Sóng Thần

Sóng Thần tiếng nói của người viễn xứ, gửi về quê hương yêu dấu, niềm tin và hy vọng Dân Chủ Đa Nguyên

 
 
Văn Học  & Nghệ Thuật
 

Anh Hùng Đông-A

Gươm thiêng Hàm tử

Lịch-sử tiểu thuyết

Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ

Quyển I

Thư viện Việt-Nam tại Hoa-kỳ

độc quyền đưa lên Internet

ANH  HÙNG ĐÔNG-A

Gươm thiêng Hàm tử Q1

Lịch sử tiểu thuyết

Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ

Tác giả giữ bản quyền.

Copyright @ Trần Đại-Sỹ

All right reserved.

Cùng một tác giả

Do Nam-á Paris xuất bản, tái bản nhiều lần.

Anh hùng Lĩnh-Nam, 4 tập, 1318 trang.

Động-đ́nh hồ ngoại sử, 3 tập, 880 trang.

Cẩm-khê di hận, 4 tập, 1305 trang,1992.

Do Thư viện Việt-Nam và Xuân-thu Hoa-kỳ ấn-hành. Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản:

Anh hùng Tiêu-sơn, 3 tập, 1120 trang,

Thuận-Thiên di sử, 3 tập, 1080 trang,

Anh-hùng Bắc-cương, 4 tập, 1556 trang,

Anh-linh thần-vơ tộc Việt,4 tập,1708 trang,

Do Đại-Nam Hoa-kỳ ấn hành. Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản 2001.

Cốt tủy Tử-vi tuổi Tư, 1 tập, 362 trang,

Nam-quốc sơn-hà, 5 tập,  2230 trang,

Anh hùng Đông-a : Dựng cờ b́nh Mông, 5 tập  2566 trang.

Dịch cân kinh, 390 trang, 2003.

Do Thư-viện Việt-Nam, California,

Hoa-kỳ ấn hành.

Giáo huấn t́nh dục bằng y học Trung-quốc,

(Sexologie Médicale chinoise), 3 tập, 1280 trang.

 

Những chữ viết tắt trong sách này.

AHBC                          Anh-hùng Bắc-cương

AHLN                          Anh-hùng Lĩnh-Nam

AHĐA-DCBM            Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh

Mông

AHTS                           Anh-hùng Tiêu-sơn

ALTVTV                      Anh-linh thần vơ tộc Việt

ANCL                           An-Nam chí lược

CEP                              Coopérative Européenne

Pharmaçeutique (Liên  hiệp các viện bào chế châu Âu)

CKDH                          Cẩm khê di hận

CMFC                          Commité Médical Franco-Chinois

(Ủy ban trao đổi y học Pháp-Hoa)

DTLSVH                      Di tích lịch sử văn hóa được xếp

hạng

IFA                               Institut Franco-Asiatique (Viện

Pháp-Á)

KĐVSTGCM               Khâm định Việt sử thông giám

cương mục

ĐĐHNS                       Động-đ́nh hồ ngoại sử

ĐNLTCB                     Đại-Nam liệt truyện chính biên

ĐNLTTB                      Đại-Nam liệt truyển tiền biên

ĐNNTC                       Đại-Nam nhất thống chí.

ĐNTLCB                     Đại-Nam thực lục chính biên

ĐNTLTB                      Đại-Nam thực lục tiền biên

ĐVSTT                         Đại-Việt sử kư toàn thư

MCMS                         Mông-cổ mật sử

NS                                Nguyên-sử

TS                                 Tống sử

TTDS                            Thuận-thiên di sử.

 

Đi t́m dấu tích về

Ba cuộc b́nh Mông tộc Việt

 thế kỷ thứ XIII.

Phần này, tôi viết cho độc giả trẻ, muốn t́m nguồn tài liệu về Mông-cổ, về ba cuộc chiến tranh Việt-Mông. Xin các vị cao minh bỏ qua, chẳng nên bận tâm.

Các bạn trẻ thân.

Tôi viết những gịng này dành cho các bạn. Hy vọng rằng nó sẽ giúp các bạn những bước đầu t́m hiểu về Mông-cổ . Nhất là hướng dẫn các bạn đi t́m tài liệu, cách xử dụng tài liệu về ba cuộc b́nh Mông của người Việt.

1. Giầu ḷng yêu nước,

nghèo nàn thư tịch.

Cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông của dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 13 thực là vĩ đại. Thế nhưng, cho đến nay, những thư tịch biên chép quá ít, quá sơ lược. Nếu các bạn mở bất cứ bộ sách viết về Mông-cổ bằng tiếng Anh, Pháp, Đức nào ra cũng thấy ghi rằng : Mông-cổ thắng khắp từ Á, sang Âu, đặt ách cai trị. Chỉ bại duy nhất tại Việt-Nam và Nhật-bản. Thế nhưng khi các bạn mở kho tàng lịch sử Việt-Nam ra, th́ hỡi ơi! Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT), Việt sử lược (VSL), Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), chỉ dành đâu mươi mười lăm trang chép lại mà thôi. Các sách sau này, chỉ mô phỏng của ba bộ trên, rồi vẽ rồng, vẽ rắn thêm vào. Đau đớn thay, mô phỏng luôn cả những cái sai lạc của người xưa.

2.Đi t́m di thư tiền nhân

         Bộ sách ghi chép đầy đủ các chiến thắng Mông-cổ, được soạn thảo ngay sau cuộc chiến, mang tên Trung-hưng thực lục. Trong đó những người có công đều được ghi danh, và vẽ h́nh, nay không c̣n . Hai bộ Binh-thư yếu lược, Vạn-kiếp tông bí truyền thư của Hưng Đạo vương không t́m ra vết tích.

         Đến đây chắc các bạn đặt câu hỏi: Thế tại sao, hiện người Việt đang lưu hành bộ Binh-thư yếu lược, được dịch sang Việt-ngữ? Thưa đây là người sau ngụy tạo.

         Ba bộ sách trên, tôi biết rằng năm 1407, Trương Phụ đă cướp mang về Kim-lăng. Hồi Bát-quốc đánh nhà Thanh vào cuối thế kỷ thứ 19, chiếm Kim-lăng. Trong 8 đoàn quân đó, có hai đoàn thuộc nước tŕnh độ văn hóa cực cao là Nhật-bản và Pháp. Hai đoàn quân này đă mang về nước khá nhiều sách. Trong đó có những sách mà Trương Phụ cướp từ Đại Việt. Tôi đặt nghi vấn: Biết đâu trong số sách mà Pháp, Nhật mang đi chả có ba bộ sách trên? V́ vậy tôi gắng công đi t́m.

Đầu tiên, tôi t́m trên đất Trung-quốc.  

Trong thời gian theo phái đoàn trao đổi y học Pháp-Hoa (1976-1999), hễ có dịp là tôi vào những thư viện Trung-quốc ṃ mẫm. May ra! Nhờ vào vị thế khi th́ là thông dịch viên, khi th́ là giảng viên, khi th́ là tổng thư kư, gần đây là trưởng phái đoàn. Đoàn của tôi là đoàn trao, tức giảng dạy tại các đại học y khoa. Tôi nghiễm nhiên trở thành quư khách của Trung-quốc, nên không bị kỳ thị, không bị nghi ngờ. Hơn nữa được quư mến, nên thư viện nào tôi muốn  vào, đều được chiều theo ư. Đầu tiên tôi t́m ở các thư viện trung ương, thư viện cấp tỉnh của 5 tỉnh cực Nam Trung-quốc là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quư Châu, Hồ Nam. Không thấy ! Kiên chí, tôi ṃ xuống thư viện cấp huyện, thư viện các đại học Văn-khoa, đại học Sư-phạm. Biệt tăm ! Tôi biết rằng tại thư viện Bộ-chỉ huy Quân-sự năm tỉnh cực Nam và thư viện Bộ Tư-lệnh ba quân khu mà lănh thổ tiếp giáp với Việt-Nam là nơi tàng trữ tất cả tài liệu nghiên cứu về chiến tranh Hoa Việt. Tôi xin vào nghiên cứu, th́ bị từ chối theo kiểu ngoại giao « Đây là tài liệu quá chuyên môn dành cho những sĩ quan tham mưu nghiên cứu. Ông là thầy thuốc. Ông có đọc cũng không hiểu ǵ ». Không nản ! Tôi biết rằng cổ, kim; Đông, Tây, các bà đều thích đẹp ; và cồng bà bao giờ cũng mạnh hơn lệnh ông. Tôi vận động ân huệ của các bà mà tôi ngoại giao bằng lột da mặt, cắt mắt, làm mũi cao, làm môi trái đào, lấy mỡ bụng. Thành công. Tôi được vào tất cả các thư viện trên ṃ mẫm. Thế nhưng, tôi vẫn không t́m ra tông tích ba bộ sách của tổ tiên. Đau thực! Tuy không t́m ra, nhưng tôi cũng được đọc mấy bộ sách quư, có tính cách tài liệu như :

_ Nam Việt,  Âu Lạc tác chiến khảo lược. Ban nghiên cứu, Sở tác chiến, Bộ Chỉ-huy quân sự tỉnh Quảng Tây biên tập.  Nội dung nghiên cứu về cuộc chiến tranh giữa Triệu Đà và Thục An Dương vương.

_ Đông Hán, b́nh Giao-chỉ khảo lược. Sở nghiên cứu, cục Tác-chiến, bộ Tổng Tư-lệnh quân đội Nhân-dân, Trung-quốc. Nội dung nghiên cứu về những trận đánh của vua Trưng với Mă Viện.

_ Tam thế Bạch-đằng nghiên cứu. Sở nghiên cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tư-lệnh Hải-quân Trung-quốc. Nội dung nghiên cứu ba trận Bạch-đằng về thời vua Ngô, vua Lê và thời Trần. Phụ đính có luận về trận Hàm-tử, Chương-dương, Tây-kết.

_ Quách thị Nam chinh, là bộ nhật kư hành quân của Quách Quỳ, tướng tư lệnh đội quân Tống sang đánh Đại Việt năm 1077.

_ Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ kư, nhật kư hành quân của Triệu Tiết, tướng phó tư lệnh quân đội Tống sang đánh Đại Việt năm 1077.

_ Nguyên triều chinh tiễu An-Nam khảo bị, sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tổng tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc. Nghiên cứu về ba cuộc Mông-cổ sang đánh Đại-Việt.

_ Minh đại, chinh tiễu An-Nam lược khảo. Sở Nghiên -cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tổng Tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc. Nội dung nghiên cứu về những trận đánh giữa quân Minh do Trương Phụ, Mộc Thạch chỉ huy đánh Hồ Quư Ly, và những trận đánh của vua Lê Thái-tổ với Liễu Thăng, Vương Thông.

_ Càn Long chinh Nam nghiên cứu khảo bị. Sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tổng Tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc. Đây là tài liệu dài nhất, tổng cộng 320 trang A4. Nội dung nghiên cứu về nguyên do thất bại của Tôn Sĩ Nghị. (Các bạn nên nhớ, 320 trang chữ Hán, nếu dịch sang Việt ngữ phải 900 trang. Nếu sang Anh, Pháp ngữ c̣n dài hơn nữa).

Cũng nên nói ở đây : Khác với các sử gia Trung-quốc, khi viết về Việt-Nam, luôn gọi là Giao-chỉ, Nam-man, An Nam, rồi dùng những từ lăng nhục. Các sĩ quan Trung-quốc khi soạn những tài liệu trên đă b́nh luận rất vô tư. Việt có sở trường, sở đoản ǵ th́ nói thực. Những lời b́nh luận rất chính xác.

Tại Trung-quốc không t́m thấy, tôi vẫn không nản chí. Tôi lại bỏ sang Nhật-bản, ṃ vào đủ các thư viện, mà cũng tuyệt vô âm tín. Trong thời gian này, giáo sư Trần Kinh Ḥa (1914-1997), của đại học Soka cũng từng cố gắng t́m kiếm, mà...hỡi ôi! Vô ích. Như vậy là mất vĩnh viễn rồi. Tiếc thay! Buồn thay!

3. Trở về với nguồn thư tịch nghèo nàn

         Tôi đành trở về với bộ ĐVSKTT. Nhưng bộ này chép quá sơ sài về ba cuộc kháng Nguyên-Mông, th́ làm sao có thể dựng lại chi tiết các trận đánh? Ấy là không kể Ngô Sĩ Liên đă có những sai lầm quan trọng như:

         _ Thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đắm trong trận Bạch-đằng.

         _ Nguyễn Khoái bắt được Áo Lỗ Xích.

         _ Thoát Hoan cũng bị bắt.

         Biết rằng ĐVSKTT có nhiều sai lầm, tôi đi t́m bộ KĐVSTGCM. Bộ này do Quốc-sử quán triều Nguyễn soạn (1859). Các sử gia triều Nguyễn đă tham khảo thư tịch Trung-quốc như:

_ Nguyên sử  của Tống Liêm đời Minh.

_ Nguyên sử loại biên tức Tục hoằng giản lục của Thiệu Viễn B́nh đời Thanh.

_ Nguyên sử bị vong lục của Vương Quang Lỗ đời Minh.

_ Nguyên sử kỷ sự bản mạt của  Trần Bang Chiêm.

         Nhưng KĐVSTGCM cũng vấp vào những sai lầm:

         Trận Vân-đồn xẩy ra vào tháng 12 niên hiệu Trùng-hưng thứ 3 (5-1 tới 2-2-1288) khi thủy quân Nguyên tiến vào nước ta.

Lại chép lầm rằng:

Trận Vân-đồn xẩy ra vào tháng giêng năm Trùng-hưng thứ 4 (3-2 tơí 2-3 năm 1288) lúc Ô Mă Nhi đem chiến thuyền đi đón Trương Văn Hổ.

Nghĩa là  sai lệch một tháng, sai lầm về vị trí trận đánh.

Sự sai lầm này, khiến các sử gia gần đây viết bằng chữ quốc ngữ cũng sai theo. Mà thảm thay, cho đến nay, tôi nêu ra, chưa chắc thiên hạ đă chịu phục thiện.

Khi vua Lê khởi binh, muốn cho có chính nghĩa, đă tôn một người con cháu vua Trần là Trần Cảo lên làm vua. Lúc thành đại nghiệp th́ đem giết chết. Sau đó giết tất cả những công thần, nguyên là con cháu nhà Trần, truy lùng gịng dơi nhà Trần rất gắt. Sử ghi, Lê Lợi giết Tả-tướng quốc Trần Nguyên Hăn, một nhân vật uy tín bậc nh́ sau nhà vua, chỉ v́ ông là cháu của Trần Nguyên Đán. V́ vậy trong suốt thời gian nhà Lê trị v́ (1458-1779) không một văn gia nào dám chép những chiến công của ba cuộc kháng Nguyên-Mông. Măi tới triều Nguyễn, mới có những sử gia soạn:

_ Trần đại vương b́nh Nguyên thực lục.

_ Vạn yên thực lục.

_ Trần triều thế phả hành trạng.

_ Trần gia điển tích thống biên.

Hầu hết những bộ này chỉ mô phỏng ĐVSKTT, VSL, ANCL hoặc những huyền sử, những di sử, những gia phả.

4.T́m tư liệu trên bia đá, minh

Một trong những nguồn tài liệu tuy rời rạc, lẻ tẻ, nhưng nếu đem khai thác, ta cũng t́m ra được nhiều điều cần thiết. Đó là bia đá, mộ chí, các bài minh khắc trên những quả chuông. Tại viện Khoa-học Xă-hội Hà-nội, có những bản văn :

_ Bia công chúa Phụng Dương, vương phi Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, do Lê Củng Viên soạn năm 1293, có nói tới việc rút lui của triều Trần ra khỏi Thăng-long năm 1285.

_ Bài minh khắc trên quả chuông Thông-thành quán tại Bạch-hạc năm 1321.  Bài minh có nhắc đến cuộc chiến đấu của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật trong cuộc kháng chiến lần thứ nh́. Quả chuông này do chính vương trông coi đúc.

_ Bia chùa Hưng-phúc, khắc năm 1324 phát hiện tại huyện Quảng-xương, tỉnh Thanh-hóa. Nội dung có nói đến cuộc kháng chiến của dân chúng xă Yên-duyên, trấn Thanh-hóa, chống Toa Đô năm 1285.

T́m trong các gia phả

5.1. Tại Đại-hàn

Nếu bia đá, minh chỉ cho những tài liệu rời rạc, th́ những bộ gia phả cổ, do chính người đương thời, hoặc con cháu nhiều đời chép nối tiếp...lại cho tôi những chi tiết rất quan trọng.

Tháng 8 năm 1980, khi đi trong phái đoàn Pháp, dự đại hội y khoa tại Hàng-châu, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-cao. Trong phái đoàn có bác sĩ Lư Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lư Diệp Oanh ở Thuận-xuyên  (Sunchon), từ cuộc gặp gỡ này, tôi được đọc Tiêu-sơn truyền phả hay Hoa-sơn phả. Sách chép tay của con cháu Kiến B́nh vương Lư Long Tường tại Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong  Nin Gun), tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) , Bắc Triều-tiên. Kiến B́nh vương Lư Long Tường là thuyền nhân Đại Việt, đến Cao-ly năm 1226.

Năm 1983, tôi được gặp ông Lư Gia Trung, hậu duệ của Kiến Hải vương Lư Dương Côn, thuyền nhân Việt lưu lạc tại Cao-ly năm 1150. Dịp này tôi được đọc Tinh-thiện Lư thị tộc phả của hậu duệ của Kiến Hải vương.

         Hai gia phả này cung cấp cho tôi ít nhiều liên quan đến Mông-cổ, Đại Việt. (Xin đọc bài Nguyên-tổ hai gịng họ Lư tại Hàn-quốc, phụ lục quyển 3, Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông).

5.2. Tại Trung-quốc

Hồi sinh tiền, phụ thân tôi có nói rằng: Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, bội anh,  phản cha, hại nước, đầu hàng Mông-cổ. Nay hậu duệ rất đông, sống ở Trường-sa. Sau này có dịp, nên sang...nhận họ. May mắn, tháng 8 năm 1990 , tôi làm trưởng phái đoàn Pháp, sang trao, tại đại học y khoa Trường-sa với đề tài Giải phẫu bằng Laser. Trước khi đi nửa tháng, tôi cho đăng trên tờ báo địa phương một đoạn:

"Giáo sư Trần Đại-Sỹ trưởng khoa Sinologie tại đại học Paris, muốn liên lạc với hậu duệ của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, để t́m hiểu về một giai đoạn lịch sử Hoa-Việt thế kỷ thứ 13. Xin liên lạc với ca sĩ Trần Diệu Nghi địa chỉ như sau..."

Báo đăng liên tiếp 7 ngày. Khi tôi đến, th́ Diệu Nghi trao cho tôi 18 bức thư của 18 người, họ đều nhận là trưởng của các chi. Các chi sống rải rác ở Trường-sa, Hồ-nam, Linh-lăng, Quế-dương, Liễu-châu. Nhưng họ cải chính rằng Nguyên-tổ của họ là Trần Ích Tắc th́ đúng, song tước không phải là Chiêu Quốc vương, mà là An Nam quốc vương. Tôi giật ḿnh, chợt nhớ lại: Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc hàng Mông-cổ được Nguyên Thế-tổ Hốt Tất Liệt phong cho làm An Nam quốc vương (1285).

Tôi muốn đến tận nơi, để gặp 18 chi. Tính chung việc di chuyển đi 18 nơi, trong 5 tỉnh, tôi phải vượt ít nhất 8 ngh́n cây số, mất rất nhiều thời gian, sức lực. Bác sĩ Vareilla Pascale đại diện CEP (Coopérative Européenne Pharmaçeutique) đề nghị tôi làm một việc giúp CEP. CEP sẽ đài thọ ẩm thực, cư trú, di chuyển cho 72 người về một khách sạn lớn nhất trấn Nhạc-dương hội họp. Như vậy vừa làm lợi cho kinh tế Pháp, vừa thân mật, vừa tiết kiệm được sức lực. Không phải v́ tôi tiếc tiền, mà sợ kiệt sức, hơn nữa muốn làm lợi cho kinh tế Pháp, tôi đồng ư.

Tôi viết thư mời đại diện 18 chi về trấn Nhạc-dương, bên hồ Động-đ́nh. Tổng số người lên tới 90. Các bạn trẻ thử tưởng tượng xem, tự nhiên 90 người cùng một gịng họ, kéo nhau về chiếm hết các pḥng trong khách sạn hạng sang, mà người trả tiền lại là một bà Đầm, rồi bầy biện tế lễ, ăn uống linh đ́nh...Công-an địa phương điên đầu lên, theo dơi, báo cáo, đặt câu hỏi rắc rối đến như thế nào ? Nhà cầm quyền địa phương vùng Nam Trường-giang thường dị ứng (allergy) với những cuộc họp họ hàng quá đông như vậy. Song họ biết nước Pháp không có ǵ thù nghịch với Trung-quốc. Tôi lại hoạt động y học tại Trung-quốc trải 15 năm, luôn đem lại sự giao hảo, trao đổi rất tốt đẹp giữa Pháp và Trung-quốc ; nhất là ḥa giải những bất đồng ư kiến nhỏ giữa phái đoàn Pháp và các đại học Trung-quốc. V́ vậy không ai nghi ngờ ǵ cả. Để tỏ ra ḿnh quang minh chính đại, tôi mời ông Bí-thư đảng bộ Cộng-sản Trường-sa tới...tham quan.

Đại diện các chi cùng tôi đem gia phả ra đối chiếu, để chỉnh đốn những chỗ sai lầm. Truy gia phả, họ t́m ra ông Trần Định Nhân là thống tôn, cháu đời thứ 27 của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Ông Nhân hiện là viên chức cao cấp của Trường-sa. Trong 18 gia phả, có hai phả rất chính xác, giống hệt nhau. Đoạn chép từ Triệu-tổ Phương Chính  hầu Trần Tự Minh, tể tướng triều An Dương vương đến cháu đời thứ sáu Chiêu Quốc vương giống nhau không sai lấy một chữ. Như vậy chứng tỏ cả hai cùng sao từ một phả gốc. Hai phả giống nhau đó là:

_ Trần-gia Bắc-tông chính phả. Của chi bốn tại xă Lănh-thủy, thị xă Trường-sa, tỉnh Hồ-Nam, Trung-quốc.

_ Chiêu-Quốc di hậu lục. Của chi 2 tại trấn Nhạc-dương, tỉnh Hồ-Nam, Trung-quốc.

Quan trọng nhất là phần từ Mục-tổ hoàng đế Trần Tự Kinh (1103) đến Trần Nhân-tông (1293) do chính Trần Ích Tắc chép. Đương thời vương là người có văn tài xuất chúng, nên vương ghi rất chi tiết, văn phong hoa dạng muốn ngang với văn của Tư-mă Thiên trong Sử-kư. Nhờ đó, mà tôi thu thập được nhiều chi tiết cực kỳ quư báu về cuộc chiến tranh Mông-Việt. Điều đáng tiếc là lúc nào vương cũng coi Đại-Việt như một quận của Trung-quốc, dùng niên hiệu của các vua Trung-quốc. Khi xử dụng tài liệu của vương phải rất thận trọng.

Tiếc rằng, sau cuộc họp đó, giữa tôi với ông Trần Định-Nhân có những đụng chạm lớn, đưa đến không nh́n mặt nhau. Nguyên do, chúng tôi chuyển phả từ cổ văn ra Bạch-thoại, rồi dự trù cho in đoạn từ Triệu-tổ Trần Tự Minh (257 trước Tây-lịch) tới hết triều Trần (1400). Bài tựa do tôi viết. Tôi viết bằng cổ văn. Sau đó sẽ dịch sang Việt-ngữ. Bài tựa tôi dùng câu đầu của Lê Qúy Đôn trong Đại Việt thông sử:

" Ngă Đại Việt vi văn hiến chi bang,

 Thượng vi thiên tử,

Hạ vi thần thứ".

Nghĩa là: Nước Đại Việt ta là nước văn hiến. Trên có vua, dưới có thần dân. Ông Định Nhân  sửa là:

"Ngă đích Trung-quốc, thị  vi Hoa-hạ văn hiến đích đại bang".

 

Nghĩa là: Nước Trung-quốc ta là nước lớn, văn hiến Hoa-hạ".

Văn sửa là văn Bạch-thoại, ngớ ngớ, ngẩn ngẩn.

Rồi đoạn sau

" Tự Đinh, Lê, Lư, Trần, đỉnh lập nhất phương.

Hào kiệt, anh hùng, liệt nữ thời thời trấn quốc, dữ Bắc-phương tề vị nhi lập."

Nghĩa là: Tự Đinh, Lê, Lư, Trần, đứng riêng một cơi. Hào kiệt, anh hùng, liệt nữ đời đời giữ nước, với Bắc-phương ngang vai cùng đứng.

Ông đ̣i sửa thành:

" Tự Đinh, Lê, Lư, Trần giai đê đầu quy phục Thiên-triều,

Niên niên tu cống, xưng thần, đắc vũ lộ ân sủng, sắc phong vi vương".

Nghĩa là: Từ Đinh, Lê, Lư, Trần đều cúi đầu quy phục Thiên-triều. Hằng năm tu cống, xưng thần, được ban ơn mưa móc, phong cho tước vương.

Tôi không đồng ư, dĩ nhiên tôi không bỏ tiền ra in. Ông Trần Định Nhân cũng giữ luôn bản thảo, không trao lại cho tôi.

Năm sau, 1991 tôi lại cầm đầu phái đoàn CEP đi Trường-sa. Lần này trong phái đoàn c̣n có bác sĩ Trần thị Phương-Châu, gịng Hưng-Hiến vương, con thứ ba Hưng Đạo vương.  Thời gian tháng 8, trúng vào ngày giỗ  Thái-tổ Trần Thừa. Tôi rủ ông Trần Định-Nhân cùng các chi giỗ chung. Dĩ nhiên tài chánh do tôi với Châu đài thọ. Ông Nhân từ chối, nhưng các chi khác lại đồng ư. Để tỏ cho các bạn Pháp, Trung-quốc biết, chúng tôi tuy mang Pháp-tịch, tuy được trọng đăi, nhưng chúng tôi không quên nguồn gốc. Tôi nhờ một nhà hàng lớn ở Nhạc-dương làm cỗ, rồi mời phái đoàn Pháp, cùng chính quyền Nhạc-dương, Trường-sa đến dự. Oâng Định Nhân đi trong phái đoàn chính quyền Trườùng-sa. Số người tham dự lên tới 457 người, gồm 90 người là khách. C̣n lại là Trần tộc. Giữa bữa tiệc, ông Nhân đứng lên phát biểu ư kiến: Rằng đất Việt-Nam từ xưa là lănh thổ Trung-quốc. Rằng hiện nay, và măi măi cũng vẫn là của Trung-quốc. Rằng mảnh đất Việt-Nam hiện bị thế lực quốc tế tách khỏi tổ quốc như Hương-cảng, như Đài-loan. Rằng tương lai sẽ phải trở về với tổ quốc. Lập tức ông bị cử tọa  (phái đoàn Trung-quốc) la ó, phản đối. Sau vụ này ông bị mất chức, rồi trở thành chủ quán cà phê ở Tương-Âu, ngoại ô Trường-sa. Từ đấy, dù có nhiều dịp gặp lại, mà tôi với ông không nói chuyện riêng với nhau.

5.3. Tại quốc nội.

Nếu khi sưu khảo tại Đại-hàn, tại Trung-quốc tôi gặp may, th́ tại Việt-Nam tôi không gặp may. Bản phả mà tôi có dễ dàng là bản  Trần tông ngọc phả. Sách chép tay của gịng Hưng Vũ vương, con trưởng Hưng Đạo vương, tại Hải-hậu, Nam-định. Bộ phả này chép từ Hưng Đạo vương cho tới năm 1920. Song quá giản lược. Năm 1978, một người học tṛ thân tín của tôi là bác sĩ Trần thị Phương Châu có đem bộ Trần gia di phả. Sách chép tay của gịng Hưng Hiến vương, con thứ ba của Hưng Đạo vương,  tại Bát-tràng đến để so vai, xem ai lớn, ai nhỏ, rồi nhờ tôi dịch sang tiếng Việt dùm. Cuốn phả này thuật hành trạng của Hưng Hiến vương tỷ mỉ. Căn cứ vào đó, tôi rút ra được rất nhiều chi tiết về cuộc b́nh Mông thứ nh́ và thứ ba. Bộ phả thứ ba là bộ Trần gia ngọc phả, sách chép tay thư viện Khoa-học xă hội. Tôi tham khảo dễ dàng. Bộ phả thứ tư mà tôi được đọc là bộ Trần đại tộc chính phả của gịng Hưng Nhượng vương, con thứ nh́ của Hưng Đạo vương. Nguyên vào năm 1995, tôi gặp ông Trần Quốc T. tại Hà-nội. Ông là hậu duệ đời thứ 27 của Hưng Đạo vương. Như vậy ông ngang vai với tôi. Chúng tôi nhận họ. So gia phả, ông phải gọi tôi bằng anh. Ông trao cho tôi bộ phả này, nhờ dịch dùm. Đây là bộ sách chép tay của gịng Hưng Nhượng vương tại Cổ-am. Lập tức tôi dịch, đọc vào băng cassette cho ông. Tôi mất 3 tuần để làm công việc dịch thuật. Tôi dặn ông chép lại, đánh máy. Năm sau tôi trở về sẽ hiệu đính. Nhờ bộ này, tôi mới biết rơ Hưng Nhượng vương không phải là Tuệ Trung thượng sĩ, như tôi lầm từ trước đến giờ. Cũng nhờ phả này tôi biết rơ hành trạng của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. Hầu không tử trận như ĐVSKTT ghi sơ lược, mà hoăng năm 1348.  Cũng năm 1995, nhân hành hương tại đền thờ Hưng Nhượng vương ở Cửa Ông, thuộc tỉnh Hạ-long, một vị giữ đền có đặt câu hỏi với tôi rằng: Vương hoăng khi c̣n đang trấn thủ Bắc-cương, th́ táng tại đây. Sau đó vương phi về Cổ-am sống, th́ khi hoăng cũng táng tại Cổ-am. Tại sao lại có mộ của vương và vương phi táng song song nhau?

Nhân trong phái đoàn của tôi có kỹ sư địa chất Jean Marc Zimmermann, lập tức ông đem máy Scaner ra ḍ, th́ chỉ thấy có một quan tài. Sự kiện này dường như ban trị sự báo cáo lên cấp trên. Cũng do đó một nữ tín chủ thấy xung quanh mộ tiêu điều quá, bỏ tiền ra xây một thềm rộng, đẹp. Hai mộ chỉ c̣n một mà thôi. Không biết có phải do xây lại bị động mồ, hay v́ nguyên cớ nào, mà trong năm 1996-1997-1998, hậu duệ của vương...nhiều người bị tù, bị mất chức, bị chết. Họ đổ thừa tại tôi Scanner nên mới có vụ xây lại gây tai vạ. Hè năm 1998, tôi tới thăm ông Trần Quốc T. để xin sao chụp bộ gia phả, cùng hiệu đính bản dịch. Ông khai chiến vơí tôi, đ̣i tôi phải bồi thường 100 ngh́n đô. Tôi tŕnh bầy rằng tôi chỉ làm scanner thôi. C̣n xây thềm, bỏ hai mộ cũ, xây mộ mới là chính quyền. Nhưng ông nhất định bắt đền tôi. Ông quy chụp tôi là Việt-gian, là tay sai của C.I.A, là Ngụy Sài-g̣n, là Bành-trướng Trung-Quốc... cử về Việt Nam để yểm phá đất linh. Nếu tôi không là ông thầy dạy vơ, nếu tôi đi một ḿnh th́ có lẽ đă mất mạng.

4. T́m trong kho tàng Trung-quốc

4.1. Chính sử

         Nếu sử Việt nghèo nàn, chép vắn tắt  bao nhiêu, th́ sử Trung-quốc chép về cuộc chiến tranh Mông-cổ , Đại Việt lại nhiều vô cùng, đa dạng vô cùng. Tuy vậy, để giúp các bạn có thể nh́n rơ hơn, đỡ mất thời giờ hơn, tôi chỉ đưa ra những bộ thực sự có giá trị, hơn nữa là bộ sách nguyên thủy. C̣n những bộ sau chỉ mô phỏng từ bộ nguyên thủy th́ tôi bỏ qua.

         Trung-hoa có 24 bộ chính sử, chép về 24 triều đại lớn. Các bộ này chép theo nguyên tắc của Tư Mă Thiên trong bộ Sử-kư. Nội dung phân ra : Bản kỷ chép các đời vua. Thế gia, chép các vương, hầu có tính cách cha truyền, con nối. Liệt truyện chép tiểu sử các bà vợ vua, các quan, các nước ung quanh, cùng những nhân vật nổi tiếng dù là gian thần, trộm cướp. Biểu, bảng liệt kê các sự kiện theo thời gian. Chí, chép văn học, quan chế, thiên văn, lịch số v.v.

 Thường các bộ này do một cơ quan về sử của triều đại  sau, chép về triều đại trước. Như sử quan triều Nguyên, soạn bộ Tống-sử. Sử quan triều Minh soạn bộ Nguyên-sử . Các cơ quan sử này, mỗi thời mang một tên khác nhau. Tác giả ít khi là một người.

         Bộ chính sử chép về Mông-cổ và triều Nguyên, do sử thần triều Minh là Tống Liêm, Vương Vỹ vâng lệnh Minh Thái-tổ soạn năm 1369. Cái đáng trách là bộ Tống-sử, do sử thần triều Nguyên, một triều đại mà dân Trung-quốc gọi là Hung-nô, Thát-đát, rợ phương Bắc... soạn ; lại rất vô tư, rất chi tiết, rất đầy đủ. C̣n bộ Nguyên sử, do sử thần Minh triều soạn lại luộm thuộm, thiếu sót, sai sự thực nhất trong 24 bộ chính sử. Nguyên do chỉ v́ phải hoàn thành trong ṿng một năm. Lại nữa, các sử thần triều Minh không biết chữ Thổ-phồn là chữ lúc đầu Mông-cổ xử dụng. Họ lại không biết tiếng Mông-cổ vốn là tiếng đa âm, trong khi tiếng Trung-quốc là tiếng đơn âm. Thành ra những tài liệu mà triều Nguyên để lại ở sử quán Bắc-kinh trở thành vô dụng.

Trong Nguyên sử, ta có thể t́m thấy những sử liệu liên quan đến chiến tranh Nguyên-Mông với Đại-Việt :

_ Bản kỷ đệ tam, Hiến-tông kỷ, quyển 3.

_ Bản kỷ đệ tứ, Thế-tổ kỷ, quyển 4.

_ Liệt truyện  96, An-nam, quyển 209,

_ Liệt truyện 97, Chiêm-thành, quyển 210.

Truyện các văn thần, vơ tướng liên quan đến Đại-Việt như :

_ Liệt truyện 8, Tốc Bất Đài, Ngột-lương Hợp-thai, quyển 121.

_ Liệt truyện 15, A Truật, A Lư Hải Nha, quyển 128.

_ Liệt truyện 16, Lai A Bát Xích, Lư Hằng, quyển 129.

_ Liệt truyện 18, Áo Lỗ Xích, quyển 131.

_ Liệt truyện 20, Toa Đô, quyển 133.v.v.

V́ Nguyên sử thiếu sót, luộm thuộm, nên sau này đời Minh, Thanh và cả Dân-quốc có nhiều bộ sử ra đời, bổ sung, hiệu đính như:

Về đời Minh.

_ Nguyên sử tục biên của Hồ Túy Trung.

_ Nguyên sử  bị vong lục của Vương Quang Lỗ.

_ Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm.

Về đời Thanh.

Về đời Thanh, nhiều sử gia viết về Mông-cổ, cũng dễ hiểu. V́ các sử gia đời Minh muốn viết những sự thực không đẹp của Minh Thái-tổ trong cuộc chiến Minh-Nguyên phải e dè. Lư do khác là, tổ tiên của nhà Thanh chính là Kim Ngột Truật  nhà Kim. Mà Kim gốc từ bộ lạc Nữ-chân, một bộ lạc trong vùng Thảo-nguyên như Mông-cổ. Họ hiểu nhiều ngôn ngữ, phong tục Mông-cổ

_ Nguyên sử loại biên của Thiệu Viễn B́nh.

_ Bổ Nguyên sử thị tộc biểu, Bổ Nguyên sử nghệ văn chí, Nguyên sử thập di,  của Tiền Đại Hân.

_  Nguyên sử bản chứng, của Uông Huy Tổ.

_ Nguyên sử tân biên, của Ngụy Nguyên.

_ Nguyên sử dịch văn chứng bổ, của Hồng Quân.

_ Mông-Ngột nhi sử, của Đỗ Kỳ.

_ Tân Nguyên sử, của Kha Thiệu Mẫn.

Một bộ sử,  mà khi nói đến tác giả, tôi muốn lợm giọng, đó là bộ An Nam chí lược của Lê Trắc (Có sách chép là Lê Tắc). Y nguyên là môn khách của Chương-hiến hầu Trần Kiện. Y cùng Kiện đầu hàng Nguyên năm 1285. Cũng nên nhắc ở đây, Kiện là con trai của Tĩnh-quốc vương Quốc Khang. Khi An-sinh vương phi tức công chúa Thuận Thiên có thai ba tháng, th́ bị Trần Thủ Độ ép đem vào cung làm hoàng hậu của vua Trần Thái-tông. Cái thai đó sau sinh ra Quốc Khang. Quốc Khang không phải là con vua, nên tuy là anh cả mà không được truyền ngôi. Ngôi vua truyền cho em là Thái-tử Hoảng, tức vua Thánh-tông. Sau khi hàng Nguyên, bọn Trần Kiện được Thoát Hoan đưa về Trung-quốc. Hưng Đạo vương cho phục binh giết Kiện và bộ thuộc. Trắc thoát chết, mang xác Kiện về g̣ Ôn-khâu táng. Y được Nguyên trọng dụng. Thời gian ở Nguyên, y viết bộ An Nam chí lược. Nội dung, y đứng trên cương vị thần tử Trung-quốc, luôn bóp méo lịch sử Việt. Tuy vậy trong bộ sử này chép lại rất nhiều điều trọng đại ba cuộc b́nh Mông của Đại Việt. Tôi xin căn dặn các bạn trẻ trước: Khi xử dụng An Nam chí lược phải hết sức thận trọng.

4.2. Phả, bia đá, minh.

Nhiều vô cùng. Có một kho tàng vĩ đại, viết về nhưng tiểu tiết, những truyện lặt vặt, những nhân vật nhỏ bé mà các sử gia bỏ qua. Đó là những cuốn địa phương chí, nhân vật chí của những xă, những huyện thuộc Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam. Những cuốn này cho tôi nhiều chi tiết rất quư trong việc t́m hiểu về thời gian Mông-cổ cai trị Trung-quốc, về ba cuộc xâm lăng Đại Việt. Hiện những tập sách nhỏ này nằm rải rác ở các thư viện trung ương Liễu-châu, Côn-minh, Quảng-châu hoặc tại thư viện Đại-học văn khoa, hoặc thư viện cấp huyện, thậm chí cấp xă. Trong khi tiếp xúc với các giáo sư sử học, nhân chủng học, và ngay cả những vị có trọng trách về văn hóa của ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam như:

Quảng Đông: Quảng-châu, Kỳ-giang, Dương-giang, Đài-sơn, Phật-sơn.

Quảng Tây: Liễu-châu, Nam-ninh, Ngọc-lâm, Hợp-phố, Khâm-châu, Long-châu.

Vân Nam: Côn-minh, Khai-nguyên, Văn-sơn, Điền Bắc, Khúc-tĩnh.

Các vị ấy cũng không hề biết rằng trong thư viện thống thuộc ḿnh lại có những cuốn sách như vậy. Các vị ấy c̣n khuyên tôi chẳng nên chú ư đến những tiểu tiết nhỏ nhặt. Họ đâu có biết rằng những cái nhỏ bé ấy, nó như những viên gạch, tôi dùng để xây lâu đài vĩ đại. Giáo sư Chung Vũ Ninh gọi tôi là con mọt sách lớn nhất mà ông gặp.

Dưới đây tôi chỉ đưa ra tên những tập quan trọng mà thôi.

_ Đại-lư di hậu lục, Vô danh, Minh. Thuật trận đánh của Đoàn Hưng Trí với Ngột-lương Hợp-thai, y bị bắt.

_ Di tộc kỷ sự bản mạt, Vương Doăn, Minh. Chép về tộc Di ở Vân Nam, cuối  sách dành ra 15 trang nói về số phận 5 vạn quân Đại-lư theo Ngột-lương Hợp-thai sang đánh Đại Việt.

_ Khúc-tĩnh nhân vật chí, Minh, Vô danh. Chép tiểu sử một số nhân vật vùng Khúc-tĩnh, Vân Nam. Trong đó có 7 người theo Mông-cổ đánh Đại Việt bị giết.

 

_ Điền Bắc chư thần chí, Minh, Đoàn Đại. Chép sự tích 25 thần ở Diền Bắc, Vân Nam. Trong đó có tới 9 thần vào thời Mông-cổ cai trị.

_ Thát-đát cảo lục, Minh,Vơ Doăn Cương. Chép những thống khổ của dân chúng vùng Quảng Tây phải gánh chịu trong ba cuộc chiến tranh Mông-Việt.

 

_ Mông-thát di hận, Minh, Uông Huy, Chép những thống khổ của dân chúng vùng Quảng Đông, Quảng Tây trong thời gian bị Mông-cổ cai trị. Trong đó có ba lần đánh nhau với Đại Việt.

_ Đại-lư cổ sự lục, Minh, Uông Kinh. Chép những truyện kỳ lạ tại triều đ́nh Đại-lư trong khoảng 1200-1257. Có chép cuộc chiến tranh giữa Mông-cổ với Đại-lư.

Và hằng trăm sách lặt vặt khác.

Nếu thời Tống đă có bộ Tống triều công thần bi kư, đă giúp tôi khi viết Nam-quốc sơn hà, th́ đời Nguyên, những loại bi kư lại rải rác, hiếm hoi. V́ các văn gia Trung-nguyên coi người Mông-cổ là thứ rợ Thát-đát, chỉ biết cướp bóc hăm hiếp, mà không có văn hóa, nên khi các danh nhân Mông-cổ chết, ít đươc soạn bi kư kỷ niệm. Những bài bi kư này, chính tác giả đă đưa vào thi hay văn tập của ḿnh:

Diêu Toại (1238-1314) trong Mục-am tập có bài kư nói về:

_ Sứ giả Nguyên là Trương Đ́nh Tân, đến Đại Việt năm 1269.

_ A-lư Hải-nha (Ariq Qaya), tướng tấn công Đại Việt năm 1285.

_ Trong bài Dĩnh-châu vạn hộ Để công thần đạo bi, có đề cập tới chiến cuộc Mông-cổ với Chiêm, Việt.

Tô Thiên Tước (1294-1352) trong Nguyên triều danh thần sự lược, có bi kư của:

_ A Truật (Aju), con trai Ngột-lương Hợp-thai, cầm quân đánh Đại Việt năm 1958 do Vương Vân soạn.

_ Khac Kha Sun do Lưu Mẫn Trung soạn.

Cũng Tô Thiên Tước, trong Từ khê văn cảo, có bia  chép về Lư Thiên Hạo, một tướng thủy quân Nguyên, bị bắt trong trận Bạch-đằng năm 1288.

Bia trước đền Ôn Đức, thờ viên Thiên-phu trưởng tiếp viện lương thực cho Ngột-lương Hợp-thai năm 1258, bị giết. Bia này do tôi phát hiện tại xă Kiến-thủy, huyện Khai-nguyên, tỉnh Vân Nam.

4.3. Những chi tiết vụn vặt giá trị khác.

         Một tài liệu, không phải là sử, được biên soạn  vào đời Nguyên, mang tên Hoàng triều kinh thế đại điển, tác giả là Triệu Thế Diên và Ngu Tập soạn  vào năm 1330-1331, dưới sự kiểm soát của Thân-vương Mông-cổ Đác-khan Khác-kha-sun (Darqan Qarqasun). Sách này hiện chỉ c̣n lại một chương đầu, in trong bộ Vĩnh-lạc đại điển. Nội dung nói sơ đến cuộc chiến tranh với Đại Việt, Chiêm-thành, các sự kiện được ghi rơ ngày, tháng, năm.

         Một vài bài kư sự, thơ phú thù phụng của những sứ thần Mông-cổ qua Đại Việt, cũng ghi lại đôi ba nét về thời cuộc. Đó là các bộ:

An Nam hành kư của Từ Minh Thiện.

Trần Cương Trung thi tập của Trần Phu.

5. T́m trong kho tàng Âu-Phi

Quân Mông-cổ từng đánh phá các nước Trung Đông và hầu hết các nước châu Âu, rồi đặt nền cai trị đến mấy trăm năm. Thế nhưng trong Nguyên sử, chỉ dành đâu có mấy trang nói về cuộc ra quân kinh thế hăy tục này. Đương thời sử gia các nước bị tai vạ đều ghi chép rất tỷ mỉ. Trong cuộc sưu tầm, tôi t́m thấy những bộ sử lớn của các nước sau đều tường thuật về biến cố này: Iran, Irak, Syrie, Afghanistan, Hung-gia-lợi, Ba-lan, Nga-sô, Tiệp-khắc, Đức, Áo. Những nước thoát khỏi tai ách này gồm Pháp, Ư, Anh, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha. Trong các bộ sử đó, th́ bộ sử biên niên của nhà sử học Iran là Allah Rasid ud-Din (1247-1318) có giá trị nhất. Trong bộ sử này, có nói qua về vụ Thoát Hoan  bị Đại Việt đánh bại.

Sang thế kỷ thứ 18-19-20, nhờ Đông Tây thông thương, các sử gia Âu-Phi tham khảo thư tịch những nước Á-châu, họ viết về Mông-cổ rất chi tiết. Song không sách nào nói đến ba cuộc b́nh Mông của Đại Việt cả. Họ chỉ lược vài gịng, với  nghi vấn: Mông-cổ bại ở Nhật-bản và Việt-Nam. V́ sách quá nhiều, tôi chỉ lựa những bộ thực sự có giá trị, ghi trong phần tài liệu đính kèm. Các bạn có thể mua về đọc.

6. Vấn đề tên của người Mông-cổ

         Trong khi viết 11 quyển về thời Lĩnh Nam, 19  quyển về thời Tiêu-sơn, tôi chưa bao giờ gặp khó khăn về vấn đề tên của nhân vật. Những tên trong 30 quyển trên, hầu hết là tên Trung-quốc, Đại Việt, rất dễ dàng cho tôi. Thảng hoặc gặp những tên Ấn-độ, Chiêm-thành, th́ tôi cứ dùng tên Hán-Việt mà tiền nhân đă dùng, rồi ghi cạnh đó tên phiên âm bằng tiếng Phạn như :

Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci)

Tăng-giả Nan-đà (Samvananda)

Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)

Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II)

Bây giờ, tôi gặp khó khăn khi viết tên người Mông-cổ. Từ thủa c̣n thơ, tôi học sử, gọi tên người Mông-cổ bằng tên phiên âm Hán-Việt trong Nguyên-sử in đời Thanh, riết rồi thành quen. Khi tôi vào tuổi 13-14, học sử Thế-giới bằng tiếng Pháp, tôi gặp tên Mông-cổ mà người Pháp phiên âm, làm tôi bàng hoàng như:

Thành-cát Tư-hăn  là Gengis Khan.

Tốc Bất Đài là Sũbơdai.

Mộc Hoa Lê là Muqali.

Mông Ca là Mơngka.

Thế nhưng, mỗi khi có dịp đọc một quyển sách có liên quan đến Mông-cổ, tôi lại mất th́ giờ rất nhiều thời giờ quy những tên trong sách ra tên Hán Việt quen biết. V́ các tác giả người Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Ư, họ phiên âm theo tiếng nước họ. Rồi ngay trong một nước, mỗi tác giả lại phiên âm khác nhau. Lôi thôi! Rắc rối!

Tại sao?

Nguyên thủy, Mông-cổ chỉ là một tộc nhỏ trong vùng Thảo-nguyên. Họ sống theo chế độ lều trại, không văn hóa, không có chữ viết. Khi chinh phục Thổ-phồn, Thành-cát Tư-hăn mới dùng văn tự nước này làm văn tự Mông-cổ. Lúc đánh đế quốc Khwarezm, Mông-cổ lại dùng văn tự Ả-rập. Lúc Hốt Tất Liệt đặt nền móng cai trị ở Yên-kinh, họ lại dùng Hán-văn. Đến năm 1288, Mông-cổ dùng tới  16 văn tự khác nhau. Mỗi nước phiên âm tên Mông-cổ theo ư họ. Ngay trong cùng một nước, mà mỗi người tùy ư phiên âm riêng. Cái phức tạp là ở chỗ đó.

Trước 1201, Mông-cổ cũng như các bộ tộc ở vùng Thảo-nguyên, cứ sau trận đánh với nhau, th́ bên thắng bắt tất cả đàn ông của bên bại làm nô lệ. C̣n vợ, con gái của kẻ thù, bắt làm tỳ thiếp cho ḿnh. Sau khi thắng bộ tộc Năi-man, một bộ tộc văn minh, Thành-cát Tư-hăn bỏ lệ ấy. Ông sát nhập hai bộ tộc làm một, cho người Năi-man được sống b́nh đẳng như người Mông-cổ. Sự rộng lượng này đưa Mông-cổ trở thành nước lớn. V́ vậy, từ đấy, khi đánh đến đâu, ông tuyển người địa phương bổ xung tổn thất. Ông dùng người địa phương làm tướng. Cho nên, trong quân Mông-cổ có nhiều tướng gốc Á-rập, Âu-châu, Thổ-phồn, Tây-hạ, Thát-đát, Cao-ly, Trung-quốc. Lại c̣n những tên Thánh của Hồi-giáo, Thiên-chúa giáo...Tên của họ, đối với chúng ta ngày nay cũng đă rắc rối rồi, huống hồ hồi đó !

V́ vậy có t́nh trạng mạnh ai, người ấy phiên âm. Nói đâu xa, gần đây, Paris thành Ba-lê,  Moscou thành Mạc-tư-khoa. California thành Gia-châu, Canada thành Gia-nă-đại. Montesquieu thành Mạnh Đức Tư Cưu. Karl Marx thành Mă Khắc Tư.

Năm 1976, khi tôi mới làm việc cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Tên cúng cơm là Commité médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC). Trước những danh từ, mà chưa ai dịch, hoặc dịch nhưng chưa thống nhất, tôi cứ sáng tác bừa ra. Lúc đầu, nhiều anh em viết sách kêu trời, v́ họ đă dịch rồi. Nay họ phải đổi lại. Tỷ như Rhum des foins, người bị chứng này khi hoa nở th́ bị dị ứng mũi, mắt. Tôi dịch là hoa khai thế lệ. Nghĩa là hoa nở, nước mắt nước mũi chảy. Tiền trả xa lộ, bao năm đă dịch là xa lộ phí, tôi dịch là tiền măi lộ. Tiền eo-phe tại Hoa-kỳ, tiền RMI tại Pháp tôi dịch là tiền chẩn bần. Địa danh Chamonix tôi dịch là Đại-lang sơn tuyết phong. Tổng-thống Clinton, tôi dịch là Kha-lâm-tông. Thuốc Viagra tôi tương đại là Uy-nhi-cương có nghĩa là uống Viagra vào, th́ cái nớ cứng lên, hùng dũng. Trước sau dịch từ Hoa-văn ra Pháp-văn và ngược lại, tôi đă sáng tác ra gần 700 từ. Thế mà, bây giờ những từ đó, trở thành chính thức.

Trở lại những tên Mông-cổ. Cái gă con trai Tốc Bất Đài, nguyên soái Mông-cổ đánh Đại Việt lần thứ nhất vào năm 1258, Nguyên-sử chép là Ngột-lương Hợp-thai, Ngột-lương Cáp-thai. ĐVSKTT chép là Ngột-lương Hợp-đải. ANCL chép là Ngột-lương Cáp-đải. Thông-giám tập lăm chép là  Ô-đặc-lư Cáp-đạt. Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo vương lại là Cốt-đải Ngột-lang. Bột-lan Hợp-đáp-nhi, Nguyên sử chép là Bột-lỗ Hợp-đáp-nhi; ANCL chép là Lư-la Hợp-đáp-nhi, Sách-la Cáp-đáp-nhi.

Lối phiên âm này, vào thời Nguyên, Minh đă hỗn loạn như thế. Sang thời Thanh, năm 1781, vua Càn Long cho thành lập một ủy ban, soạn bộ  Liêu, Kim, Nguyên tam sử ngữ giải. V́ tổ tiên của nhà Thanh là Kim Ngột Truật. Mà Kim vốn gốc là bộ lạc Nữ-chân, một trong các tộc thuộc vùng Thảo-nguyên như Mông-cổ. Cho nên ủy ban phiên âm các tên trong Liêu-sử, Kim-sử, Nguyên-sử thành âm Măn-thanh, ghi bằng Hán-văn. Thế là...rối loạn càng thêm rối loạn. Lộn tùng phèo hết. Ngột-lương Hợp-thai được đổi thành Ô-lan Cáp-đạt, A-lư Hải-nha thành A-nhĩ Cáp-nhă. Bản in Nguyên-sử mà tiền nhân dạy tôi, là bản in đă sửa đổi theo phiên âm Càn Long. Măi tới năm 1978, khi theo Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa sang Hồ Bắc, tôi đọc bộ Nguyên-sử cũ, mới bật ngửa ra cái sự khác nhau. Trong dịp này nhờ điều trị cho giáo sư sử học Cao Toàn An, tôi được ông giảng giải chi tiết về sự phiên âm này. Tôi như người mù đươc mở mắt về vấn đề phiên âm.

Bởi vậy khi đọc sử Trung-quốc giai đoạn này rất dễ lầm lẫn.

_ Ông Hoàng Thúc Trâm trong tác phẩm Trần Hưng Đạo lầm rằng A Truật, A Châu là hai người khác nhau. Thực ra A Truật là phiên âm đời Minh. C̣n A Châu là phiên âm đời thanh.

_ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược lầm Tích-lệ-cơ-ngọc thành Tích-lệ và Cơ-ngọc.

_ Nhà sử học Nhật-bản Yamamoto Tatsuto lầm Ḥa-lễ-hoắc-tôn thành Ḥa-lễ và Hoắc-tôn.

_ Các dịch giả bộ KĐVSTGCM của viện Sử-học Hà-nội cắt  I-lặc-cát-đại thành Y-lặc và Cát-đại.

Vậy trong hai bộ tôi viết về thời b́nh Mông này, sẽ phiên âm ra sao? Theo sách Anh? Nhưng sách Anh nào? Theo sách Pháp? Nhưng sách Pháp nào? Tôi nhận ra cách phiên âm của các nước châu Âu tuy khác biệt nhau, nhưng đại lược giống nhau. Chỉ cần biết tên đó do một nước phiên âm, khi gặp tên đó do nước khác phiên âm cũng đoán ra. Như Thành-cát Tư-hăn, họ phiên âm là Gengis Khan, Cjensitan, Chsgengista... C̣n trong sách của tôi, tôi nghĩ: Thôi th́ dầu sao tôi cũng từng là người thông dịch Pháp-Hoa trong 24 năm, tôi tự quyết định lấy. Quyết định này đặt trên căn bản sao cho giới trẻ Việt, dù ở trong nước, hay ở hải ngoại không bị lầm lẫn, dễ dàng nắm được vấn đề khi đọc sách Việt, khi đọc sách Trung-quốc hay sách Anh, Pháp, Đức ! Nguyên tắc đó là:

1. Dùng tên phiên âm của Nguyên-sử, mà lịch sử Việt từng dùng. Tên này quen với người Việt. Không cần biết tên đó phiên âm thời Nguyên-Minh hay Càn Long. Sau đó chú giải một trong cách phiên âm của Tây-phương.  Tỷ như khi nói tới Triết Biệt, tôi giữ nguyên, rồi chú giải ngay cạnh hoặc bên dưới là Jăbă. Hốt Tất Liệt chú giải cạnh là Qubilai. Ngột-lương Hợp-thai chú giải cạnh là Uryangqadai.

2. Ngược lại khi chép những tên, mà sử Việt không nói tới, Nguyên sử có nói tới, tôi dùng tên phiên âm Nguyên-sử. Như sông Onon, tôi chép là Long-lư hà, rồi chú giải cạnh. Như tên một thành ở biên giới Mông-cổ, Tây-hạ, Nguyên-sử gọi là Lực-cát-lư doanh, tôi vẫn giữ nguyên, nhưng chú giải cạnh là Wolohai.

3. Những tên người, đất chỉ xuất hiện ở Mông-cổ, hoặc Tây-phương, Trung Đông, mà Nguyên sử không nói tới, tôi tự phiên âm, rồi chú giải phiên âm của Tây-phương bên cạnh.

Hy vọng, với tuổi trẻ hiếu học, với những bước đầu tôi đi qua, để lại; các bạn dễ dàng t́m hiểu về Mông-cổ, t́m hiểu về trang sử anh hùng của tộc Việt ta trong ba lần b́nh Mông.

 

Paris ngày 19 tháng Chạp, năm Mậu Dần.

Nhằm ngày 4 tháng 2 năm 1999.

 

Một đoạn ngắn gia phả họ Trần

 

Dịch nghĩa

Từng nghe rằng: Thấy muôn núi trùng trùng, điệp điệp mà xét đến tột cùng ngọn núi Tu Di(1). Xem thấy sông lạch mênh mông mà suy tận cùng đến tinh tú. Thế nên nhà phải có gia phả, cũng như nước phải có sử sách, đó là điều thật không thể thiếu vậy?

Xưa, các triều đại của nhà Ngu, nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu, sự liên quan trong gịng họ mỗi đời đều thấy rơ.

Gịng dơi họ Trần nhà ta, nguồn gốc từ Mân-châu (2) trước chọn đất An-sơn (Nay thuộc huyện An-hưng, tỉnh Khánh-an), sau di xuống làng Tức-mặc. Ông tổ tên Hồng-Phúc (3), nhờ tích đức, lũy nhân, nên tiếp nhận được thế đất Thái-đường (Nay thuộc xă Thái-đường, huyện Hưng-nhân, tỉnh Thái-b́nh).

Ngôi đất ấy, sách Phong-thủy gọi là

  "Liên hoa kết nhụy, dĩ nhan sắc đắc thiên hạ"(4)

Về sau, quả nhiên đức Trần Thái-tông (Thuộc chi thứ trong họ) được họ Lư truyền vị, lên ngôi báu, trải 14 đời vua. Nếp nhà nhân hậu, con cháu phồn vinh, thịnh vượng. Há bảo rằng : Không thể lường máy tạo, khó tính nổi mệnh trời, đầy dẫy sóng cuồn cuộn, để đạt thành sự nghiệp từ ngàn xưa đến ngàn sau.

Kế đến, gịng họ dời về cư ngụ tại phường Hà-khẩu, đất Hà-thành, cũng đời đời ǵn giữ nếp nhà, nên hàng sĩ phu, quan lại, nay chính là họ Đặng-Trần đó. (5)

Chi trưởng họ nhà ta, trung hiếu nề nếp, kính giữ thần chức. Thời kỳ nhà Trần đang thịnh th́ nếp nhà vinh hiển, cùng gánh vác chia sẻ lẽ hưng suy của Xă Tắc....(6)

Chú giải

(1) Tu-di, ngọn núi không có trên địa cầu. Thấy thuật trong kinh Phật. Ở đây, ư muốn nói: Nguồn gốc của các ngọn núi trên thế gian.

(2) Thời An Dương vương, vùng Nam-hải bị Triệu Đà chiếm, Phương-chính hầu Trần Tự Minh, di gia thuộc xuống vùng Giao-chỉ.

(3)  Hồng Phúc là tên thụy của Trần Tự Kinh, sau được truy tôn là Mục-tổ hoàng đế (1103-1190).

 

(4) Nghĩa là hoa sen kết thành nhụy. Nhờ nhan sắc mà được thiên hạ. Ư chỉ con gái Nguyên-tổ Trần Lư là Trần thị Kim Dung, kết hôn với vua Lư Huệ-tông, mà cháu là Trần Cảnh được Lư Chiêu-hoàng tuyển làm chồng, rồi được nhương ngôi.

(5) Khi bị giặc Hồ Quư Ly cướp ngôi. Con cháu các vua Trần phiêu bạt khắp nơi, trốn tránh. Đổi họ thành Đặng, khi họ Hồ bị quân Minh bắt, một số đổi ra họ Đặng Trần.

         (6) Chi trưởng chỉ con cháu An-sinh vương Trần Liễu với các vị Hưng-ninh vương Trần Quốc Tung, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, Vũ Thành vương Trần Quốc Doăn.

 

 Bài tán của Tŕnh Quốc-công Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi đọc gia phả Trần tộc.

     Phiên âm.

Đông-sơn chi dương,

Húc nhật hoàng hoàng,

Căn thâm phái dẫn.

Thịnh truyền mỹ chương,

Liên chi quỳnh cán,

Dịch tự thư hương.

Phong hùng hải biểu,

Vũ nhuận phân hương.

Lan giai dụ ấm,

Quế tịch đằng phương.

Phúc điền lợi ích,

Nhân trạch an khang.

Cầu đồ thư bảo,

Tần vi thi chương.

Ư  kim vi liệt,

Chấn cổ hữu quang.

Trắc giáng cụ nhĩ,

Tại thượng, tại bàng.

Ái như nhập hộ,

Tư hồ đăng đường.

Nghĩa thâm truy viễn,

Tố tự Thiên-trường.

Ô! Hoàng ngọc phổ,

Đỉnh Hạ, đôn Thương.(1)    

         Tŕnh Quốc-công,

Cổ-am Bạch vân Nguyễn tiên sinh bái tán

Dịch

Ấm phủ non Đông,

Mặt trời rực rỡ,

Rễ sâu lan tỏa.

Nền thịnh sáng hồng!

Gốc quỳnh liền cành,

Thư hương tiếp nối,

Gió hùng biển cả.

Mưa nhuận thôn trang,

Thềm lan ôm ấp,

Vườn quế ngát hương.

Phúc điền sinh lợi,      

Nhân trạch an khang.

Đồ thư quư báu,

Thi chương thơm lừng.                  

Nay vẫn rạng rỡ,

Nguồn sáng chấn hưng.

Trắc giáng đă đủ,

Ở trên, ở dưới,

Phảng phất vào cửa,

Suy niệm đăng đường.

Nghĩa sâu truy xa,

Từ cung Thiên-trường.

Ôi ! Hoàng ngọc phổ,

Đỉnh Hạ, đôn Thương.

Tŕnh Quốc-công Bạch-vân

tại làng Cổ-am bái tán.

Chú giải                      

(1). Hưng-Đạo vương có bốn vương tử, đều là đại tướng lậïp nhiều công trong cuộc chống Mông-cổ lần thứ nh́ và ba. Cả 4 đều được phong vương, có thái ấp riêng: Hưng-Vơ vương, Hưng-Nhượng vương, Hưng-Hiến vương, Hưng-Trí vương. Cho đến nay, dù mất nhiều công sưu tầm, tôi cũng không t́m ra di duệ của Hưng-Trí  vương. Bài tán này, tôi thấy trong hầu hết các gia phả thuộc gịng Hưng-Vơ, Hưng-Nhượng, Hưng-Hiến vương. Không biết Tŕnh Quốc-công Nguyễn Bỉnh Khiêm đă làm năm nào?

(2). Non Đông để chỉ núi Thái-sơn, ư nói công đức sinh thành của tổ tiên. Nhưng sườn non Đông ở đây có nghĩa: Sườn có nghĩa là chữ phụ. Chữ phụ với chữ Đông thành chữ Trần.

(3) Thiên-trường, tên một trấn, nơi phát tích của gịng họ Trần. Nay thuộc Nam-định và Thái-b́nh.

(4) Đỉnh Hạ, nhà Hạ bên Trung-quốc, khi thống nhất thiên hạ, đă đúc chín cái đỉnh tượng trưng cho chín châu, để ở kinh đô,tỏ rơ quyền đế vương. Đôn Thương: Nhà Thương nối tiếp nhà Hạ,  đúc chín cái đôn, để chín cái đỉnh của nhà Hạ lên trên, tượng trưng nhà Thương kế tục nhà Hạ, làm chủ thiên hạ. Toàn ư câu này muốn nói, triều Trần do đức mà được Thiên-hạ.

Thư tịch về Mông-cổ, và ba cuộc b́nh Mông của tộc Việt, thế kỷ thứ XIII.

Sách Việt ngữ.

So sánh với sách Trung-quốc, Nhật-bản, Cao-ly hay bất cứ các sách Tây-phương, th́ sách báo Việt-ngữ viết về ba cuộc b́nh Mông quá ít, quá sơ lược. Tuy nhiên tôi cũng ghi vào đây.

Chu Thiên, Chống quân Nguyên, Sở học liệu, Bộ Văn-hóa giáo dục VNCH, Đại Nam California, USA tái bản.

Đào Duy Anh, Lịch-sử Việt-Nam, Sở học liệu, Bộ Văn-hóa giáo dục VNCH, Đại Nam, California, USA tái bản.

Đào Duy Anh, Tài liệu về cuộc kháng chiến của nhà Trần đă ngăn chặn sự bành trướng của Mông-cổ xuống Đông Nam Á, Nghiên cứu lịch sử, số 12, Hà-nội tháng 9 năm 1962.

Đào Duy Anh, T́m các đèo Khâu-cấp và Nội-bàng trên đường dụng binh của Trần Hưng Đạo. Nghiên cứu lịch sử số 66, Hà-nội tháng 9 năm 1964.

Hà  Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ thứ XIII. Nhà xuất bản Khoa-học xă hội Hà-nội 1975.

Nguyễn Ngọc Thụy, Về con nước thủy triều trong trận Bạch-đằng năm 1288, Nghiên cứu lịch sử số 63, Hà-nội tháng 6 năm 1964.

Nguyễn Văn Dị, Văn Lang, Nghiên cứu về trận Bạch-đằng năm 1288, Nghiên cứu lịch sử số 49, Hà-nội tháng 4 năm 1963.

Phạm Ngọc Phụng, T́m hiểu chiến thuật, chiến lược thời Trần Lê, Hà-nội 1963.

Trần Hà, Xung quanh trận Bạch-đằng năm 1288, Nghiên cứu lịch sử số 46, Hà-nội tháng 1 năm 1963.

Trần Huy Liệu, Kỷ niệm 675 năm trận chiến Bạch-đằng, Nghiên cứu lịch sử số 50, Hà-nội tháng 5 năm 1963.

Trần Trọng Kim, Việt-Nam sử lược, Sở học liệu, Bộ Văn-hóa giáo dục VNCH, Đại Nam, California, USA tái bản.

Văn Tân, Bàn thêm về nguyên nhân khiến cho cuộc kháng chiến chống quân Mông-cổ hồi thế kỷ thứ 13 đi đến thắng lợi. Nghiên cứu lịch sử số 66, 67 tháng 9-10 năm 1964.

Sách chữ Hán  

         Đây là loại sách viết bằng chữ Trung-quốc, nhưng tôi gọi là sách chữ Hán, để phân biệt với sách do người Trung-quốc viết. Chữ Trung-quốc, trong quá khứ, tổ tiên ta đă dùng làm văn kiện, thi cử mấy ngh́n năm, được gọi là chữ Hán đă quen. Một vài bộ, do họ Lư tại Đại-hàn, gốc là con cháu Lư Dương Côn, Lư Long-Tường sang kiều ngụ, đă viết, nhưng khi viết, họ đứng trên danh nghĩa người Việt, cũng được ghi vào mục này. Nói nôm na ra mục này ghi : Sách chữ Trung-quốc do người Việt viết.

         Tuy nhiên khi viết bộ An-Nam chí lược, Lê Tắc đă đứng trên lập trường là thần tử nhà Nguyên ; con cháu Chiêu-quốc vương Trần Ích-Tắc khi chép gia phả, cũng luôn coi ḿnh là người...Trung-quốc ; v́ vậy những sách ấy được ghi vào mục tài liệu Trung-quốc.

         Sách chữ Hán do người Việt viết tuy nghèo nàn, nhưng lại là tài liệu rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-cổ của tổ tiên ta xưa.

         Một số lớn sách, chép về các anh hùng, không mấy quan trọng mà tôi đă ghi chú ngay dưới các sự kiện, th́ không chép vào đây.

Cao-ly sử, thư viện quốc gia Hán-thành, Đại-hàn.

Chiêu-Quốc di hậu lục. Sách chép tay của con cháu Chiêu-Quốc vương Trần Ích-Tắc, tại trấn Nhạc-dương, tỉnh Hồ-Nam Trung-quốc.

Đại-Nam nhất thống chí, bản Tự-Đức, chép tay.

Đại-Việt sử kư toàn thư, Trần Kinh-Ḥa chú giải, Đông-kinh đại học, Đông-dương Văn-hóa nghiên cứu sở xuất bản, niên hiệu Chiêu-ḥa thứ 59.

Đại-Việt sử kư, đời Tây-sơn.

Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục, Quốc-sử quán triều Nguyễn, bản in 1881.

Nam-sử tập biên, của Vũ Văn Lập. Bản chép tay của thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.

Tiêu-sơn truyền phả. Sách chép tay của con cháu Kiến B́nh vương Lư Long Tường tại Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong  Nin Gun), tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hạc) , Bắc Triều-tiên.

Tinh-thiện Lư thị tộc phả. Bản chép tay của thư viện quốc gia Hán-thành, Nam Hàn.

Trần gia di phả. Sách chép tay của gịng Hưng Hiến vương tại Bát-tràng.

Trần gia ngọc phả, sách chép tay thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.

Trần gia điển tích thống biên. Sách chép tay của thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.

Trần Hưng Đạo vương cựu tích. Sách chép tay của thư viện Khoa-học xă hội.

Trần Kiến-trung thực lục hay Vạn-yên thực lục. Sách chép tay của thư viện Kha-học xă hội, Hà-nội.

Trần đại tộc chính phả. Sách chép tay của gịng Hưng Nhượng vương tại Cổ-am.

Trần đại vương b́nh Nguyên thực lục, bản chép tay của thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.

Trần tông ngọc phả. Sách chép tay của gịng Hưng Vũ vương tại Hải-hậu, Nam-định.

 Trần triều thế phả hành trạng. Sách chép tay của thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.

Trần vương truyện khảo, của Trần Duy Vôn 1931, sách chép tay của thư viện Khoa-học xă hội, Hà-nội.

Trần-gia Bắc-tông chính phả. Sách chép tay của con cháu Chiêu-Quốc vương Trần Ích-Tắc tại xă Lănh-thủy, thị xă Trường-sa, tỉnh Hồ-Nam, Trung-quốc.

Việt-sử tổng vịnh, bản in đời Tự-Đức bản in đời Tự-Đức 1874).

Tài liệu Trung-quốc,

         Nguồn tài liệu này quá phong phú, nhưng lại quá phức tạp. Nếu chép hết, có lẽ tới vài ngh́n bộ. Ở đây tôi chỉ ghi tên những bộ, hội đủ điều kiện sau :

         _ Có giá trị nhất, nguồn gốc rơ ràng.

         _ Có tàng trữ tại các thư viện lớn, hoặc thư viện các đại học tại Hoa-kỳ, Pháp, Canada, Anh, Đức, Đông-kinh, Hán-thành và thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội.

         _ Có giá trị nguyên thủy. Tỷ như cùng một sự kiện, một tác giả chép rồi có nhiều tác giả khác lấy làm căn cứ viết các bộ khác, th́ tôi chỉ ghi tên bộ nguyên khởi.

         _ Có liên hệ tới cuộc chiến Nguyên-Việt.

         _ Những bộ sử, mà tác giả viết vào thời gian 1949 tới 1998, trong tinh thần Marxisme, Léninisme, Maoisme không mấy trung thực, tôi không ghi vào đây. Tuy nhiên một vài bộ do các cơ sở quân đội soạn có giá trị cao. Các bộ này được dùng làm tài liệu tham khảo cho các sĩ quan chỉ huy tham mưu, cho các trường quân sự cao cấp, tuy rất khô khan, nhưng lại có nhiều giá trị về t́nh báo, về chiến thuật, chiến lược, tôi cũng ghi vào đây.

An-Nam chí lược, của Lê Trắc, Trần Trung-Ḥa chú giải, Đông-kinh đại học, Đông-dương văn hóa nghiên cứu sở xuất bản, niên hiệu Chiêu-ḥa thứ 59.

An-Nam chí nguyên, của Cao Hùng Trưng, Cẩm-chướng thư  cục Thượng-hải, 1921.

B́nh Tống lục, của Lưu Mẫn Trung, đại học Văn-khoa Triết-giang, 1978.

 

Chân-lạp phong thổ kư, Chu Đạt-Quan trong bộ Cổ kim đồ thư tập thành. Trung-hoa thư cục xuất bản, 1973.

Chiêu-bổ tổng lục, Thủ-sơn các tùng thư.

Chư phiên chí, của Triệu Nhữ-Quát, Đông-kinh đại học, Đông-dương văn hóa nghiên cứu sở xuất bản, niên hiệu Chiêu-ḥa 54.

Hắc-thát sự lược, của Bành Đại-Nhă và Từ Đỉnh, đại học văn, khoa Giang-tô 1970.

Hoa-di dịch ngữ, bản trong Hàm-phàn lâu bí níp.

Kinh thế đại điển tư lục, bản trong Nguyên-văn loại.

Kinh thế đại điển,  bản trong Vĩnh-lạc đại điển.

Liêu Kim Nguyên sử ngữ giải, soạn năm 1781, bản của Giang-tô thư cục.

Mông-ngột-nhi sử, của Đỗ Kỳ, 1934.

Mông-thát bị lục, của Triệu Hồng, bản trong Mông-cổ sử liệu từ chủng hiệu chú của Vương Quốc-Duy,  viện nghiên cứu Thanh-hoa học hiệu.

Mục-am tập, của Diêu Toại, bản của đại học sư phạm Bắc-kinh 1979.

Đại-lư hành kư, của Quách Tùng-Niên, Kỷ-văn trai tùng thư.

Đào-viên học cổ lục, của Ngu Tập-Nguyên, Cẩm-chướng thư cục Thượng-hải 1924.

 Đảo di chí lược, của Uông Đại-Nguyên, bản của Cổ-học vựng san 1911.

Nguyên hành tỉnh thừa tướng b́nh chương chính sự niên biểu, của Ngô Đ́nh-Nhiếp trong Nhị thập ngũ sử bổ biên.

Nguyên đại bạch thoại bí tập lục, nhà xuất bản Khoa-học xă hội, Bắc-kinh 1955.

Nguyên đại Vân-nam sử địa tùng khảo, của Hạ Quang-Nam, Trung-hoa thư cục Bắc-kinh xuất bản 1976.

Nguyên điển chương, bản niên hiệu Quang-tự, 1908.

Nguyên sử bản chứng, của Uông Huy-Tổ, nhà xuất bản Khoa-học xă hội, Bắc-kinh 1978.

Nguyên sử bị vong lục, của Vương Quang-Lỗ, nhà xuất bản Khoa-học xă hội, Bắc-kinh 1978.

Nguyên sử dịch văn chứng bổ, của Hồng Quân, Quảng-nhă thư cục 1900.

Nguyên sử kỷ sự bản mạt, của Trần Bang-Chiêm, Thương-vụ ấn thư quán Hương-cảng 1973.

Nguyên sử loại biên, của Thiệu Viên-B́nh, nhà xuất bản Khoa-học xă hội  Bắc-kinh, 1978.

Nguyên sử nghệ văn chí, của Tiêu Đại- Hân, nhà xuất bản  Khoa-học xă hội Bắc-kinh, 1978.

Nguyên sử ngoại di truyện địa lư khảo dị,của Đinh Khiêm, nhà xuất bản Khoa-học xă hội Bắc-kinh 1978.

Nguyên sử đồng danh lục, của Uông Huy-Tổ,  Quảng-nhă thư cục.

Nguyên sử tân biên, của Ngụy Nguyên, Cẩm-chướng thư cục Thượng-hải 1920.

Nguyên sử,  Tống Liêm tổng biên tập, Trung-hoa thư cục xuất bản.

Nguyên Thánh vũ thân chinh lược, bản của Đông-kinh đại học, không rơ năm xuất bản.

Nguyên thị tộc biểu, của Tiêu Đại-Hân, nhà xuất bản Khoa-học xă hội, Bắc-kinh 1978.

Nguyên triều bí sử, tân dịch bản của Chu Ngân-Danh, đại học sư phạm Trường-sa 1980.

Nguyên triều chinh tiễu An-Nam khảo bị, sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tổng tư-lệnh quân đội Nhân-dân Trung-quốc.

Nguyên triều danh thần sự lược, của Tô Thiên-Tước, đại học văn sử Thượng-hải 1979.

Nguyên văn loại, của Tô Thiên-Tước, Thương-vụ án thư quán 1958.

Quách-thị Nam chinh, con cháu Quách Quỳ, bản photocopie của Bộ Chỉ-huy quân sự tỉnh Quảng-Tây.

Tân Nguyên-sử, của Kha Thiệu-Mân, đại học Văn-sử Giang-tô, 1977.

Thành-cát Tư-hăn Tây-chinh khảo lược, Sở Nghiên-cứu, Cục Tác-chiến, Bộ Tư-lệnh quân khu miền Tây Mông-cổ, 1960.

Thiên Nam hành kư, của Từ Minh-Thiệu, đại  học Văn-sử  Vân-nam 1976.

Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ kư, con cháu Triệu Tiết, bản photocopie của Bộ Chỉ-huy quân-sự tỉnh Quảng-Tây.

Tục tư trị thông giám, của Tất Nguyên, Trung-hoa thư cục 1966.

Vân-Nam chí lược, của Lư Kinh, đại học Văn-sử Vân-Nam 1976.

Việt kiệu thư, của Lư Văn Phượng, bản chép tay của thư viện Khoa-học xă hội Hà-nội, và đại học Văn-sử Quảng-châu 1982.       

Nguồn tài liệu tiếng Tây-phương

Tài liệu gốc Mông-cổ

thế kỷ XIII-XVII

Altan Debter (Livres d'Or), source introuvable du XIII° siècle (le début de sa rédaction pourrait remonter à 1225) sur l'histoire de la lignée de Gengis-Khan, gardée dans le Trésor de l'Etat. La source chinoise Sheng-Wu T'sin - Tseng Lu en dérive ainsi que la source arabo-perse de Rasid ud-Din.

Monggol-un Ni uca Tobcian (Histoire Secrète des Mongols), probablement écrite en caractères ụgur en 1228 (perdue) et en caractères chinois vers 1240 ; traduite en chinois en 1370 sous le titre Yüan-ch'ao pi-shi. Suivant les versions :

_ du texte mongol Monggol-un ni ucaa tobci'an, de E. HAENISCH, Die Geheime Geschichte der Mongolen, Leipzig 1949 ; P. PELLIOT, Histoire Secrète des Mongols, Paris 1949 ; M. OLSUFIEVA, Storia Segreta dei Mongoli (version italienne du texte reconstitué par l'universitaire russe SERGEJ KOZIN), Milan 1973 ;

_ du texte chinois Yuan-tch'ao pi-chi (extraits), de E. HAENISCH, Untersuchungen über das Yüan-ch'ao pi-shi, die Geheime Geschichte der Mongolen, Leipzig 1937.

Cinggis-Qahan-u Hujahur (Les origines de Gengis-khan), rédigé en 1228, faisant peut-être partie de l'Altan Dëbtër, incorporé à l'Histoire Secrète.

 Altan Tobci (Histoire d'Or), chronique anonyme datant peut-être de 1604. D'après la version de C. R. Bawden (in « Gưttinger Asiatische Forschungen », I), Wiesbaden 1954.

Altan Tobci (Histoire d'Or), chronique rédigée en 1667 environ par le prince Lubdzandandzin, descendant de Dayan-Khan. D'après la version de E. Haenisch, Die letzen Feldzüge Cinggis Han's und sein Tod (in « Asian Major », IX), Leipzig 1933.

Cahan-Tëuqë (Histoire blanche), chronique du XIII° siècle concernant le culte de Gengis-Khan, attribuée à Qubilạ-Khan. Version de Zamca-rano, the Mongol chronicles of the Seventeeth Century (in « Gưtt. Asiat. Forschungen », III) ; N. Pallisen, Die alte Religion der Mongolen und der Kultus Tschingis-Chan's (in « Numen »), Leiden 1956.

Ssanang-Ssetsen Chung-tajsi, Ërdëny-yin tobci (l'histoire précieuse), saga mongole de 1662. D'après la version de I. J. Schmidt, Geschichte der Osst-Mongolen und ihres Fürstenhauses, St. Petersburg 1829.

Tài liệu Mông-cổ thế kỷ XVIII-XIX

Isibaldan, Ërdëny-yin ëriqë (La couronne de joyaux), chronique khalkh de 1835.

Jimbadorji, Bolur Toli (Le miroir de cristal), chronique de 1834-1837. Les trois sources de la version raccourcie de W.Heissig (in « Monumenta linguarum Asiae Maioris »), Copenhag 1958-1961-1962.

Lomi (desscendant de Dayan-Khan), Mongyol Borjihid oboy-un tëuqë (Histoire du clan des Mongols Borjigin), chronique de 1732-1735.

Rasipungsuy, Bolur ëriqë (La Couronne de cristal), chronique de 1774-1775.

*Les deux sources de la version de W. Heissig (in « Monumenta Serica »), Peiping 1945-1946.

Sirëgëtü-Güosi Dharma, Altan kürdün mingyan gëgësütü bicig (Le livre de la roue d'or aux mille rayons), chronique de 1739.

Những tài liệu khác, tuy ngắn, nhưng khá quan trọng, rải rác trong các tạp chí Tây-phương ghi ở cuối phần này. Trong đó có các bài:

_ Yëqë Mongyol ulusun ün-düsun-u altan tobci (Histoire d'Or des origines de l'Empire des Grands Mongols), rédigée en 1765 par le lama ( ?)

_ Mërgën-gëgën, Subut ëriqë (La couronne de perle),

_ Cinggis-un tëuqë (Histoire de Gengis),

_ Cinggis qahan-un auiriyangyui sastir (Esquisse d'une histoire de Gengis-khan),

_ Tayji Cinggis qahan-un tëuqë (Histoire du noble Gengis-khan),

_ Kưkư Tuy (Batnière bleue) [des Mongols bleus au temps de Gengis],

Tài liệu Măn-châu

Ilan Gurun-i Suduri (Histoire des trois royaumes) ou des trois dynasties Liao, Kin e Yüan, rédigée en langue tartare vers 1646 sur l'ordre de l'empereur mandchou Shun-shi, et subdivisée comme suit :

_Tai-Liao Gunrun-i suduri (Histoire du grand règne Leao), dans la version de M. Conon von der Gabelentz, Geschichte der Grossen Tai-liao, St. Petersburg 1877. Du texte chinois Liao-shi (Annales Leao), voir les versions partielles de De Mailla, op. Cit., C. Visdelou, Histoire de la Grande Tartarie, Maestricht 1780 ; E. Bretschneider, Karakhitai (in « Mediaeval researches », cit.).

_ Aïssin Gurun-i suduri (Histoire de l'empire des Kin), version de C. De Harlez, Histoire de l'Empire de Kin   ou Empire d'Or, Louvain 1887.

_ Dais Yuwan Gurun-i suduri bithe (Histoire de l'empire des grands Mongols), dans la version partielle de C. De Harlez, Manuel de la langue mandchoue, Paris 1884. Pour cette source, cf. le texte chinois de Yüan-shi (Annales Mongoles).

Kưke Sudur (Chronique bleue) (des origines impériales de la grande dynastie Yüan), rédigée en 1840 par INJANASI et WANGCUNBALA. Dans la version raccourcie de W. HEISSIG, Über die Kưke sudur (in « Monumenta Serica », VIII) et  dans la traduction partielle de O. LATTIMORE , The Mongoles of Manchuria, Boston 1934.

Tài liệu Tây-tạng

JIGS-MED NAM-MK'A, Hor chos byun (1818), dans la version de G. HUTH, Geschichte des Buddhismus in der Mongolei, Strasbourg 1902.

GÜÜSI DGELIGS NORBU, Qad-un tëuqë (Histoire des Rois), rédigées dans la seconde moitié du XVIII° siècle.

Tài liệu ARABO-PERSANES

thế kỷ XIII-XIV

AL-BEIDGAWY ABD ALLAH, Anwar at-tanzil (Perles de l'Histoire) (XIII° siècle).

AL-JUZJANI ABU 'UMR-I-'USMAN, Tabaqat-i-Nasiri (1260), dans la version de H. G. RAVERTY, A general history of the Muhammadan Dynasties of Asia (in « Bibliotheca Indica »), Londres 1881.

AL-MARRAKUSY ABD AL-WAHID, al-Kawakib ou al-Rasad (XIII° siècle) extraits in PETIS DE LA CROIX, op. bibl.

AN-NUWAIRI, Nihayt al-arab (Le but ultime) (XIV° siècle).

 EL-KAZHANI ABD ALLAH, Zubdet el-Tawarikh (1303). « Rasid ud-Din a dignement dépouillé le malheureux Abd Allah el-Kazhani. Il a tout bonnement fait recopier son œuvre et s'est contenté de la signer lorsqu'elle a été terminée et a refusé de lui verser la somme qu'il lui avait promis » écrit E. Blochet p. 144-145 et 151-152) dans son commentaire à la version de Rasid ud-Din.

EL-NESAWI MOHAMMED, K'amil ut-Tawarikh (L'Histoire vraie) (1231-1241), suivant la version de O. HOUDAS, Histoire du Sultan Djelal ed-din Mankobirti prince du Kharezm par Mohammed en-Nesawi, Paris 1895.

IBN AL-ATHỴR IZZ AD-DIN, Al-K'amil fi't-Tawarikh (La somme des histoires) (1233), extraits, par BARBIER DE MEYNARD, Histoire des Atabecs de Mosul (in Recueil des Historiens des Croisades, H. O., II), Paris 1872-1906; et in M. D'OHSSON LE BARON, op. bibl., et BARTHOLD, op. bibl.

JUWAYNI ALA-AD-DIN'ATA-MALIK, Tawarikh-i-Fahangusa (Histoire du conquérant du monde (1257-1260), suivant la version de G. R. SCARCIA, Gengis-Khan, Il Conquistatore del mondo, Milan 1962.

QAZWINI ABDOLLAH MUSTAWFI, Tawarikh-i guzida (Histoire choisie), (XIVè siècle).

RASID ED-DIN FADL ALLAH, Djami at-tawarikh (Annales Historiques) (1303), qui a puisé lui-même dans Juwaini et dans le Livre d'Or mongol. Dans les versions de M. D'OHSSON LE BARON (extraits), œuvre bibliographique dérivée des sources (Cf. ci-dessous) ; E. QUATREMERE, Histoire des Mongols de la Perse écrite en persan par Raschid-Eldin, Paris 1836 ; E. BLOCHET, Introduction à l'histoire des Mongols de Fadl Allah Raschid ed-Din, Leyden-London 1910.

WASSAF ABDULLAH BEN FAZLOLLAH DE SCIRAZ, Tajziyato'l-amsar (Sivisiion des contrées) (1302-1312), extraits in M. D'OHSSON LE BARON, op. bibl.

Tài liệu ARABO-PERSANES

thế kỷ XV-XVI

Abulcayr, Fateh name Tawarikh el-Osman (Le livre de l'histoire d'Osman) (XVI° siècle) extraits dans Petis de la Croix, op. bibl.

Al-Makrizi Taki-Eddin Ahmed, Kitab as-suluk fi ma'rifa tawarikh al-muluk (Introduction à la connaissance de l'histoire des rois) XV°  siècle, dans la version incomplète de : E. Blochet, Histoire d'Egypte, Paris 1908. E. quatremère, Histoire des Sultans Mamlouks de l'Egype, Paris 1845.

ez-Zemji Moayn ed-din Mohammed d'Esfizar, Rawzat ul-ennat,, fi  evsaf medinet il Herat (Les jardins xélestes, ou description de la ville de Hérat) (XVI° siècle) extraits par Barbier De Meynard (in Journal Asiatique, 1860).

Hâfiz-Abrû, Zubfat et-Tawarikh (Crème de l'histoire) (XV° siècle) dans la version raccourcie de K. Bayani, Chronique des Rois Mongols en Iran, Paris 1936.

Khondemir o khwandamir, Habib us-siyar (L'ami des biographies) (XVI° siècle) extraits de L. Bouvat, Empire  Mongol,  Paris 1927, et Histoire des Khan Mongols et de la Transoxiane (in J. A., 1852).

Mirkhond ou Mirkhwand, Rawzat us-Safa (Jardin de Pureté) (XV° siècle), traduit de l'anglais par E. Lamairesse, Jardin de Pureté, Paris 1894. De l'original Vie de Djenghiz-Khan, Paris 1841 (texte persan) et Histoire des Samanides, Paris 1845 (texte persan traduit par M. Defrémery).

Sheref-ed-Din Ali Yazdi, Zafer-name (Le livre de la victoire) (1424), dans la version de Petis de la Croix, Delf 1727.

Tài liệu ARABO-LATINES

Abul-Pharakio Gregorio sive Bar Hebraeus (XIII° siècle, écrit en syriaque), Historia Orientalis, Oxoniae 1672; Chronicon Syriacum, etc., Lipsiae 1789.

Abul Fesa Ismaỵl ibn Ali al-Ayyubi (xiii-xiv° siècles) Annales Muslemici arabice et latine, Hafniae 1789.

Butrus ubn ar-Rahib (xiii° siècle) Chronicon Orientale, Parisiis 1685.

Tài liệu ARMÉNO-GEORGIENNES

Haython ou Hethum (xiii-xiv° siècles) Liber Historiarum partium Orientis sive passagium Terrae Sanctae, Haganoae 1529 (Cf. aussi lla version italienne, in Rmusio, op. bibl.).

Guiragos o Kirakos (xiii° siècle), Chronique d'Arménie, extraits traduits par M. Ed. Dulaurier, Les Mongols, d'après les histoiriens arméniens (in journal Asiatique, 1858).

Vartan (xiii° siècle)  Histoire universelle (de la création du monde à 1269 après J.-C.) extraits traduits par M. Ed . Dulaurier, op. cit. (in J. A., 1860).

_ Pour les sources arméniennes, cf. aussi Bilbliothèque Historique Arménienne, et plus particulèrement Choix et extraits des historiens arméniens par M. Ed. Dulaurier, Paris 1856-1859;  Recueil des historiens des croisades, Documents arméniens, Paris 1839.

    _ Pour les sources géorgiennes, cf. Chronique géorgienne, trad. par M. Brosset jeune, Paris 1831.

Tài liệu Nga-sô

Vladimirskij Serapion, archimandrite des Grottes (xiii° siècle), auteur de cinq sermons; d'après M Gorlin,  Sérapion de Vladimir, prédicateur de Kiev (in Revue de Etudes Slaves, XXIV), Paris 1948.

Le Dit de la ruine de la terre russe (xiii° siècle, d'après Gorlin (in Byzation, XXII), Paris-Bruxelles 1953.

Chronique de Halic-Volinia (xiii° siècle, d'après D. Cizevkij, Über den Stil der Galizish Volinischen Chornik (in Südost-Forschungen, XII) Munich 1954.

Zadonscina (L'épopée de Don) (xv° siècle), d'après A. Mazon, La Zadonscina: réhabilitation d'une œuvre (in Revue des Etudes Slaves, XVIII), Paris 1938, et  J. Blankoff, Les présages dans le Dit d'Igor et la Zadonxcina ((in Annuaire de l'Institut de Philologie et d'Histoire Orientales et Slaves, XV), Bruxelles 1960.

Karamzin, M., Histoire de l'Empire de Russie, d'après les textes originaux des anciennes Annales russes; traduits par St. Thomas  et Jaufret, Paris 1819/26.

Tài liệu Tây-phương vùng Địa-trung hải

Bongarsius, J., Gesta Dei per Francos, sive Orientalium Expeditonum et Regni Francorum Hierosolimitani Historia a variis illius aevi Scriptoribus literis tradita,

 Joinville, Jean sire de,  Histoire de Saint Louis, IX nom, roi de France,  Paris 1668.Hanoviae 1611.

Rogerii, Miserabile Carmen, super destructione Regni Hungariae per Tartaros facta (in "Monumenta Germaniae Historica, XXIX), Hannoverae 1892.

Simon de saint-Quentin, Histoire des Tartares (Historia Tartarorum), publiée par J. Richard, Paris 1965.

Tài liệu chính yếu xử dụng

Barthold, F. w., Turkestan down to the Mongol invasion, Oxford 1928.

Bazin, A., Le siècle des Youên, Paris 1850.

Bretschneider, E., Mediaeval researches from Eastern Asiatic Source, Londres 1888.

Cahun, L., introduction à l'histoire de l'Asie. Turcs et Mongols des origines au 1405, Paris 1896.

Deguignes, M. J., Histoire générales des Huns, des Turcs,des Mongols, et des autres Tartares Occcidentaux (ouvrage tiré des Livres Chinois et des Manuscrits Orientaux de la Bibliothèque du roi), Paris 1756.

D'Ohsson, C. le Baron, Histoire des Mongols, depuis Tchinguiz-Khan jusqu'à Timour Bey ou Tamerlan, La Haye 1834.

Douglas, R. K., The life of Fenghiz-Khan, translated from the Chinese, Londres 1877.

Grousset, R., L'Empire Mongol, Paris 1941.

Hammer-Purgstall, Geschichte der Goldenen Horde in Kiptschak, Pesth 1840.

Harlez, C. J. De, La Religion nationale des Tartares orientaux, avec le Rituel Tartare de l'empereur K'ien-Long (d'après les textes indigènes), Bruxelles 1887.

Herbelot, baron d', Biblothèque Orientale ou Dictionnaire universel contenantt généralement tout ce qui regarde la connaissance des Peuples de l'Orient, Maestricht 1776.

Moule, A. C., Christians in China before the years 1550, Londres 1930.

Petis de la Croix, père, Histoire du grand Genchizcan. Premier Empereur des Anciens Mongols et Tartares (traduite et compilée de plusieurs Auteurs et de Voyageurs Européens), Paris 1711.

Istoria del gran Genghizcan, primo Imperadore deglintichi Mongoli e Tartari (edizione italiana di F.Pitteri), Venise 1737.

Visdelou, C. e Galand, A., Bibliothèque Orientale (supplément à celle de D'Herbelot), Maestricht 1780.

Vladimirtsov, B. J., Cingis Khan, Paris 1948.

Le régime social des Mongols. Le féodalisme nomade, Paris 1948.

Tài liệu sử địa thời Trung-cổ

Abul feda Géographie (traduite de l'arabe en fraçais et accompagnée de notes et d'éclaircissements par M. Le Bon Mac Guckin de Slane), Paris 1840-1848.

Descriptio Chorasmiae et Mawaralnahrae, Londini 1650.

Barbaro, G., Suoi viaggi alla Tana e in Persia (cf. Ramusio).

Bergeron, P., Voyages faits principalement en Asie dans les xii-xiii-xiv-xv° siècles, La Haye 1735.

Edrisi, Géographie d'E. (traduite de l'arabe en français d'après deux manuscrits de la Bibliothèque du Roi et accompagnée de notes par P. Amédée Jaubert), Paris 1836-1840.

Jean du Plan Carpin, Voyage chez les Tartares (Historia Mongalorum) par G. Pullè, Milan 1956.

Guillaume de Rubrouck, Itinerarium ad partes orientales.

Fra Ladislao, Relatio de Tartaria aquilonari (an 1287) (in Biblioteca bio-bibliografica della Terra Santa e dell'Oriente Francescano, III), Quaracchi 1925.

Odoric de Pordenone, Chronica ex Codice Bibliothecae Vaticanae nunc prium edito (in Monumenta Historica ad Provincias Parmensem et Placentinam pertinentia, III), Parmae 1855.

Jean de Mandavilla, I viaggi di (Ouvrages de vulgarisation) Bologne 1870.

Hiouen-Thsang, Histoire de la vie de H.-T., et de ses voyages dans l'Inde depuis l'an 629 jusqu'en 645 par Hoẹ-li et Yen-Thsong (trad. du chinois par Stanislas Julien), Paris 1853.

Holder-Egger, De invasione Tartarorum fragmentum Carmina de Regno Ungariae destructo par Tartaros (in Monumenta Germaniae Historica, XXIX), Hannoverae 1892.

Ibn Battuta, I viaggi di I. B. par Gabrieli, Florence 1961. Rihla (Journal de route).

Interiano, G., Della vita de' Zichi altrimenti Circassi (Cf. Ramusio). Itinéraires russes en Orient (trad. pour la Société de l'Orient Latin par Mme B. De Khitrowo), Genève 1889.

Mas'udi, Les Prairies d'Or (trad. Barbier de Meynard et Pavet de Courteille; revue et corrigée par C. Pellat), Paris 1962-1965.

Palladius, G. H. Eps., De Gentibus Indiae et Bragmanibus, Londini 1668.

Marco Polo, Il Milione (texte en langue du xviii° siècle L'Ottimo), par le comte G. B. Baldelli Boni, Florence 1827; par E. Camesasca, Milan 1965.

Ramusio, G. B., Della navigationi et viaggi, Venise 1563, 1554, 1565.

Rusticiano da Pisa, I viaggi di Marco Polo descritti da R. da P.(traduits et illustrés par V . Lazari, par L. Pasini), Venise 1847.Sinica Franciscana, vol. I: Itinera et relationes fratrum minorum saeculi XIII et XIV, par P. Anastasius Van den Wyngaert OFM) Quaracchi 1929.

T'sersteven A., I precursori di Marco Polo (I due Maometani, Giovanni del Pian del Carpine, Guglielmo di Rubruk), Milan 1960.

Tài liệu tổng quát

Abu-I-Ghzi : Histoire des Mongols et des Tartares, publiée, traduite et annotée par le Baron Desmaisons, St. Petersbourg 1874.

Almeyda, Manuel d', Historia general de Ethiopia a alta ou Preste Foam, etc., Coimbra 1660.

Auril, P., Voyage, etc., avec une description de la Grande Tartarie, Paris 1692.

Belloni, G. (militaire italien), Storia dei Tartari, Milan 1825.

Blake R-Frye R. : History of the Nation of the Archers (the Mongols) by Grigor of Akane, Havard Journal of Asiatic Studies vol 12 Dec. 1949. N° 3-4.

Bretschneider E. : Mediaeval Researches from Eastern Asiatic Sources, London 1888.

Chavannes E. : Inscriptions et pièces de chancelleries chinoises er l'époque mongole. T'oung Pao 1904, 1905, 1908.

Chy Fa Hian, Foe Koue ki ou relation des Royaumes Bouddhiques: Voyage dans la Tartarie, dans l'Afghanistan et dans l'Inde exécuté à la fin du iv° siècle, tr. Du chinois par M. Abel Rémusat, Paris 1836.

Cleave F. W. : The Sino-Mongolian Inscription of 1362 in Memory of Prince Hindu, Harvard Journal of Asiatic Studies vol 12, June 1949, pp.2-93.

Cleaves F. W. : The Sino-Mongolian Inscription of 1338 in Memory of Jinguntei HJAS vol 14, June 1951, pp. 1-104.

Coedès G. : Les états hindouisés d'Indochine et d'Indonésie Paris 1948.

D'Ohsson C. : Histoire des Mongols depuis Tchinguiz-khan jusqu'à Timour-bey ou Tamerlan, La Haye-Amsterdam 1834-1835.

Dalla Persia all'India, attraverso il Belucistan, Milan, 1912.

Feer, L., La puissance et la civilisation mongoles au troisième siècle, Paris 1867.

Finot L. : Les inscriptions du Cirque de Mi-son, BEFEOI 1904.

Gaubil P.A. : Histoire de Gentchiscan et de toute la dynastie des Mongous, ses successeurs, conquérant de la Chine, Paris 1739.

Grenard, F., Gengis-Khan, Paris 1935.

Grousset R. : L'Empire des steppes, Paris 1939.

Grousset R. : L'Empire Mongol (1re phase), Paris 1941.

Grousset, R., Le Conquérant du Monde, Paris 1944.

Haenisch E. : Mangol-un niuca tobca'an (Yuan-ch'ao pi-shi). Die geheime Geschichie des Mongolen, Leipzig 1937.

Haenisch E. : Worterbuch zu Manghol-un niuca tobca'an, Leipzig 1937.

Hambis L. : Le chapitre CVII du Yuan-che. Les généalogies impériales Mongoles dans l'histoire chinoise ancienne de la dynastie Mongole, Leyden 1945.

Harlez C. de : Histoire de l'Empire de Kin ou Empire d'Or (Aisin gurun-i suduri bithe), trad. Du mandchou, Louvain 1887.

Howorth, Sir H., History of the Mongols from the IX to the

XIX century, Londres 1876-1888.

Hubert E. : La fin de la dynastie de Pagan BEFEO IX, 1901

Laet, J. De,  De Imperio Magni Mogolis, sive India vera

commentarius, Lugduni Batavorum 1631.

Lamb, H., Genghis-Khan, New-York 1956.

Martinius, M., De Bello Tartarico Historia, Amstelodami

1655.

Maspéro G. : Le Royaume de Champa, Paris - Bruxelles 1928.

Minuccio Minucci, Storia inedita dei Tartari (De Tartaris), écrite en 1598 par M. M. Arcivescovo di Zara, par A. Marani (d'après les Annali del Liceo-Ginnasio Mamiani), Rome 1967.

Mosheim, J. L. von, Historia Tartarorum Ecclesiastica, Helmstadii 1741.

Parker, E. H., A thousand years of the Tartars, Londres 1895.

Pauthler C. : Le livre de Marco Polo, Paris 1865.

Pelliot P. : Les Mongols et la papauté, Revue de l'Orient-chrétien, XXIII, 1-2 et XXIV, 3-4, Paris 1922-1924.

Pelliot P. : Mémoires sur les coutumes du Cambodge de Tcheou Ta-kouan. Oeuvres posthumes de Paul Pelliot III, Paris 1951.

Pelliot P. : Notes sur l'histoire de la Horde d'or. Oeuvres posthumes de Paul Pelliot II, Paris, 1950.

Pelliot P.-Hambis L. : Histoire des campagnes de Gengis-Khan, Cheng-wou ts'in-cheng lou, traduit et annoté, T.I, Leiden, 1951.

Percheron, M., Sur les pas de Genghis-Khan, Paris 1956.

Poucha P. : Die geheime Geschichte der Mongolen als Geschichtsquelle und Litteraturdenkmal, Praha, 1956.

Prawdin M. : L'empire mongol et Tamerlan, Paris, 1937.

Rashid-ed-Din : Djami et Tévarikh, ed. Par E. Blochet, t. II., Contenant l'histoire des empereurs mongoles successeurs de Tchinkkiz Khogan. Gibb Memor. Ser. XVIII.

Ratchnevsky, P., Un code des Yüan, traduction, introduction et note, avec préface de P. Pelliot, Paris 1937.

Schmidt S. J. : Geschichte der Ost-Mongolen und ihres Furstenhauses ver fasst von Ssanang Ssetsen Chungtaidschi der. Ordus, St Petersbourg, 1829.

Steven H., Trans-Himalaja, Mailan 1910.

Vladimirtsov B. : Gengis-khan, trad. par. M. Carsow, Paris, 1948.

Vladimirtsov B. : Le régime social des Mongols. Le Féodalisme nomade, trad. Par Michel Carsow, Paris, 1948.

Yamada N. : Ghenko-The Mongol Invasioon of Japan, London, 1916.

Yule, H. : The book of Marco Polo, edited by H. Cordier London, 1921.

Báo chí, tập san.

Acta Oriantalia Academiae Scientiarum Hungariae, Budapest.

Asia Major, Leipzip.

Asiatic researches, Calcurta-Londres.

Bibliocheca Orientalis, Leiden.

Bulletin of the School of Oriental and African Studies, Londres.

Byzantion, Patris-Bruxelles.

Go¨¨ttinger Asiatische Gorschungen,Wiesbaden.

Journal Asiatique, Paris

Monumenta Serica, Peiping.

Numen, Leiden.

Orientalia Suecana, Uppsala.

Oriens, Leiden.

Revue de l'Orient  de Chrétien, Paris.

Revue des Etudes Slaves, Paris.

T'oung Pao, Leiden.

Hồi Thứ Mười Một

Sách lược trấn Bắc,

Bấy giờ là niên hiệu Nguyên phong thứ 7 (1257) đời vua Thái tông nhà Trần. Tháng 12, Thái sư Mông cổ Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh 20 vạn quân, gồm 10 vạn Lôi kỵ, 10 vạn hàng binh Đại lư tiến đánh Đại Việt.

Hưng Đạo vương thiết kế:            

- Binh tướng Mông cổ đều là Kị binh, thiện chiến, hung dữ. Vũ khí chính của họ là cung-tên. Từ tướng dến quân của họ đều sống trên vùng Thảo nguyên cực Bắc, đồng cỏ mênh mông. Khí hậu vùng cực Bắc quanh năm lạnh đến xé da, cắt thịt. Người ngựa đều chịu lạnh rất giỏi. Chiến thuật của họ sở trường về dàn quân trên những vùng đất khô, trên cánh đồng rộng. Gần đây sau khi đánh sang Tây vực, họ chế ra máy bắn đá phá thành. V́ vậy họ tung hoành khắp Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, và mấy chục nước Tây vực không nơi nào đương nổi. Trong lần thiết triều, hồi họ mới tới Bắc cương, Thái sư (Trần Thủ Độ) đă giảng giải rất kỹ về lịch sử, phong tục, tồ chức chính trị, luyện quân cùng chiến² thuật của họ. Chúng ta đều thuộc nằm ḷng rồi.

Chính sách của Thái tổ Hốt Tất Liệt là: mỗi khi đánh vùng, một thành, họ kêu gọi quan lại, tướng sĩ, dân chúng đầu hàng. Nơi nào tuân theo th́ họ cấm quân sĩ tuyệt đối không được hăm hiếp, giết người, cướp của, đốt nhà. Quan lại, binh tướng họ vẫn cho tồn tại. Họ sẽ dùng binh tướng đầu hàng làm tiên phong đánh các vùng khác. Quan lại, tăng lữ phải đốc thúc dân chúng cung ứng lương thảo, cùng người lao dịch cho họ. V́ vậy họ không cần tiếp vận lương thảo từ Mông cổ sang.

Bây giờ họ sang đánh ta, ta phải đối phó ra sao? Căn bản:

- Vô hiệu sở trường của họ,

Biến sở trường của họ thành sở đoản.

Dùng sở trường của ta,

Biến sở đoản của  ta thành sở trường.

Ta phải áp dụng bẩy điều:

Một là, về chiến thuật, tuyệt đối ta không dàn quân đánh với họ. Nếu ta cũng dàn quân đối địch với họ là đem sở đoản của ḿnh, đấu với sở trường của họ. Địa thế của ta, đường của ta từ Bắc cương về Thăng long nhỏ hẹp, chỉ cho phép kị binh đi hàng một, đi chậm, không thể phi nhanh. Trên đường có nhiều cầu nhỏ, kị binh không thể qua. Ấy là không kể nhiều đoạn lầy lội, ngựa bị lún chân. Địa thế khiến Kị binh của họ không c̣n tung hoành được.

Hai là, khí hậu của ta thấp nhiệt, muỗi, vắt, sâu, bọ nhiều. Người ngựa của họ vốn sống ở Thảo nguyên lạnh lẽo, không thể chịu nổi khí hậu, đầy đặc lam chướng của ta. Người của họ chỉ ăn thịt, nay sang ta phải th́ thịt hiếm, họ phải ăn cơm, cá, tôm, rau, đậu. Họ không có khả năng dánh cá, bắt tôm. Người, ngựa của họ ăn rau, đậu, cỏ của ta, đầy sâu bọ, kiến ruồi. Cả người, ngựa uống nước có cung quăng, đỏng đảnh độc. Chỉ cần mươi ngày, chậm lắm là một tháng th́ không cần đánh, thời khí, lam chướng, bệnh tật...  giết giặc giùm ta.

Ba là, hiện ta không có những thành cao, hào sâu, đóng quân trấn giữ. Sở trường phá thành, công kiên của họ một lần nữa trở thành vô dụng. Trong khi đó, toàn quốc, mỗi làng-ấp của ta ngoài có hào sâu, trong có lũy tre bao bọc. Kị binh của họ không thể dàn ra tấn công, sở trường của họ trở thành sở đoản. Khi kị binh phải rời ngựa, th́ sức chiến đấu thua bộ binh, lại càng thua nông dân của ta vốn lội bùn, bơi sông rất giỏi.

Bốn là, với thói quen, Mông cổ đi đến đâu dùng quan lại, dân chúng cung đốn lương thảo. Lương thảo 20 vạn người ngựa do vua quan Đại lư mới đầu hàng cung đốn chỉ có giới hạn. Họ nghĩ rằng đánh sang ta, họ sẽ dùng quan lại đầu hàng ép dân chúng cung đốn, hoặc cướp lấy. Nhưng lương thảo của ta đều cất rải rác ở làng xă. V́ vậy ta cần kéo dài thời gian, lẩn tránh, đợi lương thảo của họ cạn; muỗi, ruồi, lam chướng, sốt rét đánh binh tướng của họ bệnh tật, mệt mỏi; ta thắng họ dễ dàng.

Năm là, ta dẫn dụ cho họ vào sâu trong lănh thổ, họ phải dàn quân ra đóng đồn pḥng vệ. C̣n, ta phân tán tướng sĩ về các trang, ấp, huấn luyện dân chúng, cùng dân chúng chiến đấu giữ làng. Ta biến cả nước là thành, toàn dân là binh. Rồi ta quan sát, thấy địch đi lẻ lẻ th́ tấn công. Tấn công xong lại phân tán. Giặc không biết ta ở đâu. Như vậy Kị binh trở vô dụng.

Sáu là, đợi cho giặc mệt mỏi, ta xuất quân bao vây đánh các đoàn quân đóng bảo vệ đường từ biên giới về Thăng long. Chính sách bắt hàng quan cung đốn lương thảo không thành. Đem quân đi  cướp lương của dân th́  gặp phải sức kháng cự của làng xă. Lương tiếp viện hoặc bị cạn, hoặc đường vận chuyển bị chặn. Lương tuyệt th́ quân tan.

Thứ bẩy, Mông cổ không quen thủy tính, ta dùng Thủy quân lưu động chuyển quân, đánh cắt đường tiếp vận; hoặc tập trung quân tấn công. Ngựa của họ không thể lội ruộng. Ta dùng Ngưu binh đánh Kị binh.

Đó là dùng sở trường của ta, đánh sở đoản của họ.

Sách lược định rồi, triều đ́nh, hậu cung, quan lại, vợ con tướng sĩ ... phân tán vào các làng xă. Triều đ́nh lại truyền lệnh  cho dân chúng di tản khỏi Thăng long. Nhưng v́ một là dân chúng tiếc của, hai là tŕ nghi, ba là chậm chạp. V́ vậy khi giặc tới Thảo lâm, mà dân Thăng long vẫn c̣n phân nửa chưa di tản.

Hưng Đạo vương lệnh cho:

_  Vũ Uy vương Nhật Duy trấn nhậm vùng Bắc cương, bao gồm từ biên giới tới Kinh Bắc. Nhiệm vụ chính giai đoạn đầu là làm chậm bước tiến của giặc. Giai đoạn hai là phục binh đánh viện quân, cùng các đoàn tiếp vận lương thảo.

_ Nhân Huệ vương Khánh Dư trấn nhậm vùng Tây Thăng long.

_ Khâm Thiên đại vương Nhật Hiệu trấn nhậm vùng Đông Nam Thăng long.

_ Hưng Ninh vương Quốc Tung tổng lĩnh lực lượng phản công.

_ Để khích cho giặc khinh địch, chính Nguyên Phong hoàng đế cùng tướng quân Lê Tần, dàn Thủy, Bộ, Kị, Ngưu binh tại B́nh lệ nguyên ngăn giặc. Trận đánh phải làm sao đạt ba nhiệm vụ:

Thứ nhất đánh cho giặc biết binh tướng Đại Việt can giảm, thiện chiến, nhưng quân ít, nên phải thua.

Thứ nh́, cần bảo tồn lực lượng.

Thứ ba, đánh thực mau, rút thực nhanh, phân tán vào làng xă.

_ Lập hai pḥng tuyến tại Phù lỗ, Cụ bản, mục đích làm chậm bước tiến của giặc, để triều đ́nh đủ thời gian di tản dân chúng khỏi Thăng long.

Diễn tiến các trận đánh đúng như kế hoạch, duy một biến cố xẩy ra: Khâm Thiên đại vương không tuân lệnh Hưng Đạo vương, dàn quân tại cánh đồng Văn chống giặc. Đại bại! Ba hiệu quân tinh nhuệ bị đánh tan.

Khi quân Mông cổ vào Thăng long, một số dân chúng cưỡng lệnh triều đ́nh, không di tản, bị giặc tàn sát khủng khiếp. Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh đốt sạch cung điện, nhà cửa. Cũng như khi dánh sang các nước phương Tây, y sai tập trung dân lại từng khu, lựa lấy những thợ giỏi, những nghệ nhân, những đàn bà con gái đẹp. C̣n bao nhiêu chúng giết sạch. Thăng long biến thành băi đất hoang! Nhưng dân chúng, quan lại trên toàn quốc vẫn không kinh sợ, cương quyết chống giặc. Quân dân thấy giặc tập trung đông th́ phân tán; thấy giặc đi lẻ lẻ th́ tập trung tấn công. Quân dân Việt cứ như những bóng ma, đặt đạo quân Lôi kị thiện chiến của Mông cổ trong thế bị động.

Sau hơn tháng, thấy người, ngựa Mông cổ, phần bị tiêu hao trong các trận đánh nhỏ, phần th́ bệnh do thời khí, lam chướng, phần v́ mệt mỏi do muỗi, ṃng, vắt. Hưng Đạo vương quyết định phản công. Mặt trận Bắc cương, Vũ Uy vương đánh chiếm tất cả các đồn từ biên giới tới Kinh Bắc. Bốn căn cứ chính Thảo lâm, B́nh lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản là nơi đồn trú lương thảo, bị quân dân Đại Việt tràn ngập.

Tại Thăng long, Hưng Ninh vương thách Ngột Lương Hợp Thai quyết chiến tại Đông bộ đầu. Mông cổ chỉ có Lôi kị, trong khi quân Việt phối hợp nhịp nhàng Kị binh, Bộ binh, Ngưu binh, Thủy binh. Trận đánh diễn ra thực kinh khủng. Một bên là đạo quân tinh nhuệ từng sải vó ngựa khắp vùng Thảo nguyên, đánh tan những đạo binh tinh nhuệ nhất của Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, Đại lư; từng đại phá những đạo binh thần thánh của Thập tự quân, những đạo quân Thánh chiến Hồi giáo quyết tử.  Một bên là dân-quân Việt hiền hậu, nhưng lâm đường cùng lấy cái chết để bảo vệ đất Tổ, bảo vệ làng xă, bảo vệ bố mẹ, anh em, vợ con và chính bản thân ḿnh. Trận đánh từ giờ th́n (7-9 giờ), tới giờ dậu (15-17 giờ), trên bờ Kị binh, Bộ binh hai bên bất phân thắng bại. Nhưng về chiều, Mông cổ bị Thủy quân đánh vào hông trái, Ngưu binh vượt đồng lầy đánh vào hông phải. Mông cổ bị bại, lập trận cố thủ  trong những ngôi nhà dân chúng. Đúng lúc đó tin báo: Mặt trận phía Đông Nam, Thái tử Hoảng phá giặc, chiếm lại những vùng đất bị giặc đặt quan cai trị, rồi tái chiếm Thăng long.

         Đạo binh hùng mạnh nhất thế giới bị tuyệt nguồn tiếp vận lương thảo, tiến lên th́ không đủ sức, mà rút th́ không đường. Thống lĩnh đại binh là Thái sư Ngột Lương Hợp Thai. Giám quân là pḥ mă Hoài Đô. Con trai Ngột Lương Hợp Thai là đại tướng A Truật (Aju). Tất cả đều khuất thân xin Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ nghĩ t́nh huynh đệ, mở ṿng vây cho cha con, tướng lĩnh, cùng tàn quân rút về Trung nguyên.

Ghi chú,

Ngột Lương Hợp Thai, là tên Hán Việt. (phát âm theo Mông cổ là U ri ang khai đai, Uriyangqadai), con trai của đệ nhất thân vương, đệ nhất khai quốc công thần Mông cổ Tốc Bất Đài .

Hoài Đô, tên Hán Việt ( phát âm theo Mông cổ là Khai Đu, Qaidu). Luật từ thời Thành Cát Tư Hăn, mỗi đạo quân có một tướng tư lệnh chịu trách nhiệm chỉ huy, quyết định tác chiến. Ngoài ra c̣n một người trong hoàng tộc quyết định về cai trị dân chúng, kiểm soát binh, tướng.Hoài Đô lĩnh nhiệm vụ này.

Thái sư Trần Thủ Độ, nghĩ lại những t́nh cảm thời thơ ấu sống tại Thảo nguyên với Ngũ thiết điêu, cũng muốn mở ṿng vây tha cho người xưa Ngột Lương Hợp Thai cùng đám bại binh. Tuy uy quyền ông lớn hơn Nguyên Phong hoàng đế, mà không thể tự chuyên: v́ tướng thống lĩnh binh mă Bắc cương là Vũ Uy vương, tính khí hào hiệp, nhưng không dễ ǵ vương đồng ư việc này. Tướng trấn thủ Kinh Bắc là Nhân Huệ vương, một vị vương vốn thù ghét Mông cổ tận xương tủy, th́ hy vọng ǵ vương tha cho chúng? Chỉ tướng  bao vây Đông bộ đầu là Hưng Ninh vương, người có tâm Bồ tát th́ hy vọng. Cái khó khăn nhất của Thái sư là phải nói sao với Hưng Đạo vương, người cầm quyền Tiết Chế, mà từ trước đến giờ Thái sư luôn nghi ngờ, chèn ép vương?

 Tóm lại cả bốn vị vương đó khí phách đều khác phàm, mỗi người một tư cách, một hành trạng. Thái sư không thể ra lệnh cho bất cứ vị vương nào. Oâng đành xin thiết triều để triều đ́nh quyết định.

 Nguyên Phong hoàng đế thiết triều trên một chiến thuyền của hạm đội Thần phù ở bến Chương dương. V́ toàn quốc trong thời kỳ chiến tranh, nên mọi lễ nghi đều tiết giảm.

Đầu tiên Trung vũ đại vương Trần Thủ Độ tŕnh bầy về t́nh bạn giữa Thảo nguyên ngũ điêu với vương. Vương xin triều đ́nh một đặc ân là mởû ṿng vây cho nghĩa đệ Ngột Lương Hợp Thai cùng bại binh rút khỏi Đại Việt. Vương nhấn mạnh về Ngột Lương Hợp Thai:

Y là một đại tướng đại tài của Mông cổ. Hồi Thành Cát Tư Hăn xua quân sang đánh các nước phương Tây, y theo đạo binh của cha là Tốc Bất Đài. Chỉ với 35 ngh́n quân, đạo binh này truy sát đại đế Mộ Hợp Mễ khắp đế quốc của ông. Thế mà nay y thống lĩnh 20 vạn quân, bị ta phá trong thời gian không đầy một tháng. Truyền thống của Mông cổ là khi bị bại ở bất cứ mặt trận nào, họ sẽ dốc quân nghiêng nước sang đánh cho kỳ thắng mới thôi. V́ vậy già này xin thiết triều khẩn cấp, để  bệ hạ cùng chư vị đại thần định kế sách đối phó.

Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư cương quyết:

_ Mông cổ là bọn tàn ác không thể tưởng tượng nổi. Khi vào Thăng long chúng đốt phá cung thất đă đành, chúng c̣n giết hết dân chúng, đốt sạch nhà cửa. Đàn bà th́ chúng hăm hiếp xong rồi lột quần áo ném vào lửa. Trẻ con th́ chúng cho ngựa dẵm lên. Thần nghĩ, chúng  hung ác, dữ hơn beo, hơn cọp, độc hơn rắn rết. Ta có bắt được cọp, beo, rắn rết, thả chúng ra, chúng cũng vẫn là beo, là cọp, là rắn, là rết. Huống hồ bọn ác quỷ Mông cổ? Như Thái sư nói, tương lai chúng sẽ c̣n sang báo thù. Chúng báo thù th́ ta đánh. Ta há sợ chúng sao?

H́nh ảnh những xác chết trẻ con bị cháy đen thui, đám thiếu nữ 12-13 tuổi bị những tên lính Mông cổ khổng lồ đè ra hiếp dâm, hiếp xong chúng chặt chân, chặt tay, nh́n nạn nhân lăn lộn kêu khóc giữa tiếng cười man rợ của bọn ác quỷ hiện ra. Vương nghiến răng:

_ Vậy bây giờ ta bao vây tiêu diệt hết bọn tàn ác này. Đối với tù binh, ta đem đốt chết, hay xẻo thịt. Có như vậy bọn sau tới, thấy cái gương bọn đi trước, chúng sẽ kinh sợ không dám tàn ác nữa.

Thái sư Thủ Độ đưa mắt nh́n người cháu gọi bằng ông chú (em của ông nội): mới ngày nào c̣n là cậu bé mà ông nuôi trong dinh như con, bây giờ thành một nam tử hùng vĩ, khí phách hiên ngang, dám chống lại ông. Oâng lắc đầu thở dài.

Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung đưa ư kiến:

_ Mông cổ từng chiến thắng Kim, Liêu, Tống, Đại lư và không biết bao nhiêu nước vùng Tây vực. Bây giờ họ đánh ta với mục đích dùng hàng binh, dùng tài nguyên của ta đánh phía sau Tống. Họ ước tính rằng ta sẽ đầu hàng dễ dàng như Đại lư. Họ đâu ngờ bị ta đánh bại? Thần đề nghị ḿnh dùng đức cảm hóa chúng. Ta mở ṿng vây, chu cấp lương thảo, dùng lời ngọt dẫn dụ chúng rằng trước đây tiền nhân ta là Lư Long Phi, Trần Thủ Huy, Trần Thủ Độ từng giúp Mông cổ dựng nước. Thế mà Mông cổ lại sang cướp nước ta, như thế là làm mất cái hào khí của Thành Cát Tư Hăn. Ta nhất định không thù oán, ta vẫn duy tŕ tinh thần của tiền nhân Đại Việt với Mông cổ. Trước cuộc chiến, Mông cổ sai sứ đ̣i Bệ hạ phải tuân theo sáu điều kiện:

Một là đích thân quốc vương phải vào chầu,

Hai là đem trưởng nam làm con tin,

Ba là kê biên dân số,

Bốn là phải chịu quân dịch,

Năm là phải nộp thuế, lương thảo.

Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) *

Ghi chú,

* Mông cổ đặt tại mỗi nước chư hầu một số chức quan hơi giống như hồi 1884 - 1945 người Pháp đặt tại Việt Nam. Trên cao nhất là một viên Toàn quyền. Phủ Toàn quyền có nhiều chức quan như một nước nhỏ kiểm soát triều đ́nh. Mỗi tỉnh một viên Công sứ kiểm soát việc cai trị. Chức quan của Mông cổù gọi là Đa gu ra tri, dịch sang tiếng Hán là Đạt lỗ hoa xích.

         Chúng ta bác bỏ, không tuân theo bất cứ điều ǵ. Thế th́ bây giờ nếu Mông cổ muốn, ta sẵn sàng gửi một hoàng tử có tài nghiêng trời lệch đất sang làm con tin, cũng để giúp họ, nối lại t́nh xưa. Sau đó ta lại dùng hậu lễ nhún nhường, chịu tuế cống. Như vậy tránh được chiến tranh th́ là điều đại phúc cho trăm họ Hoa, Việt.

Thái tử Hoảng tỏ ra đồng ư với Hưng Ninh vương:

_ Tâu, sách lược của Nhân Huệ vương, bao vây giết hết giặc, xử tử bọn tù binh th́ làm cho dân chúng, tướng sĩ hả dạ. Mông cổ nghe tin sẽ căm thù ta ghê gớm. Nay cái thế của Ngột Lương Hợp Thai: Lôi kị tuy bị bại, bị giết, bị cầm tù trên năm vạn; họ c̣n gần năm vạn. Quân Đại lư cũng c̣n sáu vạn . Nếu bây giờ bao vây diệt hết 11 vạn quân của họ, th́ ít ra ta cũng tổn thất vài ba vạn người. Binh thư nói: đạo làm tướng sao cho toàn quân là thượng sách, phá quân là điều không thể, và không nên dùng. Hưng Ninh vương dùng ḷng dạ từ bi, quảng đại của một Bồ tát đưa ra đề nghị ấy thực hợp với t́nh thế hiện nay. Con xin phụ hoàng xét thuận lời tâu của vương, may ra tránh được chiến tranh. Hoặc giả kéo dài thời gian báo thù của Mông cổ càng lâu càng tốt, để ta có đủ thời gian chỉnh bị binh mă, lương thảo.

Nguyên Phong hoàng đế hỏi Vũ Uy vương:

_ C̣n con! Con thống lĩnh binh mă vùng Bắc cương, con nghĩ sao về vụ này?

Vũ Uy vương là con đầu ḷng của nhà vua, văn mô, vũ lược. Vương ḥa thuận với tất cả các em đă đành, vương c̣n t́m đủ cách kết hợp thâm t́nh với hoàng tộc lẫn văn vơ bách quan. Từ năm 13 tuổi, vương được phong vùng Tây Bắc cương làm lănh thổ riêng. Miền Bắc cương Đại Việt hồi ấy được chia làm hai: Đông cương và Tây cương. Đông cương thuộc Ngũ yên, được phong cho An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột nhà vua. Tây cương được phong cho Vũ Uy vương, lấy con sông Hồng hà làm ranh giới Đông-Tây. Đông cương, phía Bắc giáp Quảng Tây, Quảng Đông của Tống. Tây cương giáp Quảng Tây, Đại lư, Lăo qua.

Vương tâu:

_ Chúng ta có hai đường lối hành động. Một là của Nhân Huệ vương. Hai là của Hưng Ninh vương và Thái tử. Ta phải chọn đường lối nào có lợi cho Đại Việt. Thực hành đường lối của Nhân Huệ vương ta được ǵ? Mất ǵ? Của Hưng Ninh vương ta được ǵ? Mất ǵ?

Vương ngừng lại để cử tọa suy nghĩ. Trong soái thuyền, thân vương, hoàng tộc bách quan triều Nguyên Phong đều là những người chính khí dọc ngang trời đất, trí tuệ chói ḷa. Nay đứng trước quyết định một kế sách giữ nước trong hoàn cảnh cực kỳ quan trọng. Ai cũng trầm tư suy nghĩ. Khoang thuyền có hơn trăm người, mà không một tiếng động. Chỉ có tiếng gió heo may thổi vi vu ngoài song cửa, tiếng sóng vỗ ŕ rào vào mạn thuyền. Đâu đó tiếng vạc ăn đêm kêu lạc lơng trong bầu trời đông.

Chiêu Minh vương Trần Quang Khải phá tan cái không khí tịch mịch ấy bằng câu hỏi Vũ Uy vương:

_ Theo anh, cả hai đường lối, chúng ta có một cái ǵ chung chung, không thể bỏ qua chăng?

_ Chú Quang Khải hỏi câu này, thực phải.

Vũ Uy vương trả lời: Thời Lư, tiền nhân Lư Long Phi từng giúp Mông cổ. Tổ tiên ta là Pḥ mă Thủ Huy và Công chúa Đoan Nghi, rồi ông trẻ Thủ Độ từng là những người tạo ra nước Mông cổ. Việc đó tuy trải gần trăm năm, nhưng ân đức của bốn vị vẫn được nhắc tới. Vậy trong dịp này, ta tha cho Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật cùng đám bại binh về, rồi triều đ́nh gửi người sang làm con tin, làm quan tại triều Mông cổ giúp họ. Như vậy nhất cử nhất động của Mông cổ ta đều biết. Hiện con cháu của Thành Cát Tư Hăn được cắt đất cai trị. Phía Tây vực là một nước, khu Tây hạ là một nước, vùng Kim-Liêu là một nước, vùng Bắc Trung nguyên là một nước. Tất cả lănh chúa các nước không ai chịu tuân lệnh Đại hăn. Họ đang hầm hè nhau. Người của ta sẽ t́m cách gây cho họ có nội chiến. Khi có nội chiến th́ tinh lực không c̣n. Họ cũng khó mà diệt nổi Tống. Như vậy ta sẽ không lo họ xâm lăng nữa.

Vương đưa mắt nh́n Thái sư Thủ Độ:

_ Vấn đề phân chia lănh thổ của Thành Cát Tư Hăn thế nào? T́nh h́nh các bộ tộc Mông cổ ra sao, th́ không ai biết rơ bằng ông trẻ. Mong ông trẻ ban cho những tin tức chính thức.

Thái sư Thủ Độ mỉm cười tiếp lời Vũ Uy vương:

_ Khi Thành Cát Tư Hăn sắp băng hà, đă chia lănh địa rộng mênh mông cho bốn người con. Các lĩnh địa này gọi là Hăn địa (Ulus), vua Hăn địa gọi là Vương hăn. Bạt Đô là con Truật Xích lĩnh vùng Kim trướng, tức cực Tây-Bắc (nay thuộc Đông Aâu, kể cả Đức, Liên sô, Na uy, Đan mạch, Thụy điển.Trung Đông ngày nay: Iran, Irak, Syrie, Jordanie. Đông Aâu, gồm cả Liên sô, Đức). Vương hăn Sát Hợp Đài lĩnh vùng Tây liêu, Thổ phồn, Tây hạ về Tây Nam (Turkestan, đế quốc Khorezm, Afganistan, Pakistan). Vương hăn Oa Khoát Đài lĩnh vùng Đông Bắc Thảo nguyên, Kim, Liêu. Vùng lănh địa Thảo nguyên, chính quốc Mông cổ cho con út là Đà Lôi. Ông để di chúc cho Oa Khoát Đài thừa kế ngôi Đại hăn. Khi Oa Khát Đài băng, hoàng hậu Năi Mă Chân chuyên quyền, cho nên đại hội gần đây bên bờ sông Long lư hà, các lănh chúa tôn Mông Ca (Mongka) con trưởng của Đà Lôi  lên ngôi Đại Hăn.

Từ sau chiến cuộc lăo tướng Trần Tử An được phong tước Tây Viễn vương. Vương tiếp lời Thái sư Thủ Độ:

_ Tuy Mông Ca được tôn làm Đại hăn, nhưng y không có đủ uy quyền như Thành Cát Tư Hăn. Khi cất quân đánh Tống, y trưng binh của các vương hăn. Các vương hăn chỉ gửi một vài đạo quân tượng trưng. Hiện các vương hăn đang có nhiều xung đột, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra nội chiến. Ngay trong ba con của Đà Lôi cũng có những mâu thuẫn. Mông Ca tuy được tôn làm Đại hăn, nhưng tài trí thua xa Hốt Tất Liệt. V́ vậy y nghi ngờ em. Cho nên y sai Hốt Tất Liệt viễn chinh, để giảm uy tín. Nhưng không ngờ Hốt Tất Liệt lại thành công, khiến anh em đang có mầm móng chia rẽ, căng thẳng. C̣n người em thứ ba là A Lư Bất Ca lại rất được ḷng bọn quư tộc, tướng lĩnh gốc Mông cổ. Y nắm một lực lượng quân sự rất lớn ở Thảo nguyên. Thôi để Thái sư tiếp.

Thủ Độ  đứng lên giảng giải tiếp :

_ Mông Ca diệt Kim, Liêu rồi đánh Tống. Nhưng khi đến Tương dương, Phàn thành th́ bị cản lại. Mông Ca muốn mở mặt trận thứ nh́, từ Nam, đánh vào sau lưng Tống, y sai một thân vương, người em ruột  tài nhí nhất, tên Hốt Tất Liệt (Qubilai), mở mũi dùi này. Hốt Tất Liệt đánh chiếm Hồi cương, Tây tạng, Tứ xuyên của Tống. Từ Tứ  xuyên y vượt Kim sa giang đánh Đại lư. Vua Đại lư là Đoàn Hưng Trí hèn mạt, không dám chống lại, mở cửa thành đầu hàng. Hốt Tất Liệt bắt Đoàn Hưng Trí cung ứng lương thảo, rồi lại dùng hàng binh Đại lư đánh Đại Việt ta. Hốt Tất Liệt tưởng đâu Đại Việt cũng dễ uy hiếp như Đại lư, y sai Ngột Lương Hợp Thai dàn quân tại Bắc cương, rồi sai sứ sang bắt ta đầu hàng. Không ngờ ta không chịu khuất phục. Y truyền Ngột Lương Hợp Thai tràn vào đánh ta. Ngột Lương Hợp Thai thất bại. Thế là mưu kế dùng tù hàng binh Đại Việt, Đại lư đánh vào Ung châu, Liêm châu, Quảng châu bị ta phá tan.

Nguyên Phong hoàng đế đưa mắt nh́n Hưng Đạo vương, như hỏi ư kiến. Vương suy nghĩ một lát rồi tâu:

_ Ư kiến của Vũ Uy vương thực là diệu pháp giữ nước, không thể không xử dụng. Đó là kế chính. Tuy nhiên ta không tha bọn chúng dễ dàng. Hiện giờ th́ Mông cổ chỉ mới chiếm được một phần lănh thổ phía Tây-Bắc của Tống. Họ c̣n đang giao chiến với Tống dằng dai ở mặt trận Trường giang. Họ định đánh ta để lấy tù, hàng binh, lương thực đánh phía sau Tống, nhưng họ bị bại. Vậy ta phải làm ba việc:

_  Sao cho họ bỏ ư định đánh ta mà dùng hết sức đánh phía Bắc của Tống.

_ Ta lại giúp Tống, để Tống tồn tại.

_ Trong khi ta t́m cách cho Mông cổ có nội chiến. Nội chiến giữa các vương hăn th́ khó, v́ các nước ấy ở quá xa, ta không biết rơ t́nh h́nh, lại ngôn ngữ phong tục bất đồng. Nhưng ta có thể gây cho ba anh em Mông Ca, Hốt Tất Liệt, A Lư Bất Ca tranh dành nhau, chém giết nhau. Tốt nhất là cho cả ba đánh lẫn nhau. Hay ít nhất là hai trong ba người này huynh đệ tương tàn.

Vương nhấn mạnh:

_ Bây giờ ta mở ṿng vây, không phải là ta tha cho bọn ác quỷ; mục dích của ta là dùng chính bọn chúng làm vũ khí tâm chiến. Bọn chúng được thả về sẽ kể cho đồng đội nghe về khí hậu của ta đầy lam chướng, địa thế của ta lầy lội, dân quân ta một ḷng, binh tướng ta anh hùng. Thế là ta đánh tan cái kiêu hănh của tướng binh Mông cổ: bọn người tuy thắng Liêu, Kim, Tống, chinh phục khắp Tây vực; thế mà khi bọn mi đánh Đại Việt ta th́ bị bại. Đại Việt ta tuy dân ít, đất hẹp, nhưng dân ta anh hùng, ta đủ sức đánh đuổi bọn người.

Tướng quân Lê Tần góp thêm ư:

_  Tuy nhiên ta cần dọa thêm cho tù hàng binh, cho tàn binh kinh sợ thêm. Khi về nước, mỗi khi nghĩ đến Đại Việt, họ lại rùng ḿnh.

Cả triều đ́nh đều đồng ư.

Hưng Đạo vương tâu:

_ Được! Ta mở ṿng vây cho chúng rút quân. Ta lại phục quân ở Phù lỗ, Cụ bản, B́nh lệ nguyên, Thảo lâm... dọa cho chúng khiếp sợ đến phiêu hồn bạt vía.

Hưng Ninh vương đặt vấn đề:

_ Khi chúng vừa rút khỏi, là ta dùng cương. Rồi ta lại dùng nhu. Nếu như ta gửi người sang làm con tin ở Mông cổ, th́ ai có thể đi được? Sứ đoàn đi theo cần bao nhiêu người? Là những loại người nào?

Thái sư Thủ Độ đưa tờ chiếu thư của Mông cổ ra:

_ Mông cổ từng đánh chiếm Kim, Liêu, Tây hạ, Tống. V́ vậy họ hiểu rất kỹ văn hóa của các nước Đông phương: con cả sẽ là người kế vị vua cha, nên trong chiếu thư họ đ̣i ta phải cho con trai trưởng sang làm con tin. Mông cổ có truyền thống là khi một con tin có tài th́ họ tin dùng, phong chức tước, trao quyền hành cho, c̣n không tài th́ phải tự xây nhà ở Hoa lâm. Mọi chi phí ăn ở đều phải tự túc. Nếu như ta gửi người tài trí vơ công cao sang, họ phong cho chức tước, nhất cử nhất động của họ ta đều biết, sẽ lợi cho Đại Việt vô cùng.

Cử tọa đều đưa mắt nh́n Vũ Uy vương. Nguyên Phong hoàng đế ban chỉ:

_ Nhật Duy con! Trong tất cả thân vương, hoàng tộc lẫn vơ tướng, th́ chỉ ḿnh con có thể đáp ứng vào việc cực kỳ hệ trọng này. V́ con là trưởng nam của ta, con sang làm con tin th́ Mông cổ không c̣n gây rắc rối được nữa. Hiện vơ công của con chỉ thua có Quốc thượng phụ (Trần Thủ Độ) mà thôi. Tính con lại thâm trầm, điềm đạm, nhiều mưu trí, th́ khi gặp sự khó, con sẽ vượt qua dễ dàng. Con mới cưới vợ, chưa có con, không vướng vít con cái. Vợ con là đệ tử đắc ư nhất của Vô Huyền Bồ Tát. Trước hôm cưới, vợ con được Bồ Tát dốc túi truyền pho kiếm thuật trấn môn của phái Mê linh, th́ vợ con trở thành đệ nhất kiếm thuật Đại Việt rồi. Về vơ công hai con như vậy đủ áp chế triều đ́nh  Mông cổ. Mông cổ trọng dụng, trao chức tước cho như tiền nhân Lư Long Phi đời Lư, hoặc Tổ Trần Thủ Huy, Công chúa Đoan Nghi, nhất là được như Quốc Thượng phụ (Trần Thủ Độ) th́ lợi cho biết mấy. Ta cần gửi  một người hiểu rơ phong tục, tập quán, ngôn ngữ  Mâông cổ theo giúp con.

Nhà vua nh́n Vũ sơn hầu :

_ Xét trong các quan, phi Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, không ai đương nổi. Hầu là thầy dạy Mông cổ học cho con, gửi hầu theo giúp con, th́ thầy tṛ tha hồ tương đắc.

Lời phán của Nguyên Phong hoàng đế khiến Tạ Quốc Ninh tuy tuổi đă cao, mà trong ḷng cảm kích không bút  nào tả siết. Thời phong kiến, một đại thần được hoàng đế tin tưởng về tài năng, đức độ th́ không phần thưởng nào to lớn hơn. Oâng bước ra định hành đại lễ, để đền ơn tri ngộ, th́ Nguyên Phong hoàng đế sẽ phất tay, ḱnh lực khiến hầu không thế quỳ gối. Hầu cung tay:

_ Thần muôn vàn cả tạ đại đức của bệ hạ ban cho. Thần nguyện đem hết  sở tri ra báo đáp bệ hạ.

Nhà vua hỏi hầu:

_ Thế nào? Khanh có được tin tức ǵ của phu nhân không?

_ Tâu, thần đă hỏi cung tất cả tù nhân Mông cổ, chúng đều trả lời không nghe, không biết ǵ cả. Cả vương phi của  Nhân Huệ vương (Trần Khánh Dư) cũng không.

Trước khi Mông cổ đánh Đại Việt, toàn quốc bừng lên một phong trào mở Quán văn, là nơi cho vương tôn, đại thần, phú gia, danh sĩ, họp nhau bàn luận thế sự, ngâm thơ, b́nh văn, tụng phú; nhất là nghe hát. Cái thú thanh nhă tràn ngập khắp các trấn, các lộ, cho tới các xă. Tại Thăng long có đến hơn trăm Quán văn. Trong đó có năm quán nổi tiếng là Tây hồ, Văn miếu, Ngọc thụy, Nghi tàm, Tô lịch.

Quán Tô lịch nằm ngay bờ sông, mà quanh năm đều có hoa nở. Quán chủ là một văn gia nổi tiếng giao thiệp rộng. Từ khi ông chiêu mộ được bẩy hoa khôi về đây ca hát, th́ quán trở thành nơi thu hút hầu hết giới tao nhân mặc khách của đất ngh́n năm văn vật. Bẩy nàng được danh sĩ tặng cho mỹ danh Tô lịch thất tiên. Khi các nàng mới tới, đều có nghệ danh riêng. Trong một dịp hội hoa, bẩy nàng ôm bẩy bó hoa, bẩy mầu khác nhau, văn giới Thăng long nhân đó tùy mầu đặt mỹ danh cho các nàng. Các nàng đều mang tên Hoa, chỉ khác chữ đầu thôi: Hoàng Hoa, Bạch Hoa, Huyền Hoa, Thanh Hoa, Hồng Hoa, Tử Hoa, Lan Hoa. Tuy nổi tiếng, nhưng 7 nàng đều treo cao giá ngọc. Có không biết bao nhiêu vương tôn, đại thần, công tử, phú gia cầu thân, nhưng các nàng đều không để ai vào mắt xanh.

Tiếng tăm bẩy nàng sắc nước hương trời, đàn hát, thi văn vang tới Trung nguyên.

Thế rồi Trung thu năm trước, 7 nàng treo bảng tuyển phu trong 10 ngày. Hoàng Hoa t́nh t́nh trầm tĩnh, nàng đ̣i trượng phu phải là người bác học đa năng, có huân công với Xă tắc; Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh là người bác văn, cường trí, giữ trọng trách tại Khu mật viện, coi về Mông cổ. Hầu nói, viết giỏi văn tự Thổ phồn, Tây vực là những văn tự chính thức của Mông cổ. Là một người nhă lượng cao trí, hầu giao hữu với tất cả văn gia Thăng long, Tống. Hầu trúng cách nàng Hoàng Hoa.

Nàng Bạch Hoa dáng người ẻo lả, nàng ước trượng phu vơ công cao cường, lại phải là người hoàng tộc; Nhân Huệ vương Trần Khành Dư trúng cách.

Huyền Hoa, Thanh Hoa lại ước một trượng phu văn hay, chữ tốt, một danh sĩ;  Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu lọt vào mắt xanh Huyền Hoa; Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lăm, được nàng Thanh Hoa.

Hồng Hoa lại ước một đại tướng quân, thế là Vũ kị thượng tướng quân Lư Tùng Bách trúng cách.

Hai nàng Tử Hoa, Lan Hoa th́ đ̣i người trượng phu phải là cao nhân vơ học, hơn nữa tinh thông âm nhạc, cuối cùng hai đệ nhất cao nhân phái Sài sơn là Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn lọt vào mắt xanh hai nàng.

Bẩy đám cưới cùng tổ chức một ngày, dân Thăng long gọi là ngày hoa đăng. Đám cưới được một tuần trăng th́ quân Mông cổ chiếm Thăng long. Tạ Quốc Ninh đem Hoàng Hoa cùng 6 người bạn về Nghi tàm ẩn thân. Nhưng trong đám gian nhân người Việt theo Mông cổ có tên Trịnh Ngọc và con là Trịnh Long từng nghe tiếng Tô lịch thất tiên. Y chỉ điểm chỗ ẩn của bẩy nàng. Mông cổ cử một Bách phu Lôi kị tới Nghi tàm bắt.

Truyền thống của Mông cổ là khi chiếm được vùng nào là chúng cho bắt tất cả phụ nữ đẹp, không phân biệt công chúa, quận chúa, tiểu thư hay ca kĩ; cũng không phân biệt khuê nữ hay gái có chồng. Không ai hiểu tại sao Ngột Lương Hợp Thai lại đối xử với bẩy nằng quá đặc biệt: bẩy nàng được ở trong hậu cung của vua Trần, cử tỳ nữ hầu hạ, sai những đầu bếp giỏi nhất nấu cho bẩy nằng ăn. Chính Ngột Lương Hợp Thai thu dụng Hoàng Hoa làm tỳ thiếp. Hoài Đô dành Bạch Hoa. A Truật  giữ Huyền Hoa. C̣n bốn nàng Thanh, Hồng, Tử, Lan th́ không cho ai đụng chạm đến. Nhưng chỉ mười ngày sau, không ai thấy các nàng đâu cả.

Sau khi Mông cổ đại bại, Vũ sơn hầu thẩm vấn mấy trăm tù binh, cũng không ai biết tung tích Tô lịch thất tiên ra sao? Cho rằng vợ đă bị giết chết, hầu khóc hết nước mắt, làm một tuần chay cho Hoàng Hoa.

Thái sư  Thủ Độ tiếp lời Nguyên Phong hoàng đế:

_ Hộ tống sứ đoàn, ta phải mang theo một toán kị mă vơ công cao, cung thủ thực giỏi. Ta đă có sẵn 10 toán Thần tiễn Long biên. Ta cử một toán theo sứ đoàn. Toán này cần một tướng trẻ, trí dũng, được triều đ́nh tin dùng chỉ huy. Xét trong các thiếu niên thần thấy chỉ có Thiên trường ngũ ưng là xứng đáng.

Tây Viễn vương thắc mắc:

_ Thiên trường ngũ ưng là những ai vậy?

Thái sư Thủ Độ tỏ ra cực kỳ cao hứng:

_ À là năm thằng cháu. Nói về tài nghệ, th́ mỗi cá nhân đều có một tuyệt nghệ bậc nhất Đại Việt. Nói về xuất xứ th́ mỗi người có một xuất xứ lạ lùng. Nói về tính t́nh th́ mỗi cá nhân đều có những ưu việt hiếm có. Nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm nhă lượng, cao trí, anh hùng, hào sảng. Chúng kết làm huynh đệ theo thứ bậc  Dă Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành, Địa Lô. Trong thời gian chống giặc vừa qua, chúng gần gũi huynh nhiều, nên huynh hiểu chúng. Chúng gọi huynh là Oâng trẻ, huynh gọi chúng là Thiên trường ngũ ưng.

Thái tử Hoảng tâu:

_ Trong năm người th́ Địa Lô họ Nguyễn, nhỏ tuổi nhất, dáng người thanh nhă, mặt đẹp như ngọc, xuất thân phái Sài sơn, tài kị mă siêu việt; học văn rất uyên bác, cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ, có tài phục dược. Lô được danh sĩ Thăng long tặng cho cái tên Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Hiện Địa Lô lĩnh chức Trưởng sử trong phủ của thần nhi.

Thủ Độ tiếp:

_ Thứ tư là Đại Hành. Trong một lần huynh làm lễ cầu siêu cho vong linh tử sĩ ở chùa Chiêu thiền (Láng), huynh bố thí lộc Phật cho kẻ khó. Trên đường về huynh gặp một thiếu niên nằm bên đường tay ôm phẩm oản, với ba quả chuối. Gia tướng đỡ thiếu niên mang về phủ của huynh. Y sĩ chẩn mạch cho biết y rất khỏe mạnh, sở dĩ bị xỉu v́ đói quá. Gia tướng đem cơm, thịt gà cho ăn. Y chỉ ăn cơm, c̣n thịt th́ gói lại. Huynh hỏi: tại sao trong tay có oản, chuối mà không ăn để đến nỗi xỉu nằm bên đường. Thiếu niên thưa rằng y có mẹ già ở nhà, hai ngày qua bị đói, không có ǵ bỏ bụng, nên khi được bố thí oản chuối, y mang về cho mẹ. Nhưng đi giữa đường kiệt lực, ngă xuống. Huynh lại hỏi: Tại sao không ăn thịt gà, mà lại dấu vào túi? Y trả lời rằng mẹ y thường ước ao được ăn một miếng thịt gà mà chưa bao giờ toại nguyện. V́ vậy hôm nay y dấu mang về cho mẹ. Huynh cảm thương đứa trẻ có hiếu, thu nhận làm mă phu trong phủ. Ngày nào cũng như ngày nào khi ăn cơm, có miếng ǵ ngon y lại dấu mang về cho mẹ. Trong một lần con chiến mă của huynh xổ chuồng chạy, mă phu cỡi ngựa chiến đuổi theo mà không bắt lại được. Y hú lên một tiếng, đuổi theo bắt được ngựa về. Huynh cải thu nhận y làm gia tướng. Hiện y mang hàm Đô thống, y gọi huynh là ông nội, huynh gọi y là Đại Hành, v́ y chạy giỏi.

Tây Viễn vương hỏi:

_ Thế c̣n Cao Mang, Yết Kiêu, Dă Tượng?

Vũ Uy vương chỉ Hưng Đạo vương:

_ Dă Tượng, Yết Kiêu là nghĩa tử của Hưng Đạo vương. Cao Mang là một tiểu ḥa thượng tại gia. Cao Mang, Dă Tượng là Ngưu tướng. Cả hai đều cùng mang hàm Đô Thống. Dă Tượng là thống lĩnh Ngưu binh, Cao Mang là phó thống lĩnh. Cao Mang có tài bắn tên bách phát bách trúng. Yết Kiêu là Ngạc tướng, hàm Đô thống, thống lĩnh Ngạc binh.

Hưng Đạo cho gọi Thiên trường ngũ ưng vào. Cả năm định quỳ gối hành lễ.

Lẽ quan hô:

_ Miễn lễ.

Hưng Đạo vương nh́n Ngũ ưng  với tất cả yêu thương:

_ Các con được triều đ́nh tín nhiệm chọn một trong các con theo sứ đoàn sang Mông cổ. Vậy ai t́nh nguyện đi?

Cả năm đều xin đi.

Nhà vua hỏi Vũ Uy vương:

_ Trong năm Ưng, con định chọn Ưng nào đi theo?

_ Con xin chọn Địa Lô với Dă Tượng.

Dă Tượng, Địa Lô hành lễ:

_ Đa ta vương gia đă chọn hai thần nhi.

Hưng Đạo vương bảo Dă Tượng:

_ Con trao quyền thống lĩnh Ngưu binh cho phó tướng Cao Mang. Nhiệm vụ của con , với Địa Lô sẽ được Khu mật viện hướng dẫn.

Khi rời khoang thuyền lên bờ, Tây Viễn vương lĩnh Phiêu kỵ Đại tướng quân Trần Thủ An cầm tay Vũ Uy vương như muốn nói điều ǵ, rồi ông ngập ngừng suy nghĩ. Cuối cùng ông nói:

_ Khi con lên đường ta sẽ có ít lời dặn con.

Buổi thiết triều chấm dứt.

Theo tinh thần buổi thiết triều: Hưng Ninh vương truyền lệnh mở ṿng vây Đông bộ đầu, Thái tử Hoảng mở ṿng vây Thăng long, Nhân Huệ vương cho mở ṿng vây Kinh Bắc. Triều đ́nh  chu cấp lương thảo, chữa trị cho thương binh, chiến mă, tiễn họ lên đường.

Thái sư Trần Thủ Độ thân dẫn Ngột Lương Hợp Thai cùng tướng sĩ Mông cổ vượt sông Hồng sang Gia lâm. Oâng sai bầy một tiệc rượu tiễn nghĩa đệ tại phủ đường Gia lâm.

Hưng Đạo vương sai sứ mật lệnh cho tướng sĩ tại Cụ bản, Phù lỗ, B́nh lệ nguyên.

Vũ kị thượng tướng quân Lư Tùng Bách, Phá lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài hóa thượng tướng quân Trương Đ́nh được lệnh, phục binh tại Phù lỗ. Khi tướng Mông cổ là A Truật, con trai Ngột Lương Hợp Thai, dẫn tiền quân rút qua đây th́ bị ba tướng đổ quân ra vây như thành đồng vách sắt. Giữa lúc binh tướng Mông cổ kinh hồn lạc phách, th́ Vũ Sơn hầu Tạ Quốc Ninh cầm lệnh bài tới, ban lệnh cho ba tướng mở ṿng vây. Ba tướng vui vẻ tha cho A Truật, lại c̣n dùng lời ngọt ngào đăi rượu với gà rừng quay.

Thoát ṿng vây Phù lỗ, binh tướng Thiên triều chưa hoàn hồn, th́ khi tới Cụ bản, nơi diễn ra hai trận đánh kinh thiên động địa. Trận thứ nhất Mông cổ tấn công chiếm chiến lũy. Sau đó Mông cổ đóng binh tại đây để bảo vệ đường tiếp viện lương thảo. Mới mấy hôm trước Cụ bản bị quân Việt tái chiếm. Nay dân chúng đă trở về, đang dọn dẹp, tái thiết chiến lũy. Th́nh ĺnh ba tướng Lê Phẩm, Phạm Long, Nguyễn Bích phát pháo, làm binh tướng Mông cổ rụng rời chân tay. Nhưng không có quân bao vây mà ba tướng sai người khiêng rượu thịt ra tiễn quân Thiên triều.

Nào đă hết đâu, lúc Ngột Lương Hợp Thai tới B́nh lệ nguyên lại bị Thủy binh, Ngưu binh, Kị binh dàn ra như đe dọa, Thái sư Trần Thủ Độ phải đích thân can thiệp, ṿng vây mới  được mở.

Khi chia tay tại biên giới, Ngột Lương Hợp Thai xin Thái sư Trần Thủ Độ thả hơn vạn tù hàng binh Mông cổ, Đại lư. Thái sư Trần Thủ Độ can thiệp với Vũ Uy vương. Vũ Uy vương đưa điều kiện:

Có hơn ngh́n người của vơ lâm Trung nguyên theo quân Mông cổ sang đánh Đại Việt. Để họ phải  trung thành, quyết tâm với Mông cổ, Mông cổ sai quản chế vợ con họ. Trong trận đánh Thăng long, đứng trước việc quân Mông cổ tàn sát Hoa kiều, họ đă phản Mông cổ, hàng Đại Việt, cứu Hoa kiều. Vậy nay xin Thái sư Ngột Lương Hợp Thai đem vợ con họ trao đổi lấy tù binh.

 Ngột Lương Hợp Thai đành chấp nhận.

Đại Việt vừa trải qua một cuộc chiến tranh, tuy chỉ trong ṿng hơn tháng, nhưng cực kỳ khủng khiếp. Đất nước không bị tán phá nhiều, chỉ có bẩy nơi diễn ra trận đánh bị thiệt hại: Thảo lâm, B́nh lệ nguyên, Cụ bản, Phù lỗ, Thăng long, Đồng văn, và Đông bộ đầu. Triều đ́nh Nguyên Phong hô hào toàn quốc cùng giúp các nơi này kiến thiết lại. Sức sống của dân chúng phục hồi rất mau.

Sứ đoàn bao gồm Vũ uy vương Nhật Duy, vương phi Ư Ninh, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, Dă Tượng, Địa Lô và đoàn kị mă Long biên 30 người, thêm 25 người phục dịch, 10 xe song mă. Tất cả 55 kị mă cũng như người phục dịch đều là nhữơng cao thủ, vơ công thuộc loại thượng thừa, thông minh, biết nói tiếng Hoa, tiếng Mông cổ. Họ lại được Khu mật viện giảng giải tất cả tổ chức triều đ́nh, lănh thổ, quan chế, phong tục của Mông cổ cặn kẽ; huấn luyện về phương pháp trinh sát, thu nhặt tin tức t́nh báo, cùng pḥng bị đối phương khai thác tin tức ḿnh. Lại cấp cho sứ đoàn mười con chó Ngao để canh pḥng dưới đất, mười con chim ưng để đưa thư, canh pḥng trên không. Cuộc giảng giải này phải mất hơn tháng mới xong.

Vũ Uy vương bàn với  Tạ Quốc Ninh:

_ Thưa thầy, trước hết trong sứ đoàn cần chính danh. Không lẽ lúc nào Địa Lô, Quốc Kinh cũng gọi con là vương gia, xưng thần? Trong huyết tộc th́ phụ hoàng là chú ruột Hưng Đạo vương. Quốc Kinh là con của vương, th́ gọi con bằng chú. Như vậy trên đường đi sứ Đia Lô, Quốc Kinh cứ gọi con bằng chú cho thêm thân mật. Kinh chỉ mới học chữơ, xin thầy nhận Kinh làm học tṛ; dọc đường thầy dạy văn cho Kinh. Kinh gọi thầy bằng thầy. Thầy dậy tất cả sứ đoàn nói tiếng Mông cổ, như vậy Địa Lô cũng gọi thầy bằng thầy.

 

Tạ Quốc Ninh vui vẻ:

_ Đa tạ vương gia đă cho tôi hai người học tṛ uy vũ quán thế.

Địa Lô, Quốc Kinh vái Quốc Ninh bốn vái:

_ Con xin bái lạy thầy.

Vương hỏi Dă Tượng:

_ Về vơ công, con đă học được những ǵ? Ai là sư phụ của con?

_ Con chưa bái sư chính thức.

Vương kinh ngạc, v́ vương từng thấy Dă Tượng xử dụng vơ công trong suốt bẩy trận đánh. Vương hỏi:

_ Chính mắt chú thấy cháu xử dụng những chiêu vơ kỳ ảo. Tỷ dụ: chiêu thứ nhất, khi xuất trận, bọn Lôi kị sở trường thúc chân vào bụng cho ngựa chồm lên đầu một bộ binh, rồi xung vào phá tuyến đầu trận địa. Một Lôi kị đă dùng chiêu số này với cháu. Cháu xuống đinh tấn, hai tay chụp chân ngựa vặn tréo, ngựa bị ngă lộn đi hai ṿng. Tên Kị mă cũng ngă lăn theo, cháu phi thân đến đá vỡ ngực y. Chiêu thứ nh́: hai Kị mă phi song song vào trận địa Ngưu binh. Cháu nhào tới, hai tay ấn vào đầu hai chiến mă, rồi vọt lên cao, lộn một ṿng, đáp ra phia sau, hai tay cháu chụp đuôi hai chiến mă kéo lùi một hai bước, rồi buông ra. Hai chiến mă ngă lộn xuống đất, vật hai Lôi kị theo. Cháu phi thân phóng hai cước vào đầu chúng.

Dă Tượng kính cẩn đáp:

_ Thưa chú, trong thời gian huấn luyện Ngưu binh, cháu cùng các Ngưu tướng tự chế ra các chiêu thức chống với Lôi kị. Tất cả 9 lộ. Hồi theo Hưng Ninh vương đánh trận Đông bộ đầu, vương bảo cháu diễn lại từ đầu cho vương xem. Vương giúp cháu chỉnh khuyết điểm, biến hóa mỗi lộ ra 9 chiêu, cộng 81 chiêu, rồi vương đặt tên là Đảo mă cửu lộ thức.

Vương khen:

_ Các chiêu số đều thuần nhất, chất phác, nhưng khắc chế với kị binh. Có điều cả chín lộ đều dùng sức của một mục đồng, nên không ảo diệu. Nếu người xử dụng có công lực cao, th́ uy lực sẽ vô cùng dũng mănh.

Dă Tượng không có tên, hồi mới ra đời, phong tục hồi đó thường không đặt tên cho con, mà chỉ gọi bằng những tên b́nh dân. Như con trai th́ mang tên Cu, Chó, Trâu. Con gái th́ mang tên Hĩm, Cái. Khi đứa trẻ 12-13 tuổi, vượt khỏi cái tuổi bị chết về bện đậu mùa mới làm lễ gia tiên đặt tên cho. Bà nội của Dă Tượng thấy cháu bụ bẫm dễ thương, bà đặt cho cháu cái tên Cu Chó. Năm bẩy tuổi, Cu Chó mồ côi cảø cha lẫn mẹ. Nó phải đi ở, chăn trâu cắt cỏ cho một ngôi chùa vùng Thiên trường. Sư trưởng của chùa là người nhân từ, ông đối xử với Cu Chó bằng tất cả tấm ḷng từ bi. Ngoài việc chăn trâu của chùa, Cu Chó không phải làm công việc ǵ khác. Khi các chú tiểu trong chùa học văn, kinh Phật, ông cho Cu Chó cùng học. Trời cho Cu Chó một thân thể hùng vỹ, thông minh, lại thâm nhiễm đạo lư nhà Phật.

Ba năm trước khi giặc Mông cổ ngấp nghé ngoài Bắc cương, triều đ́nh ban chỉ cho xă ấp tập trung trẻ chăn trâu lại, huấn luyện tổ chức thành đội ngũ Ngưu binh. Vốn thông minh, có sức khỏe siêu việt, tính t́nh trầm tĩnh, Cu Chó được cử làm Ngũ trưởng (chỉ huy 5 người), rồi Lượng trưởng (chỉ huy 20 người). Trong lần duyệt binh, nó lĩnh chức Vệ úy (tương đương với ngày nay là Đại úy), chỉ huy một vệ Ngưu binh. Cu Chó biểu diễn đẩy ngă một con trâu mộng. Nguyên Phong hoàng đế ban cho Cu Chó cái tên Dă Tượng. Thời xưa, một người được vua ban cho mỹ danh, là điều hănh diện vô cùng. Trong dịp này Hưng Đạo vương nhận Dă Tượng làm con nuôi, ngài đặt tên Dă Tượng là Trần Quốc Kinh. Nhưng không ai gọi cái tên này cả, mà chỉ gọi là Dă Tượng. Ngay hôm được nhận Dă Tượng làm con nuôi, Hưng Đạo vương cho chàng vào cung bái kiến Tuyên minh thái hoàng thái hậu. Dă Tượng được bà dạy cho hai bộ vơ công trấn môn của phái Đông A là Đông A chưởng pháp và Thiên la thập bát thức.

Sau trận B́nh lệ nguyên, tài năng chỉ huy Ngưu binh của Vệ úy Dă Tượng làm cho Lôi kị Mông cổ kinh hoàng, chàng được thăng lên Tá lĩnh chỉ huy 10 Vệ Ngưu binh. Rồi sau các trận Cụ bản, Phù lỗ, Đông bộ đầu, Dă Tượng được thăng lên Đô thống, tổng chỉ huy Ngưu binh toàn quốc.

Thời gian theo quân trong các trận Thảo lâm, B́nh lệ nguyên, Dă Tượng được Vũ Uy vương dạy căn bản vơ thuật phái Đông A. Trong trận Cụ bản, Dă Tượng gặp Tuyên minh thái hoàng thái hậu, vương phi Kiến Quốc đại vương, vương phi Hưng Nhân vương. Ba bà yêu thương Dă Tượng cực kỳ. Cả ba đem hết tâm huyết dậy đứa cháu nuôi. Hồi về Thăng long dự trận Đông bộ đầu, Dă Tượng lại được Hưng Ninh vương  dạy vơ công Trúc Lâm yên tử.

Ghi chú, Tuyên minh thái hoàng thái hậu, nhũ danh Tô Phương Lan. Bà là vợ của Trần Lư, bà nội của Nguyên Phong hoàng đế . Vương phi Kiến Quốc đại vương nhũ danh Phan Mỹ Vân, vợ của Trần Tự Khánh chú ruột Nguyên Phong hoàng đế, khai quốc công thần Trần triều. Vương phi Hưng Nhân vương, nhũ danh Trần Kim Ngân, là vợ của Phúng Tá Chu, em gái Trần Lư.

Về hành trạng của ba bà, xin xem AHĐADCBM.

Vương nói với Địa Lô:

_ C̣n cháu, cháu là học tṛ của chưởng môn phái Sài Sơn, th́ Nho, Y, Lư, Số, Xạ, Ngự, Thư, Họa đều thông. Ta yên tâm.

Quốc Ninh đề nghị:

_ Dọc đường, đối với đội kị mă Long biên, ta vẫn để họ trang phục kị binh. C̣n sứ đoàn , để giữ quốc  thể, ta cứ mặc y phục nông dân Đại Việt cho phải lẽ.

Trước khi lên đường, Vũ Uy vương cùng vương phi vào Hoàng thành vấn an sinh mẫu của vương là Tuyên phi Mai Đông Hoa.

Vũ Uy vương Nhật Uy với vương phi Ư Ninh mới kết hôn chưa quá một năm, đám cưới diễn ra ngay sau trận Phù lỗ, quân Mông cổ đang tiến về Thăng long, chiến cuộc diễn ra khủng khiếp. V́ vậy mọi lễ nghi đều hủy bỏ. Hai vợ chồng bái tạ phụ hoàng, hướng về Thiên trường lễ vọng tổ tiên, rồi lên đường trấn ngự Bắc cương. V́ vậy vương phi chưa được diện kiến sinh mẫu của vương. Phi hỏi vương:

_ Anh ơi, chúng ḿnh cưới nhau trong khi khói lửa mịt mờ! Cho đến nay em cũng không biết phụ hoàng có bao nhiêu hoàng nam.

_ Để anh cho em biết. Trong các con của phụ hoàng, nếu tính theo tuổi th́ Tĩnh Quốc vương Khang lớn nhất, thứ đến anh. Cả hai cùng tuổi Đinh Dậu (1237). Thái tử Hoảng nhỏ hơn anh ba tuổi, chú ấy tuổi Canh Tư (1240) . Tiếp đến là Chiêu Minh vương Quang Khải. Sau tới Vũ Minh vương Quang Húc, Chiêu Quốc vương Ích Tắc, Chiêu Văn vương Nhật Duật, cuối cùng là Chiêu Ḥa vương Quốc Uất.  Tổng cộng 8 người.

_ Phụ hoàng có nhiều hoàng nam, hầu hết đều văn mô, vũ lược, có tài đế vương. So về tuổi th́ chú Hoảng là con trai thứ ba, nguyên do nào chú lại được lập làm Thái tử, rồi sẽ được truyền ngôi vua?

Vương giảng giải:

_ Theo thể chế các triều đại Hoa-Việt xưa, khi một hoàng tử đến tuổi 13 th́ được phong tước vương, được gọi là thân vương, được trao cho nhiều chức vụ. Thường th́ gồm cả chức văn lẫn vơ, được cho mở phủ đệ riêng. Mỗi phủ đệ có nhiều chức quan do triều đ́nh ấn định. Các thân vương cũng có quân túc vệ riêng. Việc này dẫn đến các vị vương dùng binh tướng của ḿnh làm loạn như triều Lê. Khi vua Lê Đại Hành băng, các hoàng tử kéo quân về tranh ngôi vua, chém giết nhau không hề nghĩ t́nh ruột thịt. Cuối cùng Lê Long Đĩnh giết hết các anh-em, lên ngôi vua, tức Lê Ngọa triều. Bởi vậy khi Lê Ngọa triều băng, trong triều, ngoài trấn không c̣n thân vương nào nữa, đưa đến triều Lê mất về họ Lư.

_ Em cũng đă biết như thế.

Vương phi tŕnh bầy: Này nhé, sang triều Lư, vua Lư Thái tổ đă từng thấu hiểu những cay đắng của triều Lê. Nhà vua không cho phủ đệ của thân vương tổ chức quân đội riêng. Nhưng các hoàng tử đều là những người có tài cầm quân. Vua trao cho bốn con bốn chức vụ lớn. Một người lĩnh Đô đốc thủy quân, một người thống lĩnh Kị binh, một người thống lĩnh Thiên tử binh, một người thống lĩnh Ngự lâm quân, Thị vệ. Ngài ban chỉ dụ: ngôi trừ quân bỏ trống, các hoàng tử đều được phong làm thái tử. Người nào nhiều công trạng, có tài nhất sẽ được lập làm trừ quân. Nhưng ngài băng hà th́nh ĺnh, khi chưa chỉ định người kế vị, v́ vậy đưa đến chư vương nổi loạn. Các đại thần quyết định theo cơ chế cổ, con trưởng sẽ được kếù vị. Con trưởng của vua Lư Thái tổ là Khai Thiên vương. Các tướng giúp Khai Thiên vương, dẹp chư vương, rồi tôn lên ngôi vua tức vua Lư Thái tông.

_ Huynh đệ tương tàn là điều đau đớn nhất của các triều trước.

Vũ Uy vương than thở: V́ thế khi vua Lư Thái tông lên ngôi, ngài ban chỉ không cho thân vương, hoàng tộc giữ các nhiệm vụ Thái úy, Quản Khu mật viện, Đô đốc Thủy quân, Tổng lĩnh Thiên tử binh, Tổng lĩnh Kị binh.

Chú giải,

Thái úy, tương dương với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội.

 Khu mật viện, tương đương với ngày nay bao gồm bộ Công an, Cục tác chiến, Cục quân báo, Cục phản gián.

Đô đốc Thủy quân, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thủy quân.

Tổng lĩnh Thiên tử binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh lục quân.

Tổng lĩnh Kị binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh  Thiết giáp binh.

 

_ Anh nói lạ! Thế sao sau này ngài Lư Thường Kiệt cũng từng được trao cho trao chức Thái úy?

Vương cười lớn:

_ Em không nhớ kỹ sử mất rồi; ngài Thường  Kiệt nguyên họ Ngô, được ban quốc tính, chứ ngài không phải họ Lư.

_ Em quên! Chính sách này giúp cho suốt triều Lư, không bị các nạn hoàng tộc chém giết nhau v́ tranh ngôi vua. Sử chép Tô Hiến Thành, Đàm Th́ Phụng, Đàm Dĩ Mông từng giữ chức Thái úy. Cuối cùng trong lúc rối loạn, chức Thái úy do tổ Trần Tự Khánh nhà ta nắm rồi đi đến triều Lư mất về họ Đông A nhà ḿnh.

Vương nh́n thẳng vào khuôn mặt thanh tú của vương phi, giảng giải:

_ Phụ hoàng đă thấy các vết xe đổ của triều Lê, triều Lư. Người ban hành luật: Khi chú Hoảng là Thái tử đă đủ lớn, th́ được truyền ngôi, người sẽ lui về làm Thái Thượng hoàng. Có lẽ sang năm tới. Như vậy tránh được t́nh trạng tân quân bỡ ngỡ khi mới lên ngôi, tránh t́nh trạng các con tranh giành ngôi vua chém giết nhau. Tổ chức cai trị chia ra làm hai: chức vụ trong triều, cũng như ngoài trấn th́ trao cho các quan. C̣n các vương, hầu hoàng tộc th́ ai về đất phong của người ấy. Đất phong như một tiểu quốc riêng, có tiểu triều với đầy đủ quan chức, quân đội. Mỗi tháng các vương hầu đều về Thăng long dự buổi thiết đại triều, bàn quốc sự. Xong việc lại trở về lănh địa của ḿnh. Vừa rồi, Mông cổ kéo đại binh sang, Hưng Đạo vương hội quân, các vương hầu kéo quân bản bộ về cùng nhận lệnh đánh giặc. Chính anh, anh kéo quân Bắc cương về chịu lệnh.

Vương phi vẫn không chịu:

_ Theo lẽ chính thống th́ bao giờ các vua chúa Hoa, Việt cũng truyền ngôi cho con trai trưởng, là người lớn tuổi nhất. Nếu không phải con trưởng th́ cũng phải là người con thứ có nhiều công trạng hoặc tài đức vượt xa các anh em, như Đường Cao tổ truyền ngôi cho con thứ là Tần vương Lư Thế Dân. Nhưng tại sao chú Hoảng, tài không hơn anh, công lao lại càng thua xa anh. Theo tuổi tác, chú là con thứ ba lại được lập  làm Thái tử? 

_ Chú ấy được phong làm Thái tử, v́ tuân theo cái lẽ chính thống của Nho gia. Với nguyên tắc chính thống th́ anh không thể lên ngôi vua. Anh mà lên làm vua, sĩ dân không phục, rồi nước sẽ loạn to!

_ Em không hiểu.

_ Này nhé, Phụ hoàng nhờ là pḥ mă của vua Lư Huệ Tông, là chồng của vua Lư Chiêu Hoàng, mà được nhường ngôi. Phụ hoàng có hoàng hậu, nhiều phi tần, cung nga, sinh nhiều hoàng nam. Nhưng người kế vị phải là cháu ngoại của vua Lư Huệ Tông mới hợp lẽ chính thống, dân chúng, sĩ dân mới phục. Hoàng hậu Chiêu Hoàng không có hoàng nam, bị phế xuống làm công chúa, th́ chỉ con của Phụ hoàng với công chúa Thuận Thiên, chị của vua Chiêu Hoàng mới đủ tư cách kế vị. Điều này anh bị loại, v́ anh là con một cung nga. Mẫu thân ḿnh xuất thân là con hát được đưa vào cung. Như anh vừa nói, so về tuổi th́ anh Quốc Khang với anh lớn nhất. Ngược lại so về vai vế th́ Thái tử Hoảng lớn nhất, thứ đến Quang Khải, v́ cả hai là con của hoàng hậu Chiêu Thánh. Tiếp đến Quang Húc, Ích Tắc là con của Tây cung quư phi đứng thứ ba, thứ tư; Nhật Duật là con của Hoàng phi đứng thứ năm. Anh với Quốc Uất là con của một Tu Dung, đẳng cấp thấp nhất đứng thứ sáu, thứ bẩy. Anh Quốc Khang không phải con của phụ hoàng, nếu kể cả anh ấy th́ phụ hoàng có 8 hoàng nam.

_ Em hiểu rồi. Trong cuộc chiến vừa qua, anh lập công lớn, phụ hoàng lấy lư tử  quư, mẫu vinh (con quư th́ mẹ vinh), mẫu thân anh được cải phong lên bậc Tuyên phi. Do vậy dù anh lớn tuổi nhất trong các hoàng nam của Phụ hoàng, dù anh là người văn mô vũ lược, lại từng thống lĩnh binh mă Bắc cương, chiến thắng Mông cổ, vẫn không được phong làm Thái tử.

Theo Đại Việt sử kư toàn thư th́ sự việc này như sau:

Hồi vua Trần Thái Tông c̣n thơ, được tuyển vào cung hầu hạ nữ hoàng đế Lư Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng ưng ư  tuyển làm chồng, rồi truyền ngôi cho năm 1225. Thái Tông phong Chiêu Hoàng tước Chiêu Thánh hoàng-hậu.

Niên hiệu Thiên Ứng Chính B́nh thứ 6 (1237), hoàng-hậu Chiêu Thánh đă 19 tuổi mà chưa có hoàng nam, tông thất nhà Lư rục rịch đ̣i lại ngôi vua. Thái-sư, Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ ép vua giáng Chiêu Thánh xuống làm Thiên Cực công-chúa, lập vương phi của An Sinh vương Liễu là công-chúa Thuận Thiên, cũng là con của vua Lư Huệ Tông làm hoàng-hậu, v́ bà đă có thai ba tháng. Thủ Độ nghĩ: ông có thể lư luận với tông tộc nhà Lư rằng: Đứa trẻ sinh ra là con của Thuận Thiên, th́ cũng là cháu của vua Huệ Tông. Cháu vua Huệ Tông cũng nghiễm nhiên được nối ngôi. Bị làm nhục, An Sinh vương Liễu cất quân làm loạn. Sau nhờ Linh Từ quốc-mẫu Trần Thị Kim Dung, bà là:

_ Cô của vua Trần Thái Tông, An Sinh vương Liễu,

_ Hoàng hậu của vua Lư Huệ Tông,

_  Hiện làø vợ của Thái-sư Trần Thủ Độ,

_ Bà cũng là mẹ của công chúa Thuận Thiên và Chiêu Hoàng,

Bà  đứng ra dàn ḥa, cuộc chiến tương tàn mới êm. Người đương thời cũng như  các sử gia đều cho rằng Thái sư Trần Thủ Độ là người thất học, làm càn. Ông nặn ra việc Trần Cảnh, Lư Chiêu Hoàng có t́nh ư với nhau, rồi cho hai người kết hôn. Sau lại bắt vua Trần Thái tông bỏ Chiêu Thánh, đem vương phi An Sinh vương Liễu là công chúa Thuận Thiên ép làm hoàng hậu.

Các sử gia đều kết tội Thái sư Trần Thủ Độ.

Nguyên do, Thái sư Thủ Độ đă căn cứ vào những sự kiện lịch sử Hoa-Việt mà người xưa gọi là chính thống rồi hành động.

Cái lư chính thống của Thái sư Trần Thủ Độ thế là thế nào? Sử, cũng như chính sự các đời đều ca tụng ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ là những vị vua thánh. Vua Nghiêu gả hai công chúa là Nga Hoàng, Nữ Anh cho pḥ mă là một nông dân, rồi nhường ngôi, pḥ mă trở thành vua Thuấn. Vua Thuấn lại nhường ngôi cho pḥ mă, thành vua Vũ. Đây là h́nh thức khuôn mẫu cho các đời sau, gọi là chính thống. Dẫn chứng sử Trung hoa, con rể nối ngôi  cha vợ cho hợp với chính thống  e dài quá, xin dẫn chứng sử Việt Nam:

Một là, khi anh hùng Dương Diên Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại, con rể là Ngô Quyền, lên thay quyền, diệt kẻ ác, rồi làm vua. Hợp với lẽ chính thống, nên tường sĩ, dân chúng qui phục ngài, v́ vậy ngài mới thắng giặc Nam Hán, lên làm vua.

Hai là, vua Đinh Tiên hoàng, tuy có tài dẹp các sứ quân, nhưng ngài cũng cố t́m ra cớ ǵ hợp với chính thống? V́ vậy ngài phải phong cháu Dương Diên Nghệ là Dương Vân Nga, làm hoàng hậu, để qui phục nhân tâm: Con rể kế ngôi nhạc phụ, như vậy mới có chính nghĩa, hợp với lẽ chính thống.

Ba là, khi vua Lê Ngọa Triều băng, tuy con c̣n thơ dại, nhưng vẫn c̣n đến ba hoàng tử em vua Ngọa Triều  lĩnh tước vương, đang trấn ngự bên ngoài. Nhưng tiều đ́nh tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lư Công Uẩn lên làm vua, sau là Lư Thái tổ. Tại sao? V́ ngài là pḥ mă của vua Lê Đại Hành

Bốn là, khi vua Lư Thái tổ lên ngôi, ngài có nhiều con, tất cả các con đều được phong là Thái tử, ngụ ư rằng ngôi trừ quân chưa định. Thái tử nào có tài, có đức sẽ được truyền ngôi. Tuy Thái tử Lư Long Bồ tước phong Khai Quốc vương là người tài trí, đức độ trùm Hoa Việt, nhưng cuối cùng vua Lư Thái tổ truyền ngôi cho Thái tử Phật Mă tước phong Khai Thiên vương; dù vua biết rằng vương là người mà tài, đức thua Khai Quốc vương xa, lại khệnh khạng, h́nh thức. Nguyên do chỉ v́ Phật Mă là con của hoàng hậu Tá quốc, Long Bồ là con của hoàng hậu Lập nguyên. Mà hoàng hậu Tá quốc là công chúa con vua Lê Đại Hành. Như vậy, cháu ngoại vua Lê lên ngôi vua, th́ chính thống mới sáng tỏ.

Trần Thủ Độ muốn lấy ngôi vua từ họ Lư sang họ Trần, ông phải xếp đặt cuộc hôn nhân Trần Cảnh-Lư Chiêu Hoàng, cho hợp với chính thống. Đến khi Chiêu Hoàng chưa có con, hoàng tộc nhà Lư rục rịch muốn yêu cầu vua Trần Thái tông nhận một đứa trẻ con của một thân vương triều Lư làm thái tử, rồi truyền ngôi cho. V́ vậy ông mới đem vương phi của An Sinh vương ép vào ngôi hoàng hậu, để đứa trẻ đó sau lên nối ngôi th́ là cháu ngoại của vua Lư Huệ tông, cháu ngoại lên nối ngôi ông, cho hợp với chính thống.

Thuận Thiên hoàng hậu sau có với vua Thái tông hai hoàng tử, kể cả đứa con oan nghiệt vốn là bào thai của An Sinh vương Liễu là ba. Đứa trẻ đó sau là Tĩnh Quốc đại vương. Tĩnh Quốc đại vương không được nối ngôi v́ là con An Sinh vương Liễu, mà ngôi vua về thái tử Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông.

C̣n hoàng hậu Chiêu Thánh bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa. Thiên Cực  trốn khỏi hoàng cung, đi tu, pháp danh là Vô Huyền. Đương thời truyền tụng bà đắc đạo thành Bồ Tát, nên gọi ngài là Vô Huyền bồ tát. Vô Huyền bồ tát là sư phụ của vương-phi Ư Ninh. Trần Thủ Độ không t́m được tông tích của Chiêu Thánh, sợ Chiêu Thánh trốn ra các trấn hô hào phục hưng triều Lư, bèn đem một cung nga có dáng giống Chiêu Thánh, tên Thục Anh giả làm ngài để trấn an dư luận. Nếu Chiêu Thánh khởi binh th́ Thủ Độ có thể tuyên bố rằng đó là Chiêu Hoàng giả. C̣n Thục Anh  mới là Chiêu Hoàng.

Sau chiến thắng Mông Cổ, vua Trần Thái tông thấy việc ép cung nga Thục Anh này sống cô quạnh, th́ động ḷng trắc ẩn mới đem gả cho Lê Phụ Trần. Bấy giờ Thục Anh đăù 36 tuổi.

Sử chép rằng Công-chúa Thiên Cực được gả cho Lê Phụ Trần, sau sinh ra nhiều con. Lư này không vững, v́ năm ấy (1258) Chiêu Thánh đă 43 tuổi, với t́nh độ y học ngày nay một phụ nữ tuổi 43 cũng khó có thể sinh con; huống hồ y học đời Trần. V́ vậy chúng tôi thuật theo gia phả. Vả người chép  gia phả là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Vương là con của vua Thái tông, th́ vương chép về phụ-hoàng, mẫu-hậu không sai được.

Vũ Uy vương tuy là người văn vơ toàn tài, lớn tuổi nhất trong các con của vua Thái tông, lại có công trong cuộc phá Mông Cổ lần thứ nhất (1258), nhưng v́ là con một cung phi bậc thấp, nên không được truyền ngôi vua. Vả tính t́nh vương khoáng đạt, cùng vương phi trấn ngư biên cương, không nghĩ đến tranh dành ngôi vua.

Vương phi Ư Ninh vẫn không chịu:

_ Thế Tĩnh Quốc vương Khang ! Anh ấy chẳng là con của Phụ hoàng với Hoàng hậu đấy ư ? Dường như anh ấy với anh bằng tuổi nhau th́ phải.

_ Em hỏi thế thực phải. Em nên nhớ Tĩnh Quốc vương Khang, lớn tuổi hơn hoàng tử Hoảng. Vương cũng là con của mẫu hậu Thuận Thiên, tức cũng là cháu ngoại của vua Lư Huệ tông. Nhưng thực sự, vương không phải là con của phụ hoàng. V́ khi mẫu hậu Thuận Thiên có thai ba tháng với An Sinh vương Trần Liễu, th́ bị Thái sư Trần Thủ Độ ép vào cung, rồi sinh ra vương, th́ vương là con của An Sinh vương. Vả tư chất của anh ấy đần độn, học văn không thông, luyện vơ không thành; như vậy không thể được lập làm thái tử, không thể được truyền ngôi vua.

_ Bây giờ em mới hiểu hết những uẩn khúc trong cung đ́nh nhà ḿnh. Theo chiếu thư Mông cố th́ họ đ̣i phụ hoàng phải gửi con trưởng sang làm con tin. Sao phụ hoàng cũng như triều đ́nh không gửi anh Quốc Khang mà lại gửi anh?

_ Có lẽ phụ hoàng cũng như triều đ́nh sợ anh ấy nghĩ ḿnh cũng là cháu vua Lư Huệ tông. Anh ấy sẽ vận động với Mông cổ, xin phong vương rồi về tranh dành ngôi vua với Thái tử  Hoảng.

_ Em th́ em nghĩ khác.

_ Nghĩa là?

_ Phụ hoàng cũng như triều đ́nh thấy anh là người trung hậu, không thích quyền hành, mà chỉ nghĩ đến Xă Tắc, nên cử anh đi mà không sợ Mông cổ phong cho anh làm An Nam quốc vương, rồi về tranh ngôi vua. Lại nữa, triều đ́nh Mông cổ không thiếu ǵ văn quan, vơ tướng là tinh hoa của Tống, Liêu, Kim, Tây hạ, Tây vực. Nếu cử anh Quốc Khang sang làm con tin, th́ anh chỉ  là một cục bột, ngồi ở Hoa lâm mà thôi. V́ vậy người mới cử anh sang, Mông cổ sẽ trọng dụng tài của anh. Anh làm quan cho Mông cổ th́ Đại Việt mới có lợi.

Vương suy nghĩ một lát rồi tiếp:

_ Vả chú Hoảng vốn có chân mệnh đế vương từ nhỏ. Truyện như thế này. Năm chú Hoảng bẩy tuổi bị bệnh sốt mê man, mắt trợn ngược. Hoàng hậu cùng phi tần tưởng hoàng tử sắp hoăng, hậu nhờ Huệ Túc phu nhân là người bút mặc văn chương đề bài chủ để thờ. Huệ Túc phu nhân xem số Tử vi của hoàng tử rồi quẳng bút từ chối rằng:

Thần tính số của Hoảng, thấy sống rất thọ, không thể chết non. Hơn nữa đây là một vị minh quân của Đại Việt sau này. Hiện Hoảng đang gặp hạn Bạch hổ ngộ Kị, th́ chỉ bệnh nặng mà thôi.

Thuận Thiên hoàng hậu hỏi:

Bao giờ th́ Hoảng khỏi?.

«  Tâu, ngày mai giờ Ngọ ».

Phụ hoàng cầm áo long bào để bên chú Hoảng, rồi tuyên:

« Nếu tỉnh dậy th́  cho áo này. Sau sẽ được truyền ngôi »

Quả nhiên giờ Ngọ hôm sau hoàng tử Hoảng tỉnh dậy. Phụ hoàng mới lập làm Thái tử. Hơn nữa chú  Hoảng từng cầm quân thắng Mông cổ ba trận lớn, trong đó có trận tái chiếm Thăng long. V́ vậy Phụ hoàng  mới truyền ngôi cho chú ấy.

Vương phi Ư Ninh  à lên một tiếng, rồi hỏi tiếp:

_ Em nghe mối t́nh của Phụ hoàng với mẫu thân đẹp vô cùng. Các danh sĩ không tiếc lời ca tụng. Sư phụ nói: mối t́nh đă làm thay đổi toàn bộ luân lư Đại Việt. Họ c̣n nói, mối t́nh của phụ hoàng với mẫu thân, khiến cho toàn quốc rộ lên phong trào thượng tôn văn học, đàm văn, luận phú, quư trọng ca xướng. Sở dĩ các lộ, các trấn, các phủ, các huyện dĩ chí các xă đều cho mở quán văn, là do mối t́nh này. Anh thuật cho em nghe đi.

Hồi Thứ Mười Hai

Văn nghệ thời Đông A,

Vũ Uy vương khoan thai thuật:

_ Mẫu thân anh họ Mai, tên Đông Hoa, xuất thân làm con hát ở phường Tây hồ.

Vua Thái Tông gặp bà Mai Đông Hoa trong trường hợp nào? Đây là mối diễm t́nh được ca tụng đẹp nhất triều Đông A , được huyền thoại cho đến nay. Tra trong các bộ sử th́ không hề thấy nói đến, nhưng gia phả các chi họ Trần th́ chép đầy đủ.

Nguyên hồi Chiêu Thánh hoàng hậu Lư Chiêu Hoàng 19 tuổi vẫn chưa có hoàng nam. Thái sư Trần Thủ Độ ép nhà vua phế hoàng hậu xuống làm công chúa, rồi đem vương phi của An Sinh vương Trần Liễu vào cung v́ vương phi đă có thai ba tháng (1237). Nhà vua buồn rầu, thường giả làm nho sinh, cùng viên thái giám thân tín tên Đại Lực trốn ra ngoài thành Thăng long thăm dân cho biết sự t́nh. Một lần người tới phường Tây hồ chơi, vào một Quán văn.

Chủ quán thấy một thiếu niên anh tuấn, thân thể hùng vỹ, cùng một gia nhân theo hầu, thân thể to như ông hộ pháp. Cả hai đi ngựa, trang phục như nho sinh,  th́ biết đây là giới tao nhân mặc khách. Oâng vội vàng ra mời vào.

 Trong quán có một kệ xếp rất nhiều sách. Giữa quán một lư hương khói tỏa hương thơm ngát. Khách khá đông, hơn trăm ghế ngồi gần như kín hết. Tất cả đang nghe một thầy đồ giảng sách. Thầy đồ say xưa thuật đoạn bà Trưng Nhị cùng cùng các nữ tướng Hồ Đề, Trần Năng, Phật Nguyệt, và nam tướng Lạiï Thế Cường đánh chiếm Trường sa. Đến chỗà bà Trần Thiếu Lan tử trận, thầy ngừng lại:

_ Hôm nay xin ngừng ở dây. Ngày mai tôi sẽ thuật tiếp đọan vua Trưng cùng 162 anh hùng họp nhau tại Mê linh tuyên bố khởi nghĩa.

Thính giả vỗ tay hết tràng này, đến tràng khác.

Thầy đồ chỉ tay vào chủ quán:

_ Xin giới thiệu với chư vị, đây quán chủ. Quán chủ họ Lư tên Tín, là thầy đồ dạy học tại trường huyện Thọ xương.

Lư Tín chắp tay vái khách:

_ Thưa chư vị hiền nhân quân tử. Sau mục kể truyện anh hùng, thiểm quán kính mời quư khách thưởng thức âm nhạc.

Một toán sáu người từ pḥng trong bước ra, gồm ba nam, ba nữ. Tất cả đều c̣n trẻ. Người đàn ông lớn tuổi nhất đánh trống mảnh. Hai người đàn ông c̣n lại, một người vỗ trống cơm, một người thổi sáo. Hai người đàn bà, một người kéo nhị, một người gảy đàn. Ca nhi là một cô gái, bên trong mặc áo cánh nhiễu tím, khoác ngoài áo tứ thân kết hai mầu hồng nhạt, xanh lá mạ non, dây lưng cũng hai mầu như áo; váy lụa đen dài che lấp chân. Khăn mầu tím, đuôi gà dài phía sau gáy. Cả toán nghiêng ḿnh chào khách, rồi ngồi lên chiếc sập.

Vừa trông thấy đào hát, nhà vua dă choáng váng, đó là một thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy, dáng người thanh lịch, nhan sắc diễm lệ. Mặc dù trong cung, nhà vua đă có hoàng hậu, nhiều phi tần là tiểu thư con các quan; triều đ́nh c̣n lệnh cho các phủ huyện tuyển những thiếu nữ đẹp nhất đem vào cung làm cung nga. Thế nhưng lần này nhà vua thấy một thiếu nữ có nhan sắc diễm ảo, như có như không; lại hát hay, th́ ngài rung động mănh liệt. Nhà vua than thầm:

_ Tại sao trong hậu cung ḿnh không có những mỹ nữ như cô gái này? Tại sao trong ban nhạc Cung đ́nh của ḿnh không có những ca nhi giọng hát tuyệt vời như thế này?

Nhà vua nh́n cô gái như ngây, như dại. Giọng cô gái trong, nhuyễn như nhung. Cô vừa hát, vừa liếc mắt, nghiêng nghiêng đầu, sóng mắt long lanh. Thỉnh thoảng cô lại mỉm cười. Sau bản hát, cô cầm cái rá đi một ṿng xin tiền. Người người đều cho tiền. Thường th́ mỗi người cho một đồng, hai đồng. Thỉnh thoảng có người cho ba đồng. Khi cô gái tới trước nhà vua, nhà vua sờ tay vào túi, nhưng có bao giờ nhà vua tiêu tiền đâu mà mang theo? Cô gái thấy nhà vua móc hết túi ngày đến túi khác mà không có tiền th́ mỉm miệng cười chờ đợi. Cô cất tiếng hát:

Tây hồ sóùng vỗ lăn tăn,

Quân tử  như ánh trăng rằm đêm thâu.

Nhà vua quưnh quá, ngài tháo sợi dây chuyền bằng vàng đeo trên cổ, có mang tượng Quán Thế Âm bằng ngọc đỏ chói. Ngài nắm lấy tay nàng, đặt vào:

_ Tiên cô ơi! Đây là kỷ vật của tôi, được một vị cao tăng tặng, với lời cầu nguyện rằng tôi luôn được đức Bồ Tát phù hộ. Nay tôi biếu tiên nga, cũng ước mong tiên nga được Quán Thế Aâm che chở.

Xung quanh có hằng trăm người, ai cũng mở to mắt nh́n viên nho sinh hào phóng. Sợi dây ít ra đến hai lượng vàng, với tượng Phật bằng ngọc, rẻ ra cũng trên năm lượng nữa. Thời bấy giờ giá một lượng vàng là hai trăm quan tiền. Mỗi quan là sáu trăm đồng. Cô đi hát cả tháng may ra mới được một quan tiền. Bây giờ cô gặp một nho sinh hào phóng cho cô món quà quá lớn. Cô nh́n nho sinh: dáng người hùng vĩ, mặt đẹp như ngọc, tiếng nói uy nghiêm mà đầm ấm.

 Cô gái c̣n đang ngỡ ngàng, th́ nhà vua đă đeo sợi dây vào cổ cô, rồi hỏi:

_ Cô ơi, cô có thể cho tôi biết khuê danh được không?

_ Dĩ nhiên là được! Đa tạ nhă lượng quân tử, em họ Mai, tên Đông Hoa. Để đáp lại tri âm em xin hát một bài nữa mong công tử ban cho nhất cố Chu Lang.

Tiếng nói của Đông Hoa thanh tao, nàng c̣n biết dùng điển nhất cố Chu Lang, chứng tỏ nàng cũng thuộc giới bút mặc văn chương. Điển này như sau: thời Tam quốc bên Trung nguyên, Đại Đô đốc Ngô là Chu Du. Du lĩnh chức đô đốc khi c̣n trẻ, tính khí hào phóng, nhă lượng, cao trí, lại là một mỹ nam tử; Du rất giỏi âm nhạc. Tại tư dinh Du có một đội nhạc đến hơn trăm người, xử dụng đủ mọi thứ nhạc khí. Với hơn trăm âm thanh cùng vang lên, mà mỗi khi một người tấu lạc nhịp, hoặc sai, là Du biết ngay ai, ngồi chỗ nào, Du đưa mắt nghiêm khắc về phía người đó. Người nào tấu xuất sắc, Du hướng mắt về người ấy mỉm cười tỏ ư khen ngợi. V́ vậy sau này giới bút mặc văn chương dùng điển  nhất cố Chu Lang để chỉ tri âm, tán thưởng.

Nhà vua vốn là người tinh thông âm luật, không nhạc khí nào mà không xử dụng thành thạo. Nhà vua cầm ống tiêu đưa lên môi thổi. Aâm thanh cao vút như ḥa vào những sợi tơ trời. Đông Hoa cương:

Em là con gái Thăng long,

Em nghiêng nghiêng nón, ấy y a, nước sông dạt dào.

Đông Hoa mời nhà vua về nhà chơi. Cha mẹ nàng vốn là nghệ nhân, nếp sống không khép kín như những gia đ́nh khác. Cả hai tiếp nho sinh với tất cả thịnh t́nh. Oâng bà hỏi lư lịch, nhà vua xưng là nho sinh học trường Quốc tử giám tên Nhật Duy.

Từ đấy khi th́ hai ngày, khi th́ ba ngày, nhà vua lại ra nhà Đông Hoa tấu nhạc cho nàng hát.

Cạnh nhà Đông Hoa có một thầy đồ dạy học ở trường huyện Thọ xương tên Lư Tín. Thầy Tín rất uyên bác, đứng chủ trương quán văn Tây hồ. Thấy Đông Hoa hát hay, thông minh, lại có nhan sắc, ông dạy riêng Đông Hoa học tại nhà. V́ Đông Hoa đẹp, hát hay, nên nhiều khách đa t́nh thường lai văng tới quán văn Tây hồ cầu thân. Nhưng khi tiếp xúc với họ, ông thấy đó chỉ là những gă nhà giầu, hoặc công tử văn không thông, vơ không thành. Bây giờ thấy nho sinh Nhật Huy gần như thường trực tới quán văn Tây hồ dự các buổi giảng sách, nghe nhạc. Nhật Huy rất hào phóng với các thầy đồ giảng sách, cũng như những con hát. Nhật Duy lại hay tới nhà Đông Hoa chơi. Ơâng cho rằng Nhật Duy cũng thuộc phường tham dâm, hiếu sắc mà thôi, chứ không phải học sinh trường Quốc tử giám. Không chừng một công tử nào đó muốn bỏ tiền ra mua Đông Hoa.

Nhưng sau những lần gặp nhau, thầy Tín thấy dung quang Nhật Duy khác phàm, kiến  thức bao la, hai người thường đàm đạo quốc sự, văn chương, thi phú cho đến kinh Phật. Nhật Duy  luận như mây trôi, nói như suối tuôn. Lư Tín khâm phục nho sinh Nhật Duy uyên bác. Ông khuyên cha mẹ Đông Hoa chiêu Nhật Duy làm rể.

Một bên là một ca nhi  sắc nước hương trời, thuộc ṇi t́nh, hưởng tính lăng mạn của cha mẹ. Một bên tuy làm vua, đang độ 20 tuổi; nhưng từ bé bị giáo huấn trong lễ giáo khắt khe. Bây giờ được mang lốt nho sinh, bao nhiêu sợi dây luân lư ràng buộc bị cắt đứt.

Đông Hoa mang thai.

Giữa lúc đó  nhà vua bận quốc sự hơn ba tháng không ra quán văn Tây hồ cũng như đến nhà thăm nàng.

Thời bấy giờ con gái chưa chồng mà mang thai, như một tin trấn động, như ngọn núi lửa nổ tung. Bố mẹ nàng sẽ bị làng xă bắt khoán, nhục nhă vô cùng. Thầy Lư Tín cho rằng Nhật Huy là phường hoa bướm, con nhà giầu, chơi hoa rồi vứt bỏ. Oâng dẫn cha mẹ Đông Hoa đến trường Quốc tử giám kiện nho sinh Nhật Duy. Nhưng quan Quốc tử giám tư nghiệp tra danh sách, không có một học sinh nào tên Nhật Duy cả. Oâng ra lệnh cho phủ thừa Thọ xương truy bắt Nhật Duy về hai tội: giả học sinh Quốc tử giám và thông dâm với gái chưa chồng mang thai.

Một buổi tối, nhà vua cùng viên Thái giám Đại Lực ra phường Tây hồ gặp Đông Hoa. Khi vừa tới sân nhà nàng, th́ một Ngũ (5 người) lính dàn ra bao vây. Tất cả được vơ trang đoản đao. Thầy đồ Tín, bố mẹ Đông Hoa và nàng cùng ra sân xem. Hai người lính vung đao bắt chéo nhau trước mặt nhà vua. Phản ứng tự nhiên, thái giám Đại Lực chĩa ngón tay chỏ điểm một cái. Hai thanh đao vuột khỏi tay hai người lính, bay lên cao, cắm vào thân cây muỗm.

_ Không được vô phép!

Viên thái giám quát lên rồi vung tay một cái nữa, hai người lính bay ra xa ước hơn hai trượng, rơi xuống như tự nhảy lùi vậy.

Thấy thủ pháp của Đại Lực, viên Ngũ trưởng biết dù cả Ngũ của y cũng không địch nổi người này. Tuy vậy y cũng hô lên một tiếng, cả Ngũ phu vung đao vây quanh nhà vua. Y hỏi:

_ Trong hai người, ai là nho sinh Nhật Duy xưng là học tṛ Quốc Tử Giám?

Đại Lực chỉ nhà vua:

_ Là chủ nhân của tôi.

Giọng viên  Ngũ trưởng có vẻ khách khí:

_ Trông phong thái hai vị đều là người có lai lịch, sao lại đả thương binh lính của đức vua!

Đại Lực hỏi đám binh:

_ Này các em, ta có làm em nào bị thương đâu mà Ngũ trưởng của các em bảo ta đả thương các em?

Y hỏi viên Ngũ trưởng:

_ Người là Ngũ trưởng của Vệ Thọ xương, người phải biết luật chứ? Luật của đức vua rất nghiêm, khi muốn bắt một học sinh trường Quốc tử giám th́ ít nhất phải có sự chứng kiến của một vị Kinh diên quan! Các người đi bắt chủ nhân tôi, mà không có Kinh diên quan chứng kiến th́ là một điều sai luật. Các vị chưa xác định cái người mà người định bắt có đúng là tội nhân mà quan trên muốn bắt không mà đă dùng đao đe dọa là hai điều sai luật. V́ vậy tôi phải chống lại.

Nói rồi Đại Lực vung tay lên liên tiếp, không ai nh́n rơ y ra chiêu ǵ, ḱnh lực ra sao, mà mỗi chiêu một người lính bay ra đường. Người nào cũng như bị nhắc lên rồi đặt xuống vậy.

Trong khi Đại Lực biện luận với viên Ngũ trưởng, th́ nhà vua vào nhà Đông Hoa. Nh́n sắc  mặt cha mẹ nàng, Lư Tín, nhà vua thấy dường như họ có điều ǵ lo lắng. C̣n chính Đông Hoa th́ đang ôm mặt khóc. Nhà vua hỏi:

_ Hoa! Cái ǵ đă xẩy ra?

Đông Hoa thuật lại thảm trạng trong ba tháng mà nàng phải chịu đựng, nồi nàng chỉ ra sân:

_ Bây giờ Đại Lực lại đánh lính của phủ Thọ xương th́ tai họa sẽ vô cùng lớn lao!

Đại Lực trở vào đứng sau nha vuà. Y nh́n Đông Hoa mỉm cười:

_ Cô ơi! Tất cả những ǵ cô nương coi là khổ ải, chủ nhân tôi sẽ giải quyết. Tôi nói thực cho cô nương biết một điều: hiện tất cả giai nhân trong nước đều ước mơ diện kiến chủ nhân tôi, dù chỉ một lần, mà không bao giờ toại nguyện. C̣n cô nương, cô nương được sủng ái cùng cực, mà cô nương không biết.

Đông Hoa vẫn không yên tâm:

_ Trước mắt, tôi đang bị làng bắt khoán, v́ gái chưa chồng mà chửa. Tiền đâu tôi nộp cho làng? Bây giờ làng xóm chê cười, tôi làm khổ cha mẹ tôi...

Đến có tiếng trống, thanh la dẹp đường, rồi bốn thị vệ hộ tống một vị văn quan ngồi trên kiệu tới. Ngũ binh cũng trở lại. Viên quan hỏi Ngũ trưởng:

_ Người xưng là Nhật Duy, học sinh trường Quốc tử giám đâu?

Viên Ngũ trưởng chỉ vào trong nhà:

_ Bẩm Thái phó, cái người trẻ quay lưng lại kia là Nhật Duy, c̣n cái người khoanh tay  đứng hầu sau Nhật Huy đă đánh bọn tiểu nhân.

Viên Kinh diên quan vừa trông thấy Đại Lực th́ thất kinh:

_ Đại... đại... Lực Tổng Công công! Sao, sao?

Đại Lực xua tay ra hiệu, ngụ ư xin đừng nhiều lời, rồi chỉ vào nhà vua, lên tiếng:

_ Kính chào Phạm sư phó. Chủ nhân của tiểu nhân là Nhật Duy, đang bị lính của phủ thừa Thọ xương bắt tội. Sư phó là thầy của chủ nhân, xin sư phó phát lạc vụ này cho.

Vị Kinh diên quan đó là Phạm Kính Ân, hiện là Quốc tử giám tế tửu, lĩnh chức Thái phó, thường giảng sách cho nhà vua. Tước của ông tới Công. V́ ra vào hoàng cung thường ngày, nên ông đă gặp quan Tổng Thái giám Đại Lực. Theo quan hàm th́ tước Công, lĩnh hàm Thái phó, kiêm Quốc tử giám tế tửu của ông cao hơn tước Hầu, Tổng thái giám năm bậc. Nhưng quan xa, không bằng lính gần. Đại Lực luôn hầu cận nhà vua, nên được nể nang hơn. Hôm nay ông nghe báo có một người xưng là học sinh Quốc tử giám, thông dâm với con gái lương dân, lại dám chống lại lính của phủ thừa Thọ xương. Oâng phải đích thân bắt người giả học tṛ Quốc tử giám ấy. Không ngờ tới đây, chỉ cần thấy Đại Lực, th́ ông biết người xưng là nho sinh Nhật Duy chính thị đức vua. Trong những lần giảng sách cho nhà vua, ông từng nghe nhà vua thuật lại nhiều lần ra ngoài Kinh thành thăm dân cho biết sự t́nh. Vốn cực kỳ thông minh, ông biết ngay người  xưng nho sinh Nhật Duy, chính là nhà vua.

Oâng vẫy tay cho bốn viên thị vệ, cùng Ngũ lính Thọ xương:

_ Các người lui ra, canh gác bên ngoài! Mọi việc ở đây do ta phát lạc.

Nhà vua chỉ Đông Hoa rồi vái Phạm Kính Ân:

_ Thưa thầy, con với tiểu cô nương đây quả có chút duyên giai ngẫu. Mong thầy tác thành cho.

Phạm Kính Ân biết nhà vua là người quang minh, thượng tôn luật pháp, ngài muốn ông xử vụ này như xử học sinh Quốc tử giám thực. Oâng chỉ nhà vua:

_ Vị này là một quư nam tử, học tṛ của tôi, địa vị tôn quư, không phải phường tham dâm, hiếu sắc. Con gái ông bà không chọn lầm người đâu.

Oâng vẫy một viên thị vệ:

_ Người gọi Đại tư, Câu đương xă Thụy hương đến gặp ta gấp.

Chú giải,

Quốc tử giám, Đại học Hoàng gia, được thành lập đầu tiên vào thời vua Lư Nhân Tông (1070), để dạy con, cháu nhà vua, con các đại thần. Trường cũng dành cho những học sinh ưu tú ngoài dân dă vào học, chuẩn bị thi Thái học sinh (Tiến sĩ). Học chế đời Trần như sau: mỗi làng, xă đều có thầy đồ dạy học hoặc ăn lương vua, hoặc không. Những học sinh xuất sắc làng-xă được tuyển vào học tại trường phủ-huyện. Mỗi phủ-huyện có một hay hai học đường. Học đường thiết lập ngay trước nha môn (văn pḥng huyện). Nhà vua ban sắc chỉ bổ nhiệm những nho sĩ có văn tài lĩnh chức Huấn đạo phụ trách học đường. Chức Huấn đạo uy quyền rất lớn, ngang với quan phủ-huyện. Thầy dạy tại học đường song song với vị Huấn đạo, c̣n có rất nhiều các thầy của làng xă. Vị Huấn đạo ngoài việc phụ trách giảng dạy học sinh, c̣n trách nhiệm trông coi việc thi hành giáo dục dân chúng, bảo vệ luân lư, lễ nghi, phong tục trong quản hạt.

Những học sinh phủ-huyện giỏi, được tuyển vào Quốc tử giám học, chuẩn bị thi Thái học sinh. Học sinh học Quốc tử giám được triều đ́nh nuôi, đài thọ ăn ở. Khu Quốc tử giám nay là khu Văn miếu Hà nội.

Quốc tử giám tế tửu, tức Viện trưởng Đại học hoàng gia. Thường th́ quan Thái phó kiêm nhiệm.

Kinh diên quan, giáo sư trường Quốc tử giám. Vị này c̣n phụ trách giảng sách cho nhà vua. Tức ông thầy của vua.

Đại tư, chức quan đời Trần, do dân một xă bầu lên, rồi được triều đ́nh ban sắc công nhận. Tương đương với ngày nay là chủ tịch hội đồng nhân dân xă.

Câu đương, chức quan đời Trần coi về pḥng vệ, an ninh xă. Chức này do quan phủ hay huyện bổ nhiệm. Tương đương với ngày nay là chỉ huy dân quân xă kiêm trưởng Công an xă.

Viên Thị vệ vừa quay ra th́ Đại tư, Câu đương xă Thụy hương đă tới. Hai người thấy Phạm Kính Ân th́ vái dài:

_ Tiểu nhân xin ra mắt Thái phó.

Phạm Kính Ân cho hai người ngồi, rồi ông chỉ nhà vua với Đông Hoa:

_ Tôi lĩnh Quốc tử giám Tế tửu. Tôi tới đây v́ mối lương duyên của một học sinh với giai nhân xă Thụy hương. Tôi xin đứng ra tác thành cho mối lương duyên này. Tuy nhiên Nhật Duy với Đông Hoa đă phạm lỗi, v́ chưa cheo cưới mà đă gần nhau đến mang thai. Phép vua, thua lệ làng, vậy Đại tư cho biết, xă sẽ phạt như thế nào?

Đại tư chắp tay:

_ Về cô gái, sẽ bị bắt khoán 15 quan tiền, bị đánh 20 roi mây giữa chợ. Nếu cô gái có tiền nộp thêm 5 quan th́ miễn đánh đ̣n.

_ Vậy c̣n người con trai?

_ Nếu là con trai trong xă phải làm việc công 20 ngày. Nếu có tiền nộp thay thế th́ phải 10 quan. C̣n con trai xă khác, bắt buộc nộp phạt 20 quan tiền.

Kính Ân tuyên án :

_ Nho sinh Nhật Duy đă trên 20 tuổi, nhà lại khá giả, phải nộp khoán cho ḿnh và cho Đông Hoa. Tổng cộng 40 quan tiền. Nhưng v́ là học tṛ giỏi bậc nhất trường Quốc tửû giám, nên phải nộp khoán gấp đôi, tức 80 quan tiền.

Tổng Thái giám Đại Lực móc trong túi ra một lượng vàng trao cho Đại tư :

_ Thôi th́ tôi xin nộp một lượng vàng thay chủ nhân. Một lượng ăn 200 quan tiền. Như vậy dư ra 120 quan. Trong xă Thụy hương có đền thờ thánh Chèm, tôi xin gửi 120 quan nhờ xă tu bổ đền thờ ngài.

Đại tư tiếp vàng, ḷng mừng chi siết kể.

Phạm Kính Ân hỏi bố mẹ Đông Hoa :

_ Sự cố của con gái ông bà quả có làm ông bà phiền ḷng, nhưng đây là mối lương duyên giai ngẫu giữa danh sĩ với giai nhân. Thời Lư, vua Thánh Tông chẳng từng thăm dân rồi gặp một gai nhân, sau ngài phong cho giai  nhân ấy tước Ỷ Lan phu nhân đó sao ? Ỷ Lan sinh ra vua

 

 

Đền thờ thánh Chèm (Lư Thân) tại xă Thụy Hương, Hà nội (H́nh VN santé)

vua Nhân Tông, vua tôn mẫu hậu là Linh Nhân hoàng thái hậu. Truyện cũ sáng như trăng rằm. Bây giờ Nhật Duy với con của ông bà như ván đă đóng thuyền, gạo đă thổi thành xôi, ông bà có bằng ḷng gả Đông Hoa cho Nhật Huy không ?

_ Đa tạ sư phó tác thành cho.

_ Oâng bà có đ̣i dẫn cưới ǵ không ?

_ Được rể quư, tôi xin cho không cháu Hoa.

_ Đông Hoa đẹp đến như thế kia, lại đàn ngọt, hát hay th́ đáng xây nhà vàng cho ở ; cho không thế nào được. Lễ dẫn ít ra ngh́n lượng vàng, ngh́n tấm lụa, trăm thúng gạo, chục trâu ḅ.

_ Dạ quá... lớn, sợ phúc đức nhà tôi không tới.

Phạm Kính Ân bấm đốt ngón tay :

_ Ngày 3 tháng sau là ngày tốt. Oâng bà đợi Nhật Duy chuần bị, dẫn cưới rồi sẽ xin rước dâu.

Tối hôm đó nhà vua về Hoàng thành. Ngài biết Thái hậu ( bà Trần Thừa) không thể chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhà vua t́m đến cung Tuyên minh thái hoàng thái hậu (bà Trần Lư, bà nội nhà vua), thú thực về truyện Đông Hoa. Tuy uy quyền của Thái hậu hiện tối cao trong cung, nhưng bà chỉ có thể đón Đông Hoa về, cho ở chung trong cung của bà, lĩnh chức Tu dung, một đẳng cấp rất thấp chỉ trên cung nữ một bậc. Thân phận Đông Hoa trong hoàng cung qúa nhỏ bé, song nàng được nhà vua sủng ái cùng cực. Nàng được trao cho cai quản đội nhạc cung đ́nh.

Ít tháng sau, Đông Hoa hạ sinh một hoàng nam. Hài nhi da trắng, môi hồng, mười phần tươi đẹp. Toàn hậu cung vui mừng. Nhà vua lấy tên Nhật Duy trong kỷ niệm mối t́nh với Đông Hoa đặt tên cho con. Tuy nhiên không ai dám bàn truyện lập Nhật Huy làm thái tử. Ba năm sau Thuận Thiên hoàng hậu sinh hoàng nam, nhà vua đặt tên là Nhật Hoảng, phong làm Thái tử. Rồi nhà vua có thêm nhiều hoàng nam.

Nhờ được Tuyên minh thái hoàng thái hậu dậy văn, luyện vơ, nên vơ công của Nhật Huy cao nhất trong các anh em. Năm Nhật Duy 13 tuổi, được mở phủ đệ riêng, được phong tước  Thái tử thiếu bảo, Đồng b́nh chương sự, Phụ quốc thượng tướng quân, tước Vũ Uy vương, trao cho trấn ngự Tây Bắc cương.

Sau trận đánh với Ngột Lương Hợp Thai, công lao của vương chỉ thua có Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương. Nguyên Phong hoàng đế lấy cớ tử quư mẫu vinh (con quư th́ mẹ vinh hiển) thăng Tu dung Đông Hoa lên hàm Tuyên phi, tức vượt 18 bậc.

Tuyên phi được nhà vua sủng ái nhất trong tất cả các phi tần. Bởi ngoài t́nh vợ chồng, giữa nhà vua với phi  c̣n là tri kỷ, tri âm. Khi phi hát th́ nhà vua kéo nhị, đánh trống mảnh, trống cơm; lại có khi nhà vua thổi sáo. Hồi mới nhập cung, phi được nhà vua truyền xây cho một cung riêng. Nhưng tính giản dị, lại sống trong dân đă quen, phi xin Bộ Công cất cho ngôi nhà tranh, đỡ tốn công nho, tốn sức của dân. Nhà vua muốn có nơi cùng phi thưởng thức âm nhạc, ngài ban chỉ dựng một  cái cḥi  gỗ bốn mái lợp tranh. Phi lấy tên làng của mẹ là Thụy khê đặt cho ngôi nhà. V́ vậy trong hậu cung gọi ngôi nhà đó là cung Thụy khê.

Dù bận quốc sự, dù có nhiều phi tần khác, nhưng ít nhất ba ngày một lần nhà vua cũng đến cung Thụy khê nghe hát, tấu nhạc.

Từ khi Đông Hoa nhập cung, được nhà vua sủng ái, tiếng đồn ra ngoài. Trên toàn quốc nảy ra phong trào lập Quán văn. Từ kinh đô tới các trấn, các phủ, huyện nơi nơi đều lập Quán văn. Quán văn là nơi mà các văn nhân, thi sĩ,  danh sĩ, tài tử, tới để cùng nhau xướng họa, ngâm vịnh. Quán văn cũng là nơi cho những tiểu thư, giai nhân đến treo bảng tuyền phu. Mặt khác Quán văn thường trực có những danh kĩ đến hát.

 Vũ Uy vương, vương phi nhập cung giữa lúc nhà vua kéo nhị, Tuyên phi vừa hát vừa đánh trống mảnh. Cả hai vị như bị âm thanh đưa lên mây, nhập vào thế giới khác, đến nỗi con trai, con dâu đến bái biệt mà không biết.

Đối với Vũ Uy vương, t́nh trạng này, vương từng thấy từ hồi c̣n thơ ấu. Duy vương phi, phi chỉ thấy phụ hoàng ngồi trên lưng ngựa xung vào trận tuyến Mông cổ, hay uy nghiêm thiết triều giữa hai hàng văn vơ đại thần. Bây giờ phi mới được thấy con người nghệ sĩ trong một hoàng đế.

Bản nhạc dứt, Nguyên Phong hoàng đế chợt thấy hai con, ngài chỉ ghế:

_ Các con ngồi đó đi. Ngày mai hai con lên đường, lĩnh trọng trách vô cùng trọng đại. Như hôm qua, trong buổi thiết triều đă định: các con được toàn quyền hành động, miễn sao đạt được mục đích:

Thứ nhất, gây chia rẽ trong hoàng tộc  Mông cổ, khiến các Hăn đem quân tàn sát nhau. Gây chia rẽ giữa ngoại thích với hoàng tộc. Gây chia rẽ giữa triều đ́nh với hậu cung. Gây thù hận giữa quân Mông cổ với dân chúng.

Thứ nh́, giúp Tống chống với Mông cổ, khiến cuộc chiến Mông-Tống kéo dài, càng dài càng tốt.

Thứ ba, ngăn cản, tiêu diệt những kẻ chủ xâm lăng Đại Việt. Điều khẩn cấp làm sao cho Mông cổ bỏ ư định đánh Đại Việt.

Nhà vua hỏi Vũ Uy vương :

_ Bắc cương chia làm hai khu vực. Khu Đông thuộc Ngũ yên giáp biển, và Quảng Tây. Trước đây là đất phong của An Sinh vương. An Sinh vương hoăng th́ Hưng Ninh vương, Hưng Đạo vương kế nhậm. Ta yên tâm. Khu Tây do con trấn nhậm mấy năm qua. Khu này phía Tây giáp với Lăo qua, không có ǵ đáng ngại. Duy khu Bắc, một phần giáp với Quảng Tây lộ của Tống, một phần giáp với Đại lư. Giữa khu ba biên giới có nhiều Bạc dịch trường (chợ biên giới). Đây là cửa thông giữa ta với Đại lư mang tên cửa Lê hóa, phủ Thiện xiển. Các khu đất này khi Tống mạnh th́ Tống thu thuế. Khi ta mạnh th́ ta thu thuế. Khi Đại lư mạnh, th́ Đại lư thu thuế. Vậy hiện ra sao?

_ Tâu phụ hoàng, khi lên trấn nhậm, con thấy Tống yếu quá. C̣n Đại lư th́ bị Mông cổ chiếm. Bọn Mông­ cổ  không để ư đến những khu đất mà dân không đông, tài nguyên chẳng có ǵ. Thần nhi nhân đó tiến quân vào, đặt đồn lũy kiểm soát, bổ nhiệm quan cai trị.

 

_ Ta có đọc tấu chương của con. Trước đây Tống mạnh, họ cắt những khu đất hoang ở vùng ba biên giới cho bọn trôm cướp. Con phải nhân dịp ta mạnh, chống Mông cổ ở phía Nam cho Tống, đặt vấn đề với Tống, bắt Tống buông chúng, nhân đó ta tiến quân vào giết bọn tướng cướp, lập thành khê động phiên dậu cho ta.

_ Con đă làm được một phần, đang làm một phần. Những châu, trang, động đó, con cho họ tự trị. Con chỉ kiểm soát tổng quát mà thôi. V́ vậy trong trận đánh vừa qua, Mông cổ tràn về Thăng long, coi thường các trang, động nàyï. Chúng đâu ngờ họ chính là những đội quân gây cho Mông cổ muôn vàn khó khăn ; đường tiếp vân của Mông cổ không qua vùng đất của họ được. Mông cổ muốn đánh các trang động này, c̣n khó hơn đánh vào các xă ấp của ta. Khu mật viện Bắc biên luôn cho Tế tác thu lượm tin tức đầy đủ. Khi hội với Tống,  con sẽ chiếm được thượng phong.

Nguyên Phong hoàng đế ngồi thẳng dậy, ngài ban chỉ bằng giọng nói hết sức tha thiết :

_ Có ba khu vực, mà thời Lĩnh Nam thuộc cương thổ Việt, bây giờ một thuộc Đại lư, hai thuộc Tống. Khu vực tiếp giáp với Bắc cương của con là châu Chiêu dương. Khi anh hùng Tượng quân nổi lên lập ra nước Đại lư th́ châu Chiêu dương thuộc Đại lư. Hiện dân chúng khu này bẩy phần Việt, ba phần Hán. Con phải nhân Đại lư hàng Mông cổ. Mông cổ không có quân đóng ở đây ; mà tiến quân tái lập nền cai trị  thành cương thổ Đại Việt.

_ Con sẽ hết sức làm.

_ Hai khu thuộc Tống gai góc nhất là châu Văn sơn, Khâu Bắc. Hai châu này  nằm ở Bắc Chiêu dương, cách xa Bắc cương của con đến hơn 200 dặm (100 km). Thời Lĩnh Nam thuộc Giao chỉ. Khi vua Trưng tuẫn quốc, th́ Hán cho thuộc Tượng quận, rồi bây giờ thuộc Quảng Tây lộ của Tống.

_ Aáy a ! Khó , quá khó ! V́ hai châu này được coi như một nước, chịu  sắc phong của Tống. Hiện chúng hàng Mông cổ. Mông cổ có một Thiên phu đóng ở đây.

_ Khó cũng phải làm cho được. Hai châu này đất đai trù phú. Trước kia là đất hoang. Tống đă cho bọn thổ phỉ họ Thân khai hoang, xưng láo là gịng dơi vua Lư Nhân Tông. Chúng lập thành triều đ́nh, gửi người về nước chiêu dụ con cháu họ Lư, chiêu dụ bọn vong mạng, bọn đầu trộm đuôi cướp lập hai khu thành một vương quốc. Dân số hiện lên tới hai mươi vạn người. Quân bộ của chúng tới năm vạn, quân kị năm ngh́n. Trong trận đánh vừa rồi, bọn này gửi tới hơn vạn thổ phỉ theo giúp Mông cổ.

Nhà vua nhấn mạnh :

_ Khi điều đ́nh với Tống, ta đang ở thế mạnh : ta nói cho họ biết bọn giặc họ Thân được Tống cưu mang bấy lâu mà bây giờ chúng phản Tống, theo Mông cổ. Chúng như thanh gươm kề vào hông Tống. Ta yêu cầu Tống nhắm mắt để ta đánh bọn thổ phỉ cho Tống. Ta hứa trao cho họ hơn ngh́n cao thủ vơ lâm, ta lại đang tập hợp Hoa kiều thành một hiệu binh gửi sang trợ Tống. Dù Tống đồng ư hay không, ta cũng tiến quân vào diệt bọn thổ phỉ, sau đó ta sát nhập hai châu trở về với cương thổ Đại Việt.

_ Thần nhi sẽ làm hết sức ḿnh.

Tuyên phi chỉ vương phi Ư Ninh :

_ Con có người vợ thế này th́ con phải hứa với phụ hoàng rằng con sẽ thực hiện được việc thu hồi đất tổ ; chứ không thể hứa làm hết sức ḿnh.

_ Thần nhi tuân chỉ của mẫu thân.

Tuyên phi tháo sợi giây chuyền có mang tượng Quan Thế Aâm, mà nhà vua ban cho phi trong buổi gặp mặt đầu tiên đeo vào cổ con dâu:

_ Đây là bảo vật phụ hoàng ban cho mẹ trong buổi sơ giao. Mẹ cho con, để vạn dặm trên đường bảo quốc, con sẽ được Quan Aâm phù hộ. Hôm nay mẹ đă làm cơm cho các con  ăn. Cơm chẳng có cao lương mỹ vị ǵ đâu: cà pháo mắm tôm, canh cua nấu với rau đay, rạm rang và chả rươi.

Phi dặn Vũ Uy vương :

_ Vừa rồi Mông cổ vào Thăng long, chúng truy lùng bắt đi rất nhiều danh ca. Quán văn Tây hồ bị bắt 4 người. Quán Văn miếu mất 11 người. Quán Ngocï thụy bị 3 người. Quán Nghi tàm bị 8 người. Quán Tô lịch đau xót nhất, Tô lịch thất tiên bị bắt rồi mất tích. Khi con đi sứ hăy để tâm nghe ngóng xem có tin tức ǵ không. Nếu có, t́m mọi cách cứu các nàng đem về.

Sứ đoàn chính thức gồm năm người, Vũ Uy vương Trần Nhật Duy, vương phi Trần Ư Ninh, Vũ Sơn hầu Tạ Quốc Ninh đi bằng ngựa. Đoàn tùy tùng do Đô thống Trần Quốc Kinh ( Dă Tượng), Nguyễn Địa Lô chỉ huy 30 Thiết kị Long biên hộ tống, 25 mă phu, đầu bếp, mười xe song mă chở y phục, vật dụng, lương thảo. Tất cả hướng bến đ̣ Bắc ngạn.

Giữa lúc sứ đoàn dang chuẩn bị lên đường th́  chú của Nguyễn Địa Lô từ trần. Vũ Uy vương cho Lô về chịu tang, rồi lên đường sau.

Vương phi Ư Ninh xin phép vương đi Thiên trường, đến chùa Thần quang bái biệt sư phụ là Bồ tát Vô Huyền. Ngựa dừng vó ở cổng chùa, đă có một nữ đệ tử đón :

_ Sư tỷ. Sư phụ đang chờ sư tỷ ở bảo điện.

Ư Ninh trở lại nơi nàng từng tu, từng học mấy năm liền. Từ  hồi tuân chỉ sư phụ, cùng anh trấn thủ Phù lỗ, phải rời chùa, thấm thoát đă hơn năm. Bây giờ trở lại đất cũ : cảnh vẫn như xưa. Ḷng tưởng nhớ sư phụ, phi rảo bước đến bảo điện, đẩy cửa bước vào. Sư phụ ngồi trên tấm bồ đoàn bằng rơm rất dầy. Phi quỳ gối đỉnh lễ :

_ Đệ tử bái kiến sư phụ.

Vô Huyền chỉ chiếc bồ đoàn nhỏ bên cạnh ngài :

_ Con ngồi đó đi. Có phải triều đ́nh sai Nhật Duy đi làm con tin Mông cổ không ?

_ Dạ ! Đúng như sư phụ dạy.

_ Có phải Mông cổ đ̣i Đại Việt phải chịu sáu điều không ? Sáu điều đó ra sao ?

_ Tŕnh sư phụ sáu điều là :

Một là đích thân quốc vương phải vào chầu,

Hai là đem trưởng nam làm con tin,

Ba là kê biên dân số,

Bốn là phải chịu quân dịch,

Năm là phải nộp thuế, lương thảo.

Sáu làø nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) .

Bồ tát cười:

_ Bọn Mông cổ ngông cuồng thực. Vừa bị đánh tan tác, mà chúng c̣n muốn dương oai. Ta chắc lăo Thủ Độ sẽ không chịu bất cứ điều nào. C̣n triều đ́nh cử Nhật Duy với con đi với mục đích khác phải không?

_ Sư phụ thực minh kiến.

_ Triều đ́nh cử một sứ đoàn đông đảo như vậy, chi tiêu tốn kém lắm. Riêng con, lúc ta cho con xuất chùa, trong túi có không quá hai quan tiền. Tiền đó, chỉ  đủ cho con ăn quà không quá một tháng. Vậy từ hồi ấy đến giờ con lấy ǵ mà chi tiêu?

_ Hồi trấn thủ Phù lỗ con không có dịp tiêu tiền. Sau khi rời Phù lỗ, con với anh Duy yết kiến phụ hoàng trên con thuyền. Người ban chỉ cho chúng con thành vợ chồng. Chúng con bái lậy phụ hoàng, hướng về Thiên trường bái lậy liệt tổ Đông A, bái lậy sư phụ, rồi rời thuyền, lăn xả vào cuộc chiến 10 ngày, 11 đêm ngăn không cho giặc về Thiên trường. Nên cũng không có dịp tiêu tiền.

Vô Huyền bật cười:

_ Trong lịch sử Đại Việt chưa từng có một cặp trai gái nào lấy nhau kỳ lạ như vợ chồng con. Không bái thiên địa, cũng chẳng lễ Tơ Hồng. Không một chung rượu, chẳng một miếng thịt cho lễ cưới. Ta chắc động pḥng ít ra vài ngày sau!

_ Dạ, 18 ngày sau, khi chúng con tái chiếm núi Côi!

_ Khi một hoàng tử cưới chánh phi, th́ triều đ́nh ban cho vàng ít ra ngàn lượng, c̣n ngọc, ngà, châu báu. Ta chắc con không được ǵ!

_ Trong lúc phụ hoàng ban chỉ chúng con thành vợ chồng trên con thuyền, người chẳng c̣n ǵ! Hết giặc, quốc khố trống rỗng. Cho đến lúc này người cũng không c̣n ǵ mà ban cho.

_ Con phải nhớ nhé:

Con không chê cha khó,

Chó không chê chủ nghèo.

Con với Nhật Duy đừng v́ không được ban vàng ngọc mà oán phụ hoàng.

_ Dạ!

_ Khi rời ta đi trấn Phù lỗ, ta thấy con có đeo hoa tai, kiềng, ṿng ngọc. Thế sao bây giờ trên người con không c̣n ǵ?

_ Dạ! ?Nữ trang đó con ban thưởng cho mấy nữ tướng ngưu binh rồi!

_ Từ cổ chí kim, ta chưa từng thấy một vương phi nào, trên người không một chút nữ trang. Thế phụ hoàng phong cho con tước ǵ?

_ Dạ Thạc ḥa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Cho hưởng 300 mẫu ruộng.

_ Thế ruộng ấy con thu tô ra sao?

_ Thưa! Con không thu tô, cho tá điền nghèo cấy.

_ Đức con cao quá! Xứng đáng học tṛ của ta. C̣n chồng con?

_ Từ hồi Tổng trấn Bắc cương anh ấy được phong:

Thái tử thiếu bảo,

Đồng b́nh chương sự,

Phụ quốc thượng tướng quân,

Tước Vũ Uy vương, trao cho trấn ngự Bắc cương.

Thực ấp Vạn hộ.

Nhưng anh ấy thu thuế rất nhẹ, dùng tiền để trả lương cho các quan phủ Vũ Uy. Vợ chồng con chi tiêu bằng bổng Phụ quốc thượng tướng quân.

_ Bổng đó th́ ăn uống dè sẻn lắm mới đủ. Thôi hôm nay ta cho con ít vàng, để trên đường đi sứ không túng thiếu.

Ngài gọi một ni sư:

_ Con xuất cho Ư Ninh 100 nén vàng (1 nén=10 lượng).

Ư Ninh lậy tạ sư phụ. Vô Huyền ban chỉ :

_ Con đi kỳ này sẽ có nhiều khó khăn. Sư phụ đă chuẩn bị cho con một đội Mê linh kiếm trận, gồm 6 nam, 6 nữ. Chúng đều biết làm bếp. Chúng sẽ giả làm đầu bếp của sứ đoàn.

Ư Ninh bái biệt sư phụ, cùng 12 sư đệ, sư muội lên đường.

Thời Trần, thành Thăng long có năm cửa, bởi vậy trong bài ca dao Đố ai đă đặt câu hỏi :

Thành nào năm cửa chàng ơi ?

Do ảnh hưởng của ca dao, sau này thi sĩ Vũ Hoàng Chương lầm cửa ô với cửa thành, ông có câu thơ nhắc lại Hà nội có năm cửa ô như năm cánh ngôi sao. Hồi 1954, Văn Cao lại cũng lầm lẫn cửa ô với cửa thành trong bài hát Tiến về Thủ đô có câu Năm cửa ô đoàn quân tiến về.

         Tại bốn cửa chính của thành Thăng long có tượng bốn vị thần trấn thủ. Hướng Bắc gọi là Kinh bắc, ngày nay bao gồm Bắc ninh, Bắc giang cho tới Lạng sơn, Cao bằng. Trấn đông gồm Hồng châu thượng, Hồng châu hạ, nay là vùng Hải dương, Hưng yên, Hải pḥng. Trấn nam gồm Sơn nam thượng, Sơn nam hạ, nay là Nam định, Hà nam, Thái b́nh. Trấn đoài gồm Hà đông, Hưng hóa, Ḥa b́nh, Sơn tây.

         Kinh thành có 24 cửa ô, là cửa ngơ có đường thông ra bốn trấn. Ngày nay chúng ta c̣n nghe nhắc tới những tên như cửa ô Yên hoa (nay là Yên phụ), cửa ô Thạch khối (nay là Thạch tân), cửa ô Quan chưởng.v.v.

Bến đ̣ Bắc ngạn nối Thăng long với Gia lâm, nằm trên bờ sông Hồng. Nay ở phía Nam và Bắc cầu Long biên Hà nội. Bến đ̣ cắt ngang con đường Cái quan, giao thông giữa Thăng long với Kinh Bắc; giữa miền Nam với miền Bắc Đại Việt. Cho nên dọc hai bên bờ, hàng quán, nhà trọ nối dài đến hai ba dặm (1 km- 1,5km), cung ứng nhu cầu ăn uống, chuyên chở, giải trí cho khách đi đường xa; và cũng là nơi bán các sản vật địa phương. Bến Bắc ngạn quanh năm nhộn nhịp, dưới sông có hằng mấy trăm con đ̣ chở người, chở vật sang sông. Lại có những bang hội vận tải, chở khách từ Thăng long đi nội địa như Thiên trường, Kinh bắc, Tiên yên, Thanh hóa, Nghệ an và sang Trung nguyên, Chiêm thành. Trên mỗi con thuyền lớn chở khách sang sông, đều có những nghệ nhân tấu nhạc, ca hát giúp vui. Các nghệ nhân này sống nhờ tiền tặng của thính giả. Gọi là Xẩm.

Sứ đoàn không qua sông bằng dân thuyền, mà được vận chuyển bằng hai chiến thuyền của Thủy đội Thăng long. Với 59 người ngựa thêm hàng chục xe song mă cần tới 10 lượt. Cuộc vượt sông ít ra phải nửa buổi. Vũ Uy vương ra lệnh cho Dă Tượng chỉ huy đoàn tùy tùng vượt sông trước. C̣n sứ đoàn sẽ sang sau.

Vừa hết chiến tranh, mà khu Bắc ngạn đă phục hồi. Mấy tháng trước, Kị binh Mông cổ không thể nào qua sông, v́ dân chúng tuân theo lệnh triều đ́nh, dấu ghe thuyền vào các kinh lạch. Nhưng nào ngờ tám bang hội Hoa kiều theo giặc, chúng t́nh nguyện chở quân sang sông. Chúng c̣n hiến kế cho giăc: dùng cường lực đến từng nhà chủ đ̣ bắt chở quân qua sông, bằng không sẽ đốt cháy hết các dẫy nhà hai bên bờ. Biện pháp này quả thực hiệu nghiệm, quân Mông cổ qua sông, vào Thăng long, do vậy nhà cửa hàng quán Bắc ngạn c̣n nguyên. Giặc vừa rút khỏi Thăng long, th́ các cửa hàng buôn bán lại mở cửa đón khách nhộn nhịp hơn xưa.

Quân dân đời Trần rất gần nhau. Người dân thấy đoàn người-ngựa, gươm-đao, giáp-trụ sáng choang, hằng chục xe song mă qua sông; họ hướng mắt nh́n bằng vẻ thân thiết, rồi tránh sang vệ đường vẫy tay chào. Đám trai tráng c̣n bỏ công việc hàng quán, ra giúp quân, phụ mă phu đẩy những cỗ xe nặng nề.

Sứ đoàn đi sau đội Kị binh. Vũ Uy vương, Dă Tượng  mặc quần áo nâu như nông dân. Tạ Quốc Ninh mặc như một nho sĩ. Vương phi mặc vơ phục của đệ tử phái Mê linh. Người ngoài cuộc tưởng bốn người với đội hộ vệ là hai nhóm người khác nhau.

 Những đứa trẻ chào mời khách thấy bốn người cỡi ngựïa th́ ào tới nắm dây cương:

_ Các ông ơi mua mía đi, mía ngọt lắm.

_ Các chú ơi, mua bánh gai đi. Bánh gai Thiên trường vừa thơm vừa ngọt.

Cô bán bún chả tuổi khoảng hai chục,  tay quạt, tay trở những xâu thịt:     

_ Mời khách quan xơi bún chả đi. Bún chả Thăng long thơm ngát, béo ngậy đi.

Một bà tuổi trên dưới bốn chục, ngồi trong quán đon đả:

_ Chả rươi Thiên trường đi, rươi tươi làm với trần b́ chính tông, thơm ngon tuyệt trần. Không ngon, không lấy tiền.

Ngay sát mé sông là một Quán văn với tấm bảng sơn son thiếp vàng có bẩy chữ:

Thiên Thư thính văn tụng phú quán,

(Quán sách trời, nơi đọc văn, tụng phú)

Nét chữ sắc như gươm. Trước quán bầy mươi cành đào, mấy chậu cúc Vạn thọ, mấy chậu quất trái vàng óng ánh, hai ba cái vại lớn thả cá chép vàng. Giữa quán có một bàn thờ giản dị, một bài vị với  bẩy chữ:

Liệt tổ Đại Việt chi linh vị,

Cạnh bài vị, một lư hương, khói bốc nghi ngút. Trên bàn thờ bầy la liệt sách, có khổ lớn, có khổ nhỏ, có sách dầy, có sách mỏng. Trong quán có hốn hàng ghế, mỗi hàng năm ghế. Mỗi ghế ngồi được năm người. Khách khoảng gần trăm, đủ loại già, trẻ, nam nữ đang uống trà, nghe  thầy đồ kể truyện.

Trên một vách ngang treo khá nhiều bút thiếp, vách đối diện treo hai cây cung của Mông cổ, một thanh đao, một thanh kiếm. Lại có chiếc sập, với năm nhạc công, một ca nhi ngồi chờ tấu nhạc.

Một trung niên nam tử, trang phục như nho sĩ, dường như là chủ quán, đứng trước cửa, tay cầm  cành đào, hoa nở đỏ rực:

_ Hoa đào Thụy khuê đây. Đào nở mừng chiến thắng Đông bộ đầu này. Mời quư khách vào quán trước xin xâm đầu năm, sau nghỉ chân, ngắm hoa, nghe thơ, thưởng thức âm nhạc.

Thấy sứ đoàn, anh ta mở to mắt nh́n, chau mày phỏng đoán, phân biệt xem bốn người là loại người nào?  Nhưng dường như anh ta không đoán ra được.

Vương phi Ư Ninh thấy vui vui hỏi anh ta:

_ Này anh! Anh mời chúng tôi mua hoa đào hay nghe âm nhạc? Anh cho biết cao danh quư tính đi!

Thấy một phụ nữ trẻ lưng đeo kiếm, mặc vơ phục, anh ta trả lời với ngôn ngữ khách khí:

_ Thưa phu nhân kẻ hèn này chỉ là một nho sinh, th́ làm ǵ có danh mà cao, có tính mà quư. Xin phu nhân cứ gọi là Nho Lâm đi. Kính mời phu nhân vào quán xơi nước, trước nghe hát, sau mua đào.

_ À! Th́ ra anh cũng thuộc hàng tao nhân, mặc khách đấy. Tôi hỏi anh câu này nhé: hoa đào là hoa đào, cứ xuân đến th́ đào nở, tại sao anh bịa ra rằng hoa đào nở mừng chiến thắng Đông bộ đầu? Anh nói điêu rồi.

Tất cả khách trong quán thấy có cuộc trao đổi thanh nhă, đều im lặng hướng mắt ra ngoài theo dơi.

Nho Lâm chắp tay vái dài:

_ Thưa phu nhân, mọi năm phải cuối tháng giêng th́ đào mới nở. Thế mà hôm nay là ngày rằm, đào đă trổ hoa rực rỡ thế này đây! Như vậy là hoa nở để chào mừng chiến thắng, thực rơ ràng. Giá ba đồng một cành. Tôi không hề nói điêu.

Vương phi móc túi trao cho Nho Lâm ba đồng, rồi tiếp lấy cành đào:

_ Ừ th́ anh không nói điêu. Nhưng anh nói sai rồi. Đại Việt chúng ta chiến thắng bẩy trận: Thảo nguyên, B́nh lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản, Thăng long, Đông bộ đầu, Đồng văn. Trong đó Đông bộ đầu chỉ là một trận thôi. Vậy đào nở để mừng chiến thắng toàn quốc mới phải chứ!

Nho Lâm  mỉm cười cố căi:

_ Dạ thưa phu nhân, trong bẩy trận, th́ sáu trận lúc đầu ta thua, sau mới thắng. Chỉ duy trận Đông bộ đầu là ta toàn thắng mà không bại. Đây là Thăng long mà, Đông bộ đầu thuộc Thăng long nên thần sông Tô lịch, Thần hồ Tây, thần Trấn quốc sai đào nở sớm mừng chiến thắng Nam quốc sơn hà Nam đế cư đấy. Có phải không phu nhân? C̣n một loại đào nở mừng chiến thắng toàn quốc nữa kia! Đó là đào Nguyên Phong.

Vũ Uy vương thấy Nho Lâm nói năng văn vẻ th́ cùng vương phi, Tạ Quốc Ninh, Dă Tượng vào quán. Một tiểu đồng bưng nước mời khách, nó  chỉ một ghế trống:

_ Kính mời quư khách an tọa. Quư khách xơi nước muồng đi. Nước  muồng vừa thơm, vừa dễ ngủ.

Vương phi thấy tiểàu đồng dễ thương qúa, phi tát yêu nó rồi tặng cho mười đồng tiền:

_ Cô mừng tuổi cho con này! Trong quán con có những nước ǵ?

Tiểu đồng khoanh tay cúi đầu:

_ Thưa cô có các loại nước sau đây: Nước vối hơi đắng ngủ ngon, dễ tiêu. Nước chè tươi tỉnh trí, lợi tiểu. Nước gạo rang với gừng khô ấm bụng. Nước pha con lấy trong giếng đấy. Chứ nước sông Hồng th́ hôi, tanh lắm.

_ Sao thế?

Đọc tiếp trang 2 

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :