta là Pḥ mă
Thủ Huy và Công chúa Đoan Nghi, rồi ông trẻ Thủ Độ từng là những
người tạo ra nước Mông cổ. Việc đó tuy trải gần trăm năm, nhưng ân
đức của bốn vị vẫn được nhắc tới. Vậy trong dịp này, ta tha cho Ngột
Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật cùng đám bại binh về, rồi triều
đ́nh gửi người sang làm con tin, làm quan tại triều Mông cổ giúp họ.
Như vậy nhất cử nhất động của Mông cổ ta đều biết. Hiện con cháu của
Thành Cát Tư Hăn được cắt đất cai trị. Phía Tây vực là một nước,
khu Tây hạ là một nước, vùng Kim-Liêu là một nước, vùng Bắc Trung
nguyên là một nước. Tất cả lănh chúa các nước không ai chịu tuân
lệnh Đại hăn. Họ đang hầm hè nhau. Người của ta sẽ t́m cách gây cho
họ có nội chiến. Khi có nội chiến th́ tinh lực không c̣n. Họ cũng
khó mà diệt nổi Tống. Như vậy ta sẽ không lo họ xâm lăng nữa.
Vương đưa mắt nh́n Thái sư
Thủ Độ:
_ Vấn đề phân chia lănh thổ
của Thành Cát Tư Hăn thế nào? T́nh h́nh các bộ tộc Mông cổ ra sao,
th́ không ai biết rơ bằng ông trẻ.
Mong ông trẻ ban cho những tin tức chính thức.
Thái sư Thủ Độ mỉm cười tiếp lời Vũ Uy vương:
_ Khi Thành Cát Tư Hăn sắp băng hà, đă chia lănh địa rộng mênh mông
cho bốn người con. Các lĩnh địa này gọi là Hăn địa (Ulus), vua Hăn
địa gọi là Vương hăn. Bạt Đô là con Truật Xích lĩnh vùng Kim trướng,
tức cực Tây-Bắc (nay thuộc Đông Aâu, kể cả Đức, Liên sô, Na uy, Đan
mạch, Thụy điển.Trung Đông ngày nay: Iran, Irak, Syrie, Jordanie.
Đông Aâu, gồm cả Liên sô, Đức). Vương hăn Sát Hợp Đài lĩnh vùng Tây
liêu, Thổ phồn, Tây hạ về Tây Nam (Turkestan, đế quốc Khorezm,
Afganistan, Pakistan). Vương hăn Oa Khoát Đài lĩnh vùng Đông Bắc
Thảo nguyên, Kim, Liêu. Vùng lănh địa Thảo nguyên, chính quốc Mông
cổ cho con út là Đà Lôi. Ông để di chúc cho Oa Khoát Đài thừa kế
ngôi Đại hăn. Khi Oa Khát Đài băng, hoàng hậu Năi Mă Chân chuyên
quyền, cho nên đại hội gần đây bên bờ sông Long lư hà, các lănh chúa
tôn Mông Ca (Mongka) con trưởng của Đà Lôi lên ngôi Đại Hăn.
Từ sau chiến cuộc lăo tướng Trần Tử An được phong tước Tây Viễn
vương. Vương tiếp lời Thái sư Thủ Độ:
_ Tuy Mông Ca được tôn làm Đại hăn, nhưng y không có đủ uy quyền như
Thành Cát Tư Hăn. Khi cất quân đánh Tống, y trưng binh của các vương
hăn. Các vương hăn chỉ gửi một vài đạo quân tượng trưng. Hiện các
vương hăn đang có nhiều xung đột, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra
nội chiến. Ngay trong ba con của Đà Lôi cũng có những mâu thuẫn.
Mông Ca tuy được tôn làm Đại hăn, nhưng tài trí thua xa Hốt Tất Liệt.
V́ vậy y nghi ngờ em. Cho nên y sai Hốt Tất Liệt viễn chinh, để giảm
uy tín. Nhưng không ngờ Hốt Tất Liệt lại thành công, khiến anh em
đang có mầm móng chia rẽ, căng thẳng. C̣n người em thứ ba là A Lư
Bất Ca lại rất được ḷng bọn quư tộc, tướng lĩnh gốc Mông cổ. Y nắm
một lực lượng quân sự rất lớn ở Thảo nguyên. Thôi để Thái sư tiếp.
Thủ Độ đứng lên giảng giải tiếp :
_ Mông Ca diệt Kim, Liêu rồi đánh Tống. Nhưng khi đến Tương dương,
Phàn thành th́ bị cản lại. Mông Ca muốn mở mặt trận thứ nh́, từ Nam,
đánh vào sau lưng Tống, y sai một thân vương, người em ruột tài nhí
nhất, tên Hốt Tất Liệt (Qubilai), mở mũi dùi này. Hốt Tất Liệt đánh
chiếm Hồi cương, Tây tạng, Tứ xuyên của Tống. Từ Tứ xuyên y vượt
Kim sa giang đánh Đại lư. Vua Đại lư là Đoàn Hưng Trí hèn mạt, không
dám chống lại, mở cửa thành đầu hàng. Hốt Tất Liệt bắt Đoàn Hưng Trí
cung ứng lương thảo, rồi lại dùng hàng binh Đại lư đánh Đại Việt ta.
Hốt Tất Liệt tưởng đâu Đại Việt cũng dễ uy hiếp như Đại lư, y sai
Ngột Lương Hợp Thai dàn quân tại Bắc cương, rồi sai sứ sang bắt ta
đầu hàng. Không ngờ ta không chịu khuất phục. Y truyền Ngột Lương
Hợp Thai tràn vào đánh ta. Ngột Lương Hợp Thai thất bại. Thế là mưu
kế dùng tù hàng binh Đại Việt, Đại lư đánh vào Ung châu, Liêm châu,
Quảng châu bị ta phá tan.
Nguyên Phong hoàng đế đưa mắt nh́n Hưng Đạo vương, như hỏi ư kiến.
Vương suy nghĩ một lát rồi tâu:
_ Ư kiến của Vũ Uy vương thực là diệu pháp giữ nước, không thể không
xử dụng. Đó là kế chính. Tuy nhiên ta không tha bọn chúng dễ dàng.
Hiện giờ th́ Mông cổ chỉ mới chiếm được một phần lănh thổ phía
Tây-Bắc của Tống. Họ c̣n đang giao chiến với Tống dằng dai ở mặt
trận Trường giang. Họ định đánh ta để lấy tù, hàng binh, lương thực
đánh phía sau Tống, nhưng họ bị bại. Vậy ta phải làm ba việc:
_ Sao cho họ bỏ ư định đánh ta mà dùng hết sức đánh phía Bắc của
Tống.
_ Ta lại giúp Tống, để Tống tồn tại.
_ Trong khi ta t́m cách cho Mông cổ có nội chiến. Nội chiến giữa các
vương hăn th́ khó, v́ các nước ấy ở quá xa, ta không biết rơ t́nh
h́nh, lại ngôn ngữ phong tục bất đồng. Nhưng ta có thể gây cho ba
anh em Mông Ca, Hốt Tất Liệt, A Lư Bất Ca tranh dành nhau, chém giết
nhau. Tốt nhất là cho cả ba đánh lẫn nhau. Hay ít nhất là hai trong
ba người này huynh đệ tương tàn.
Vương nhấn mạnh:
_ Bây giờ ta mở ṿng vây, không phải là ta tha cho bọn ác quỷ; mục
dích của ta là dùng chính bọn chúng làm vũ khí tâm chiến. Bọn chúng
được thả về sẽ kể cho đồng đội nghe về khí hậu của ta đầy lam chướng,
địa thế của ta lầy lội, dân quân ta một ḷng, binh tướng ta anh hùng.
Thế là ta đánh tan cái kiêu hănh của tướng binh Mông cổ: bọn người
tuy thắng Liêu, Kim, Tống, chinh phục khắp Tây vực; thế mà khi bọn
mi đánh Đại Việt ta th́ bị bại. Đại Việt ta tuy dân ít, đất hẹp,
nhưng dân ta anh hùng, ta đủ sức đánh đuổi bọn người.
Tướng quân Lê Tần góp thêm ư:
_ Tuy nhiên ta cần dọa thêm cho tù hàng binh, cho tàn binh kinh sợ
thêm. Khi về nước, mỗi khi nghĩ đến Đại Việt, họ lại rùng ḿnh.
Cả triều đ́nh đều đồng ư.
Hưng Đạo vương tâu:
_ Được! Ta mở ṿng vây cho chúng rút quân. Ta lại phục quân ở Phù lỗ,
Cụ bản, B́nh lệ nguyên, Thảo lâm... dọa cho chúng khiếp sợ đến phiêu
hồn bạt vía.
Hưng Ninh vương đặt vấn đề:
_ Khi chúng vừa rút khỏi, là ta dùng cương.
Rồi ta lại dùng nhu. Nếu như ta gửi người sang làm con tin ở Mông cổ,
th́ ai có thể đi được? Sứ đoàn đi theo cần bao nhiêu người? Là những
loại người nào?
Thái sư Thủ Độ đưa tờ chiếu thư của Mông cổ ra:
_ Mông cổ từng đánh chiếm
Kim, Liêu, Tây hạ, Tống. V́ vậy họ hiểu rất kỹ văn hóa của các nước
Đông phương: con cả sẽ là người kế vị vua cha, nên trong chiếu thư
họ đ̣i ta phải cho con trai trưởng sang làm con tin. Mông cổ có
truyền thống là khi một con tin có tài th́ họ tin dùng, phong chức
tước, trao quyền hành cho, c̣n không tài th́ phải tự xây nhà ở Hoa
lâm. Mọi chi phí ăn ở đều phải tự túc. Nếu như ta gửi người tài trí
vơ công cao sang, họ phong cho chức tước, nhất cử nhất động của họ
ta đều biết, sẽ lợi cho Đại Việt vô cùng.
Cử tọa đều đưa mắt nh́n Vũ Uy vương.
Nguyên Phong hoàng đế ban chỉ:
_ Nhật Duy con! Trong tất cả thân vương, hoàng tộc lẫn vơ tướng, th́
chỉ ḿnh con có thể đáp ứng vào việc cực kỳ hệ trọng này. V́ con là
trưởng nam của ta, con sang làm con tin th́ Mông cổ không c̣n gây
rắc rối được nữa. Hiện vơ công của con chỉ thua có Quốc thượng phụ (Trần
Thủ Độ) mà thôi. Tính con lại thâm trầm, điềm đạm, nhiều mưu trí,
th́ khi gặp sự khó, con sẽ vượt qua dễ dàng. Con mới cưới vợ, chưa
có con, không vướng vít con cái. Vợ con là đệ tử đắc ư nhất của Vô
Huyền Bồ Tát. Trước hôm cưới, vợ con được Bồ Tát dốc túi truyền pho
kiếm thuật trấn môn của phái Mê linh, th́ vợ con trở thành đệ nhất
kiếm thuật Đại Việt rồi. Về vơ công hai con như vậy đủ áp chế triều
đ́nh Mông cổ. Mông cổ trọng dụng, trao chức tước cho như tiền nhân
Lư Long Phi đời Lư, hoặc Tổ Trần Thủ Huy, Công chúa Đoan Nghi, nhất
là được như Quốc Thượng phụ (Trần Thủ Độ) th́ lợi cho biết mấy. Ta
cần gửi một người hiểu rơ phong tục, tập quán, ngôn ngữ Mâông cổ
theo giúp con.
Nhà vua nh́n Vũ sơn hầu :
_ Xét trong các quan, phi Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, không ai đương
nổi. Hầu là thầy dạy Mông cổ học cho con, gửi hầu theo giúp con, th́
thầy tṛ tha hồ tương đắc.
Lời phán của Nguyên Phong hoàng đế khiến Tạ Quốc Ninh tuy tuổi đă
cao, mà trong ḷng cảm kích không bút nào tả siết. Thời phong kiến,
một đại thần được hoàng đế tin tưởng về tài năng, đức độ th́ không
phần thưởng nào to lớn hơn. Oâng bước ra định hành đại lễ, để đền ơn
tri ngộ, th́ Nguyên Phong hoàng đế sẽ phất tay, ḱnh lực khiến
hầu không thế quỳ gối. Hầu cung tay:
_ Thần muôn vàn cả tạ đại đức của bệ hạ ban cho. Thần nguyện đem hết
sở tri ra báo đáp bệ hạ.
Nhà vua hỏi hầu:
_ Thế nào? Khanh có được tin tức ǵ của phu nhân không?
_ Tâu, thần đă hỏi cung tất cả tù nhân Mông cổ, chúng đều trả lời
không nghe, không biết ǵ cả. Cả vương phi của Nhân Huệ vương (Trần
Khánh Dư) cũng không.
Trước khi Mông cổ đánh Đại Việt, toàn quốc bừng lên một phong trào
mở Quán văn, là nơi cho vương tôn, đại thần, phú gia, danh sĩ, họp
nhau bàn luận thế sự, ngâm thơ, b́nh văn, tụng phú; nhất là nghe hát.
Cái thú thanh nhă tràn ngập khắp các trấn, các lộ, cho tới các xă.
Tại Thăng long có đến hơn trăm Quán văn. Trong đó có năm quán nổi
tiếng là Tây hồ, Văn miếu, Ngọc thụy, Nghi tàm, Tô lịch.
Quán Tô lịch nằm ngay bờ sông, mà quanh năm đều có hoa nở. Quán chủ
là một văn gia nổi tiếng giao thiệp rộng. Từ khi ông chiêu mộ được
bẩy hoa khôi về đây ca hát, th́ quán trở thành nơi thu hút hầu hết
giới tao nhân mặc khách của đất ngh́n năm văn vật. Bẩy nàng được
danh sĩ tặng cho mỹ danh Tô lịch thất tiên. Khi các nàng mới tới,
đều có nghệ danh riêng. Trong một dịp hội hoa, bẩy nàng ôm bẩy bó
hoa, bẩy mầu khác nhau, văn giới Thăng long nhân đó tùy mầu đặt mỹ
danh cho các nàng. Các nàng đều mang tên Hoa, chỉ khác chữ đầu thôi:
Hoàng Hoa, Bạch Hoa, Huyền Hoa, Thanh Hoa, Hồng Hoa, Tử Hoa, Lan Hoa.
Tuy nổi tiếng, nhưng 7 nàng đều treo cao giá ngọc. Có không biết bao
nhiêu vương tôn, đại thần, công tử, phú gia cầu thân, nhưng các nàng
đều không để ai vào mắt xanh.
Tiếng tăm bẩy nàng sắc nước hương trời, đàn hát, thi văn vang tới
Trung nguyên.
Thế rồi Trung thu năm trước, 7 nàng treo bảng tuyển phu trong 10
ngày. Hoàng Hoa t́nh t́nh trầm tĩnh, nàng đ̣i trượng phu phải là
người bác học đa năng, có huân công với Xă tắc; Vũ sơn hầu Tạ Quốc
Ninh là người bác văn, cường trí, giữ trọng trách tại Khu mật viện,
coi về Mông cổ. Hầu nói, viết giỏi văn tự Thổ phồn, Tây vực là những
văn tự chính thức của Mông cổ. Là một người nhă lượng cao trí, hầu
giao hữu với tất cả văn gia Thăng long, Tống. Hầu trúng cách nàng
Hoàng Hoa.
Nàng Bạch Hoa dáng người ẻo lả, nàng ước trượng phu vơ công cao
cường, lại phải là người hoàng tộc; Nhân Huệ vương Trần Khành Dư
trúng cách.
Huyền Hoa, Thanh Hoa lại ước một trượng phu văn hay, chữ tốt, một
danh sĩ; Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu lọt vào mắt xanh Huyền Hoa; Tham
tri bộ Lễ Chu Bác Lăm, được nàng Thanh Hoa.
Hồng Hoa lại ước một đại tướng quân, thế là Vũ kị thượng tướng quân
Lư Tùng Bách trúng cách.
Hai nàng Tử Hoa, Lan Hoa th́ đ̣i người trượng phu phải là cao nhân
vơ học, hơn nữa tinh thông âm nhạc, cuối cùng hai đệ nhất cao nhân
phái Sài sơn là Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn lọt vào mắt xanh hai nàng.
Bẩy đám cưới cùng tổ chức một ngày, dân Thăng long gọi là ngày hoa
đăng. Đám cưới được một tuần trăng th́ quân Mông cổ chiếm Thăng
long. Tạ Quốc Ninh đem Hoàng Hoa cùng 6 người bạn về Nghi tàm ẩn
thân. Nhưng trong đám gian nhân người Việt theo Mông cổ có tên Trịnh
Ngọc và con là Trịnh Long từng nghe tiếng Tô lịch thất tiên. Y chỉ
điểm chỗ ẩn của bẩy nàng. Mông cổ cử một Bách phu Lôi kị tới Nghi
tàm bắt.
Truyền thống của Mông cổ là khi chiếm được vùng nào là chúng cho bắt
tất cả phụ nữ đẹp, không phân biệt công chúa, quận chúa, tiểu thư
hay ca kĩ; cũng không phân biệt khuê nữ hay gái có chồng. Không ai
hiểu tại sao Ngột Lương Hợp Thai lại đối xử với bẩy nằng quá đặc
biệt: bẩy nàng được ở trong hậu cung của vua Trần, cử tỳ nữ hầu hạ,
sai những đầu bếp giỏi nhất nấu cho bẩy nằng ăn. Chính Ngột Lương
Hợp Thai thu dụng Hoàng Hoa làm tỳ thiếp. Hoài Đô dành Bạch Hoa. A
Truật giữ Huyền Hoa. C̣n bốn nàng Thanh, Hồng, Tử, Lan th́ không
cho ai đụng chạm đến. Nhưng chỉ mười ngày sau, không ai thấy các
nàng đâu cả.
Sau khi Mông cổ đại bại, Vũ sơn hầu thẩm vấn mấy trăm tù binh, cũng
không ai biết tung tích Tô lịch thất tiên ra sao? Cho rằng vợ đă bị
giết chết, hầu khóc hết nước mắt, làm một tuần chay cho Hoàng Hoa.
Thái sư Thủ Độ tiếp lời Nguyên Phong hoàng đế:
_ Hộ tống sứ đoàn, ta phải mang theo một toán kị mă vơ công cao,
cung thủ thực giỏi. Ta đă có sẵn 10 toán Thần tiễn Long biên. Ta cử
một toán theo sứ đoàn. Toán này cần một tướng trẻ, trí dũng, được
triều đ́nh tin dùng chỉ huy. Xét trong các thiếu niên thần thấy chỉ
có Thiên trường ngũ ưng là xứng đáng.
Tây Viễn vương thắc mắc:
_ Thiên trường ngũ ưng là những ai vậy?
Thái sư Thủ Độ tỏ ra cực kỳ cao hứng:
_ À là năm thằng cháu. Nói
về tài nghệ, th́ mỗi cá nhân đều có một tuyệt nghệ bậc nhất Đại Việt.
Nói về xuất xứ th́ mỗi người có một xuất xứ lạ lùng. Nói về tính
t́nh th́ mỗi cá nhân đều có những ưu việt hiếm có. Nhưng tất cả đều
giống nhau ở một điểm nhă lượng, cao trí, anh hùng, hào sảng. Chúng
kết làm huynh đệ theo thứ bậc Dă Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Đại
Hành, Địa Lô. Trong thời gian chống giặc vừa qua, chúng gần gũi
huynh nhiều, nên huynh hiểu chúng. Chúng gọi huynh là Oâng trẻ,
huynh gọi chúng là Thiên trường ngũ ưng.
Thái tử Hoảng tâu:
_ Trong năm người th́ Địa
Lô họ Nguyễn, nhỏ tuổi nhất, dáng người thanh nhă, mặt đẹp như ngọc,
xuất thân phái Sài sơn, tài kị mă siêu việt; học văn rất uyên bác,
cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ, có tài phục dược. Lô được danh
sĩ Thăng long tặng cho cái tên Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Hiện Địa
Lô lĩnh chức Trưởng sử trong phủ của thần nhi.
Thủ Độ tiếp:
_ Thứ tư là Đại Hành. Trong
một lần huynh làm lễ cầu siêu cho vong linh tử sĩ ở chùa Chiêu thiền
(Láng), huynh bố thí lộc Phật cho kẻ khó. Trên đường về huynh gặp
một thiếu niên nằm bên đường tay ôm phẩm oản, với ba quả chuối. Gia
tướng đỡ thiếu niên mang về phủ của huynh. Y sĩ chẩn mạch cho biết y
rất khỏe mạnh, sở dĩ bị xỉu v́ đói quá. Gia tướng đem cơm, thịt gà
cho ăn. Y chỉ ăn cơm, c̣n thịt th́ gói lại. Huynh hỏi: tại sao trong
tay có oản, chuối mà không ăn để đến nỗi xỉu nằm bên đường. Thiếu
niên thưa rằng y có mẹ già ở nhà, hai ngày qua bị đói, không có ǵ
bỏ bụng, nên khi được bố thí oản chuối, y mang về cho mẹ. Nhưng đi
giữa đường kiệt lực, ngă xuống. Huynh lại hỏi: Tại sao không ăn thịt
gà, mà lại dấu vào túi? Y trả lời rằng mẹ y thường ước ao được ăn
một miếng thịt gà mà chưa bao giờ toại nguyện. V́ vậy hôm nay y dấu
mang về cho mẹ. Huynh cảm thương đứa trẻ có hiếu, thu nhận làm mă
phu trong phủ. Ngày nào cũng như ngày nào khi ăn cơm, có miếng ǵ
ngon y lại dấu mang về cho mẹ. Trong một lần con chiến mă của huynh
xổ chuồng chạy, mă phu cỡi ngựa chiến đuổi theo mà không bắt lại
được. Y hú lên một tiếng, đuổi theo bắt được ngựa về. Huynh cải thu
nhận y làm gia tướng. Hiện y mang hàm Đô thống, y gọi huynh là ông
nội, huynh gọi y là Đại Hành, v́ y chạy giỏi.
Tây Viễn vương hỏi:
_ Thế c̣n Cao Mang, Yết
Kiêu, Dă Tượng?
Vũ Uy vương chỉ Hưng Đạo
vương:
_ Dă Tượng, Yết Kiêu là
nghĩa tử của Hưng Đạo vương. Cao Mang là một tiểu ḥa thượng tại gia.
Cao Mang, Dă Tượng là Ngưu tướng. Cả hai đều cùng mang hàm Đô Thống.
Dă Tượng là thống lĩnh Ngưu binh, Cao Mang là phó thống lĩnh. Cao
Mang có tài bắn tên bách phát bách trúng. Yết Kiêu là Ngạc tướng,
hàm Đô thống, thống lĩnh Ngạc binh.
Hưng Đạo cho gọi Thiên
trường ngũ ưng vào. Cả năm định quỳ gối hành lễ.
Lẽ quan hô:
_ Miễn lễ.
Hưng Đạo vương nh́n Ngũ ưng
với tất cả yêu thương:
_ Các con được triều đ́nh
tín nhiệm chọn một trong các con theo sứ đoàn sang Mông cổ. Vậy ai
t́nh nguyện đi?
Cả năm đều xin đi.
Nhà vua hỏi Vũ Uy vương:
_ Trong năm Ưng, con định
chọn Ưng nào đi theo?
_ Con xin chọn Địa Lô với
Dă Tượng.
Dă Tượng, Địa Lô hành lễ:
_ Đa ta vương gia đă chọn
hai thần nhi.
Hưng Đạo vương bảo Dă Tượng:
_ Con trao quyền thống lĩnh
Ngưu binh cho phó tướng Cao Mang. Nhiệm vụ của con , với Địa Lô sẽ
được Khu mật viện hướng dẫn.
Khi rời khoang thuyền lên
bờ, Tây Viễn vương lĩnh Phiêu kỵ Đại tướng quân Trần Thủ An cầm tay
Vũ Uy vương như muốn nói điều ǵ, rồi ông ngập ngừng suy nghĩ. Cuối
cùng ông nói:
_ Khi con lên đường ta sẽ
có ít lời dặn con.
Buổi thiết triều chấm dứt.
Theo tinh thần buổi thiết
triều: Hưng Ninh vương truyền lệnh mở ṿng vây Đông bộ đầu, Thái tử
Hoảng mở ṿng vây Thăng long, Nhân Huệ vương cho mở ṿng vây Kinh
Bắc. Triều đ́nh chu cấp lương thảo, chữa trị cho thương binh, chiến
mă, tiễn họ lên đường.
Thái sư Trần Thủ Độ thân
dẫn Ngột Lương Hợp Thai cùng tướng sĩ Mông cổ vượt sông Hồng sang
Gia lâm. Oâng sai bầy một tiệc rượu tiễn nghĩa đệ tại phủ đường Gia
lâm.
Hưng Đạo vương sai sứ mật
lệnh cho tướng sĩ tại Cụ bản, Phù lỗ, B́nh lệ nguyên.
Vũ kị thượng tướng quân Lư
Tùng Bách, Phá lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài hóa thượng tướng
quân Trương Đ́nh được lệnh, phục binh tại Phù lỗ. Khi tướng Mông cổ
là A Truật, con trai Ngột Lương Hợp Thai, dẫn tiền quân rút qua đây
th́ bị ba tướng đổ quân ra vây như thành đồng vách sắt. Giữa lúc
binh tướng Mông cổ kinh hồn lạc phách, th́ Vũ Sơn hầu Tạ Quốc Ninh
cầm lệnh bài tới, ban lệnh cho ba tướng mở ṿng vây. Ba tướng vui vẻ
tha cho A Truật, lại c̣n dùng lời ngọt ngào đăi rượu với gà rừng
quay.
Thoát ṿng vây Phù lỗ, binh
tướng Thiên triều chưa hoàn hồn, th́ khi tới Cụ bản, nơi diễn ra hai
trận đánh kinh thiên động địa. Trận thứ nhất Mông cổ tấn công chiếm
chiến lũy. Sau đó Mông cổ đóng binh tại đây để bảo vệ đường tiếp
viện lương thảo. Mới mấy hôm trước Cụ bản bị quân Việt tái chiếm.
Nay dân chúng đă trở về, đang dọn dẹp, tái thiết chiến lũy. Th́nh
ĺnh ba tướng Lê Phẩm, Phạm Long, Nguyễn Bích phát pháo, làm binh
tướng Mông cổ rụng rời chân tay. Nhưng không có quân bao vây mà ba
tướng sai người khiêng rượu thịt ra tiễn quân Thiên triều.
Nào đă hết đâu, lúc Ngột
Lương Hợp Thai tới B́nh lệ nguyên lại bị Thủy binh, Ngưu binh, Kị
binh dàn ra như đe dọa, Thái sư Trần Thủ Độ phải đích thân can thiệp,
ṿng vây mới được mở.
Khi chia tay tại biên giới,
Ngột Lương Hợp Thai xin Thái sư Trần Thủ Độ thả hơn vạn tù hàng binh
Mông cổ, Đại lư. Thái sư Trần Thủ Độ can thiệp với Vũ Uy vương.
Vũ Uy vương đưa điều kiện:
� Có hơn ngh́n người của vơ
lâm Trung nguyên theo quân Mông cổ sang đánh Đại Việt. Để họ phải
trung thành, quyết tâm với Mông cổ, Mông cổ sai quản chế vợ con họ.
Trong trận đánh Thăng long, đứng trước việc quân Mông cổ tàn sát Hoa
kiều, họ đă phản Mông cổ, hàng Đại Việt, cứu Hoa kiều. Vậy nay xin
Thái sư Ngột Lương Hợp Thai đem vợ con họ trao đổi lấy tù binh�.
Ngột Lương Hợp Thai đành
chấp nhận.
Đại Việt vừa trải qua một
cuộc chiến tranh, tuy chỉ trong ṿng hơn tháng, nhưng cực kỳ khủng
khiếp. Đất nước không bị tán phá nhiều, chỉ có bẩy nơi diễn ra trận
đánh bị thiệt hại: Thảo lâm, B́nh lệ nguyên, Cụ bản, Phù lỗ, Thăng
long, Đồng văn, và Đông bộ đầu. Triều đ́nh Nguyên Phong hô hào toàn
quốc cùng giúp các nơi này kiến thiết lại. Sức sống của dân chúng
phục hồi rất mau.
Sứ đoàn bao gồm Vũ uy vương
Nhật Duy, vương phi Ư Ninh, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, Dă Tượng, Địa
Lô và đoàn kị mă Long biên 30 người, thêm 25 người phục dịch, 10 xe
song mă. Tất cả 55 kị mă cũng như người phục dịch đều là nhữơng cao
thủ, vơ công thuộc loại thượng thừa, thông minh, biết nói tiếng Hoa,
tiếng Mông cổ. Họ lại được Khu mật viện giảng giải tất cả tổ chức
triều đ́nh, lănh thổ, quan chế, phong tục của Mông cổ cặn kẽ; huấn
luyện về phương pháp trinh sát, thu nhặt tin tức t́nh báo, cùng
pḥng bị đối phương khai thác tin tức ḿnh. Lại cấp cho sứ đoàn mười
con chó Ngao để canh pḥng dưới đất, mười con chim ưng để đưa thư,
canh pḥng trên không. Cuộc giảng giải này phải mất hơn tháng mới
xong.
Vũ Uy vương bàn với Tạ Quốc Ninh:
_ Thưa thầy, trước hết
trong sứ đoàn cần chính danh. Không lẽ lúc nào Địa Lô, Quốc Kinh
cũng gọi con là vương gia, xưng thần? Trong huyết tộc th́ phụ hoàng
là chú ruột Hưng Đạo vương. Quốc Kinh là con của vương, th́ gọi con
bằng chú. Như vậy trên đường đi sứ Đia Lô, Quốc Kinh cứ gọi con bằng
chú cho thêm thân mật. Kinh chỉ mới học chữơ, xin thầy nhận Kinh làm
học tṛ; dọc đường thầy dạy văn cho Kinh. Kinh gọi thầy bằng thầy.
Thầy dậy tất cả sứ đoàn nói tiếng Mông cổ, như vậy Địa Lô cũng gọi
thầy bằng thầy.
Tạ Quốc Ninh vui vẻ:
_ Đa tạ vương gia đă cho
tôi hai người học tṛ uy vũ quán thế.
Địa Lô, Quốc Kinh vái Quốc Ninh bốn vái:
_ Con xin bái lạy thầy.
Vương hỏi Dă Tượng:
_ Về vơ công, con đă học
được những ǵ? Ai là sư phụ của con?
_ Con chưa bái sư chính
thức.
Vương kinh ngạc, v́ vương từng thấy Dă Tượng xử dụng vơ công trong
suốt bẩy trận đánh. Vương hỏi:
_ Chính mắt chú thấy cháu
xử dụng những chiêu vơ kỳ ảo. Tỷ dụ: chiêu thứ nhất, khi xuất trận,
bọn Lôi kị sở trường thúc chân vào bụng cho ngựa chồm lên đầu một bộ
binh, rồi xung vào phá tuyến đầu trận địa. Một Lôi kị đă dùng chiêu
số này với cháu. Cháu xuống đinh tấn, hai tay chụp chân ngựa vặn
tréo, ngựa bị ngă lộn đi hai ṿng. Tên Kị mă cũng ngă lăn theo, cháu
phi thân đến đá vỡ ngực y. Chiêu thứ nh́: hai Kị mă phi song song
vào trận địa Ngưu binh. Cháu nhào tới, hai tay ấn vào đầu hai chiến
mă, rồi vọt lên cao, lộn một ṿng, đáp ra phia sau, hai tay cháu
chụp đuôi hai chiến mă kéo lùi một hai bước, rồi buông ra. Hai chiến
mă ngă lộn xuống đất, vật hai Lôi kị theo. Cháu phi thân phóng hai
cước vào đầu chúng.
Dă Tượng kính cẩn đáp:
_ Thưa chú, trong thời gian
huấn luyện Ngưu binh, cháu cùng các Ngưu tướng tự chế ra các chiêu
thức chống với Lôi kị. Tất cả 9 lộ. Hồi theo Hưng Ninh vương đánh
trận Đông bộ đầu, vương bảo cháu diễn lại từ đầu cho vương xem.
Vương giúp cháu chỉnh khuyết điểm, biến hóa mỗi lộ ra 9 chiêu, cộng
81 chiêu, rồi vương đặt tên là Đảo mă cửu lộ thức.
Vương khen:
_ Các chiêu số đều thuần
nhất, chất phác, nhưng khắc chế với kị binh. Có điều cả chín lộ đều
dùng sức của một mục đồng, nên không ảo diệu. Nếu người xử dụng có
công lực cao, th́ uy lực sẽ vô cùng dũng mănh.
Dă Tượng không có tên, hồi
mới ra đời, phong tục hồi đó thường không đặt tên cho con, mà chỉ
gọi bằng những tên b́nh dân. Như con trai th́ mang tên Cu, Chó, Trâu.
Con gái th́ mang tên Hĩm, Cái. Khi đứa trẻ 12-13 tuổi, vượt khỏi cái
tuổi bị chết về bện đậu mùa mới làm lễ gia tiên đặt tên cho. Bà nội
của Dă Tượng thấy cháu bụ bẫm dễ thương, bà đặt cho cháu cái tên Cu
Chó. Năm bẩy tuổi, Cu Chó mồ côi cảø cha lẫn mẹ. Nó phải đi ở, chăn
trâu cắt cỏ cho một ngôi chùa vùng Thiên trường. Sư trưởng của chùa
là người nhân từ, ông đối xử với Cu Chó bằng tất cả tấm ḷng từ bi.
Ngoài việc chăn trâu của chùa, Cu Chó không phải làm công việc ǵ
khác. Khi các chú tiểu trong chùa học văn, kinh Phật, ông cho Cu Chó
cùng học. Trời cho Cu Chó một thân thể hùng vỹ, thông minh, lại thâm
nhiễm đạo lư nhà Phật.
Ba năm trước khi giặc Mông
cổ ngấp nghé ngoài Bắc cương, triều đ́nh ban chỉ cho xă ấp tập trung
trẻ chăn trâu lại, huấn luyện tổ chức thành đội ngũ Ngưu binh. Vốn
thông minh, có sức khỏe siêu việt, tính t́nh trầm tĩnh, Cu Chó được
cử làm Ngũ trưởng (chỉ huy 5 người), rồi Lượng trưởng (chỉ huy 20
người). Trong lần duyệt binh, nó lĩnh chức Vệ úy (tương đương với
ngày nay là Đại úy), chỉ huy một vệ Ngưu binh. Cu Chó biểu diễn đẩy
ngă một con trâu mộng. Nguyên Phong hoàng đế ban cho Cu Chó cái tên
Dă Tượng. Thời xưa, một người được vua ban cho mỹ danh, là điều hănh
diện vô cùng. Trong dịp này Hưng Đạo vương nhận Dă Tượng làm con
nuôi, ngài đặt tên Dă Tượng là Trần Quốc Kinh. Nhưng không ai gọi
cái tên này cả, mà chỉ gọi là Dă Tượng. Ngay hôm được nhận Dă Tượng
làm con nuôi, Hưng Đạo vương cho chàng vào cung bái kiến Tuyên minh
thái hoàng thái hậu. Dă Tượng được bà dạy cho hai bộ vơ công trấn
môn của phái Đông A là Đông A chưởng pháp và Thiên la thập bát thức.
Sau trận B́nh lệ nguyên,
tài năng chỉ huy Ngưu binh của Vệ úy Dă Tượng làm cho Lôi kị Mông cổ
kinh hoàng, chàng được thăng lên Tá lĩnh chỉ huy 10 Vệ Ngưu binh.
Rồi sau các trận Cụ bản, Phù lỗ, Đông bộ đầu, Dă Tượng được thăng
lên Đô thống, tổng chỉ huy Ngưu binh toàn quốc.
Thời gian theo quân trong
các trận Thảo lâm, B́nh lệ nguyên, Dă Tượng được Vũ Uy vương dạy căn
bản vơ thuật phái Đông A. Trong trận Cụ bản, Dă Tượng gặp Tuyên minh
thái hoàng thái hậu, vương phi Kiến Quốc đại vương, vương phi Hưng
Nhân vương. Ba bà yêu thương Dă Tượng cực kỳ. Cả ba đem hết tâm
huyết dậy đứa cháu nuôi. Hồi về Thăng long dự trận Đông bộ đầu, Dă
Tượng lại được Hưng Ninh vương dạy vơ công Trúc Lâm yên tử.
Ghi chú, Tuyên minh thái
hoàng thái hậu, nhũ danh Tô Phương Lan. Bà là vợ của Trần Lư, bà nội
của Nguyên Phong hoàng đế . Vương phi Kiến Quốc đại vương nhũ danh
Phan Mỹ Vân, vợ của Trần Tự Khánh chú ruột Nguyên Phong hoàng đế,
khai quốc công thần Trần triều. Vương phi Hưng Nhân vương, nhũ danh
Trần Kim Ngân, là vợ của Phúng Tá Chu, em gái Trần Lư.
Về hành trạng của ba bà,
xin xem AHĐADCBM.
Vương nói với Địa Lô:
_ C̣n cháu, cháu là học tṛ
của chưởng môn phái Sài Sơn, th́ Nho, Y, Lư, Số, Xạ, Ngự, Thư, Họa
đều thông. Ta yên tâm.
Quốc Ninh đề nghị:
_ Dọc đường, đối với đội kị
mă Long biên, ta vẫn để họ trang phục kị binh. C̣n sứ đoàn , để giữ
quốc thể, ta cứ mặc y phục nông dân Đại Việt cho phải lẽ.
Trước khi lên đường, Vũ Uy
vương cùng vương phi vào Hoàng thành vấn an sinh mẫu của vương là
Tuyên phi Mai Đông Hoa.
Vũ Uy vương Nhật Uy với
vương phi Ư Ninh mới kết hôn chưa quá một năm, đám cưới diễn ra ngay
sau trận Phù lỗ, quân Mông cổ đang tiến về Thăng long, chiến cuộc
diễn ra khủng khiếp. V́ vậy mọi lễ nghi đều hủy bỏ. Hai vợ chồng bái
tạ phụ hoàng, hướng về Thiên trường lễ vọng tổ tiên, rồi lên đường
trấn ngự Bắc cương. V́ vậy vương phi chưa được diện kiến sinh mẫu
của vương. Phi hỏi vương:
_ Anh ơi, chúng ḿnh cưới
nhau trong khi khói lửa mịt mờ! Cho đến nay em cũng không biết phụ
hoàng có bao nhiêu hoàng nam.
_ Để anh cho em biết. Trong các con của phụ hoàng, nếu tính theo
tuổi th́ Tĩnh Quốc vương Khang lớn nhất, thứ đến anh. Cả hai cùng
tuổi Đinh Dậu (1237). Thái tử Hoảng nhỏ hơn anh ba tuổi, chú ấy tuổi
Canh Tư (1240) . Tiếp đến là Chiêu Minh vương Quang Khải. Sau tới Vũ
Minh vương Quang Húc, Chiêu Quốc vương Ích Tắc, Chiêu Văn vương Nhật
Duật, cuối cùng là Chiêu Ḥa vương Quốc Uất. Tổng cộng 8 người.
_ Phụ hoàng có nhiều hoàng nam, hầu hết đều văn mô, vũ lược, có tài
đế vương. So về tuổi th́ chú Hoảng là con trai thứ ba, nguyên do nào
chú lại được lập làm Thái tử, rồi sẽ được truyền ngôi vua?
Vương giảng giải:
_ Theo thể chế các triều đại Hoa-Việt xưa, khi một hoàng tử đến tuổi
13 th́ được phong tước vương, được gọi là thân vương, được trao cho
nhiều chức vụ. Thường th́ gồm cả chức văn lẫn vơ, được cho mở phủ đệ
riêng. Mỗi phủ đệ có nhiều chức quan do triều đ́nh ấn định. Các thân
vương cũng có quân túc vệ riêng. Việc này dẫn đến các vị vương dùng
binh tướng của ḿnh làm loạn như triều Lê. Khi vua Lê Đại Hành băng,
các hoàng tử kéo quân về tranh ngôi vua, chém giết nhau không hề
nghĩ t́nh ruột thịt. Cuối cùng Lê Long Đĩnh giết hết các anh-em, lên
ngôi vua, tức Lê Ngọa triều. Bởi vậy khi Lê Ngọa triều băng, trong
triều, ngoài trấn không c̣n thân vương nào nữa, đưa đến triều Lê mất
về họ Lư.
_ Em cũng đă biết như thế.
Vương phi tŕnh bầy: Này nhé, sang triều Lư, vua Lư Thái tổ đă từng
thấu hiểu những cay đắng của triều Lê. Nhà vua không cho phủ đệ của
thân vương tổ chức quân đội riêng. Nhưng các hoàng tử đều là những
người có tài cầm quân. Vua trao cho bốn con bốn chức vụ lớn. Một
người lĩnh Đô đốc thủy quân, một người thống lĩnh Kị binh, một người
thống lĩnh Thiên tử binh, một người thống lĩnh Ngự lâm quân, Thị vệ.
Ngài ban chỉ dụ: ngôi trừ quân bỏ trống, các hoàng tử đều được phong
làm thái tử. Người nào nhiều công trạng, có tài nhất sẽ được lập làm
trừ quân. Nhưng ngài băng hà th́nh ĺnh, khi chưa chỉ định người kế
vị, v́ vậy đưa đến chư vương nổi loạn. Các đại thần quyết định theo
cơ chế cổ, con trưởng sẽ được kếù vị. Con trưởng của vua Lư Thái tổ
là Khai Thiên vương. Các tướng giúp Khai Thiên vương, dẹp chư vương,
rồi tôn lên ngôi vua tức vua Lư Thái tông.
_ Huynh đệ tương tàn là điều đau đớn nhất của các triều trước.
Vũ Uy vương than thở: V́ thế khi vua Lư Thái tông lên ngôi, ngài ban
chỉ không cho thân vương, hoàng tộc giữ các nhiệm vụ Thái úy, Quản
Khu mật viện, Đô đốc Thủy quân, Tổng lĩnh Thiên tử binh, Tổng lĩnh
Kị binh.
Chú giải,
Thái úy, tương dương với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội.
Khu mật viện, tương đương với ngày nay bao gồm bộ Công an, Cục tác
chiến, Cục quân báo, Cục phản gián.
Đô đốc Thủy quân, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thủy quân.
Tổng lĩnh Thiên tử binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh lục
quân.
Tổng lĩnh Kị binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thiết giáp
binh.
_ Anh nói lạ! Thế sao sau này ngài Lư Thường Kiệt cũng từng được
trao cho trao chức Thái úy?
Vương cười lớn:
_ Em không nhớ kỹ sử mất rồi; ngài Thường Kiệt nguyên họ Ngô, được
ban quốc tính, chứ ngài không phải họ Lư.
_ Em quên! Chính sách này giúp cho suốt triều Lư, không bị các nạn
hoàng tộc chém giết nhau v́ tranh ngôi vua. Sử chép Tô Hiến Thành,
Đàm Th́ Phụng, Đàm Dĩ Mông từng giữ chức Thái úy. Cuối cùng trong
lúc rối loạn, chức Thái úy do tổ Trần Tự Khánh nhà ta nắm rồi đi đến
triều Lư mất về họ Đông A nhà ḿnh.
Vương nh́n thẳng vào khuôn mặt thanh tú của vương phi, giảng giải:
_ Phụ hoàng đă thấy các vết xe đổ của triều Lê, triều Lư. Người ban
hành luật: Khi chú Hoảng là Thái tử đă đủ lớn, th́ được truyền ngôi,
người sẽ lui về làm Thái Thượng hoàng. Có lẽ sang năm tới. Như vậy
tránh được t́nh trạng tân quân bỡ ngỡ khi mới lên ngôi, tránh t́nh
trạng các con tranh giành ngôi vua chém giết nhau. Tổ chức cai trị
chia ra làm hai: chức vụ trong triều, cũng như ngoài trấn th́ trao
cho các quan. C̣n các vương, hầu hoàng tộc th́ ai về đất phong của
người ấy. Đất phong như một tiểu quốc riêng, có tiểu triều với đầy
đủ quan chức, quân đội. Mỗi tháng các vương hầu đều về Thăng long dự
buổi thiết đại triều, bàn quốc sự. Xong việc lại trở về lănh địa của
ḿnh. Vừa rồi, Mông cổ kéo đại binh sang, Hưng Đạo vương hội quân,
các vương hầu kéo quân bản bộ về cùng nhận lệnh đánh giặc. Chính anh,
anh kéo quân Bắc cương về chịu lệnh.
Vương phi vẫn không chịu:
_ Theo lẽ chính thống th́ bao giờ các vua chúa Hoa, Việt cũng truyền
ngôi cho con trai trưởng, là người lớn tuổi nhất. Nếu không phải con
trưởng th́ cũng phải là người con thứ có nhiều công trạng hoặc tài
đức vượt xa các anh em, như Đường Cao tổ truyền ngôi cho con thứ là
Tần vương Lư Thế Dân. Nhưng tại sao chú Hoảng, tài không hơn anh,
công lao lại càng thua xa anh. Theo tuổi tác, chú là con thứ ba lại
được lập làm Thái tử?
_ Chú ấy được phong làm Thái tử, v́ tuân theo cái lẽ chính thống của
Nho gia. Với nguyên tắc chính thống th́ anh không thể lên ngôi vua.
Anh mà lên làm vua, sĩ dân không phục, rồi nước sẽ loạn to!
_ Em không hiểu.
_ Này nhé, Phụ hoàng nhờ là pḥ mă của vua Lư Huệ Tông, là chồng của
vua Lư Chiêu Hoàng, mà được nhường ngôi. Phụ hoàng có hoàng hậu,
nhiều phi tần, cung nga, sinh nhiều hoàng nam. Nhưng người kế vị
phải là cháu ngoại của vua Lư Huệ Tông mới hợp lẽ chính thống, dân
chúng, sĩ dân mới phục. Hoàng hậu Chiêu Hoàng không có hoàng nam, bị
phế xuống làm công chúa, th́ chỉ con của Phụ hoàng với công chúa
Thuận Thiên, chị của vua Chiêu Hoàng mới đủ tư cách kế vị. Điều này
anh bị loại, v́ anh là con một cung nga. Mẫu thân ḿnh xuất thân là
con hát được đưa vào cung. Như anh vừa nói, so về tuổi th́ anh Quốc
Khang với anh lớn nhất. Ngược lại so về vai vế th́ Thái tử Hoảng lớn
nhất, thứ đến Quang Khải, v́ cả hai là con của hoàng hậu Chiêu Thánh.
Tiếp đến Quang Húc, Ích Tắc là con của Tây cung quư phi đứng thứ ba,
thứ tư; Nhật Duật là con của Hoàng phi đứng thứ năm. Anh với Quốc
Uất là con của một Tu Dung, đẳng cấp thấp nhất đứng thứ sáu, thứ bẩy.
Anh Quốc Khang không phải con của phụ hoàng, nếu kể cả anh ấy th́
phụ hoàng có 8 hoàng nam.
_ Em hiểu rồi. Trong cuộc chiến vừa qua, anh lập công lớn, phụ hoàng
lấy lư tử quư, mẫu vinh (con quư th́ mẹ vinh), mẫu thân anh được
cải phong lên bậc Tuyên phi. Do vậy dù anh lớn tuổi nhất trong các
hoàng nam của Phụ hoàng, dù anh là người văn mô vũ lược, lại từng
thống lĩnh binh mă Bắc cương, chiến thắng Mông cổ, vẫn không được
phong làm Thái tử.
Theo Đại Việt sử kư toàn thư th́ sự việc này như sau:
Hồi vua Trần Thái Tông c̣n thơ, được tuyển vào cung hầu hạ nữ hoàng
đế Lư Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng ưng ư tuyển làm chồng, rồi truyền
ngôi cho năm 1225. Thái Tông phong Chiêu Hoàng tước Chiêu Thánh
hoàng-hậu.
Niên hiệu Thiên Ứng Chính B́nh thứ 6 (1237), hoàng-hậu Chiêu Thánh
đă 19 tuổi mà chưa có hoàng nam, tông thất nhà Lư rục rịch đ̣i lại
ngôi vua. Thái-sư, Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ ép vua giáng Chiêu
Thánh xuống làm Thiên Cực công-chúa, lập vương phi của An Sinh vương
Liễu là công-chúa Thuận Thiên, cũng là con của vua Lư Huệ Tông làm
hoàng-hậu, v́ bà đă có thai ba tháng. Thủ Độ nghĩ: ông có thể lư
luận với tông tộc nhà Lư rằng: Đứa trẻ sinh ra là con của Thuận
Thiên, th́ cũng là cháu của vua Huệ Tông. Cháu vua Huệ Tông cũng
nghiễm nhiên được nối ngôi. Bị làm nhục, An Sinh vương Liễu cất quân
làm loạn. Sau nhờ Linh Từ quốc-mẫu Trần Thị Kim Dung, bà là:
_ Cô của vua Trần Thái Tông, An Sinh vương Liễu,
_ Hoàng hậu của vua Lư Huệ Tông,
_ Hiện làø vợ của Thái-sư Trần Thủ Độ,
_ Bà cũng là mẹ của công chúa Thuận Thiên và Chiêu Hoàng,
Bà đứng ra dàn ḥa, cuộc chiến tương tàn mới êm. Người đương thời
cũng như các sử gia đều cho rằng Thái sư Trần Thủ Độ là người thất
học, làm càn. Ông nặn ra việc Trần Cảnh, Lư Chiêu Hoàng có t́nh ư
với nhau, rồi cho hai người kết hôn. Sau lại bắt vua Trần Thái tông
bỏ Chiêu Thánh, đem vương phi An Sinh vương Liễu là công chúa Thuận
Thiên ép làm hoàng hậu.
Các sử gia đều kết tội Thái sư Trần Thủ Độ.
Nguyên do, Thái sư Thủ Độ đă căn cứ vào những sự kiện lịch sử
Hoa-Việt mà người xưa gọi là chính thống rồi hành động.
Cái lư chính thống của Thái sư Trần Thủ Độ thế là thế nào? Sử, cũng
như chính sự các đời đều ca tụng ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ là những
vị vua thánh. Vua Nghiêu gả hai công chúa là Nga Hoàng, Nữ Anh cho
pḥ mă là một nông dân, rồi nhường ngôi, pḥ mă trở thành vua Thuấn.
Vua Thuấn lại nhường ngôi cho pḥ mă, thành vua Vũ. Đây là h́nh thức
khuôn mẫu cho các đời sau, gọi là chính thống. Dẫn chứng sử Trung
hoa, con rể nối ngôi cha vợ cho hợp với chính thống e dài quá, xin
dẫn chứng sử Việt Nam:
Một là, khi anh hùng Dương Diên Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại, con
rể là Ngô Quyền, lên thay quyền, diệt kẻ ác, rồi làm vua. Hợp với lẽ
chính thống, nên tường sĩ, dân chúng qui phục ngài, v́ vậy ngài mới
thắng giặc Nam Hán, lên làm vua.
Hai là, vua Đinh Tiên hoàng, tuy có tài dẹp các sứ quân, nhưng ngài
cũng cố t́m ra cớ ǵ hợp với chính thống? V́ vậy ngài phải phong
cháu Dương Diên Nghệ là Dương Vân Nga, làm hoàng hậu, để qui phục
nhân tâm: Con rể kế ngôi nhạc phụ, như vậy mới có chính nghĩa, hợp
với lẽ chính thống.
Ba là, khi vua Lê Ngọa Triều băng, tuy con c̣n thơ dại, nhưng vẫn
c̣n đến ba hoàng tử em vua Ngọa Triều lĩnh tước vương, đang trấn
ngự bên ngoài. Nhưng tiều đ́nh tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lư Công Uẩn
lên làm vua, sau là Lư Thái tổ. Tại sao? V́ ngài là pḥ mă của vua
Lê Đại Hành
Bốn là, khi vua Lư Thái tổ lên ngôi, ngài có nhiều con, tất cả các
con đều được phong là Thái tử, ngụ ư rằng ngôi trừ quân chưa định.
Thái tử nào có tài, có đức sẽ được truyền ngôi. Tuy Thái tử Lư Long
Bồ tước phong Khai Quốc vương là người tài trí, đức độ trùm Hoa Việt,
nhưng cuối cùng vua Lư Thái tổ truyền ngôi cho Thái tử Phật Mă tước
phong Khai Thiên vương; dù vua biết rằng vương là người mà tài, đức
thua Khai Quốc vương xa, lại khệnh khạng, h́nh thức. Nguyên do chỉ
v́ Phật Mă là con của hoàng hậu Tá quốc, Long Bồ là con của hoàng
hậu Lập nguyên. Mà hoàng hậu Tá quốc là công chúa con vua Lê Đại
Hành. Như vậy, cháu ngoại vua Lê lên ngôi vua, th́ chính thống mới
sáng tỏ.
Trần Thủ Độ muốn lấy ngôi vua từ họ Lư sang họ Trần, ông phải xếp
đặt cuộc hôn nhân Trần Cảnh-Lư Chiêu Hoàng, cho hợp với chính thống.
Đến khi Chiêu Hoàng chưa có con, hoàng tộc nhà Lư rục rịch muốn yêu
cầu vua Trần Thái tông nhận một đứa trẻ con của một thân vương triều
Lư làm thái tử, rồi truyền ngôi cho. V́ vậy ông mới đem vương phi
của An Sinh vương ép vào ngôi hoàng hậu, để đứa trẻ đó sau lên nối
ngôi th́ là cháu ngoại của vua Lư Huệ tông, cháu ngoại lên nối ngôi
ông, cho hợp với chính thống.
Thuận Thiên hoàng hậu sau có với vua Thái tông hai hoàng tử, kể cả
đứa con oan nghiệt vốn là bào thai của An Sinh vương Liễu là ba. Đứa
trẻ đó sau là Tĩnh Quốc đại vương. Tĩnh Quốc đại vương không được
nối ngôi v́ là con An Sinh vương Liễu, mà ngôi vua về thái tử Hoảng,
tức vua Trần Thánh Tông.
C̣n hoàng hậu Chiêu Thánh bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa.
Thiên Cực trốn khỏi hoàng cung, đi tu, pháp danh là Vô Huyền. Đương
thời truyền tụng bà đắc đạo thành Bồ Tát, nên gọi ngài là Vô Huyền
bồ tát. Vô Huyền bồ tát là sư phụ của vương-phi Ư Ninh. Trần Thủ Độ
không t́m được tông tích của Chiêu Thánh, sợ Chiêu Thánh trốn ra các
trấn hô hào phục hưng triều Lư, bèn đem một cung nga có dáng giống
Chiêu Thánh, tên Thục Anh giả làm ngài để trấn an dư luận. Nếu Chiêu
Thánh khởi binh th́ Thủ Độ có thể tuyên bố rằng đó là Chiêu Hoàng
giả. C̣n Thục Anh mới là Chiêu Hoàng.
Sau chiến thắng Mông Cổ, vua Trần Thái tông thấy việc ép cung nga
Thục Anh này sống cô quạnh, th́ động ḷng trắc ẩn mới đem gả cho Lê
Phụ Trần. Bấy giờ Thục Anh đăù 36 tuổi.
Sử chép rằng Công-chúa Thiên Cực được gả cho Lê Phụ Trần, sau sinh
ra nhiều con. Lư này không vững, v́ năm ấy (1258) Chiêu Thánh đă 43
tuổi, với t́nh độ y học ngày nay một phụ nữ tuổi 43 cũng khó có thể
sinh con; huống hồ y học đời Trần. V́ vậy chúng tôi thuật theo gia
phả. Vả người chép gia phả là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Vương
là con của vua Thái tông, th́ vương chép về phụ-hoàng, mẫu-hậu không
sai được.
Vũ Uy vương tuy là người văn vơ toàn tài, lớn tuổi nhất trong các
con của vua Thái tông, lại có công trong cuộc phá Mông Cổ lần thứ
nhất (1258), nhưng v́ là con một cung phi bậc thấp, nên không được
truyền ngôi vua. Vả tính t́nh vương khoáng đạt, cùng vương phi trấn
ngư biên cương, không nghĩ đến tranh dành ngôi vua.
Vương phi Ư Ninh vẫn không chịu:
_ Thế Tĩnh Quốc vương Khang ! Anh ấy chẳng là con của Phụ hoàng với
Hoàng hậu đấy ư ? Dường như anh ấy với anh bằng tuổi nhau th́ phải.
_ Em hỏi thế thực phải. Em nên nhớ Tĩnh Quốc vương Khang, lớn tuổi
hơn hoàng tử Hoảng. Vương cũng là con của mẫu hậu Thuận Thiên, tức
cũng là cháu ngoại của vua Lư Huệ tông. Nhưng thực sự, vương không
phải là con của phụ hoàng. V́ khi mẫu hậu Thuận Thiên có thai ba
tháng với An Sinh vương Trần Liễu, th́ bị Thái sư Trần Thủ Độ ép vào
cung, rồi sinh ra vương, th́ vương là con của An Sinh vương. Vả tư
chất của anh ấy đần độn, học văn không thông, luyện vơ không thành;
như vậy không thể được lập làm thái tử, không thể được truyền ngôi
vua.
_ Bây giờ em mới hiểu hết những uẩn khúc trong cung đ́nh nhà ḿnh.
Theo chiếu thư Mông cố th́ họ đ̣i phụ hoàng phải gửi con trưởng sang
làm con tin. Sao phụ hoàng cũng như triều đ́nh không gửi anh Quốc
Khang mà lại gửi anh?
_ Có lẽ phụ hoàng cũng như triều đ́nh sợ anh ấy nghĩ ḿnh cũng là
cháu vua Lư Huệ tông. Anh ấy sẽ vận động với Mông cổ, xin phong
vương rồi về tranh dành ngôi vua với Thái tử Hoảng.
_ Em th́ em nghĩ khác.
_ Nghĩa là?
_ Phụ hoàng cũng như triều đ́nh thấy anh là người trung hậu, không
thích quyền hành, mà chỉ nghĩ đến Xă Tắc, nên cử anh đi mà không sợ
Mông cổ phong cho anh làm An Nam quốc vương, rồi về tranh ngôi vua.
Lại nữa, triều đ́nh Mông cổ không thiếu ǵ văn quan, vơ tướng là
tinh hoa của Tống, Liêu, Kim, Tây hạ, Tây vực. Nếu cử anh Quốc Khang
sang làm con tin, th́ anh chỉ là một cục bột, ngồi ở Hoa lâm mà
thôi. V́ vậy người mới cử anh sang, Mông cổ sẽ trọng dụng tài của
anh. Anh làm quan cho Mông cổ th́ Đại Việt mới có lợi.
Vương suy nghĩ một lát rồi tiếp:
_ Vả chú Hoảng vốn có chân mệnh đế vương từ nhỏ. Truyện như thế này.
Năm chú Hoảng bẩy tuổi bị bệnh sốt mê man, mắt trợn ngược. Hoàng hậu
cùng phi tần tưởng hoàng tử sắp hoăng, hậu nhờ Huệ Túc phu nhân là
người bút mặc văn chương đề bài chủ để thờ. Huệ Túc phu nhân xem số
Tử vi của hoàng tử rồi quẳng bút từ chối rằng:
“Thần
tính số của Hoảng, thấy sống rất thọ, không thể chết non. Hơn nữa
đây là một vị minh quân của Đại Việt sau này. Hiện Hoảng đang gặp
hạn Bạch hổ ngộ Kị, th́ chỉ bệnh nặng mà thôi”.
Thuận Thiên hoàng hậu hỏi:
“Bao
giờ th́ Hoảng khỏi?”.
« Tâu, ngày mai giờ Ngọ ».
Phụ hoàng cầm áo long bào
để bên chú Hoảng, rồi tuyên:
« Nếu tỉnh dậy th́ cho áo
này. Sau sẽ được truyền ngôi »
Quả nhiên giờ Ngọ hôm sau
hoàng tử Hoảng tỉnh dậy. Phụ hoàng mới lập làm Thái tử. Hơn nữa chú
Hoảng từng cầm quân thắng Mông cổ ba trận lớn, trong đó có trận tái
chiếm Thăng long. V́ vậy Phụ hoàng mới truyền ngôi cho chú ấy.
Vương phi Ư Ninh à lên một tiếng, rồi hỏi tiếp:
_ Em nghe mối t́nh của Phụ
hoàng với mẫu thân đẹp vô cùng. Các danh sĩ không tiếc lời ca tụng.
Sư phụ nói: mối t́nh đă làm thay đổi toàn bộ luân lư Đại Việt. Họ
c̣n nói, mối t́nh của phụ hoàng với mẫu thân, khiến cho toàn quốc rộ
lên phong trào thượng tôn văn học, đàm văn, luận phú, quư trọng ca
xướng. Sở dĩ các lộ, các trấn, các phủ, các huyện dĩ chí các xă đều
cho mở quán văn, là do mối t́nh này.
Anh thuật cho em nghe đi.
Hồi Thứ Mười Hai
Văn nghệ thời Đông A,
Vũ Uy vương khoan thai thuật:
_ Mẫu thân anh họ Mai, tên Đông Hoa, xuất thân làm con hát ở phường
Tây hồ.
Vua Thái Tông gặp bà Mai Đông Hoa trong trường hợp nào? Đây là mối
diễm t́nh được ca tụng đẹp nhất triều Đông A , được huyền thoại cho
đến nay. Tra trong các bộ sử th́ không hề thấy nói đến, nhưng gia
phả các chi họ Trần th́ chép đầy đủ.
Nguyên hồi Chiêu Thánh hoàng hậu Lư Chiêu Hoàng 19 tuổi vẫn chưa có
hoàng nam. Thái sư Trần Thủ Độ ép nhà vua phế hoàng hậu xuống làm
công chúa, rồi đem vương phi của An Sinh vương Trần Liễu vào cung v́
vương phi đă có thai ba tháng (1237). Nhà vua buồn rầu, thường giả
làm nho sinh, cùng viên thái giám thân tín tên Đại Lực trốn ra ngoài
thành Thăng long thăm dân cho biết sự t́nh. Một lần người tới phường
Tây hồ chơi, vào một Quán văn.
Chủ quán thấy một thiếu niên anh tuấn, thân thể hùng vỹ, cùng một
gia nhân theo hầu, thân thể to như ông hộ pháp. Cả hai đi ngựa,
trang phục như nho sinh, th́ biết đây là giới tao nhân mặc khách.
Oâng vội vàng ra mời vào.
Trong quán có một kệ xếp rất nhiều sách. Giữa quán một lư hương
khói tỏa hương thơm ngát. Khách khá đông, hơn trăm ghế ngồi gần như
kín hết. Tất cả đang nghe một thầy đồ giảng sách. Thầy đồ say xưa
thuật đoạn bà Trưng Nhị cùng cùng các nữ tướng Hồ Đề, Trần Năng,
Phật Nguyệt, và nam tướng Lạiï Thế Cường đánh chiếm Trường sa. Đến
chỗà bà Trần Thiếu Lan tử trận, thầy ngừng lại:
_ Hôm nay xin ngừng ở dây. Ngày mai tôi sẽ thuật tiếp đọan vua Trưng
cùng 162 anh hùng họp nhau tại Mê linh tuyên bố khởi nghĩa.
Thính giả vỗ tay hết tràng này, đến tràng khác.
Thầy đồ chỉ tay vào chủ quán:
_ Xin giới thiệu với chư vị, đây quán chủ. Quán chủ họ Lư tên Tín,
là thầy đồ dạy học tại trường huyện Thọ xương.
Lư Tín chắp tay vái khách:
_ Thưa chư vị hiền nhân quân tử. Sau mục kể truyện anh hùng, thiểm
quán kính mời quư khách thưởng thức âm nhạc.
Một toán sáu người từ pḥng trong bước ra, gồm ba nam, ba nữ. Tất cả
đều c̣n trẻ. Người đàn ông lớn tuổi nhất đánh trống mảnh. Hai người
đàn ông c̣n lại, một người vỗ trống cơm, một người thổi sáo. Hai
người đàn bà, một người kéo nhị, một người gảy đàn. Ca nhi là một cô
gái, bên trong mặc áo cánh nhiễu tím, khoác ngoài áo tứ thân kết hai
mầu hồng nhạt, xanh lá mạ non, dây lưng cũng hai mầu như áo; váy lụa
đen dài che lấp chân. Khăn mầu tím, đuôi gà dài phía sau gáy. Cả
toán nghiêng ḿnh chào khách, rồi ngồi lên chiếc sập.
Vừa trông thấy đào hát, nhà vua dă choáng váng, đó là một thiếu nữ
tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy, dáng người thanh lịch, nhan sắc diễm
lệ. Mặc dù trong cung, nhà vua đă có hoàng hậu, nhiều phi tần là
tiểu thư con các quan; triều đ́nh c̣n lệnh cho các phủ huyện tuyển
những thiếu nữ đẹp nhất đem vào cung làm cung nga. Thế nhưng lần này
nhà vua thấy một thiếu nữ có nhan sắc diễm ảo, như có như không; lại
hát hay, th́ ngài rung động mănh liệt. Nhà vua than thầm:
_ Tại sao trong hậu cung ḿnh không có những mỹ nữ như cô gái này?
Tại sao trong ban nhạc Cung đ́nh của ḿnh không có những ca nhi
giọng hát tuyệt vời như thế này?
Nhà vua nh́n cô gái như ngây, như dại. Giọng cô gái trong, nhuyễn
như nhung. Cô vừa hát, vừa liếc mắt, nghiêng nghiêng đầu, sóng mắt
long lanh. Thỉnh thoảng cô lại mỉm cười. Sau bản hát, cô cầm cái rá
đi một ṿng xin tiền. Người người đều cho tiền. Thường th́ mỗi người
cho một đồng, hai đồng. Thỉnh thoảng có người cho ba đồng. Khi cô
gái tới trước nhà vua, nhà vua sờ tay vào túi, nhưng có bao giờ nhà
vua tiêu tiền đâu mà mang theo? Cô gái thấy nhà vua móc hết túi ngày
đến túi khác mà không có tiền th́ mỉm miệng cười chờ đợi. Cô cất
tiếng hát:
�
Tây hồ sóùng vỗ lăn tăn,
Quân tử như ánh trăng rằm đêm thâu�.
Nhà vua quưnh quá, ngài tháo sợi dây chuyền bằng vàng đeo trên cổ,
có mang tượng Quán Thế Âm bằng ngọc đỏ chói. Ngài nắm lấy tay nàng,
đặt vào:
_ Tiên cô ơi! Đây là kỷ vật của tôi, được một vị cao tăng tặng, với
lời cầu nguyện rằng tôi luôn được đức Bồ Tát phù hộ. Nay tôi biếu
tiên nga, cũng ước mong tiên nga được Quán Thế Aâm che chở.
Xung quanh có hằng trăm người, ai cũng mở to mắt nh́n viên nho sinh
hào phóng. Sợi dây ít ra đến hai lượng vàng, với tượng Phật bằng
ngọc, rẻ ra cũng trên năm lượng nữa. Thời bấy giờ giá một lượng vàng
là hai trăm quan tiền. Mỗi quan là sáu trăm đồng. Cô đi hát cả tháng
may ra mới được một quan tiền. Bây giờ cô gặp một nho sinh hào phóng
cho cô món quà quá lớn. Cô nh́n nho sinh: dáng người hùng vĩ, mặt
đẹp như ngọc, tiếng nói uy nghiêm mà đầm ấm.
Cô gái c̣n đang ngỡ ngàng, th́ nhà vua đă đeo sợi dây vào cổ cô,
rồi hỏi:
_ Cô ơi, cô có thể cho tôi biết khuê danh được không?
_ Dĩ nhiên là được! Đa tạ nhă lượng quân tử, em họ Mai, tên Đông Hoa.
Để đáp lại tri âm em xin hát một bài nữa mong công tử ban cho nhất
cố Chu Lang.
Tiếng nói của Đông Hoa thanh tao, nàng c̣n biết dùng điển nhất cố
Chu Lang, chứng tỏ nàng cũng thuộc giới bút mặc văn chương. Điển này
như sau: thời Tam quốc bên Trung nguyên, Đại Đô đốc Ngô là Chu Du.
Du lĩnh chức đô đốc khi c̣n trẻ, tính khí hào phóng, nhă lượng, cao
trí, lại là một mỹ nam tử; Du rất giỏi âm nhạc. Tại tư dinh Du có
một đội nhạc đến hơn trăm người, xử dụng đủ mọi thứ nhạc khí. Với
hơn trăm âm thanh cùng vang lên, mà mỗi khi một người tấu lạc nhịp,
hoặc sai, là Du biết ngay ai, ngồi chỗ nào, Du đưa mắt nghiêm khắc
về phía người đó. Người nào tấu xuất sắc, Du hướng mắt về người ấy
mỉm cười tỏ ư khen ngợi. V́ vậy sau này giới bút mặc văn chương dùng
điển nhất cố Chu Lang để chỉ tri âm, tán thưởng.
Nhà vua vốn là người tinh thông âm luật, không nhạc khí nào mà không
xử dụng thành thạo. Nhà vua cầm ống tiêu đưa lên môi thổi. Aâm thanh
cao vút như ḥa vào những sợi tơ trời. Đông Hoa cương:
�Em
là con gái Thăng long,
Em nghiêng nghiêng nón, ấy y a, nước sông dạt dào�.
Đông Hoa mời nhà vua về nhà chơi. Cha mẹ nàng vốn là nghệ nhân, nếp
sống không khép kín như những gia đ́nh khác. Cả hai tiếp nho sinh
với tất cả thịnh t́nh. Oâng bà hỏi lư lịch, nhà vua xưng là nho sinh
học trường Quốc tử giám tên Nhật Duy.
Từ đấy khi th́ hai ngày, khi th́ ba ngày, nhà vua lại ra nhà Đông
Hoa tấu nhạc cho nàng hát.
Cạnh nhà Đông Hoa có một thầy đồ dạy học ở trường huyện Thọ xương
tên Lư Tín. Thầy Tín rất uyên bác, đứng chủ trương quán văn Tây hồ.
Thấy Đông Hoa hát hay, thông minh, lại có nhan sắc, ông dạy riêng
Đông Hoa học tại nhà. V́ Đông Hoa đẹp, hát hay, nên nhiều khách đa
t́nh thường lai văng tới quán văn Tây hồ cầu thân. Nhưng khi tiếp
xúc với họ, ông thấy đó chỉ là những gă nhà giầu, hoặc công tử văn
không thông, vơ không thành. Bây giờ thấy nho sinh Nhật Huy gần như
thường trực tới quán văn Tây hồ dự các buổi giảng sách, nghe nhạc.
Nhật Huy rất hào phóng với các thầy đồ giảng sách, cũng như những
con hát. Nhật Duy lại hay tới nhà Đông Hoa chơi. Ơâng cho rằng Nhật
Duy cũng thuộc phường tham dâm, hiếu sắc mà thôi, chứ không phải học
sinh trường Quốc tử giám. Không chừng một công tử nào đó muốn bỏ
tiền ra mua Đông Hoa.
Nhưng sau những lần gặp nhau, thầy Tín thấy dung quang Nhật Duy khác
phàm, kiến thức bao la, hai người thường đàm đạo quốc sự, văn
chương, thi phú cho đến kinh Phật. Nhật Duy luận như mây trôi, nói
như suối tuôn. Lư Tín khâm phục nho sinh Nhật Duy uyên bác. Ông
khuyên cha mẹ Đông Hoa chiêu Nhật Duy làm rể.
Một bên là một ca nhi sắc nước hương trời, thuộc ṇi t́nh, hưởng
tính lăng mạn của cha mẹ. Một bên tuy làm vua, đang độ 20 tuổi;
nhưng từ bé bị giáo huấn trong lễ giáo khắt khe. Bây giờ được mang
lốt nho sinh, bao nhiêu sợi dây luân lư ràng buộc bị cắt đứt.
Đông Hoa mang thai.
Giữa lúc đó nhà vua bận quốc sự hơn ba tháng không ra quán văn Tây
hồ cũng như đến nhà thăm nàng.
Thời bấy giờ con gái chưa chồng mà mang thai, như một tin trấn động,
như ngọn núi lửa nổ tung. Bố mẹ nàng sẽ bị làng xă bắt khoán, nhục
nhă vô cùng. Thầy Lư Tín cho rằng Nhật Huy là phường hoa bướm, con
nhà giầu, chơi hoa rồi vứt bỏ. Oâng dẫn cha mẹ Đông Hoa đến trường
Quốc tử giám kiện nho sinh Nhật Duy. Nhưng quan Quốc tử giám tư
nghiệp tra danh sách, không có một học sinh nào tên Nhật Duy cả.
Oâng ra lệnh cho phủ thừa Thọ xương truy bắt Nhật Duy về hai tội:
giả học sinh Quốc tử giám và thông dâm với gái chưa chồng mang thai.
Một buổi tối, nhà vua cùng viên Thái giám Đại Lực ra phường Tây hồ
gặp Đông Hoa. Khi vừa tới sân nhà nàng, th́ một Ngũ (5 người) lính
dàn ra bao vây. Tất cả được vơ trang đoản đao. Thầy đồ Tín, bố mẹ
Đông Hoa và nàng cùng ra sân xem. Hai người lính vung đao bắt chéo
nhau trước mặt nhà vua. Phản ứng tự nhiên, thái giám Đại Lực chĩa
ngón tay chỏ điểm một cái. Hai thanh đao vuột khỏi tay hai người
lính, bay lên cao, cắm vào thân cây muỗm.
_ Không được vô phép!
Viên thái giám quát lên rồi vung tay một cái nữa, hai người lính bay
ra xa ước hơn hai trượng, rơi xuống như tự nhảy lùi vậy.
Thấy thủ pháp của Đại Lực, viên Ngũ trưởng biết dù cả Ngũ của y cũng
không địch nổi người này. Tuy vậy y cũng hô lên một tiếng, cả Ngũ
phu vung đao vây quanh nhà vua. Y hỏi:
_ Trong hai người, ai là nho sinh Nhật Duy xưng là học tṛ Quốc Tử
Giám?
Đại Lực chỉ nhà vua:
_ Là chủ nhân của tôi.
Giọng viên Ngũ trưởng có
vẻ khách khí:
_ Trông phong thái hai vị
đều là người có lai lịch, sao lại đả thương binh lính của đức vua!
Đại Lực hỏi đám binh:
_ Này các em, ta có làm em
nào bị thương đâu mà Ngũ trưởng của các em bảo ta đả thương các em?
Y hỏi viên Ngũ trưởng:
_ Người là Ngũ trưởng của
Vệ Thọ xương, người phải biết luật chứ? Luật của đức vua rất nghiêm,
khi muốn bắt một học sinh trường Quốc tử giám th́ ít nhất phải có sự
chứng kiến của một vị Kinh diên quan! Các người đi bắt chủ nhân tôi,
mà không có Kinh diên quan chứng kiến th́ là một điều sai luật. Các
vị chưa xác định cái người mà người định bắt có đúng là tội nhân mà
quan trên muốn bắt không mà đă dùng đao đe dọa là hai điều sai luật.
V́ vậy tôi phải chống lại.
Nói rồi Đại Lực vung tay
lên liên tiếp, không ai nh́n rơ y ra chiêu ǵ, ḱnh lực ra sao, mà
mỗi chiêu một người lính bay ra đường. Người nào cũng như bị nhắc
lên rồi đặt xuống vậy.
Trong khi Đại Lực biện luận
với viên Ngũ trưởng, th́ nhà vua vào nhà Đông Hoa. Nh́n sắc mặt cha
mẹ nàng, Lư Tín, nhà vua thấy dường như họ có điều ǵ lo lắng. C̣n
chính Đông Hoa th́ đang ôm mặt khóc. Nhà vua hỏi:
_ Hoa! Cái ǵ đă xẩy ra?
Đông Hoa thuật lại thảm
trạng trong ba tháng mà nàng phải chịu đựng, nồi nàng chỉ ra sân:
_ Bây giờ Đại Lực lại đánh
lính của phủ Thọ xương th́ tai họa sẽ vô cùng lớn lao!
Đại Lực trở vào đứng sau
nha vuà. Y nh́n Đông Hoa mỉm cười:
_ Cô ơi! Tất cả những ǵ cô
nương coi là khổ ải, chủ nhân tôi sẽ giải quyết. Tôi nói thực cho cô
nương biết một điều: hiện tất cả giai nhân trong nước đều ước mơ
diện kiến chủ nhân tôi, dù chỉ một lần, mà không bao giờ toại nguyện.
C̣n cô nương, cô nương được sủng ái cùng cực, mà cô nương không biết.
Đông Hoa vẫn không yên tâm:
_ Trước mắt, tôi đang bị
làng bắt khoán, v́ gái chưa chồng mà chửa. Tiền đâu tôi nộp cho làng?
Bây giờ làng xóm chê cười, tôi làm khổ cha mẹ tôi...
Đến có tiếng trống, thanh
la dẹp đường, rồi bốn thị vệ hộ tống một vị văn quan ngồi trên kiệu
tới. Ngũ binh cũng trở lại. Viên quan hỏi Ngũ trưởng:
_ Người xưng là Nhật Duy,
học sinh trường Quốc tử giám đâu?
Viên Ngũ trưởng chỉ vào
trong nhà:
_ Bẩm Thái phó, cái người
trẻ quay lưng lại kia là Nhật Duy, c̣n cái người khoanh tay đứng
hầu sau Nhật Huy đă đánh bọn tiểu nhân.
Viên Kinh diên quan vừa
trông thấy Đại Lực th́ thất kinh:
_ Đại... đại... Lực Tổng
Công công! Sao, sao?
Đại Lực xua tay ra hiệu,
ngụ ư xin đừng nhiều lời, rồi chỉ vào nhà vua, lên tiếng:
_ Kính chào Phạm sư phó.
Chủ nhân của tiểu nhân là Nhật Duy, đang bị lính của phủ thừa Thọ
xương bắt tội. Sư phó là thầy của chủ nhân, xin sư phó phát lạc vụ
này cho.
Vị Kinh diên quan đó là
Phạm Kính Ân, hiện là Quốc tử giám tế tửu, lĩnh chức Thái phó,
thường giảng sách cho nhà vua. Tước của ông tới Công. V́ ra vào
hoàng cung thường ngày, nên ông đă gặp quan Tổng Thái giám Đại Lực.
Theo quan hàm th́ tước Công, lĩnh hàm Thái phó, kiêm Quốc tử giám tế
tửu của ông cao hơn tước Hầu, Tổng thái giám năm bậc. Nhưng quan xa,
không bằng lính gần. Đại Lực luôn hầu cận nhà vua, nên được nể nang
hơn. Hôm nay ông nghe báo có một người xưng là học sinh Quốc tử giám,
thông dâm với con gái lương dân, lại dám chống lại lính của phủ thừa
Thọ xương. Oâng phải đích thân bắt người giả học tṛ Quốc tử giám ấy.
Không ngờ tới đây, chỉ cần thấy Đại Lực, th́ ông biết người xưng là
nho sinh Nhật Duy chính thị đức vua. Trong những lần giảng sách cho
nhà vua, ông từng nghe nhà vua thuật lại nhiều lần ra ngoài Kinh
thành thăm dân cho biết sự t́nh. Vốn cực kỳ thông minh, ông biết
ngay người xưng nho sinh Nhật Duy, chính là nhà vua.
Oâng vẫy tay cho bốn viên
thị vệ, cùng Ngũ lính Thọ xương:
_ Các người lui ra, canh
gác bên ngoài!
Mọi việc ở đây do ta phát lạc.
Nhà vua chỉ Đông Hoa rồi vái Phạm Kính Ân:
_ Thưa thầy, con với tiểu cô nương đây quả có chút duyên giai ngẫu.
Mong thầy tác thành cho.
Phạm Kính Ân biết nhà vua là người quang minh, thượng tôn luật pháp,
ngài muốn ông xử vụ này như xử học sinh Quốc tử giám thực. Oâng chỉ
nhà vua:
_ Vị này là một quư nam tử, học tṛ của tôi, địa vị tôn quư, không
phải phường tham dâm, hiếu sắc. Con gái ông bà không chọn lầm người
đâu.
Oâng vẫy một viên thị vệ:
_ Người gọi Đại tư, Câu đương xă Thụy hương đến gặp ta gấp.
Chú giải,
Quốc tử giám, Đại học Hoàng gia, được thành lập đầu tiên vào thời
vua Lư Nhân Tông (1070), để dạy con, cháu nhà vua, con các đại thần.
Trường cũng dành cho những học sinh ưu tú ngoài dân dă vào học,
chuẩn bị thi Thái học sinh (Tiến sĩ). Học chế đời Trần như sau: mỗi
làng, xă đều có thầy đồ dạy học hoặc ăn lương vua, hoặc không. Những
học sinh xuất sắc làng-xă được tuyển vào học tại trường phủ-huyện.
Mỗi phủ-huyện có một hay hai học đường. Học đường thiết lập ngay
trước nha môn (văn pḥng huyện). Nhà vua ban sắc chỉ bổ nhiệm những
nho sĩ có văn tài lĩnh chức Huấn đạo phụ trách học đường. Chức Huấn
đạo uy quyền rất lớn, ngang với quan phủ-huyện. Thầy dạy tại học
đường song song với vị Huấn đạo, c̣n có rất nhiều các thầy của làng
xă. Vị Huấn đạo ngoài việc phụ trách giảng dạy học sinh, c̣n trách
nhiệm trông coi việc thi hành giáo dục dân chúng, bảo vệ luân lư, lễ
nghi, phong tục trong quản hạt.
Những học sinh phủ-huyện giỏi, được tuyển vào Quốc tử giám học,
chuẩn bị thi Thái học sinh. Học sinh học Quốc tử giám được triều
đ́nh nuôi, đài thọ ăn ở. Khu Quốc tử giám nay là khu Văn miếu Hà nội.
Quốc tử giám tế tửu, tức Viện trưởng Đại học hoàng gia. Thường th́
quan Thái phó kiêm nhiệm.
Kinh diên quan, giáo sư trường Quốc tử giám. Vị này c̣n phụ trách
giảng sách cho nhà vua. Tức ông thầy của vua.
Đại tư, chức quan đời Trần, do dân một xă bầu lên, rồi được triều
đ́nh ban sắc công nhận. Tương đương với ngày nay là chủ tịch hội
đồng nhân dân xă.
Câu đương, chức quan đời Trần coi về pḥng vệ, an ninh xă. Chức này
do quan phủ hay huyện bổ nhiệm. Tương đương với ngày nay là chỉ huy
dân quân xă kiêm trưởng Công an xă.
Viên Thị vệ vừa quay ra th́ Đại tư, Câu đương xă Thụy hương đă tới.
Hai người thấy Phạm Kính Ân th́ vái dài:
_ Tiểu nhân xin ra mắt Thái phó.
Phạm Kính Ân cho hai người ngồi, rồi ông chỉ nhà vua với Đông Hoa:
_ Tôi lĩnh Quốc tử giám Tế tửu. Tôi tới đây v́ mối lương duyên của
một học sinh với giai nhân xă Thụy hương. Tôi xin đứng ra tác thành
cho mối lương duyên này. Tuy nhiên Nhật Duy với Đông Hoa đă phạm lỗi,
v́ chưa cheo cưới mà đă gần nhau đến mang thai. Phép vua, thua lệ
làng, vậy Đại tư cho biết, xă sẽ phạt như thế nào?
Đại tư chắp tay:
_ Về cô gái, sẽ bị bắt khoán 15 quan tiền, bị đánh 20 roi mây giữa
chợ. Nếu cô gái có tiền nộp thêm 5 quan th́ miễn đánh đ̣n.
_ Vậy c̣n người con trai?
_ Nếu là con trai trong xă
phải làm việc công 20 ngày. Nếu có tiền nộp thay thế th́ phải 10
quan. C̣n con trai xă khác, bắt buộc nộp phạt 20 quan tiền.
Kính Ân tuyên án :
_ Nho sinh Nhật Duy đă trên
20 tuổi, nhà lại khá giả, phải nộp khoán cho ḿnh và cho Đông Hoa.
Tổng cộng 40 quan tiền. Nhưng v́ là học tṛ giỏi bậc nhất trường
Quốc tửû giám, nên phải nộp khoán gấp đôi, tức 80 quan tiền.
Tổng Thái giám Đại Lực móc
trong túi ra một lượng vàng trao cho Đại tư :
_ Thôi th́ tôi xin nộp một
lượng vàng thay chủ nhân. Một lượng ăn 200 quan tiền. Như vậy dư ra
120 quan. Trong xă Thụy hương có đền thờ thánh Chèm, tôi xin gửi 120
quan nhờ xă tu bổ đền thờ ngài.
Đại tư tiếp vàng, ḷng mừng
chi siết kể.
Phạm Kính Ân hỏi bố mẹ Đông
Hoa :
_ Sự cố của con gái ông bà
quả có làm ông bà phiền ḷng, nhưng đây là mối lương duyên giai ngẫu
giữa danh sĩ với giai nhân. Thời Lư, vua Thánh Tông chẳng từng thăm
dân rồi gặp một gai nhân, sau ngài phong cho giai nhân ấy tước Ỷ
Lan phu nhân đó sao ?
Ỷ Lan sinh ra vua
Đền thờ thánh Chèm (Lư Thân) tại xă Thụy Hương, Hà nội (H́nh VN
santé)
vua Nhân Tông, vua tôn mẫu hậu là Linh Nhân hoàng thái hậu. Truyện
cũ sáng như trăng rằm. Bây giờ Nhật Duy với con của ông bà như ván
đă đóng thuyền, gạo đă thổi thành xôi, ông bà có bằng ḷng gả Đông
Hoa cho Nhật Huy không ?
_ Đa tạ sư phó tác thành cho.
_ Oâng bà có đ̣i dẫn cưới ǵ không ?
_ Được rể quư, tôi xin cho không cháu Hoa.
_ Đông Hoa đẹp đến như thế kia, lại đàn ngọt, hát hay th́ đáng xây
nhà vàng cho ở ; cho không thế nào được. Lễ dẫn ít ra ngh́n lượng
vàng, ngh́n tấm lụa, trăm thúng gạo, chục trâu ḅ.
_ Dạ quá... lớn, sợ phúc đức nhà tôi không tới.
Phạm Kính Ân bấm đốt ngón tay :
_ Ngày 3 tháng sau là ngày tốt. Oâng bà đợi Nhật Duy chuần bị, dẫn
cưới rồi sẽ xin rước dâu.
Tối hôm đó nhà vua về Hoàng thành. Ngài biết Thái hậu ( bà Trần Thừa)
không thể chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhà vua t́m đến cung Tuyên
minh thái hoàng thái hậu (bà Trần Lư, bà nội nhà vua), thú thực về
truyện Đông Hoa. Tuy uy quyền của Thái hậu hiện tối cao trong cung,
nhưng bà chỉ có thể đón Đông Hoa về, cho ở chung trong cung của bà,
lĩnh chức Tu dung, một đẳng cấp rất thấp chỉ trên cung nữ một bậc.
Thân phận Đông Hoa trong hoàng cung qúa nhỏ bé, song nàng được nhà
vua sủng ái cùng cực. Nàng được trao cho cai quản đội nhạc cung đ́nh.
Ít tháng sau, Đông Hoa hạ sinh một hoàng nam. Hài nhi da trắng, môi
hồng, mười phần tươi đẹp. Toàn hậu cung vui mừng. Nhà vua lấy tên
Nhật Duy trong kỷ niệm mối t́nh với Đông Hoa đặt tên cho con. Tuy
nhiên không ai dám bàn truyện lập Nhật Huy làm thái tử. Ba năm sau
Thuận Thiên hoàng hậu sinh hoàng nam, nhà vua đặt tên là Nhật Hoảng,
phong làm Thái tử. Rồi nhà vua có thêm nhiều hoàng nam.
Nhờ được Tuyên minh thái hoàng thái hậu dậy văn, luyện vơ, nên vơ
công của Nhật Huy cao nhất trong các anh em. Năm Nhật Duy 13 tuổi,
được mở phủ đệ riêng, được phong tước Thái tử thiếu bảo, Đồng b́nh
chương sự, Phụ quốc thượng tướng quân, tước Vũ Uy vương, trao cho
trấn ngự Tây Bắc cương.
Sau trận đánh với Ngột Lương Hợp Thai, công lao của vương chỉ thua
có Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương. Nguyên Phong hoàng đế lấy cớ tử
quư mẫu vinh (con quư th́ mẹ vinh hiển) thăng Tu dung Đông Hoa lên
hàm Tuyên phi, tức vượt 18 bậc.
Tuyên phi được nhà vua sủng ái nhất trong tất cả các phi tần. Bởi
ngoài t́nh vợ chồng, giữa nhà vua với phi c̣n là tri kỷ, tri âm.
Khi phi hát th́ nhà vua kéo nhị, đánh trống mảnh, trống cơm; lại có
khi nhà vua thổi sáo. Hồi mới nhập cung, phi được nhà vua truyền xây
cho một cung riêng. Nhưng tính giản dị, lại sống trong dân đă quen,
phi xin Bộ Công cất cho ngôi nhà tranh, đỡ tốn công nho, tốn sức của
dân. Nhà vua muốn có nơi cùng phi thưởng thức âm nhạc, ngài ban chỉ
dựng một cái cḥi gỗ bốn mái lợp tranh. Phi lấy tên làng của mẹ là
Thụy khê đặt cho ngôi nhà. V́ vậy trong hậu cung gọi ngôi nhà đó là
cung Thụy khê.
Dù bận quốc sự, dù có nhiều phi tần khác, nhưng ít nhất ba ngày một
lần nhà vua cũng đến cung Thụy khê nghe hát, tấu nhạc.
Từ khi Đông Hoa nhập cung, được nhà vua sủng ái, tiếng đồn ra ngoài.
Trên toàn quốc nảy ra phong trào lập Quán văn. Từ kinh đô tới các
trấn, các phủ, huyện nơi nơi đều lập Quán văn. Quán văn là nơi mà
các văn nhân, thi sĩ, danh sĩ, tài tử, tới để cùng nhau xướng họa,
ngâm vịnh. Quán văn cũng là nơi cho những tiểu thư, giai nhân đến
treo bảng tuyền phu. Mặt khác Quán văn thường trực có những danh kĩ
đến hát.
Vũ Uy vương, vương phi nhập cung giữa lúc nhà vua kéo nhị, Tuyên
phi vừa hát vừa đánh trống mảnh. Cả hai vị như bị âm thanh đưa lên
mây, nhập vào thế giới khác, đến nỗi con trai, con dâu đến bái biệt
mà không biết.
Đối với Vũ Uy vương, t́nh trạng này, vương từng thấy từ hồi c̣n thơ
ấu. Duy vương phi, phi chỉ thấy phụ hoàng ngồi trên lưng ngựa xung
vào trận tuyến Mông cổ, hay uy nghiêm thiết triều giữa hai hàng văn
vơ đại thần. Bây giờ phi mới được thấy con người nghệ sĩ trong một
hoàng đế.
Bản nhạc dứt, Nguyên Phong hoàng đế chợt thấy hai con, ngài chỉ ghế:
_ Các con ngồi đó đi. Ngày mai hai con lên đường, lĩnh trọng trách
vô cùng trọng đại. Như hôm qua, trong buổi thiết triều đă định: các
con được toàn quyền hành động, miễn sao đạt được mục đích:
Thứ nhất, gây chia rẽ trong hoàng tộc Mông cổ, khiến các Hăn đem
quân tàn sát nhau. Gây chia rẽ giữa ngoại thích với hoàng tộc. Gây
chia rẽ giữa triều đ́nh với hậu cung. Gây thù hận giữa quân Mông cổ
với dân chúng.
Thứ nh́, giúp Tống chống với Mông cổ, khiến cuộc chiến Mông-Tống kéo
dài, càng dài càng tốt.
Thứ ba, ngăn cản, tiêu diệt những kẻ chủ xâm lăng Đại Việt. Điều
khẩn cấp làm sao cho Mông cổ bỏ ư định đánh Đại Việt.
Nhà vua hỏi Vũ Uy vương :
_ Bắc cương chia làm hai khu vực. Khu Đông thuộc Ngũ yên giáp biển,
và Quảng Tây. Trước đây là đất phong của An Sinh vương. An Sinh
vương hoăng th́ Hưng Ninh vương, Hưng Đạo vương kế nhậm. Ta yên tâm.
Khu Tây do con trấn nhậm mấy năm qua. Khu này phía Tây giáp với Lăo
qua, không có ǵ đáng ngại. Duy khu Bắc, một phần giáp với Quảng Tây
lộ của Tống, một phần giáp với Đại lư. Giữa khu ba biên giới có
nhiều Bạc dịch trường (chợ biên giới). Đây là cửa thông giữa ta với
Đại lư mang tên cửa Lê hóa, phủ Thiện xiển. Các khu đất này khi Tống
mạnh th́ Tống thu thuế. Khi ta mạnh th́ ta thu thuế. Khi Đại lư mạnh,
th́ Đại lư thu thuế. Vậy hiện ra sao?
_ Tâu phụ hoàng, khi lên trấn nhậm, con thấy Tống yếu quá. C̣n Đại
lư th́ bị Mông cổ chiếm. Bọn Mông cổ không để ư đến những khu đất
mà dân không đông, tài nguyên chẳng có ǵ. Thần nhi nhân đó tiến
quân vào, đặt đồn lũy kiểm soát, bổ nhiệm quan cai trị.
_ Ta có đọc tấu chương của con. Trước đây Tống mạnh, họ cắt những
khu đất hoang ở vùng ba biên giới cho bọn trôm cướp. Con phải nhân
dịp ta mạnh, chống Mông cổ ở phía Nam cho Tống, đặt vấn đề với Tống,
bắt Tống buông chúng, nhân đó ta tiến quân vào giết bọn tướng cướp,
lập thành khê động phiên dậu cho ta.
_ Con đă làm được một phần, đang làm một phần. Những châu, trang,
động đó, con cho họ tự trị. Con chỉ kiểm soát tổng quát mà thôi. V́
vậy trong trận đánh vừa qua, Mông cổ tràn về Thăng long, coi thường
các trang, động nàyï. Chúng đâu ngờ họ chính là những đội quân gây
cho Mông cổ muôn vàn khó khăn ; đường tiếp vân của Mông cổ không qua
vùng đất của họ được. Mông cổ muốn đánh các trang động này, c̣n khó
hơn đánh vào các xă ấp của ta. Khu mật viện Bắc biên luôn cho Tế tác
thu lượm tin tức đầy đủ. Khi hội với Tống, con sẽ chiếm được thượng
phong.
Nguyên Phong hoàng đế ngồi thẳng dậy, ngài ban chỉ bằng giọng nói
hết sức tha thiết :
_ Có ba khu vực, mà thời Lĩnh Nam thuộc cương thổ Việt, bây giờ một
thuộc Đại lư, hai thuộc Tống. Khu vực tiếp giáp với Bắc cương của
con là châu Chiêu dương. Khi anh hùng Tượng quân nổi lên lập ra nước
Đại lư th́ châu Chiêu dương thuộc Đại lư. Hiện dân chúng khu này bẩy
phần Việt, ba phần Hán. Con phải nhân Đại lư hàng Mông cổ. Mông cổ
không có quân đóng ở đây ; mà tiến quân tái lập nền cai trị thành
cương thổ Đại Việt.
_ Con sẽ hết sức làm.
_ Hai khu thuộc Tống gai góc nhất là châu Văn sơn, Khâu Bắc. Hai
châu này nằm ở Bắc Chiêu dương, cách xa Bắc cương của con đến hơn
200 dặm (100 km). Thời Lĩnh Nam thuộc Giao chỉ. Khi vua Trưng tuẫn
quốc, th́ Hán cho thuộc Tượng quận, rồi bây giờ thuộc Quảng Tây lộ
của Tống.
_ Aáy a ! Khó , quá khó ! V́ hai châu này được coi như một nước,
chịu sắc phong của Tống. Hiện chúng hàng Mông cổ. Mông cổ có một
Thiên phu đóng ở đây.
_ Khó cũng phải làm cho được. Hai châu này đất đai trù phú.
Trước kia là đất hoang. Tống đă cho bọn thổ phỉ họ Thân khai hoang,
xưng láo là gịng dơi vua Lư Nhân Tông. Chúng lập thành triều đ́nh,
gửi người về nước chiêu dụ con cháu họ Lư, chiêu dụ bọn vong mạng,
bọn đầu trộm đuôi cướp lập hai khu thành một vương quốc. Dân số hiện
lên tới hai mươi vạn người. Quân bộ của chúng tới năm vạn, quân kị
năm ngh́n. Trong trận đánh vừa rồi, bọn này gửi tới hơn vạn thổ phỉ
theo giúp Mông cổ.
Nhà vua nhấn mạnh :
_ Khi điều đ́nh với Tống,
ta đang ở thế mạnh : ta nói cho họ biết bọn giặc họ Thân được Tống
cưu mang bấy lâu mà bây giờ chúng phản Tống, theo Mông cổ. Chúng như
thanh gươm kề vào hông Tống. Ta yêu cầu Tống nhắm mắt để ta đánh bọn
thổ phỉ cho Tống. Ta hứa trao cho họ hơn ngh́n cao thủ vơ lâm, ta
lại đang tập hợp Hoa kiều thành một hiệu binh gửi sang trợ Tống. Dù
Tống đồng ư hay không, ta cũng tiến quân vào diệt bọn thổ phỉ, sau
đó ta sát nhập hai châu trở về với cương thổ Đại Việt.
_ Thần nhi sẽ làm hết sức
ḿnh.
Tuyên phi chỉ vương phi Ư
Ninh :
_ Con có người vợ thế này
th́ con phải hứa với phụ hoàng rằng con sẽ thực hiện được việc thu
hồi đất tổ ; chứ không thể hứa làm hết sức ḿnh.
_ Thần nhi tuân chỉ của mẫu
thân.
Tuyên phi tháo sợi giây
chuyền có mang tượng Quan Thế Aâm, mà nhà vua ban cho phi trong buổi
gặp mặt đầu tiên đeo vào cổ con dâu:
_ Đây là bảo vật phụ hoàng
ban cho mẹ trong buổi sơ giao. Mẹ cho con, để vạn dặm trên đường bảo
quốc, con sẽ được Quan Aâm phù hộ. Hôm nay mẹ đă làm cơm cho các
con ăn. Cơm chẳng có cao lương mỹ vị ǵ đâu: cà pháo mắm tôm, canh
cua nấu với rau đay, rạm rang và chả rươi.
Phi dặn Vũ Uy vương :
_ Vừa rồi Mông cổ vào Thăng
long, chúng truy lùng bắt đi rất nhiều danh ca. Quán văn Tây hồ bị
bắt 4 người. Quán Văn miếu mất 11 người. Quán Ngocï thụy bị 3 người.
Quán Nghi tàm bị 8 người. Quán Tô lịch đau xót nhất, Tô lịch thất
tiên bị bắt rồi mất tích. Khi con đi sứ hăy để tâm nghe ngóng xem có
tin tức ǵ không. Nếu có, t́m mọi cách cứu các nàng đem về.
Sứ đoàn chính thức gồm năm
người, Vũ Uy vương Trần Nhật Duy, vương phi Trần Ư Ninh, Vũ Sơn hầu
Tạ Quốc Ninh đi bằng ngựa. Đoàn tùy tùng do Đô thống Trần Quốc Kinh
( Dă Tượng), Nguyễn Địa Lô chỉ huy 30 Thiết kị Long biên hộ tống, 25
mă phu, đầu bếp, mười xe song mă chở y phục, vật dụng, lương thảo.
Tất cả hướng bến đ̣ Bắc ngạn.
Giữa lúc sứ đoàn dang chuẩn
bị lên đường th́ chú của Nguyễn Địa Lô từ trần. Vũ Uy vương cho Lô
về chịu tang, rồi lên đường sau.
Vương phi Ư Ninh xin phép
vương đi Thiên trường, đến chùa Thần quang bái biệt sư phụ là Bồ tát
Vô Huyền. Ngựa dừng vó ở cổng chùa, đă có một nữ đệ tử đón :
_ Sư tỷ. Sư phụ đang chờ sư
tỷ ở bảo điện.
Ư Ninh trở lại nơi nàng
từng tu, từng học mấy năm liền. Từ hồi tuân chỉ sư phụ, cùng anh
trấn thủ Phù lỗ, phải rời chùa, thấm thoát đă hơn năm. Bây giờ trở
lại đất cũ : cảnh vẫn như xưa. Ḷng tưởng nhớ sư phụ, phi rảo bước
đến bảo điện, đẩy cửa bước vào. Sư phụ ngồi trên tấm bồ đoàn bằng
rơm rất dầy. Phi quỳ gối đỉnh lễ :
_ Đệ tử bái kiến sư phụ.
Vô Huyền chỉ chiếc bồ đoàn
nhỏ bên cạnh ngài :
_ Con ngồi đó đi. Có phải
triều đ́nh sai Nhật Duy đi làm con tin Mông cổ không ?
_ Dạ ! Đúng như sư phụ dạy.
_ Có phải Mông cổ đ̣i Đại
Việt phải chịu sáu điều không ? Sáu điều đó ra sao ?
_ Tŕnh sư phụ sáu điều là
:
Một là đích thân quốc vương
phải vào chầu,
Hai là đem trưởng nam làm con tin,
Ba là kê biên dân số,
Bốn là phải chịu quân dịch,
Năm là phải nộp thuế, lương
thảo.
Sáu làø nhận Đạt lỗ hoa
xích (Đa gu ra tri) .
Bồ tát cười:
_ Bọn Mông cổ ngông cuồng
thực. Vừa bị đánh tan tác, mà chúng c̣n muốn dương oai. Ta chắc lăo
Thủ Độ sẽ không chịu bất cứ điều nào. C̣n triều đ́nh cử Nhật Duy với
con đi với mục đích khác phải không?
_ Sư phụ thực minh kiến.
_ Triều đ́nh cử một sứ đoàn
đông đảo như vậy, chi tiêu tốn kém lắm. Riêng con, lúc ta cho con
xuất chùa, trong túi có không quá hai quan tiền. Tiền đó, chỉ đủ
cho con ăn quà không quá một tháng. Vậy từ hồi ấy đến giờ con lấy ǵ
mà chi tiêu?
_ Hồi trấn thủ Phù lỗ con
không có dịp tiêu tiền. Sau khi rời Phù lỗ, con với anh Duy yết kiến
phụ hoàng trên con thuyền. Người ban chỉ cho chúng con thành vợ
chồng. Chúng con bái lậy phụ hoàng, hướng về Thiên trường bái lậy
liệt tổ Đông A, bái lậy sư phụ, rồi rời thuyền, lăn xả vào cuộc
chiến 10 ngày, 11 đêm ngăn không cho giặc về Thiên trường. Nên cũng
không có dịp tiêu tiền.
Vô Huyền bật cười:
_ Trong lịch sử Đại Việt
chưa từng có một cặp trai gái nào lấy nhau kỳ lạ như vợ chồng con.
Không bái thiên địa, cũng chẳng lễ Tơ Hồng. Không một chung rượu,
chẳng một miếng thịt cho lễ cưới. Ta chắc động pḥng ít ra vài ngày
sau!
_ Dạ, 18 ngày sau, khi
chúng con tái chiếm núi Côi!
_ Khi một hoàng tử cưới
chánh phi, th́ triều đ́nh ban cho vàng ít ra ngàn lượng, c̣n ngọc,
ngà, châu báu. Ta chắc con không được ǵ!
_ Trong lúc phụ hoàng ban
chỉ chúng con thành vợ chồng trên con thuyền, người chẳng c̣n ǵ!
Hết giặc, quốc khố trống rỗng. Cho đến lúc này người cũng không c̣n
ǵ mà ban cho.
_ Con phải nhớ nhé:
Con không chê cha khó,
Chó không chê chủ nghèo.
Con với Nhật Duy đừng v́
không được ban vàng ngọc mà oán phụ hoàng.
_ Dạ!
_ Khi rời ta đi trấn Phù lỗ,
ta thấy con có đeo hoa tai, kiềng, ṿng ngọc. Thế sao bây giờ trên
người con không c̣n ǵ?
_ Dạ! ?Nữ trang đó con ban
thưởng cho mấy nữ tướng ngưu binh rồi!
_ Từ cổ chí kim, ta chưa
từng thấy một vương phi nào, trên người không một chút nữ trang. Thế
phụ hoàng phong cho con tước ǵ?
_ Dạ Thạc ḥa, Minh đức,
Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Cho hưởng 300 mẫu ruộng.
_ Thế ruộng ấy con thu tô
ra sao?
_ Thưa! Con không thu tô,
cho tá điền nghèo cấy.
_ Đức con cao quá! Xứng
đáng học tṛ của ta. C̣n chồng con?
_ Từ hồi Tổng trấn Bắc
cương anh ấy được phong:
Thái tử thiếu bảo,
Đồng b́nh chương sự,
Phụ quốc thượng tướng quân,
Tước Vũ Uy vương, trao cho
trấn ngự Bắc cương.
Thực ấp Vạn hộ.
Nhưng anh ấy thu thuế rất
nhẹ, dùng tiền để trả lương cho các quan phủ Vũ Uy. Vợ chồng con chi
tiêu bằng bổng Phụ quốc thượng tướng quân.
_ Bổng đó th́ ăn uống dè
sẻn lắm mới đủ. Thôi hôm nay ta cho con ít vàng, để trên đường đi sứ
không túng thiếu.
Ngài gọi một ni sư:
_ Con xuất cho Ư Ninh 100
nén vàng (1 nén=10 lượng).
Ư Ninh lậy tạ sư phụ. Vô
Huyền ban chỉ :
_ Con đi kỳ này sẽ có nhiều
khó khăn. Sư phụ đă chuẩn bị cho con một đội Mê linh kiếm trận, gồm
6 nam, 6 nữ. Chúng đều biết làm bếp. Chúng sẽ giả làm đầu bếp của sứ
đoàn.
Ư Ninh bái biệt sư phụ,
cùng 12 sư đệ, sư muội lên đường.
Thời Trần, thành Thăng long
có năm cửa, bởi vậy trong bài ca dao Đố ai đă đặt câu hỏi :
Thành nào năm cửa chàng ơi
?
Do ảnh hưởng của ca dao,
sau này thi sĩ Vũ Hoàng Chương lầm cửa ô với cửa thành, ông có câu
thơ nhắc lại Hà nội có năm cửa ô như năm cánh ngôi sao. Hồi 1954,
Văn Cao lại cũng lầm lẫn cửa ô với cửa thành trong bài hát Tiến về
Thủ đô có câu Năm cửa ô đoàn quân tiến về.
Tại bốn cửa chính
của thành Thăng long có tượng bốn vị thần trấn thủ. Hướng Bắc gọi là
Kinh bắc, ngày nay bao gồm Bắc ninh, Bắc giang cho tới Lạng sơn, Cao
bằng. Trấn đông gồm Hồng châu thượng, Hồng châu hạ, nay là vùng Hải
dương, Hưng yên, Hải pḥng. Trấn nam gồm Sơn nam thượng, Sơn nam hạ,
nay là Nam định, Hà nam, Thái b́nh. Trấn đoài gồm Hà đông, Hưng hóa,
Ḥa b́nh, Sơn tây.
Kinh thành có 24
cửa ô, là cửa ngơ có đường thông ra bốn trấn. Ngày nay chúng ta c̣n
nghe nhắc tới những tên như cửa ô Yên hoa (nay là Yên phụ), cửa ô
Thạch khối (nay là Thạch tân), cửa ô Quan chưởng.v.v.
Bến đ̣ Bắc ngạn nối Thăng
long với Gia lâm, nằm trên bờ sông Hồng. Nay ở phía Nam và Bắc cầu
Long biên Hà nội. Bến đ̣ cắt ngang con đường Cái quan, giao thông
giữa Thăng long với Kinh Bắc; giữa miền Nam với miền Bắc Đại Việt.
Cho nên dọc hai bên bờ, hàng quán, nhà trọ nối dài đến hai ba dặm (1
km- 1,5km), cung ứng nhu cầu ăn uống, chuyên chở, giải trí cho khách
đi đường xa; và cũng là nơi bán các sản vật địa phương. Bến Bắc ngạn
quanh năm nhộn nhịp, dưới sông có hằng mấy trăm con đ̣ chở người,
chở vật sang sông. Lại có những bang hội vận tải, chở khách từ Thăng
long đi nội địa như Thiên trường, Kinh bắc, Tiên yên, Thanh hóa,
Nghệ an và sang Trung nguyên, Chiêm thành. Trên mỗi con thuyền lớn
chở khách sang sông, đều có những nghệ nhân tấu nhạc, ca hát giúp
vui. Các nghệ nhân này sống nhờ tiền tặng của thính giả. Gọi là Xẩm.
Sứ đoàn không qua sông bằng
dân thuyền, mà được vận chuyển bằng hai chiến thuyền của Thủy đội
Thăng long. Với 59 người ngựa thêm hàng chục xe song mă cần tới 10
lượt. Cuộc vượt sông ít ra phải nửa buổi. Vũ Uy vương ra lệnh cho Dă
Tượng chỉ huy đoàn tùy tùng vượt sông trước. C̣n sứ đoàn sẽ sang sau.
Vừa hết chiến tranh, mà khu
Bắc ngạn đă phục hồi. Mấy tháng trước, Kị binh Mông cổ không thể nào
qua sông, v́ dân chúng tuân theo lệnh triều đ́nh, dấu ghe thuyền vào
các kinh lạch. Nhưng nào ngờ tám bang hội Hoa kiều theo giặc, chúng
t́nh nguyện chở quân sang sông. Chúng c̣n hiến kế cho giăc: dùng
cường lực đến từng nhà chủ đ̣ bắt chở quân qua sông, bằng không sẽ
đốt cháy hết các dẫy nhà hai bên bờ. Biện pháp này quả thực hiệu
nghiệm, quân Mông cổ qua sông, vào Thăng long, do vậy nhà cửa hàng
quán Bắc ngạn c̣n nguyên. Giặc vừa rút khỏi Thăng long, th́ các cửa
hàng buôn bán lại mở cửa đón khách nhộn nhịp hơn xưa.
Quân dân đời Trần rất gần
nhau. Người dân thấy đoàn người-ngựa, gươm-đao, giáp-trụ sáng choang,
hằng chục xe song mă qua sông; họ hướng mắt nh́n bằng vẻ thân thiết,
rồi tránh sang vệ đường vẫy tay chào. Đám trai tráng c̣n bỏ công
việc hàng quán, ra giúp quân, phụ mă phu đẩy những cỗ xe nặng nề.
Sứ đoàn đi sau đội Kị binh.
Vũ Uy vương, Dă Tượng mặc quần áo nâu như nông dân. Tạ Quốc Ninh
mặc như một nho sĩ. Vương phi mặc vơ phục của đệ tử phái Mê linh.
Người ngoài cuộc tưởng bốn người với đội hộ vệ là hai nhóm người
khác nhau.
Những đứa trẻ chào mời
khách thấy bốn người cỡi ngựïa th́ ào tới nắm dây cương:
_ Các ông ơi mua mía đi,
mía ngọt lắm.
_ Các chú ơi, mua bánh gai
đi. Bánh gai Thiên trường vừa thơm vừa ngọt.
Cô bán bún chả tuổi khoảng
hai chục, tay quạt, tay trở những xâu thịt:
_ Mời khách quan xơi bún
chả đi. Bún chả Thăng long thơm ngát, béo ngậy đi.
Một bà tuổi trên dưới bốn
chục, ngồi trong quán đon đả:
_ Chả rươi Thiên trường đi,
rươi tươi làm với trần b́ chính tông, thơm ngon tuyệt trần. Không
ngon, không lấy tiền.
Ngay sát mé sông là một
Quán văn với tấm bảng sơn son thiếp vàng có bẩy chữ:
Thiên Thư thính văn tụng
phú quán,
(Quán sách trời, nơi đọc
văn, tụng phú)
Nét chữ sắc như gươm. Trước
quán bầy mươi cành đào, mấy chậu cúc Vạn thọ, mấy chậu quất trái
vàng óng ánh, hai ba cái vại lớn thả cá chép vàng. Giữa quán có một
bàn thờ giản dị, một bài vị với bẩy chữ:
Liệt tổ Đại Việt chi linh
vị,
Cạnh bài vị, một lư hương,
khói bốc nghi ngút. Trên bàn thờ bầy la liệt sách, có khổ lớn, có
khổ nhỏ, có sách dầy, có sách mỏng. Trong quán có hốn hàng ghế, mỗi
hàng năm ghế. Mỗi ghế ngồi được năm người. Khách khoảng gần trăm, đủ
loại già, trẻ, nam nữ đang uống trà, nghe thầy đồ kể truyện.
Trên một vách ngang treo
khá nhiều bút thiếp, vách đối diện treo hai cây cung của Mông cổ,
một thanh đao, một thanh kiếm. Lại có chiếc sập, với năm nhạc công,
một ca nhi ngồi chờ tấu nhạc.
Một trung niên nam tử,
trang phục như nho sĩ, dường như là chủ quán, đứng trước cửa, tay
cầm cành đào, hoa nở đỏ rực:
_ Hoa đào Thụy khuê đây.
Đào nở mừng chiến thắng Đông bộ đầu này. Mời quư khách vào quán
trước xin xâm đầu năm, sau nghỉ chân, ngắm hoa, nghe thơ, thưởng
thức âm nhạc.
Thấy sứ đoàn, anh ta mở to
mắt nh́n, chau mày phỏng đoán, phân biệt xem bốn người là loại người
nào? Nhưng dường như anh ta không đoán ra được.
Vương phi Ư Ninh thấy vui
vui hỏi anh ta:
_ Này anh! Anh mời chúng
tôi mua hoa đào hay nghe âm nhạc? Anh cho biết cao danh quư tính đi!
Thấy một phụ nữ trẻ lưng
đeo kiếm, mặc vơ phục, anh ta trả lời với ngôn ngữ khách khí:
_ Thưa phu nhân kẻ hèn này
chỉ là một nho sinh, th́ làm ǵ có danh mà cao, có tính mà quư. Xin
phu nhân cứ gọi là Nho Lâm đi. Kính mời phu nhân vào quán xơi nước,
trước nghe hát, sau mua đào.
_ À! Th́ ra anh cũng thuộc
hàng tao nhân, mặc khách đấy. Tôi hỏi anh câu này nhé: hoa đào là
hoa đào, cứ xuân đến th́ đào nở, tại sao anh bịa ra rằng hoa đào nở
mừng chiến thắng Đông bộ đầu? Anh nói điêu rồi.
Tất cả khách trong quán
thấy có cuộc trao đổi thanh nhă, đều im lặng hướng mắt ra ngoài theo
dơi.
Nho Lâm chắp tay vái dài:
_ Thưa phu nhân, mọi năm
phải cuối tháng giêng th́ đào mới nở. Thế mà hôm nay là ngày rằm,
đào đă trổ hoa rực rỡ thế này đây! Như vậy là hoa nở để chào mừng
chiến thắng, thực rơ ràng. Giá ba đồng một cành. Tôi không hề nói
điêu.
Vương phi móc túi trao cho
Nho Lâm ba đồng, rồi tiếp lấy cành đào:
_ Ừ th́ anh không nói điêu.
Nhưng anh nói sai rồi. Đại Việt chúng ta chiến thắng bẩy trận: Thảo
nguyên, B́nh lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản, Thăng long, Đông bộ đầu,
Đồng văn. Trong đó Đông bộ đầu chỉ là một trận thôi. Vậy đào nở để
mừng chiến thắng toàn quốc mới phải chứ!
Nho Lâm mỉm cười cố căi:
_ Dạ thưa phu nhân, trong bẩy trận, th́ sáu trận lúc đầu ta thua,
sau mới thắng. Chỉ duy trận Đông bộ đầu là ta toàn thắng mà không
bại. Đây là Thăng long mà, Đông bộ đầu thuộc Thăng long nên thần
sông Tô lịch, Thần hồ Tây, thần Trấn quốc sai đào nở sớm mừng chiến
thắng Nam quốc sơn hà Nam đế cư đấy. Có phải không phu nhân? C̣n một
loại đào nở mừng chiến thắng toàn quốc nữa kia! Đó là đào Nguyên
Phong.
Vũ Uy vương thấy Nho Lâm nói năng văn vẻ th́ cùng vương phi, Tạ Quốc
Ninh, Dă Tượng vào quán. Một tiểu đồng bưng nước mời khách, nó chỉ
một ghế trống:
_ Kính mời quư khách an tọa. Quư khách xơi nước muồng đi. Nước
muồng vừa thơm, vừa dễ ngủ.
Vương phi thấy tiểàu đồng dễ thương qúa, phi tát yêu nó rồi tặng cho
mười đồng tiền:
_ Cô mừng tuổi cho con này! Trong quán con có những nước ǵ?
Tiểu đồng khoanh tay cúi đầu:
_ Thưa cô có các loại nước sau đây: Nước vối hơi đắng ngủ ngon, dễ
tiêu. Nước chè tươi tỉnh trí, lợi tiểu. Nước gạo rang với gừng khô
ấm bụng. Nước pha con lấy trong giếng đấy. Chứ nước sông Hồng th́
hôi, tanh lắm.
_ Sao thế?
Đọc tiếp trang 2 |