Phân kỳ lịch sử Văn học từ đầu thế kỷ
XXI
Phần I
Nguyễn Huệ Chi
Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử Văn
hóa nh́n từ điểm đầu của thế kỷ 21 Phân kỳ lịch sử văn học bao giờ
cũng là một vấn đề có sức hấp dẫn đối với người viết văn học sử, bởi
đó là cái ch́a khóa then chốt để có thể nhận diện văn học như sự nối
tiếp của nhiều tiến tŕnh. Ở điểm bắt đầu của thế kỷ XXI này, chắc
có lẽ người nghiên cứu văn học nào cũng muốn nh́n lại, muốn có một
sự h́nh dung tổng quát về các bước đường đă qua của văn học Việt Nam
trong ṿng 11 thế kỷ, chí ít là trong một thế kỷ vừa mới kết thúc,
để dự liệu bước đi của nó trong thế kỷ đang tới.
Bản thân người viết bài này tuy đă ba
lần bàn đến phân kỳ lịch sử văn học dân tộc vào các năm 1985 (1) ,
đầu 1990 (2) và cuối 1990 (3) nhưng giờ đây vẫn cứ muốn xem xét lại
chỗ sai chỗ đúng, chỗ khả thủ và chỗ bất cập trong nhận thức của
chính ḿnh, trên vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ th́
đây là một vấn đề không đơn giản. Bởi lẽ, trong 15 năm qua đă diễn
ra những sự kiện đảo lộn có tầm thế giới, có khả năng làm thay đổi
quan niệm của chúng ta về cấu trúc lịch sử, trong đó có cấu trúc của
lịch sử văn học. Nếu nói thật khoa học th́ yêu cầu đặt ra là phải
nh́n lại cái đă diễn ra như nó có bằng một hệ quy chiếu mới thay thế
cho hệ quy chiếu cũ đă mất sức thuyết phục, và do đó, nhiều điều
phải nh́n lại tận gốc và nh́n lại từ đầu. V́ thế, bài viết này chưa
có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề của phân kỳ lịch sử văn
học viết Việt Nam từ thế kỷ X cho đến tận hôm nay. Chúng tôi chỉ xin
nêu lên mấy gợi ư về một số mốc phân đoạn văn học viết Việt Nam qua
các thời kỳ, và tất nhiên là c̣n rất sơ lược.
XÁC ĐỊNH MỘT VÀI NGUYÊN TẮC PHÂN KỲ
Trước hết xin trở lại với một vài
nguyên tắc chung về việc phân kỳ lịch sử văn học mà tôi đă từng đề
xuất. Cần nói rằng, quan tâm đến vấn đề này về mặt lư thuyết, không
phải chỉ có ḿnh tôi mà c̣n có các nhà nghiên cứu khác. Ngoài những
học giả đi trước, cùng một thời điểm với tôi c̣n có các Gs. Nguyễn
Lộc (4) , Trần Đ́nh Hượu (5) , Đỗ Đức Hiểu (6) , và gần đây hơn cả
là Gs. Trần Đ́nh Sử (7). Trong chừng mực nào đó, khi tŕnh bày vấn
đề, tôi sẽ kết hợp đề cập đến ư kiến của các ông.
Khác với nhiều ư kiến muốn coi phân
kỳ văn học hoàn toàn trùng hợp với việc t́m ṭi các dạng thức biểu
hiện của những quy luật đặc thù đă chi phối sự vận động của mọi tiến
tŕnh văn học sử, tôi cho rằng phân kỳ chủ yếu là đi t́m những quy
ước thuận tiện nhất, nhằm tŕnh bày một cách sáng tỏ các chặng đường
lớn nhỏ của lịch sử văn học Việt Nam. Bởi lẽ, theo tôi, t́m cho được
cái quy luật của chính văn chương đă chi phối các hiện tượng, các
trào lưu... diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó, để ấn định
rằng đó đích thực là một giai đoạn hoặc một thời kỳ văn học có tính
độc lập tương đối, là việc lư tưởng nhưng không kém khó khăn. Một
giai đoạn văn học bao giờ cũng được h́nh thành do nhiều yếu tố, có
yếu tố nội tại và có yếu tố bên ngoài, có cả những yếu tố ngẫu nhiên,
mà nh́n cho ra cái nào là bản chất nhất, đâu phải dễ dàng. Có khi
giữa một chặng đường này và một chặng đường kế tiếp, diện mạo và
chiều hướng của văn học có vẻ vẫn giống nhau, trách nhiệm xă hội và
yêu cầu mỹ học đối với văn chương vẫn chưa thay đổi, nhưng sâu bên
trong, do tác động thầm kín của lịch sử, chuyển động của sáng tác đă
không c̣n như cũ. Bảo rằng đấy vẫn chỉ là một giai đoạn thôi th́
đành là không ổn, song để phân suất cho được đâu là phẩm chất cốt
lơi làm nên bước ngoặt mới, nếu chúng ta thực sự cầu thị chứ không
g̣ gẫm khiên cưỡng, chỉ cốt nói lấy được, hẳn chưa chắc đă dám nói
quyết đấy là ǵ.
Mặt nữa, văn học thường bao giờ cũng
diễn biến theo quy luật tiệm tiến, thảng hoặc lắm mới chứng kiến một
bước tiến nhảy vọt, một đột biến khác thường. Và giữa quá tŕnh sau
với quá tŕnh trước bao giờ cũng có sự giao thoa, xen kẽ, chứ ít khi
đứt đoạn. Đem một cái mốc cắm vào cho lịch sử văn học, vô h́nh trung
ta đă tạo ra một mặt cắt trái với tự nhiên, làm cho văn học không
c̣n phản ánh đúng sự vận động tự thân của nó. V́ thế, dựa vào ư kiến
của Karl Marx trong "Lời nói đầu" bộ Tư bản phân biệt lôgic nghiên
cứu và lôgic tŕnh bày, rằng lôgic tŕnh bày cần phản ánh lôgic
nghiên cứu nhưng không nhất thiết theo sát lôgic nghiên cứu, tôi cho
rằng phân kỳ lịch sử văn học là thuộc về lôgic tŕnh bày. Nó là quy
ước nhận diện và tŕnh bày lịch sử văn học. Tất nhiên, đă là quy ước
th́ không ai lại nghĩ rằng chỉ có một cách tŕnh bày nào đấy là
tuyệt đối đúng. Nếu như lôgic nghiên cứu giúp ta nhận thức bản chất
của sự vận động th́ lôgic tŕnh bày giúp ta miêu tả bản chất ấy bằng
các h́nh thái vận động tương ứng, qua đó người đọc có thể tiếp nhận
đối tượng một cách nhất quán, phù hợp với nhận thức của ḿnh. Tùy
theo tính chất từng loại quy ước mà lôgic tŕnh bày có thể rất khác
nhau, miễn sao quy ước - từ bên ngoài đối tượng - phải nhập thân vào
đối tượng và soi rơ tŕnh thức và bước đi của đối tượng. Mỗi bộ văn
học sử tuân thủ một quy ước tŕnh bày riêng, cũng tức là xác định
phương pháp loại biệt của bộ sử đó, trên cơ sở một đối tượng chung
là lịch sử văn học. Xét trên phương diện này, quy ước tŕnh bày nào
cũng có thể phát huy được ưu điểm nếu được sử dụng đúng đắn, trong
đó không loại trừ cách tŕnh bày văn học theo thế kỷ hay theo triều
đại mà các nhà viết văn học sử trước Cách mạng tháng Tám đă từng làm,
vốn cũng khá thích hợp với số đông bạn đọc chúng ta quen tư duy theo
thời gian, theo thập kỷ và thế kỷ, hoặc quen nhận diện quá khứ theo
tên gọi của các vương triều Lư, Trần, Lê, Nguyễn.
Ư kiến trên đây của tôi nêu ra cách
nay đă 15 năm, năm 1990 được bổ sung và viết lại để in vào cuốn Các
vấn đề của khoa học văn học do PGs. Trương Đăng Dung chủ biên. Không
ngờ trong bộ sách này cũng có một bài viết của Klanixoi Tiborơ bàn
về khái niệm thời kỳ văn học; tác giả người Hung đó cũng tóm lược
hai chủ trương phân kỳ đối lập nhau trong văn học sử châu Âu gần
đúng với t́nh h́nh giới nghiên cứu nước ta cùng thời điểm trên (8) .
Cần nói rằng ở miền Nam trước 1975, học giả Thanh Lăng đă từng có
một quan niệm phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam tương đối thấu đáo.
Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam công bố năm 1967, sau khi
điểm lại cách phân chia thời kỳ văn học của các bộ văn học sử đă
xuất hiện cho đến đầu những năm 60 (kể cả các bộ văn học sử của miền
Bắc), Thanh Lăng đă đưa ra một nguyên tắc then chốt làm tiêu chí
phân kỳ cho ḿnh : "Chúng ta không vơ đoán, đề cao hay chối bỏ một
tiêu chuẩn nào trong các tiêu chuẩn mà các nhà đi trước áp dụng như
tiêu chuẩn triều đại hay thế kỷ, nhưng chúng ta chỉ chấp nhận là
tiêu chuẩn khi nào quả thực cái tiêu chuẩn ấy có bế mạc hay khai mạc
một cái ǵ gọi là cái vốn chung cho một thời đại và riêng biệt cho
chính thời đại ấy" (9) ; "Nói tóm lại, tiêu chuẩn của chúng ta theo
để chia thời kỳ cho văn học là lựa chọn một niên lịch nào đó (có thể
là một niên lịch chính trị, lịch sử, văn học, hay thế kỷ) đă xô đẩy
những biến cố văn học - tôi nhắc đến bốn chữ biến cố văn học - khiến
cho với những biến cố ấy, niên lịch ấy :
- Một đằng, bế mạc sự diễn hành của
một hay những hiện tượng văn học của một thời đại;
- Một đằng khai mạc sự xuất hiện của
những hiện tượng mới trở thành như một cái vốn, cái gia tài chung
cho cả một thời đại vừa khai mạc;
- Đằng khác ghi nhận được cá tính của
thời đại đó như là một xuất hiện đặc thù, khác thời đại mà nó bế mạc
và khác luôn cả thời đại mà rồi đây sẽ bị thay thế.
Tuy vậy, trong lĩnh vực văn học có
khi c̣n phải linh động hơn ở những địa hạt khác, khi ta chọn một
niên đại làm điểm khởi cho một thời kỳ văn học th́ ta nên hiểu nó
một cách tương đối, có nghĩa như là những năm quanh quẩn đó, hoặc
trước một tư hoặc sau một tư, chứ không hiểu một cách máy móc là
chính ngày đó, tháng đó, năm đó.
Đằng khác, khi bảo bước sang một thời
kỳ mới không phải bảo rằng mỗi thời kỳ mới phải là một đường ranh
giới rạch đôi, xé rách nếp sống một phần nào vẫn liên tục của văn
học. Như cuộc sống của một đoàn thể trước mỗi biến cố, đều có thể
thay đổi, biến hóa nhưng chẳng khi nào đi từ cái không này qua cái
không khác, cuộc sống văn học qua mỗi thời đại có mang những sắc
thái đặc thù, nhưng cũng chẳng bao giờ hoàn toàn gián đoạn với dĩ
văng" (10) .
Có thể thấy, những nguyên tắc mềm dẻo
do Thanh Lăng đề khởi rất phù hợp cho việc lựa chọn một cách linh
động các chặng mốc văn học, và về căn bản không khác biệt nhiều lắm
với những nguyên tắc mà chúng tôi đă gợi ư về tính chất ước lệ không
tránh khỏi của việc phân kỳ văn học sử Việt Nam.
Gần đây, khi được đọc bộ Trung Hoa
văn học thông sử 10 quyển do Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc
thuộc Viện hàn lâm khoa học xă hội Trung Quốc biên soạn năm 1997,
một thực tế càng làm cho tôi phải ngẫm nghĩ là các nhà văn học sử
Trung Quốc thuộc thế hệ hôm nay chứ chưa xa xôi ǵ, đă chọn cách
phân kỳ theo triều đại để tiếp cận một thời kỳ dài hơn 2000 năm của
văn học Trung Hoa. Trong bộ sách này, các tác giả đă phân chia lịch
sử văn học Trung Quốc từ thời Xuân thu Chiến quốc đến giữa thế kỷ
XIX (1840) thành bảy giai đoạn :
1. Giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán;
2. Giai đoạn Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều;
3. Giai đoạn Đường, Ngũ đại;
4. Giai đoạn Tống, Liêu, Kim;
5. Giai đoạn Nguyên;
6. Giai đoạn Minh;
7. Giai đoạn Thanh (11) .
Sự kết nối các nhóm triều đại thành
một giai đoạn trong sách nhiều khi cũng không nhất thiết là v́ văn
học giữa các triều đại đó đồng dạng với nhau, chẳng hạn như giai
đoạn Tiên Tần, Tần, Hán th́ giữa Tiên Tần (tản văn triết học) và Hán
(phú), văn học khác nhau rất nhiều; hay như giai đoạn Tống, Liêu,
Kim, cũng chẳng thể nói nền tảng văn chương của các triều này có mối
tương quan mật thiết. Một bộ sách khác có tên Trung Quốc văn học
sửcông bố năm 1999, ngoài b́a mang ḍng chữ "giáo tŕnh hướng tới
thế kỷ XXI", của một nhóm Giáo sư đại học tiêu biểu mà Viên Hành Bái
ở Đại học Bắc Kinh là người chủ biên, th́ đă có những cách tân chừng
mực trong việc phân kỳ. Họ chia lịch sử văn học Trung Quốc từ thời
Tiên Tần đến năm 1919 thành ba thời kỳ gọi là "tam cổ", gồm bảy giai
đoạn gọi là "thất đoạn" :
1. Thời kỳ Thượng cổ từ thế kỷ III
trở về trước (gồm 2 giai đoạn : a. Giai đoạn trước Tần; b. Giai đoạn
Tần Hán);
2. Thời kỳ Trung cổ từ thế kỷ III đến
thế kỷ XVI (gồm 3 giai đoạn : a. Giai đoạn Ngụy Tấn đến hết niên
hiệu Thiên Bảo nhà Đường; b. Giai đoạn giữa nhà Đường đến hết nhà
Nam Tống; c. Giai đoạn đầu nhà Nguyên đến hết niên hiệu Chính Đức
nhà Minh);
3. Thời kỳ Cận cổ từ thế kỷ XVI đến
đầu thế kỷ XX (gồm 2 giai đoạn : a. Giai đoạn mở đầu niên hiệu Gia
Tĩnh nhà Minh đến chiến tranh Nha phiến 1840; b. Giai đoạn từ chiến
tranh Nha phiến đến cuộc vận động Ngũ tứ 1919). Theo các tác giả,
đây là một quan điểm mới mẻ nhằm chống lại cách phân kỳ bám sát từng
triều đại, có giá trị "phản ánh tính giai đoạn của các tiến tŕnh
biến hóa phát triển của bản thân văn học". Tuy thế, họ vẫn không thể
không "xem xét các tiến tŕnh ấy trong quan hệ tham chiếu với các
biến cố hệ trọng khác, như biến cải của chế độ xă hội, thay đổi của
vương triều", trên thực tế là phối hợp các mốc triều đại với mốc thế
kỷ để phân đoạn cho lịch sử văn học. Mặt khác nói ǵ th́ nói, họ vẫn
phải thừa nhận "cách phân kỳ theo triều đại trong các tập giáo tŕnh
và các công tŕnh nghiên cứu trước mắt quả t́nh phù hợp với tập quán
xưa nay, về thao tác lại tiện lợi, không những thế, sự đổi thay của
các triều đại trong lịch sử cũng đă mang đến cho văn học những biến
đổi thịnh suy đích thực, như Hán thịnh ở phú, Đường thịnh ở thơ,
Tống thịnh ở từ, Nguyên thịnh ở khúc" (12) .
Điều đáng đặt dấu hỏi là khoa lịch sử
văn học Trung Quốc đă có từ rất lâu và thành tựu phong phú hơn hẳn
chúng ta, việc tiếp xúc của giới văn học sử gia Trung Quốc với khoa
học phương Tây tất nhiên cũng thuận lợi hơn chúng ta rất nhiều. Vậy
mà tại sao sau bao nhiêu năm t́m ṭi, họ vẫn quay trở lại thừa nhận
những cách phân kỳ có thể nói là cổ điển nhất? Phải chăng như tôi đă
nói, phân chia lịch sử văn học rốt cuộc chỉ là quy ước, quy ước nào
làm nổi bật được ḍng chảy của lịch sử văn học và làm cho người đọc
dễ tiếp nhận th́ quy ước đó trở nên thông dụng ?
Nhưng thật ra, ngay đối với những nhà
văn học sử Tây Âu đương đại, vấn đề phân kỳ văn học sử cũng được
quan niệm khá thông thoáng, không mấy "tân kỳ" đến như ta tưởng. Nếu
quan điểm của Lanson - chủ yếu là chia văn học theo thế kỷ - đă ngự
trị bộä môn lịch sử văn học Pháp và châu Âu từ cuối thế kỷ XIX cho
đến tận đầu những năm 1960 (13) , th́ ở nửa cuối thế kỷ XX đă có
thêm nhiều cách phân chia khác mà về mặt lựa chọn tiêu chí, có vẻ
rộng răi và ít g̣ bó hơn. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của
M. H. Abrams, Gs. Trường đại học Cornell, in lần thứ 7 năm 1999,
phát hành ở cả Mỹ, Anh, Canađa, Úc và Nhật, khi xác định "các thời
kỳ của văn học Anh", đă đưa ra một đồ biểu phân kỳ "có giá trị phổ
biến trong thực tế" (widespread pratice), gồm 10 thời kỳ lớn, trong
đó sự khu biệt giữa các thời kỳ không chỉ căn cứ ở đặc trưng văn học
mà nhiều khi c̣n dựa vào ngôn ngữ, vào triều đại lịch sử, vào biến
cố chính trị xă hội :
1. Thời kỳ Anh ngữ cổ: 450-1066;
2. Thời kỳ Anh ngữ trung đại:1066-1500;
3. Thời kỳ Phục hưng hay là sơ kỳ
Hiện đại (= Cận đại?) : 1500-1660, với bốn giai đoạn : a. Vương
triều Elizabeth (1558-1603); b. Vương triều Jacob (tức vương triều
James I, 1603-1625); c. Vương triều Carolie (tức vương triều Charles
I, 1625-1649); d. Giai đoạn biến cách của Thanh giáo (do Nghị viện
của Oliver Cromwell điều hành đất nước kể từ 1649, Charles I bị xử
tử, đến khi phục hồi lại đế chế Stuar của Charles II,1660);
4. Thời kỳ Tân cổ điển : 1660-1785,
với ba giai đoạn : a. Giai đoạn phục tích (khôi phục chế độ quân chủ)
(1660-1700); b. Giai đoạn Auguste (mô phỏng đề tài và các h́nh thức
của văn học La-mă thời đại Hoàng đế Augustus (27 TCN-14SCN), hay
cũng gọi là giai đoạn Pope (Alexander Pope,nhà thơ tiêu biểu) ),
1700-1745; c. Giai đoạn đa cảm hay cũng gọi là giai đoạn Johnson
(Samuel Johnson, nhà thơ tiêu biểu), 1745-1785;
5. Thời kỳ Lăng mạn : 1785-1830;
6. Thời kỳ Victoria (ba triều đại nữ
hoàng Anh Victoria) : 1832-1901, với hai giai đoạn : a. Giai đoạn
tiền Raphặl (1848-1860); b. Giai đoạn chủ nghĩa thẫm mỹ và suy đồi
(1880-1901);
7. Thời kỳ Edward (vương
triều King Edward VII) : 1901-1914;
8. Thời kỳ George (vương
triều George V) : 1910-1936;
9. Thời kỳ Hiện đại
:1914-1945;
10. Thời kỳ Hậu hiện
đại : 1945 về sau (14) .
Cũng sách trên, khi nói
về "các thời kỳ của văn học Mỹ" đă trích dẫn ư kiến của Cushing
Strout, cho rằng "qua lịch sử chính trị của nước Mỹ có thể t́m thấy
một hệ thống trật tự sáng rơ và có tính chất thuyết phục hơn là cái
hệ thống trật tự được chỉ ra bởi những sự kiện đặc thù của văn học
hay những phạm trù tri thức" (15) . Trên tinh thần đó, theo Abrams,
các nhà văn học sử Mỹ đă đưa vào lịch sử văn học Mỹ các mốc lớn như
thời kỳ Chiến tranh cách mạng (1775-1781), thời kỳ Nội chiến
(1861-1865), thời kỳ Thế chiến I(1914-1918), thời kỳ Thế chiến II
(1939-1945), c̣n thời kỳ từ 1775 trở về trước th́ được gọi là thời
kỳ Thuộc địa (đế quốc Anh thống trị). Ngoài ra, văn học của người da
đen và trào lưu văn học nữ giới cũng có địa vị đáng kể, không thể
gạt ra ngoài các chuẩn mốc phân kỳ (16) . Xem thế đủ hiểu, đối với
việc phân kỳ văn học sử, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây hầu như
chưa có ai vận dụng thuần nhất một tiêu chí, và về phương pháp luận,
cũng chưa ai bỏ qua nguyên tắc ước lệ như một sợi chỉ đỏ, không cần
bàn bạc mà trong thâm tâm ai cũng tuân thủ.
THỜI KỲ VĂN HỌC CỔ :
VIỆC ĐỊNH DANH VÀ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN
1. Tôi xin nêu lên một
luận điểm thứ hai : về cách mệnh danh các thời kỳ khác nhau trong
văn học sử Việt Nam. Trong cuộc thảo luận khoa học về phân kỳ lịch
sử văn học Việt Nam vào năm 1985 do Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng
hợp Hà Nội chủ tŕ, có bốn ư kiến cũng là bốn tham luận chính trong
Hội thảo, sau đó đă được đăng trên Tạp chí văn học(đă dẫn), trong đó,
trừ ư kiến của Gs. Đỗ Đức Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt
Nam thành hai thời đại lớn - thời đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX
và thời đại từ đầu thế kỷ XX trở về sau; mỗi thời đại được đánh dấu
bằng một phong cách lớn : thời đại thứ nhất là phong cách được đặc
trưng bởi các sáng tác tiêu biểu trong chặng đường nửa cuối thế kỷ
XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX và thời đại thứ hai là phong cách mang
đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh - c̣n lại ba chúng tôi, Nguyễn
Lộc, Trần Đ́nh Hượu và tôi, chúng tôi đều chia văn học thành ba thời
kỳ : thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, thời kỳ văn học
từ đầu thế kỷ XX đến 1945 và thời kỳ văn học từ 1945 đến nay. Về
cách gọi tên, thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chúng tôi
đều nhất trí gọi là thời Cận đại. Thời kỳ văn học từ 1945 đến nay,
Nguyễn Lộc và Trần Đ́nh Hượu gọi là thời Hiện đại, c̣n tôi gọi là
thời Hiện đại và Đương đại. Chỉ có thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX th́ cách gọi thật sự có khác nhau. Nguyễn Lộc gọi là
thời kỳ văn học Truyền thống. Trần Đ́nh Hượu không gọi tên nhưng có
nhắc đến hai từ Cổ đại và Trung cổ và sau này, trong một bài viết
khác, ông lại trở lại cách gọi "văn học Truyền thống" của nguyễn Lộc,
đồng thời nhiều lần nhắc đến cụm từ "văn học Cổ điển" (17) . Riêng
ḿnh tôi, đă gọi đây là văn học Trung đại. Mỗi một cách gọi tên ít
nhiều đều xuất phát từ một sự suy nghĩ có cân nhắc chứ không phải
cảm tính. Nguyễn Lộc nói : "Chúng tôi gọi thời kỳ thứ nhất trong văn
học dân tộc là thời kỳ văn học truyền thốngvà các thời kỳ sau là cận
đại, hiện đại không phải tùy tiện, mà với dụng ư để mọi người thấy
thời kỳ thứ nhất văn học dân tộc chưa đi vào quỹ đạo chung của văn
học thế giới, mà vẫn có tính cách văn học khu vực, văn học Đông Á,
Đông nam Á. Nếu đối lập "truyền thống" với "cách tân" th́ thời kỳ
thứ nhất trong văn học dân tộc có thể gọi là "thời đại văn học
truyền thống" và hai thời kỳ cận, hiện đại tiếp theo có thể gọi là "thời
đại mới" trong văn học dân tộc" (Bđd, tr. 36). Tôi th́ chỉ nói vắn
tắt :"Những khái niệm Trung đại, Cận đại, Hiện đại dùng ở đây được
xem như là tương ứng với ba thời kỳ lớn trong lịch sử : thời phong
kiến, thời cách mạng tư sản, và thời cách mạng vô sản" (Bđd, tr.
68). Về sau, cách gọi "thời Trung đại" đă được nhiều người dùng, có
người c̣n chủ động thay đổi cách gọi cũ ("văn học Cổ"ơ, "văn học Cổ
điển"...) khi sách hay giáo tŕnh của họ được tái bản. Và gần đây,
Trần Đ́nh Sử cũng thống nhất sử dụng "thời kỳ văn học Trung đại" như
một khái niệm mặc nhiên trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung
đại.
Nhưng khoảng mấy năm
lại đây, bản thân tôi lại tự thấy không yên tâm về thuật ngữ mà ḿnh
đă chọn. Bởi v́ cái gọi là Trung đại là ǵ? Hoàn toàn không có ǵ
khác ngoài cái hàm nghĩa đó là thời kỳ Trung cổ. Đó chỉ là dịch lại
một cách vắn tắt thuật ngữ Période de Moyen Âge hay Période Médiéval
trong lịch sử châu Âu. Song chuyển một thuật ngữ của lịch sử châu Âu
sang lịch sử văn học Việt Nam và rộng hơn là lịch sử văn học phương
Đông liệu có khiên cưỡng hay không khi ta biết hai phạm trù này
không ăn nhập ǵ với nhau? Thời Trung cổ châu Âu là một thời kỳ chưa
h́nh thành dân tộc, được đánh dấu bằng nền chính trị chia nhỏ thành
các tiểu vương quốc và một xă hội nông nghiệp phân chia thành hai
giai cấp quư tộc và nông dân. Đó là giai đoạn lịch sử "đêm trường",
là sự thiếu vắng lư tính và khoa học, là sự ngự trị của Nhà thờ và
lănh chúa phong kiến, là "một nền văn minh, trong giới hạn gốc gác
của nó, được nhào luyện kể từ những yếu tố mà đại đa số là có tính
cổ điển và tính giecmanh hay là tính Cơ đốc giáo" (18) . Tôi chưa
được đọc công tŕnh Lịch sử văn học châu Âu của Dương Châu Hàn, Ngô
Đạt Nguyên, Triệu La Nhuy viết năm 1964 (19) mà Gs. Trần Đ́nh Sử đă
viện dẫn để nói rằng họ đă mở rộng thời Trung đại đến tận thế kỷ
XVII tức là khi chế độ phong kiến châu Âu đă thật sự suy tàn, nhưng
trong các bộ sách tôi đă đọc như Encyclopédie Française 1973,
Encyclopedia Universalis 1990-1995, và ngay cả Petit Larousse
Ilustrée 1993, th́ giới hạn thời Trung cổ vẫn chỉ là từ năm 476 khi
đế quốc La-mă sụp đổ, cho đến khi Mahomet II (tức Mehmet II,
1429-1481), vua Thổ-nhĩ-kỳ đánh chiếm Constantinople vào năm 1453.
Trung cổ hiểu theo nghĩa này chính là gói gọn trong thời kỳ độc tôn
của Giáo hội Thiên chúa giáo chứ không phải bao quát toàn bộ lịch sử
chế độ phong kiến. Về phương diện văn học, tiếp theo thời đại Trung
cổ sẽ là thời đại Phục hưng ở nửa cuối thế kỷ XV, thời đại Baroque ở
thế kỷ XVI-XVII, thời đại Cổ điển ở thế kỷ XVII, thời đại Tiền lăng
mạn ở nửa đầu thế kỷ XVIII. Những thời đại này đều nằm trong ḷng
của chế độ phong kiến nhưng so với thời đại Trung cổ th́ đă khác một
trời một vực.
Riêng ở Việt Nam cho
đến nay, cách dùng khái niệm Trung đại vẫn là một ước lệ không có
tính xác định về mặt nội hàm. Nói rằng tính chất "trung đại" bắt
nguồn từ sự tỏa chiết của ư thức hệ Nho giáo đối với đời sống tư
tưởng, t́nh cảm của toàn xă hội nhưng thật ra, trong 10 thế kỷ tồn
tại của chế độ phong kiến tự chủ, đâu có phải thời nào Nho giáo cũng
được suy tôn lên địa vị "giáo chủ" về mặt tinh thần. Là một nước nhỏ
nằm trên đường trục giữa Trung Hoa và Ấn Độ, cơ chế sinh tồn của dân
tộc chúng ta vẫn phải là sự dung hợp,cộng tồn của nhiều luồng tư
tưởng. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV, "tam giáo đồng nguyên" là
cách ứng xử thích hợp nhất trtước thế động tất yếu của lịch sử. Đến
thế kỷ XV, sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, nhất là sau khi Lê
Thánh Tông lên ngôi hoàng đế, Nho giáo cũng bắt đầu lên ngôi, giữ vị
thế độc tôn, nhưng cũng chỉ độc tôn được dến hết thế kỷ XVII là rơi
vào triền miên khủng hoảng. Từ đó đến khi chế độ phong kiến chấm dứt,
các tập đoàn phong kiến nhiều lần cố vực lại kỷ cương bằng Nho giáo,
sử dụng Tống Nho như một công cụ thống trị độc nhất về tư tưởng. Tuy
nhiên, trong mạch ngầm của đời sống, các hệ tư tưởng phi Nho như
Phật, Lăo Trang, Đạo giáo, các tôn giáo tín ngưỡng bản địa, và các
tôn giáo phương Tây mới du nhập... vẫn cứ có đất sống mạnh mẽ, nó
làm nên một thứ khí hậu tinh thần pha trộn nhưng lại dễ thở, có tác
dụng hóa giải sức ép độc đoán của Nho giáo từ bên trên.
Như vậy, soi vào văn
học, khi chúng ta mệnh danh cho cả 10 thế kỷ văn học cổ Việt Nam
bằng mấy chữ thời Trung đại, phải chăng vô h́nh trung chúng ta đă
đem một thuật ngữ châu Âu vốn mang hàm nghĩa rất hẹp - là một thời
kỳ thiếu vắng những giá trị văn học đích thực - úp chụp lên cả một
chặng đường rất dài với nhiều thành tựu rực rỡ của văn học chúng ta,
trong đó chắc chắn đă có những tư trào phục hưng quan trọng - dĩ
nhiên phục hưng hiểu theo nghĩa không máy móc nô lệ khái niệm thời
đại Phục hưng phương Tây ở thế kỷ XV. Và điều này đă được nhắc đến
trong cuốn sách của N. I. Niculin Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế
kỷ XIXnăm 1977 (20) . Ngẫm nghĩ lại tôi mới hiểu v́ sao Nguyễn Lộc
dùng khái niệm "thời kỳ văn học Truyền thống" và Trần Đ́nh Hượu th́
một mực gọi là "văn học Cổ điển" (nên nhớ, trước Trần Đ́nh Hượu 20
năm, trong bộ sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam Thanh Lăng cũng đă
sử dụng cụm từ "thời đại văn học Cổ điển" một cách có chủ kiến để
gọi văn học Việt Nam từ thế kỷ XII đến giữa thế kỷ XIX) (21) . Và
tôi cũng có linh cảm rằng Gs. Đặng Thai Mai đă có lư khi gọi tên bộ
phận nghiên cứu của Viện Văn học mà hiện tôi đang phụ trách là "văn
học Cổ Cận đại", kể từ 1959. Mấy chữ "văn học Truyền thống", "văn
học Cổ điển", "văn học Cổ" hay "văn học Cổ Cận đại" không cho ta cái
ám ảnh trung cổ như cách gọi văn học Trung đại.
Gần đây, cũng nhân đọc
hai bộ sách Trung Hoa văn học thông sưû, và Trung Quốc văn học sử,
tôi bỗng bỡ ngỡ khi các nhà văn học sử Trung Quốc vẫn "cố thủ" ở hai
chữ Cổ đại mà họ dùng từ rất xưa, dành cho quăng đường văn học rất
dài từ Tiên Tần đến 1840 hoặc đến tận 1919. Khái niệm "cổ đại" mà họ
dùng bao gồm từ xă hội nguyên thủy, xă hội nô lệ, cho đến xă hội
phong kiến (hoặc có đổi mới thuật ngữ chút ít là Thượng cổ, Trung cổ
và Cận cổ), nhưng về mặt nội dung, lại không phải là một thời kỳ "vô
hồn", trái lại, đây là "bộ phận tổ thành trọng yếu trong di sản văn
hóa [Trung Quốc], có thể nói là một báu vật đáng tự hào nhất của văn
minh Trung Hoa. Bởi v́, thông qua văn học Cổ đại, chúng ta không
những có thể trải nghiệm những bước biến đổi thịnh suy hưng vong của
nước cổ 5.000 năm, có thể sờ mó, tiếp xúc với cái linh hồn phong phú
mà sâu thẳm của cả một dân tộc vĩ đại, mà hơn nữa, đứng về góc độ
hưởng thụ tinh thần và thưởng thức nghệ thuật mà nói th́ c̣n giống
như được đi vào một ṭa cung điện mỹ lệ xây nên bằng ngôn ngữ văn tự,
được dạo qua một vùng kỳ hoa dị thảo, đâu đâu cũng là vườn tược mênh
mông um tùm quanh quất, từ đấy mà cảm nhận được cái nguy nga cao tột
của nó, lại cũng hiểu dược sự rạng rỡ hưng thịnh và vẻ đẹp nuột nà
của nó" (22) . Cái nghĩa "cổ đại" mà các học giả Trung Quốc hiện nay
dùng cho thời kỳ văn học cổ của họ, chưa bao giờ có ư vị ảm đạm như
cách gọi văn học Trung cổ trong văn học châu Âu.
2. Với một khoảng cách
lịch sử kéo dài đến mười thế kỷ, việc phân chia các giai đoạn cụ thể
cho Thời kỳ văn học Cổ Việt Nam cũng là vấn đề cần bàn. Không trở
lại với những bộ văn học sử trước 1945 phân chia theo triều đại mà
nhiều người đă biết, chỉ lược điểm một số công tŕnh tiêu biểu từ
sau 1954 cho đến gần đây, chúng ta có thể thấy, cách chọn những cái
mốc cho từng thời đoạn giữa các nhà nghiên cứu c̣n khá xa nhau.
Bộ Lược thảo lịch sử
văn học Việt nam của Nhóm Lê Quư Đôn (1957) (23) chọn mấy mốc sau :
-Văn học thế kỷ XIII -
thế kỷ XV
-Văn học thế kỷ XVI -
thế kỷ XVII
-Văn học thế kỷ XVIII
-Văn học nửa đầu thế kỷ
XIX
Từ giữa thế kỷ XIX về
sau Nhóm này xếp vào thời kỳ văn học Cận đại.
Bộ Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam của Nhóm Văn sử địa (1957 - 1960) (24) lại có cách chọn
hơi khác :
-Văn học trước thế kỷ
XV (cụ thể là từ đầu thời tự chủ đến hết thế kỷ XIV)
-Văn học thế kỷ XV -
thế kỷ XVII
-Văn học thế kỷ XVIII
-Văn học nửa đầu thế kỷ
XIX
Bộ sách chỉ mới dừng
lại ở đó.
Các tập giáo tŕnh của
hai trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội được
chỉnh lư và bổ sung nhiều lần, cho đến lần cuối cùng vào các năm
1976-1979 (25) và 1988-1989 (26) th́ cách chia của hai bên đă tương
đối thống nhất :
-Văn học thế kỷ X - thế
kỷ XIV
-Văn học thế kỷ XV
-Văn học thế kỷ XVI -
giữa thế kỷ XVIII
-Văn học giữa thế kỷ
XVIII - giữa thế kỷ XIX
-Văn học nửa cuối thế
kỷ XIX
Điều dễ nhận ra là tuy
có xê dịch trong việc định mốc, cả bốn bộ sách vừa dẫn đều trùng hợp
nhau ở một điểm : không một nhóm tác giả nào lựa chọn một niên đại
dứt khoát làm giới hạn phân kỳ mà đều lược quy các tiến tŕnh văn
học sử vào những khoảng cách một vài ba thế kỷ, và sự phân cắt giữa
các tiến tŕnh ấy nói chung vẫn mang tính chất áng chừng, mặc dầu ở
phần tổng luận, tiêu chí phân kỳ đều đă được họ giới thuyết cặn kẽ.
Phải chăng điều đó cũng góp phần xác nhận sự khó khăn nan giải trong
việc vận dụng lư thuyết vào thực tiễn, nói cách khác, con đường quay
về với những quy ước có sẵn nhiều khi lại giúp ta có cách xử lư uyển
chuyển đối với các chặng đường cục bộ của lịch sử văn học mà nhận
thức cho được sự khu biệt rành mạch không phải không có khó khăn.
Trở lại với Thanh Lăng.
Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam, sau khi đề ra một lư
thuyết phân kỳ tương đối linh hoạt, ông bèn ứng dụng nó để chia lịch
sử văn học Viêït Nam thành hai thời đại làthời đại Cổ điển (thế kỷ
XII đến 1862), và thời đại Mới (1862-1945). Rồi trong mỗi thời đại,
ông lại chủ trương "cắt lát" thành nhiềuthế hệ văn họctiếp nối nhau
.
Chẳng hạn, trong "thời
đại Cổ điển" có đến bảy thế hệ :
1. Thế hệ văn học đối
kháng Trung Hoa (thế kỷ XII - XIV);
2. Thế hệ văn học phát
huy văn hóa dân tộc (1428 - 1505);
3. Thế hệ văn học chớm
nở đối kháng thời thế (1505 - 1592);
4. Thế hệ văn học gặp
gỡ Tây phương (1592 - 1729);
5. Thế hệ văn học thác
loạn (1729 - 1788);
6. Thế hệ Nguyễn Du
(1788 - 1820);
7. Thế hệ Nguyễn Công
Trứ (1820 - 1882).
Trong "thời đại văn học
Mới" (tính đến 1945) cũng có ba thế hệ :
1. Thế hệ đối kháng
(1862 -1913);
2. Thế hệ liên hiệp
(1913 -1932);
3. Thế hệ đoạn tuyệt
(1932 -1945).
Cố gắng đi đến một sự
phân cắt tỷ mỷ như thế phải nói là một dụng công hiếm có, tiếc rằng
chỗ đáng quan tâm là xác định nội dung của khái niệm "thế hệ văn học
" sao cho ổn đáng th́ Thanh Lăng lại tỏ ra lúng túng. Ông định nghĩa
"thế hệ văn học" là "một thời kỳ văn học ngăn ngắn nào đó, được khai
mạc từ một năm nào đó, do một biến cố nào đó, khiến cho từ năm ấy và
do biến cố ấy, văn học của thời này, một đằng khác với văn học của
thời kỳ đi trước, một đằng lại có cái ǵ là chung chung, là giông
giống nhau cho phần đông các cuộc đời văn học cùng lứa tuổi, cùng
thời kỳ này, rồi cái thời kỳ ngăn ngắn sẽ lại bị bế mạc từ một năm
nào đó, do một biến cố nào đó, khiến cho từ đấy về sau văn học lại
đổi theo chiều hướng khác" (27) . Nhưng cái ǵ là tín hiệu có giá
trị thông báo chỗï chia tách giữa thế hệ này và thế hệ kia, cũng như
cái gọi là "chung chung", "giông giống nhau" trong cùng một thế hệ
là ǵ? Cách diễn đạt "mang máng" không cho phép ta nắm bắt ư tưởng
tác giả thật tường tận. Đó hẳn cũng là chỗ khó khăn, lúng túng của
người viết trong xử lư thực tiễn. Một nữ học giả Mỹ mới đây là Helen
Vendler có cho biết : việc đi t́m những yếu tố tương đồng giữa các
hiện tượng văn học trong cùng một thời đại để làm tiêu chuẩn phân kỳ
là rất khó, so với nó, việc soi tỏ tính chất tương phản giữa một
thời đại này và một thời đại trước hay sau nó c̣n dễ dàng và thiết
thực hơn (28) . Đối chiếu với bảng phân định các "thế hệ văn học"
của Thanh Lăng, chỗ khiến ta chưa đồng t́nh là ông cứ "phân" mà
chẳng "định", nghĩa là không những chưa quan tâm hội đủ nét riêng
thực có của mỗi thế hệ (như tên gọi ông dành cho họ), mà cũng chưa
chú ư soi tỏ điểm khu biệt mấu chốt giữa các thế hệ này. Ví như, nói
văn học từ thế kỷ XII (sao lại bắt đầu từ thế kỷ XII mà không sớm
hơn?) đến hết thế kỷ XIV là thuộc "thế hệ đối kháng Trung Hoa" th́
đối kháng Trung Hoa ở đây hiểu là nội dung tư tưởng hay h́nh thức
nghệ thuật? Nếu là nội dung tư tưởng, hẳn văn học giai đoạn sau đó (thế
kỷ XV) cũng vẫn cứ tiếp tục tinh thần đối kháng ấy chứ đâu có ǵ
khác? C̣n nếu thuộc h́nh thức nghệ thuật th́ suốt cả giai đoạn
Lư-Trần, văn học Việt Nam hầu hết đều viết bằng chữ Hán và đều đang
vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc sao cho tinh luyện, nào có
hề "đối kháng" ǵ đâu! Lại chẳng hạn, nói văn học giai đoạn 1592 -
1728 là "thế hệ văn học gặp gỡ Tây phương" có lẽ cũng đúng một phần,
nhưng "gặp gỡ Tây phương" chỉ là một thiểu số rất ít ỏi chứ đâu phải
cả thế hệ, v́ ngoài việc Alexandre de Rhodes (1591-1660) sáng tác ra
chữ quốc ngữ dùng trong việc giảng đạo, chuẩn bị cho bốn thế kỷ sau
sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong chữ viết dân tộc, và ngoài một
vài tác phẩm giới hạn hết sức hẹp trong sinh hoạt của Giáo đoàn
Thiên chúa giáo như tập Sấm truyền ca diễn ca Kinh Thánhcủa Louis
Đoan, bằng chữ Nôm theo thể lục bát (1670), sau khi ra đời ít lâu
liền bị mai một, v́ bị các Cha cố người Pháp không thừa nhận, măi
đến khoảng 1816-1820 mới được Phan Văn Cận phiên âm ra quốc ngữ, và
đến nay cũng vẫn chỉ lưu hành dưới dạng những bản chép tay đă sứt mẻ;
hay tập Truyện các Thánh,1672 trang,bằng văn xuôi chữ Nôm, mang danh
nghĩa là tác phẩm của Maiorica (1591-1656), nhưng theo Gs. Nguyễn
Văn Trung, thực tế có lẽ là do nhiều Giáo sĩ người Việt sáng tác
trong thế kỷ XVII (và được mang luôn sang châu Âu ngay sau khi ra
mắt, nghĩa là hoàn toàn thất truyền ở Việt Nam) (29) , th́ phần sáng
tác phổ biến trong công chúng bạn đọc rộng răi của văn học Việt Nam
giai đoạn này vẫn tuyệt nhiên chưa có sự tiếp xúc với Tây phương ở
bất kỳ một biểu hiện trực tiếp hay gián tiếp nào. Một bên là hàng
loạt sáng tác đă có một đời sống thực sự trong thời đại của ḿnh và
một bên là vài ba tác phẩm sớm bị tách khỏi môi trường bạn đọc của
chúng, nên lấy bên nào làm tiếng nói đại diện mới hợp lư? Tưởng bộ
môn tiếp nhận văn học đă cho ta lời giải đáp sáng tỏ.
Bàn về việc phân định
các chặng mốc của thời kỳ văn học Cổ Việt Nam c̣n phải chú ư đến ư
kiến của Trần Đ́nh Hượu trong một bài viết năm 1984 (đă dẫn), khi
ông nêu lên những băn khoăn sau đây : "C̣n có những vấn đề chưa thật
rơ : 1. Có hay không một giai đoạn văn học Thiền? 2. YÙ nghĩa của
các áng danh văn lịch sử như thơ Lư Thường Kiệt, hịch Trần Quốc Tuấn,
B́nh Ngô đại cáo của Nguyễn Trăi? 3. Thực tế văn học của những thời
gian gặp chiến tranh lâu dài : 30 năm chống Nguyên Mông, 20 năm
chống Minh, một thế kỷ rưỡi nội chiến Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn"(tr.
522) (30) . Theo chúng tôi hiểu, Trần Đ́nh Hượu muốn làm rơ những
vấn đề trên để xác định thật đúng mối liên quan giữa văn học và lịch
sử, cũng tức là xem xem các biến cố phi văn học có tác động đến
chừng mực nào trong việc thay đổi bản sắc của một chặng đường văn
học hay tạo ra một ḍng văn học mới, trên tiến tŕnh dài lâu của văn
học cổ chúng ta.
Giai đoạn đầu tiên dễ
được nhiều người thống nhất, là văn học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ
XV, mà cụ thể là từ năm 938 (Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở
đầu thời kỳ tự chủ - vào năm này, nhà thơ đóng vai tṛ khai sáng của
nền văn học viết dân tộc Đỗ Pháp Thuận đă 23 tuổi) đến 1413 (chính
thức kết thúc thời đại Hậu Trần - cũng là năm Đặng Dung sáng tác bài
Cảm hoài và nhảy xuống sông tự vẫn). Tính thống nhất của cả giai
đoạn được biểu hiện ở chỗ, về mặt nội dung, nó mang dấu ấn rơ rệt
của tinh thần dung hợp Phật, Nho và Đạo; điều đó chi phối cảm hứng
sáng tạo của người cầm bút, tạo nên linh hồn và chiều sâu thẩm mỹ
của mọi tác phẩm. Cái vẻ đẹp phóng khoáng trong văn học giai đoạn
này bắt nguồn từ đó, và đó cũng là nhân tố sâu xa giúp cho văn học
có được bản lĩnh "giải Trung Quốc hóa", phô bày không chút mặc cảm
bản sắc riêng, cởi mở, b́nh dị màø không kém tinh tế, trong mọi khía
cạnh t́nh cảm, cảm xúc của con người Việt Nam. Về h́nh thức nghệ
thuật, đây cũng là giai đoạn mà văn học dân tộc chính thức vận dụng
hệ thống thể loại của văn học Trung Quốc để xây dựng hoàn thiện hệ
thống thể loại văn học chữ Hán - ḍng chủ lưu trong suốt các giai
đoạn đầu của văn học nước ta.
Giai đoạn thứ hai của
văn học Cổ dân tộc, theo chúng tôi, có thể quy gọn vào thế kỷ XV mà
cụ thể là từ 1413 (thời Nguyễn Trăi bôn ba t́m đường cứu nước) đến
1497 (năm mất của Lê Thánh Tông). Đây là giai đoạn văn học xây dựng
con người điển h́nh theo mẫu mực Nho giáo, rút tỉa từ Nho giáo lư
tưởng "nhân nghĩa" làm nền tảng phục hưng dân tộc sau hai mươi năm
bị giặc Minh đô hộ. Đây cũng là giai đoạn vật lộn và sinh thành của
ḍng văn học quốc ngữ, mà thể nghiệm quan trọng trong suốt thế kỷ là
thể thơ Nôm lục ngôn. Nguyễn Lộc cho rằng phải xếp nửa đầu thế kỷ XV
vào giai đoạn thứ nhất, nhưng thực ra, về nhiều mặt, văn học nửa đầu
thế kỷ này vẫn có phần gần gũi với văn học nửa cuối thế kỷ nhiều hơn.
Một gương mặt lớn như Nguyễn Trăi (1380-1442), dẫu trong thơ vẫn giữ
dược cái thích thảng của hồn thơ Lư-Trần, tuy vậy, niềm thao thức "quân
thân" là đặc trưng tiếng nói của thơ ông th́ lại là ảnh xạ của lư
tưởng "vua sáng tôi hiền" mà chỉ đến thơ văn thế kỷ XV mới có. Cho
nên, về nội dung cũng như h́nh thức, khó có thể cắt đôi văn học thế
kỷ XV thành hai nửa. Bản thân nó có lư do tồn tại như một thực thể
đặc định.
Nếu thế kỷ XV đứng
riêng thành một giai đoạn th́ hai thế kỷ XVI-XVII có thể xem là giai
đoạn thứ ba. Đặc điểm của giai đoạn văn học này là ǵ ? Về cả nội
dung và h́nh thức, đây là giai đoạn vừa tiếp nối văn học thế kỷ XV
nhưng lại cũng vừa có bước phát triển mới. Nếu tiếng nói bao trùm
văn học thế kỷ XV là cảm hứng dân tộc biểu hiện ở mối quan hệ giữa
nhà nước với dân, và sự gắn bó giữa t́nh cảm "công dân" với vẻ đẹp
của non sông gấm vóc, giữa trách nhiệm của kẻ "chăn dân" với cuộc
sống yên ả thanh b́nh đang diễn ra trên mọi miền đất nước, th́ văn
học thế kỷ XVI-XVII lại muốn nhấn mạnh cảm hứng này về phương diện
lịch sử, nh́n vận mệnh dài lâu của đất nước qua lịch sử của các
triều đại, đồng thời nâng quan hệ dân-nước lên tầm khái quát qua
việc đúc kết những mệnh đề chung nhất về đạo lư làm người. Thơ Nôm
lục ngôn vẫn được tiếp tục với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng bên cạnh đó
cũng đă xuất hiện một vài thể loại mới là truyện văn xuôi kỳ ảo (như
Truyền kỳ mạn lục,Thiên Nam vân lục (Hán) và Truyện các Thánh (Nôm)),
và đặc biệt là h́nh thức diễn ca lịch sử (kể cả Sấm truyền ca, diễn
ca Kinh thánh, cũng là diễn ca lịch sử Thiên chúa giáo phương Tây).
Đây là h́nh thức kể chuyện lịch sử bằng thơ, nhưng có những tác phẩm
rất dài hơi như Thiên Nam ngữ lục, với nhiều t́nh tiết hư cấu lư thú,
văn chương nôm na sống động, chắc chắn đă đóng vai tṛ quan trọng
của thể truyện trong đông đảo công chúng bạn đọc thuở bấy giờ.
Bước đột khởi quan
trọng của văn học Cổ Việt Nam sẽ được đánh dấu ở giai đoạn thứ tư mà
theo chúng tôi, có thể đóng khung trong thế kỷ XVIII : giai đoạn
xung đột gay gắt giữa hai luồng tư tưởng "ngu trung" và "cấp tiến",
giai đoạn "thác loạn" của kiểu người "gia phong nền nếp" cũ, cũng
tức là giai đoạn chiến thắng rực rỡ của chủ nghĩa nhân văn. Nguyễn
Lộc cho rằng giai đoạn này phải bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII (ư kiến
của Nguyễn Lộc cũng đại biểu cho hai nhóm tác giả hai tập giáo tŕnh
Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội), nhưng đúng như
Trần Đ́nh Sử đă nhận xét, ngay từ đầu thế kỷ, trào lưu nhân văn đă
được khơi dậy với Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị
Điểm và với Song Tinh-Bất Daï của Nguyễn Hữu Hào (? - 1713) (31) .
Hai hiện tượng văn học quan trọng như thế chẳng phải đă đủ xác nhận
sự thống nhất trọn vẹn về xu thế nội tại giữa văn học nửa đầu thế kỷ
XVIII với văn học nửa sau thế kỷ là ǵ. V́ thế, khởi điểm của giai
đoạn này phải tính từ 1700, năm Song Tinh-Bất Dạ ra mắt (32) . C̣n
như giai đoạn văn học này chấm dứt vào lúc nào, tưởng cũng cần cân
nhắc cho hết lẽ. Đúng là văn học nửa đầu thế kỷ XIX có khá nhiều
phương diện vẫn là sự tiếp nối của văn học thế kỷ XVIII (chúng tôi
đă bàn đến tính liên tục và tiệm tiến của sự phát triển của văn học
so với lịch sử, đây là một minh chứng), nhưng về sắc thái, văn học
nửa đầu thế kỷ XIX so với trước đă có nhiều nét khu biệt. Âm hưởng
chính của chủ nghĩa nhân văn ở thế kỷ XVIII là chống chiến tranh và
cực tả thân phận người phụ nữ - hóa thân của mọi đau khổ cùng cực
trong cuộc đời dâu bể suốt thế kỷ này. Đi liền với nội dung ấy là
h́nh thức ngâm, văn, một thể loại có ưu thế trong việc biểu đạt
tiếng khóc ṿ xé bên trong, sự dồn nén cao độ của những sắc thái,
cung bậïc của cảm hứng trữ t́nhï. Văn học thế kỷ XVIII kết thúc cùng
với sự khép lại của cả một xu hướng phơi trải ḷng ḿnh triền miên
không dứt, kéo dài từ Ngô Th́ Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Đặng Trần Côn,
Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, đến Nguyễn Gia
Thiều, Công chúa Ngọc Hân... để nhường chỗ cho những đ̣i hỏi mới của
chủ nghĩa nhân văn ở nửa đầu thế kỷ XIX : một mặt phải tổng kết vấn
đề số phận con người trong những tác phẩm có quy mô tự sự lớn (thể
truyện xuất hiện hoàn chỉnh và đạt đến những kiệt tác như Truyện
Kiều), hoặc phát hiện thêm các khía cạnh nhức nhối về tấn thảm kịch
con người "dưới đáy", con người bị đẩy tới bần cùng hóa, trong những
thể ca, hành dài hơi bằng chữ Hán (thơ chữ Hán Nguyễn Du, Cao Bá
Quát, nhất là Miên Thẩm...), mặt khác phải nói lên khát vọng cá nhân
trong nhu cầu phơi bày các khía cạnh mới của cái "tôi", khi điều
kiện lịch sử đă đem đến cho nó một nguồn kích thích mới, với những
nội lực mạnh mẽ hơn trước : nhu cầu thỏa măn chí nam nhi, nhu cầu
hành lạc - "chơi cho phỉ chí tang bồng" -, nhu cầu trào tiếu, nhu
cầu tính dục, nhu cầu hướng nội, nhu cầu ṿ xé, trải nghiệm với chữ
t́nh (thể loại thơ nôm Đường luật và thể loại hát nói đáp ứng tích
cực những nhu cầu mới mẻ và đa dạng này). Như thế, văn học nửa đầu
thế kỷ XIX là một giai đoạn mới, giai đoạn thứ nămcủa thời kỳ văn
học Cổ Việt nam mà ta có thể xác định mốc khởi đầu là 1802, với
những sự kiện xẩy ra sát trước hay sau nó : bút chiến giữa Phạm Thái
và Nguyễn Huy Lượng xung quanh Phú tụng Tây hồ (1801), Nguyễn Ánh
thống nhất nhất đất nước (1802), tác phẩm Sơ kính tân trang ra đời
(1803), và Nguyễn Thiếp mất (1804).
Giữa thế kỷ XIX, với
tiếng súng của thực dân Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng (1858), cùng
với việc Nguyễn Công Trứ từ trần (1858), văn học Việt Nam lại chuyển
sang một giai đoạn khác. Đây là giai đoạn thứ sáu, giai đoạn cuối
cùng của thời kỳ văn học Cổ Việt Nam . Đặc điểm nổi bật của giai
đoạn này là tính chất giao thời, thông qua sự hiện diện đan cài của
những nhân tố mới và cũ trong văn học : a. Ḍng văn học yêu nước
truyền thống với h́nh ảnh người nghĩa sĩ nông dân được khẳng định và
h́nh ảnh người sĩ phu trung nghĩa vụt sáng lên trong chốc lát nhưng
cũng là từng bước tự phủ định, cho đến khi mất hẳn vai tṛ lịch sử;
b. Ḍng văn học trào phúng hiện thực với hai cây bút cự phách Nguyễn
Khuyến và Tú Xương khơi sâu vào hai mảng sống hết sức mới mẻ là nông
thôn và đô thị, trong đó bắt đầu hằn rơ những mâu thuẫn nhức nhối
của xă hội thuộc địa nửa phong kiến, đi liền với sự tha hóa cùng cực
của cái h́nh ảnh điển h́nh cho cả một thời đại : mẫu người nhà nho;
c. Ḍng văn học tuồng với vai tṛ nhà nghệ sĩ Đào Tấn, làm nẩy sinh
một h́nh thức sống động của sinh hoạt văn học cung đ́nh, khai thác
các mâu thuẫn giàu kịch tính của những đề tài muôn thuở về cuộc đấu
tranh bi tráng giữa chính-tà, trung-nịnh, chính thống-phi chính
thống, nhưng trong tiềm thức h́nh như cũng là một cách nghiêm khắc
duyệt lại các giá trị của Nho giáo trước vấn nạn ghê gớm của lịch sử
; d. Ḍng văn học quốc ngữ với sự ra đời của một vài tờ báo tiếng
Việt đầu tiên ở Nam Kỳ, với hàng chục tập truyện tôn giáo theo thể
vè và thể tuồng (33) , với những truyện kể "như lời nói thường" của
Trương Vĩnh Kư, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... báo hiệu một xu
thế đổi thay trong h́nh thức ngôn ngữ dẫn đến sự đổi thay trong tư
duy nghệ thuật, tuy mới manh nha song không thể cưỡng. Dẫu sao,
tiếng nói bao trùm văn học nửa cuối thế kỷ XIX vẫn là âm vang c̣n
lại của những giá trị tinh thần đă kết tinh từ nhiều thế kỷ. H́nh
ảnh mẫu mực của cái đẹp tuy có bị phủ định gay gắt nhưng tựu trung,
các nhà văn vẫn phải thông qua lăng kính thẩm mỹ vốn đă được đúc
thành khuôn trong văn học cổ để làm thước đo của mọi cách nh́n. Ngay
cả ḍng văn học quốc ngữ, sau một vài tác phẩm đầy hứa hẹn như
Chuyện thầy Lazaro Phiền (1887), cũng đă có một chặng lùi tương đối
: phải im hơi lặng tiếng đến ngót 15 năm mới tiếp tục khởi sắc trở
lại. Bởi thế, văn học nửa cuối thế kỷ XIX chưa thể là giai đoạn mở
đầu của một thời kỳ văn học mới, mà thực tế chỉ là khúc "vĩ thanh"
của một màn kịch dài sắp kết liễu : nó là giai đoạn bộc lộ hết tinh
hoa cũng như chỗ bất cập của những nguyên tắc thẩm mỹ một thời vang
bóng của thời đại văn học Coå Việt Nam. Đó là chỗ khác nhau giữa ư
kiến Nhóm Lược thảo, ư kiến Thanh Lăng, Phạm Thế Ngũ (34) , và của
chúng tôi.
Nguyễn Huệ Chi
Chú Thích
(1). Xem bài Vấn đề
phân kỳ văn học sử Việt Nam. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 59-75.
(2). Bài trên được sửa
lại và in trong cuốn Các vấn đề của khoa học văn học. Trương Đăng
Dung chủ biên. Nxb. Khoa học xă hội, Hà Nội, 1990. Tr. 372-398.
(3). Xem bài Đổi mới
nhận thức lịch sử trong khoa học xă hội và trong nghiên cứu văn học.
Tạp chí văn học, số 6-1990.
(4). Xem bài Vấn đề
phân kỳ trong lịch sử văn học dân tộc và quy luật vận động củá văn
học dân tộc. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 25-40.
(5). Xem bài Vấn đề
chọn mấy năm mốc trong việc phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 41-51.
(6). Xem bài Suy nghĩ
về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam. Tạp chí văn
học, số 3-1985, tr. 52-58.
(7). Xem Mấy vấn đề thi
pháp văn học Trung đại Việt Nam. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
(8). Klanixoi Tiborơ.
Về khái niệm thời kỳ văn học. Sđd, tr. 399-408.
(9). Thanh Lăng. Bảng
lược đồ văn học Việt Nam, Tập thượng, Nxb. Tŕnh bày, Sài G̣n, 1967.
Phần mở đầu, tr. XXXXI-XXXXII.
(10). Như trên, tr.
XXXXII-XXXXIII.
(11). Trung Hoa văn học
thông sưû, 10 quyển. Trương Quưnh, Đặng Thiệu Cơ, Phàn Tuấn chủ biên.
Hoa nghệ xuất bản xă, Bắc Kinh, 1997. Sách này viết đến tận cuối thế
kỷ XX nhưng chúng tôi chỉ chọn 4 quyển đầu, tức thời kỳ thứ nhất (Cổ
đại) trong bảng phân kỳ của họ.
(12). Xem Trung Quốc
văn học sưû, 4 quyển. Nxb. Cao đẳng giáo dục, Bắc Kinh, 1999. Sách
này chỉ viết từ thời Thượng cổ dến năm 1919. Phần "Tổng tự" của Viên
Hành Bái, Q. I, tr. 12 và 18.
(13). Lanson. Histoire de la
littérature française (in lần đầu 1894), remaniée et complétée pour
lapériode 1850-1950 par Paul Tuffaut. Nhà sách Hachette, Paris,
1951. Trong sách này, Lanson và Paul Tuffaut đă chia lịch sử văn học
Pháp thành bảy thời kỳ :1. Thời kỳ Trung cổ; 2. Thời kỳ từ sau Trung
cổ đến hết Phục hưng; 3. Thế kỷ XVI; 4. Thế kỷ XVII; 5. Thế kỷ
XVIII; 6. Thế kỷ XIX; 7.
Thời kỳ Hiện đại
(1919-1950).
(14). M. H. Abrams. A
Glossary of Literary Terms. Nxb. Harcourt Brace College, Fort Worth,
Philadelphia, San Diego, New York, Orlando, Austin, San Antonio,
Toronto, Montreal, London, Sydney, Tokyo, tr.210. Các dẫn liệu trong
cuốn sách này và trong cuốn Thử thách của vấn đề phân kyø của
Lawrence Besserman (chú thích 28) đều do ông Nguyễn Nam, Trường đại
học Harvard, chỉ giúp. Xin ghi nhận ở đây ḷng biết ơn của chúng tôi.
(15). M. H. Abrams. Sđd,
tr. 205. Nguyên văn : "suggests that there is an order in American
political history more visible and compelling than that indicated by
specifically literary or intellectual categories".
(16). Như trên, tr.
205.
(17). Xem bài Xác định
cái dân tộc, cái cổ điển làm cơ sở để phân kỳ văn học dân tộc
(1984). In trong Nho giáo và văn học Việt nam Trung cận đại. Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995, tr. 500-523.
(18). Xem mục "Le monde
médiéval" trong sách Encyclopedia Universalis, CD-Rom PC.
Nguyên văn : "Dans le cadre original,
une civilisation s'est élaborée à partir d'éléments dont la plupart
étaient classiques, germaniques ou chrétiens". Sau đây là hai đoạn
trích nói về uy thế của đạo Cơ đốc và của Ṭa thánh La-mă trong suốt
thời Trung cổ :
"Để thực hiện sự thống nhất về tinh
thần, phải gieo rắc tín ngưỡng, đón trước những sự bất đồng, và nuôi
sống nó bằng những giáo đồ của nó. Nhiệm vụ thứ nhất là việc truyền
bá Phúc âm, sánh vai cùng sự bành trướng của phương Tây. Khi th́
những tông đồ nối gót những người lính, những viên chức và những nhà
buôn, và họ vinh danh hành động của họ; khi th́ họ khai thông con
đường của họ. Họ chinh phục trước tiên là phía Bắc xứ Francie, nước
Airơlen, nước Anh, nước Đức. Dưới triều Carôlinhgiêng, họ buộc các
xứ Saxe, Moravie, Carinthie slovène quy theo đạo. Đến thế kỷ X, họ
thâm nhập vùng Scandinavie, cắm chốt ở Bohême, chiến thắng người
Hung và với tay tới Ba-lan. Với phong trào Drang nach Osten [ phong
trào "Tiến về phương Đông" của phong kiến Đức ở thế kỷ XII], họ mang
Phúc âm vào Phầân-lan, vào những vùng nói tiếng Slave ở Poméranie và
Prusse. Nhưng những vùng nói tiếng Slave ở Serbie, Bun-ga-ri và Nga
th́ thoát khỏi bàn tay La-mă. Giữa những năm 860 và 871, họ tiếp
nhận những nhà truyền giáo của xứ Byzance. Khi sự ly giáo nổ ra, họ
ở lại trong phạm vi ảnh hưởng của xứ này. Thầy tu nối vào chính trị
để cắt Đông Âu ra khỏi phương Tây" (Pour réaliser l'unité
spirituelle, il fallait répandre une croyance, y prévenir les
dissensions et la faire vivre par ses adeptes. La première tâche,
l'évangélisation, alla de pair avec l'expansion de l' Occident.
Tantôt les apôtres suivirent les soldats, les fonctionnaires et les
marchands et couronnèrent leur action, tantôt ils leur frayèrent la
route. Ils conquirent d'abord la Francie septentrionale, l'Irlande,
l'Angleterre, l'Allemagne. Sous les Carolingiens, ils convertirent
la Frise, la Saxe, la Moravie, la Carinthie slovène. Au Xe siècle,
ils pénétrèrent en Scandinavie, s'ancrèrent en Bohême, triomphèrent
chez les Hongrois et atteignirent la Pologne. Avec le Drang nach
Osten, ils portèrent l'Evangile en Finlande, dans les pays baltes et
aux Slaves de Poméranie et de Prusse. Mais ceux de Serbie, Bulgarie
et Russie échapèrent à Rome. Entre 860 et 871, ils avaient accueilli
des missionnaires de Byzance. Quand le schisme éclarta, ils
restèrent dans la sphère d'influence de celle-ci. Le religieux
rejoignit le politique pour couper l'Europe orientale de
l'Occident).
"Với tham vọng về sự độc lập của vị
Giáo trưởng Constantinople, nó trả lời bằng cách khẳng định không
khoan nhượng quyền lực vạn năng của La-mă. Để sắp đặt thế giới theo
kế hoạch của Chúa trời, nó công bố sự ưu thế của trật tự tinh thần
đối với trật tự chính trị, và vậy là ưu thế của Giáo hoàng đối với
Hoàng đế. Nó chỉ thực hiện đầy đủ điểm thứ hai của chương tŕnh này,
chính là cái điểm mà chúng ta quan tâm ở đây. Như vậy nó cắt La-mă
khỏi các thánh đường phương Đông, nhưng nó cũng làm cho La-mă của
phương Tây trở thành một chế độ quân chủ thực sự. mà người thủ lĩnh,
vị Giáo chủ, chính là quốc vương, trong tất cả sức mạnh của từ ngữ,
và những Bộ trưởng, Hồng y, đều được tuyển lựa trong tất cả các nước
la-tinh theo dạo Cơ đốc, c̣n những vị Toàn quyền, những Công sứ ṭa
thánh, th́ luôn luôn đi khắp các nước ấy.Trật tự tôn giáo đă tác
động trong cùng một nghĩa. Những tu viện cấp cao, ngay từ đầu thời
Trung cổ, đă chiếm một chỗ rất lớn ở phương Tây. Cho đến thế kỷ X,
những tu viện ấy dă trở thành độc lập, không c̣n phụ thuộc lẫn nhau.
Với ḍng Cluny ở thế kỷ X, chúng thường có thói quen tập hợp lại
xung quanh một quy chế, và xung quanh một vị thủ lĩnh độc nhất hoặc
một Hội đồng công cộng, một "tổng tập đoàn thầy tu", để giải thích
và làm cho quy chế được áp dụng. Số đông những trật tự sinh ra theo
cách ấy đă giành được quyền "miễn trừ" đối với uy quyền của Giám mục
địa phận, để chỉ c̣n phụ thuộc vào Giáo hoàng, và chúng phân tán ra
trong tất cả các nước phương Tây. Như vậy chúng tăng cường sự thống
nhất xung quanh La-mă" (Aux prétentions du patriarche de
Constantinople à l'indépendance, il répondit par l'affirmation
intransigeante du pouvoir universel de Rome. Pour ordonner le monde
selon le plan de Dieu, il proclama la supériorité de l'ordre moral
sur l'ordre politique, et donc du pape sur l'empereur. Il ne réalisa
pleinement que le second point de ce programme, celui qui nous
intéresse précisément ici. Il coupa ainsi Rome des Églises d'Orient,
mais il fit de celle d'Occident une authentique monarchie, dont le
chef, le pontif, était, dans toute la force du terme, souverain,
dont les ministres, les cardinaux, se recrutaient dans toute la
chrétienté latine, dont les plénipotentiaires, les égats,
parcouraient constament celle-ci. Les ordres religieux agirent dans
le même sens. Les abbayes avaient, dès le début du Moyen Âge, tenu
en Occident une très grande place. Jusqu'au Xe siècle elles avaient
été indépendantes les unes des autres. Avec Cluny au Xe siècle, elle
prirent la coutume de se grouper autour d'une règle et, pour
interpréter et faire appliquer celle-ci, d'un chef unique ou d'une
assemblée commune, d'un "chapitre général". La plupart des ordres
nés de la sorte obtinrent d'être "exempts" de l'autorité de
l'ordinaire pour ne relever que du pape et ils essaimèrent dans tout
l'Occident. Ils renforcèrent ainsi l'unité disciplinaire autour de
Rome).
(19). Nxb. Thương vụ , Bắc Kinh,
1964, tr. 76. Chuyển dẫn theo Trần Đ́nh Sử, Sđd, tr. 46.
(20). Văn học Việt Nam từ các thế kỷ
Trung đại đến Cận đại. Nxb. Khoa học, Matxcơva, 1977. Chuyển dẫn
theo Trần Đ́nh Sử, Sđd, tr. 55.
(21). Theo tác giả, thời đại văn học
Cổ điển được quy định bởi những đặc điểm sau : a. Trong việc lựa
chọn nhân vật, ở bộ phận văn học cao cấp, thượng lưu, nhân vật và
môi trường sinh hoạt của nhân vật thường mang tính chất điển nhă,
cao quư, trái lại, ở bộ phận văn học dân gian th́ lại mang tính chất
tăm tối, nghèo nàn; b. Bút pháp chung của văn học Cổ điển là tượng
trưng, ước lệ (trừ bộ phận văn học dân gian có thể không tuân thủ
triệt để các nguyên tắc sáng tác này), được nâng lên thành những mẫu
mực lư tưởng, những công thức cố định cho văn học mọi đời noi theo;
c. Phi ngă là đặc tính chung của văn học Cổ điển, cái tôi của tác
giả ít khi được bộc lộ trong sáng tác, nhưng trong văn học dân gian,
cái tôi vẫn có thể biểu lộ một cách dễ dăi; d. Quan niệm cái đẹp của
văn học Cổ điển là cái ǵ hợp với nghi lễ, trật tự trong vũ trụ, v́
thế, mọi nghệ thuật đều phải có tính chất đối xứng, hoàn chỉnh, lời
văn của văn học Cổ điển thường là biền ngẫu, bảo đảm sự cân đối,
nhịp nhàng. Sđd, Tập thượng, tr.7-9.
(22). Đặng Thiệu Cơ. "Tự luận". Sđd,
Quyển I, tr. 2.
(23). Ba tập. Nxb. Xây dựng, Hà Nội,
1957.
(24). Năm quyển. Nxb. Văn sử địa và
Nxb. Sử học, Hà Nội, 1957-1960.
(25). Nhiều tập. Nxb. Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
(26). Nhiều tập, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
(27). Thanh Lăng. Văn
học Việt Nam, Tập I : "Đối kháng Trung Hoa". Phong trào văn hóa, Sài
G̣n, in lần thứ hai, 1971. Những kiến giải về "phương pháp thế hệ"
được trt́nh bày ở các trang 43-52.
(28). Helen Vendler.
Periodizing Modern American Poetry (Phân kỳ thi ca Mỹ hiện đại),
trong sách The Challenge of Periodization ? Old Paradigms and New
Perspectives (Thử thách của vấn đề phân kỳ - Các cấu h́nh cũ và
những viễn cảnh mới). Lawrence Besserman chủ biên. Nxb. Garland, New
York và London, 1996, tr. 242-243.
(29). Xem Nguyễn Văn
Trung. Đạo Chúa ở ViệtNam. Nam
Sơn xuất bản, Montréal, Quebec, 2000. Thực ra ngoài b́a đề như vậy
nhưng bên trong là tài liệu đánh vi tính thuộc "tủ sách sử liệu Việt
Nam" mà tác giả cho phép các thư viện trong và ngoài nước được sao
chụp để tham khảo. Bản chúng tôi dùng là của ông Nguyễn Bá Chung.
Xin được cảm ơn người soạn sách cũng như người giữ sách.
(30). Trần Đ́nh Hượu. Nho giáo và văn
học Việt nam Trung Cận đại. Sđd, tr. 522.
(31). Mấy vấn đề thi pháp văn học
Trung đại Việt Nam, Sđd, tr. 55.
(32). Chúng tôi dựa vào giả thuyết
của Hoàng Xuân Hăn trong Lời giới thiệu Truyện Song Tinh, Nb. Văn
học, Hà Nội, 1987.
(33). Theo Thanh Lăng. Bảng lược đồ
văn học Việt Nam, Quyển hạ, Sđd, tr. 24.
(34). Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên,Tập III. Quốc học tùng thư xuất bản, Sài G̣n,
1967, tr. 15.
35. Xem Phạm Thế Ngũ, Sđd, tr. 96.
36. Trung Hoa văn học
thông sử. Sđd, Quyển X.
37. Mấy vấn đề thi pháp
văn học Trung đại. Sđd, tr. 50.
38. Xem Trung Hoa văn
học thông sử, Quyển IX và X. Sđd.
39. Chữ dùng của ông
Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, trong
buổi họp mặt với một số văn nghệ sĩ năm 1986, sau ngày ban bố Nghị
quyết Đại hội VI .
40. Xem Hoàng Ngọc
Hiến.Về một đặc điểm của văn học và nghệthuật ở ta trong giai đoạn
vừa qua. Văn nghệ, số 23, ra ngày 9 tháng Sáu năm 1979. Và Nguyễn
Minh Châu.Viết về chiến tranh. Văn nghệ quân đội, số 11-1978.
41. Trả lời phỏng vấn
trên báo Văn nghệ. Dẫn theo Vương Trí Nhàn. Sự dũng cảm rất điềm đạm.
Tạp chí Sông Hương, số 12-1989.
42. Nguyên Minh Châu.
Hăy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Tạp chí Văn
nghệ quân đội, số 10-1987.
43. Thụy Khuê. Hai mươi
lăm năm văn học hải ngoại - 1975-2000. Đặc san Xứ Quảng xuân Canh
th́n năm 2000. Hội ái hữu Quảng Nam-Đà Nẵng tại Massachusetts thực
hiện. Tr. 229.
44. Trong bài Thời kỳ
văn học vừa qua và hướng phát triển củavăn học. Văn học-học văn.
Trường Cao đẳng sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và Trường viết văn
Nguyễn Du xuất bản, 1991. Tr.139.
Phân kỳ lịch sử Văn học
từ đầu thế kỷ XXI
Phần II
CÓ HAY KHÔNG MỘT THỜI
KỲ VĂN HỌC CẬN ĐẠI ?
1. Một thời kỳ văn học
mới chỉ có thể thực sự diễn ra vào nửa đầu thể kỷ XX. Thử chọn một
mốc lịch sử đánh dấu bước chuyển ḿnh quan trọng đó : 1904 (Hội Duy
tân), 1905 (phong trào Đông du), 1907 (Đông Kinh nghĩa thục), 1909 (Nguyễn
Khuyến mất). Chúng tôi chọn 1907 v́ đây là một mốc "kép" (về văn học
cũng là năm Tú Xương, Đào Tấn, Paulus Của từ trần, c̣n về các chính
sách của chính quyền thuộc địa, th́ do ảnh hưởng của phong trào Duy
tân của tầng lớp sĩ phu, Toàn quyền Beau trong năm này đă phải lập
một Hội đồng cải cách giáo dục để đưa tân học, chữ quốc ngữ, chữ
Pháp vào khoa cử Hán học, mở một trường sư phạm đào tạo giáo viên
tiểu học và mở trường đại học ở Hà Nội (35) . Cái gọi là "mới" của
thời kỳ văn học khởi đầu từ 1907 là sức hút của những tư tưởng tự
do, dân chủ, nhân quyền, của chủ nghĩa nhân đạo... trong trào lưu
cách mạng tư sản, cùng với quan niệm thẩm mỹ lấy cái "tôi" cá nhân
cá thể làm trung tâm, và các h́nh thức nghệ thuật mới mẻ của văn học
Âu Tây.
Có thể chia thời kỳ văn
học mà chúng ta đang đề cập thành hai giai đoạn :
1. Giai đoạn 1907-1932
: tiến tŕnh đổi mới của văn chương c̣n diễn ra chậm chạp và không
đồng đều. Trong khi văn nghị luận, biên khảo (Phạm Quỳnh và nhóm Nam
phong) và văn học dịch (Nguyễn Văn Vĩnh và các nhà văn dịch chữ Hán)
dành được những thành tựu đột xuất th́ tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch nói vẫn chỉ mới là những bước ḍ dẫm t́m đường. Thơ muốn "phá
cách, vứt điệu luật" để thỏa măn những rung động khắc khoải của con
tim nhưng cũng chưa có cách nào thoát ra khỏi gông cùm của thơ
truyền thống. Văn học chữ Hán lưu hành bằng con đường bí mật vẫn có
một địa vị dẫn đạo đời sống tư tưởng.
2. Giai đoạn 1932-1945
: là một bước chuyển nhảy vọt từ lượng sang chất của mọi trào lưu,
mọi thể loại - từ chủ nghĩa lăng mạn, chủ nghĩa hiện thực đến những
báo hiệu đầu tiên của nghệ thuật tượng trưng, siêu thực (Nhóm Xuân
thu nhă tập), từ tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch nói, kịch thơ
đến lư luận phê b́nh; mặt khác là một biến cách lớn lao trong sinh
hoạt văn học ngay từ khởi điểm 1932 (Tự lực văn đoàn thành lập,
phong trào thơ mới nẩy sinh, Tản Đà cho in Khối t́nh con tập III kết
thúc sự nghiệp thi ca của ḿnh, và năm sau 1933, 27 tờ báo tiếng
Việt được phép xuất bản, các cuộc bút chiến về tư tưởng, về văn học
bắt đầu dấy lên sôi nổi).
Nên đặt tên cho thời kỳ
văn học này là ǵ? Trong cuộc hội thảo năm 1985, phần lớn chúng tôi
đều thống nhất gọi là thời kỳ văn học Cận đại. Cũng là điều dễ hiểu
: nửa đầu những năm 80, t́nh h́nh thế giới chưa có biến động ǵ đáng
kể, quan niệm về vận động lịch sử của chúng tôi căn bản vẫn dựa trên
lư thuyết các h́nh thái kinh tế xă hội của Marx, coi sự nối tiếp từ
chế độ phong kiến đến chế độ tư sản, rồi sang chế độ xă hội chủ
nghĩa là điều hiển nhiên trên phạm vi toàn cầu. Và như thế, thời kỳ
văn học 1907-1945, nằm trong phạm trù ư thức hệ tư sản, ắt đă vượt
thoát các hệ thống quy phạm của văn học phong kiến, nhưng dù sao nó
cũng là một thực tại đă và đang bị vượt qua. C̣n văn học từ 1945 đến
nay, xét trong t́nh h́nh lúc ấy, là nền văn học đang đi vào quỹ đạo
văn học xă hội chủ nghĩa, lấy phương pháp sáng tác hiện thực xă hội
chủ nghĩa làm nguyên tắc, lấy ư thức hệ vô sản làm linh hồn tư tưởng,
chắc chắn không thể nào khác là tương lai của văn học dân tộc, là
cái đă và đang tới, th́ ngoài mấy chữ văn học Hiện đại, c̣n cách gọi
nào xứng đáng với nó hơn?
Điều không ai ngờ là
những đảo lộn tày trời đă xảy ra chỉ 5 năm sau những ư kiến phân kỳ
của chúng tôi. Mặc dù về chính trị, chúng ta vẫn giữ nguyên mô h́nh
nhà nước xă hội chủ nghĩa, nhưng nhiều nội dung đă phải mở rộng khái
niệm, như nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế cá thể, kinh
tế tư bản tư nhân không hạn chế quy mô hoạt động, nền kinh tế thị
trường phát triển trong xu thế đa cực hóa và toàn cầu hóa, khuyến
khích hoạt động kinh doanh, làm giàu và hợp tác kinh tế với công ty
tư bản nước ngoài... Về văn học, vị trí của văn học hiện đại Việt
Nam trong hệ thống văn học xă hội chủ nghĩa thế giới dĩ nhiên không
c̣n, bởi lẽ dù vẫn tồn tại một số nước xă hội chủ nghĩa th́ mối
tương giao anh em trong nhiều lĩnh vực, kể cả văn học, đă khác trước
về cơ bản. Ngay như Trung Quốc, sự phát triển văn học của nước này
sau giai đoạn cải cách mở cửa như thế nào, hẳn là c̣n phải chờø đợi,
nhưng điều ta biết chắc là không ai c̣n áp đặt phương pháp sáng tác
hiện thực xă hội chủ nghĩa lên các nhà văn Trung Hoa lục địa, kể từ
đó đến nay. Trong phần viết về văn học Trung Quốc đương đại, bộ
Trung Hoa văn học thông sử của Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc phát
hành năm 1997 đă nói đến hiện tượng đa nguyên trong thơ ca, nói đến
trường thơ tân biên tái, trường thơ mông lung, trường thơ "tân sinh
đại", nói đến trường phái tiểu thuyết bám rễ vào hương thổ, trường
phái tiểu thuyết đô thị phong t́nh, trường phái tiểu thuyết nữ tính,
trường phái tiểu thuyết tân hiện thực... (36) vốn là những khái niệm
chưa hề có trong phạm trù "hiện thực xă hội chủ nghĩa" mà sách vở
trước nay vẫn coi là kinh điển. Và ngay chúng ta, trong Đại hội nhà
văn lần thứ IV (1989), Tổng bí thư lúc đó là ông Đỗ Mười cũng có
phát biểu, đại ư cho rằng đối với phong trào văn nghệ hiện nay,
phương pháp hiện thực xă hội chủ nghĩa hay phương pháp sáng tác nào
cũng có thể sử dụng, miễn sao góp phần làm cho văn học dân tộc tiến
bước vững mạnh.
2. Bởi vậy, nhiều tiêu
chí được chúng tôi vận dụng năm 1985 nhằm phân biệt hai thời kỳ văn
học Cận đại và Hiện đại, đến nay đă phải được duyệt lại một cách
rạch ṛi. Trong Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại, Trần Đ́nh Sử
chưa nêu lên một ư kiến thật dứt khoát về sự phân định giữa hai thời
kỳ Cận đại và Hiện đại, bởi theo ông, nếu nói đến việc chấm dứt chế
độ phong kiến th́ phải tính tới cái mốc 1945, nhưng xét riêng bản
thân văn học th́ từ 1930-1932 văn học Trung đại đă chấm dứt hẳn. Tuy
nhiên, "nếu hiểu thời Hiện đại là thời đại đánh dấu bằng sự tiếp xúc,
giao lưu toàn diện của tất cả các quốc gia trên thế giới, tất cả
tham gia vào một tiến tŕnh lịch sử chung, các sự kiện lịch sử thế
giới tác động trực tiếp tới mọi quốc gia lớn nhỏ, th́ có thể nói
việc xác định thời Hiện đại từ thế kỷ XX là có cơ sở" (37) . Rất
tiếc, ư kiến này vẫn chỉ mới như một định hướng tổng quan để nhận
diện một bước ngoặt của lịch sử từ Trung đại (hoặc CâÏn đại) sang
Hiện đại, chứ chưa phải là những tiêu chí đặc thù của thời kỳ văn
học HiệÏn đại Việt Nam.
Thiết tưởng, đến nay,
không ai c̣n nghi ngờ ǵ về thời điểm bắt đầu của tiến tŕnh hiện
đại hóa văn học dân tộc, là kể từ khoảng giữa thập niên thứ nhất của
thế kỷ XX. Tiến tŕnh đó kéo dài trong suốt thế kỷ XX và c̣n vắt
sang thế kỷ XXI, nhưng cho đến 1945 đă đạt đến một cao trào mà những
thành tựu về sau dường như không với tới được, ít nhất là về khối
lượng và khả năng chiếm lĩnh bạn đọc của những tác phẩm tiêu biểu,
về tính phong phú, hoàn chỉnh của những tổ chức và hoạt động văn học
đúng nghĩa, về sự đa dạng, tài hoa của những phong cách nghệ thuật
bậc thầy. Con đường hiện đại hóa văn học ở thế kỷ XX làø một xu thế
tất yếu song không nhất thiết lúc nào và ở đâu cũng chỉ có đi lên,
hơn nữa, sự thăng hoa trong nghệ thuật đôi lúc lại bắt nguồn từ
những yếu tố rất khó giải thích , nên không thể nói chắc rằng tiến
tŕnh sau bao giờ cũng cao hơn tiến tŕnh trước, đó là điều không có
ǵ lạ. Tuy vậy, cũng không thể v́ cái giá trị không thể chối căi của
văn học giai đoạïn 1932-1945 mà cho rằng đây nghiễm nhiên đă là văn
học hiện đại. Một khi văn học chúng ta đă bước vào quỹ đạo của văn
học thế giới th́ hai chữ "hiện đại" dùng cho nó cũng phải dựa trên
chuẩn mực của văn học thế giới, chứ không thể nặn ra một thứ chuẩn
mực riêng cho văn học Việt Nam. Ta sẽ thấy, trong suốt thời kỳ văn
học 1907-1945, hầu hết các h́nh thức thể loại cũng như tiêu chuẩn
thẩm mỹ mà văn học dân tộc đang cố sức đuổi cho kịp văn học Âu Tây,
chẳng qua chỉ mới là cái tŕnh độ của Âu Tây giới hạn ở thế kỷ XIX
trở về trước. Từ các nhà văn châu Âu được dịch ra tiếng Việt, các
trường phái châu Âu mà chúng ta mô phỏng, đến các tác giả tác phẩm
chúng ta lấy làm mẫu mực... nếu không thuộc chủ nghĩa Cổ điển th́
cũng thuộc chủ nghĩa Lăng mạn, không chủ nghĩa lăng mạn th́ cũng là
chủ nghĩa Hiện thực (vốn đều đă kết thúc vận mệnh ở cuối thế kỷ XIX
và mấy năm đầu thế kỷ XX là cùng), như Corneille, Racine, Molière,
La Fontaine, Dumas bố và con, Hugo, Balzac, La Martine,
Chateaubriand, Beaudelaire, Rimbeau, Verlaine, Musset... C̣n các
trường phái hiện đại như Trừu tượng, Tượng trưng, Siêu thực, Hiện
sinh chủ nghĩa... đối với họ nói chung vẫn c̣n là điều lạ lẫm (trừ
Xuân thu nhă tập xuất hiện sát ngay trước Cách mạng tháng Tám). Ngay
kịch nói của chúng ta trong giai đoạn, dấu ấn để lại sâu đậm nhất
vẫn là ḍng kịch đá giọng biền ngẫu, theo luật tam duy nhất, của
kịch nói châu Âu thế kỷ XVII mà thôi. Như thế, có thể nói cái hiện
đại của văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX là cái hiện đại đă bị
văn học châu Âu nửûa đầu thế kỷ XX vượt qua. Cái hiện đại ấy thực
chất chỉ là Cận đại. Tôi nghĩ, gọi văn học 1907-1945 là Thời kỳ văn
học Cận đại trong những tương quan đó không phải là không hợp lư.
Gọi như thế hoàn toàn không phải là hạ thấp giá trị của nó (Ngay cả
những trường phái Trừu tượng, Tượng trưng, Siêu thực, Hiện sinh...
của thế giới có sức sống bền vững đến đâu cũng c̣n là điều chưa dễ
đă nhất trí, nhưng nói đó là sản phẩm của thời hiện đại và của tư
duy nghệ thuật hiện đại th́ không thể phủ nhận).
HAI HƯỚNG PHÂN CHIA
THỜI KỲ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI :
CHIA THEO VÙNG VÀ CHIA
THEO GIAI ĐOẠN
1. Nhưng gọi văn học
1907-1945 là văn học Cận đại th́ văn học từ sau 1945 đến nay nghiễm
nhiên là văn học Hiện đại, thực tế có những đặc trưng ǵ khác trước?
Tôi xin không nhắc lại cái "khác biệt cơ bản" mà trong những bài
viết trước đây, tôi và các nhà nghiên cứu khác đă lấy làm tâm đắc.
Cái khác biệt ấy hóa ra đă bị thời gian sàng lọc, thử thách, không
c̣n đứng măi được ở vị trí "cơ bản" nữa rồi. Chỉ lưu ư rằng trong bộ
Trung Hoa văn học thông sử đă dẫn, có khác với chúng ta, giới nghiên
cứu Trung Quốc gọi thời kỳ văn học từ khi nước cộng ḥa nhân dân
Trung Quốc thành lập về sau là văn học Đương đại. Văn học Đương đại
là cái đang diễn ra - một phạm trù thời gian chứ không phải một phạm
trù giá trị. Nó đ̣i hỏi miêu tả chính xác các hiện tượng hơn là tổng
kết, đánh giá, "xếp hạng" cho chúng, bởi cái đang diễn ra th́ phải
chờ "cái quan định luận", chờ phán xét của người sau. Văn học Việt
Nam Hiện đại có lẽ cũng nên được nh́n theo phương hướng trên. Tính
hiện đại trước hết nằm ở quy mô biến động mang tầm thế giới của môi
trường sáng tác. Từ nửa sau thế kỷ XX, văn học diễn ra trong một bối
cảnh có nhiều bức xúc và dồn dập những sự kiện đầy kịch tính : cuộc
chiến 30 năm chống xâm lược Pháp và Mỹ thôn tính và chia cắt đất
nước, sự xuất hiện của hai phe và t́nh h́nh căng thẳng của chiến
tranh lạnh, sự sụp đổ của phe xă hội chủ nghĩa cùng với yêu cầu đổi
mới toàn diện đất nước, xu hướng mở cửa, giao lưu kinh tế và văn hóa
với thế giới, gia nhập vào khối thị trường chung ... Bối cảnh phức
tạp khiến cho văn học Việt Nam Hiện đại trong ṿng hơn năm mươi năm
qua cũng mang một diện mạo phức tạp không kém mà bước đầu tạm rút ra
hai đặc điểm : văn thơ in đậm dấu ấn chính trị và có xu hướng đa
vùng. Đấu tranh khốc liệt về ư thức hệ buộc văn học phải trở thành "vũ
khí", hoặc chí ít cũng không thanh thản đứng ngoài chính trị như văn
học trước 1945, dù là bên này hay bên kia. Trên con đường đấu tranh,
đất nước nhiều phen bị cắt xé, h́nh thành các cộng đồng dân cư có
thể chế xă hội khác nhau, sinh hoạt vật chất và tinh thần khác nhau,
trong đó có sinh hoạt văn nghệ. Đương nhiên, bối cảnh của Việt Nam
nằm trong cục diện chính trị của thế giới, nên "trường hợp Việt Nam"
cũng không phải là cá biệt. Nếu nói đến văn học Trung Quốc Đương đại,
học giả đương đại Trung Quốc đă không thể bỏ quên văn học Đài Loan,
văn học Hồng Kông, văn học Ma Cao bên cạnh văn học đại lục (38) ,
nói đến văn học Triều Tiên Đương đại, học giả đương đại Triều Tiên
không thể không xem xét cân đối văn học cộng ḥa dân chủ nhân dân
Triều Tiên và văn học Nam Hàn, th́ nói đến văn học Việt Nam trong
thời kỳ này, người nghiên cứu Việt Nam cũng nhất thiết phải t́m hiểu
nghiêm chỉnh văn học vùng kháng chiến (chiến khu Việt Bắc, chiến khu
Nam Bộ và khu IV khu V), văn học các đô thị Hà Nội, Sài G̣n thời
Pháp tạm chiếm, văn học nửa nước phía Bắc và văn học nửa nước phía
Nam sau Hiệp định Genève, rồi văn học vùng giải phóng sau ngày Hội
văn nghệ giải phóng miền Nam thành lập, và từ sau 1975 là văn học
trong nước và văn học hải ngoại. Văn học mang lằn ranh ư thức hệ là
một hiện hữu nhưng giá trị của nó c̣n được quy định bởi nhiều yếu tố
quan trọng khác. Miêu tả thật khách quan, khoa học, đóng góp của văn
học mỗi vùng vào bộ mặt chung của văn học đất nước, theo tiêu chuẩn
cái hiện thực và cái nhân bản, cái dân tộc và cái nhân loại, cái
trần thế và cái tâm linh,... là nhiệm vụ cấp thiết của văn học sử.
Sự phân vùng không
những làm cho tính chất của văn học Hiện đại Việt nam ở nửa cuối thế
kỷ XX không c̣n thuần nhất mà ảnh hưởng của các trào lưu hiện đại
quốc tế đến văn học dân tộc cũng mỗi vùng một khác nhau. Tuy thế, dù
tiếp xúc từ chân trời nào, ở thời điểm này văn học chúng ta đă thực
sự bước vào quỹ đạo thế kỷ XX của văn học thế giới. Trong khi văn
học miền Bắc tiếp thu kinh nghiệm của văn học Liên-xô, Trung Quốc,
ra sức xây dựng cái "ta" cộng đồng, mở rộng cảm hứng sử thi, sáng
tạo những điển h́nh con người mới theo phương pháp hiện thực xă hội
chủ nghĩa, tiếp tục "thâm canh" trên những thể loại đă trở thành cổ
điển : tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, thơ lục bát, thơ tự do, và
khởi xướng thơ không vần (Nguyễn Đ́nh Thi), thơ ḥa trộn (lục bát
với năm chữ-bảy chữ-tám chữ), thơ văn xuôi... th́ văn học miền Nam
dưới chế độ Việt Nam cộng ḥa, cũng qua những thể loại tương tự, lại
đào sâu vào h́nh ảnh con người tự do cá nhân, đẩy tới cực hạn những
kiểu người duy ngă - con người mặc sức dấn thân hay "buông xả" , con
người như một hệ lụy của chính nó - đồng thời đă ít nhiều tiếp xúc
với những trường phái mới mẻ nhất của văn học Âu Tây như trường phái
Tiểu thuyết mới, Phê b́nh mới, Hiện sinh chủ nghĩa... hoặc có những
cách tân mạnh bạo trong thơ ca, như nhóm Sáng tạo của Mai Thảo,
Thanh Tâm Tuyền, hay lối thơ ngô nghê Bùi Giáng... Thu thập, phân
tích, so sánh cho kỳ hết các đặc điểm khác nhau của mỗi vùng văn học
trong cộng đồng văn học Hiện đại Việt Nam, theo tôi, cũng chính là
một yêu cầu của phân kỳ văn học sử hiện đại, v́ độ chênh về không
gian ở đây xét tới cùng vẫn là sự phản ánh gián tiếp độ chênh về
thời gian, là thời gian không gian hóa.
2. Và cũng trên cơ sở
tính đa vùng đă được nhận diện, ta có khả năng tiến thêm một bước,
t́m những phương án hợp lư phân chia giai đoạn cho văn học Hiện đại
Việt Nam. Xét một cách giản dị th́ trong hoàn cảnh một cuộc chiến
tranh khốc liệt kéo dài đến 30 năm, sự xáo trộn không gian địa lư
của mỗi vùng sáng tác đều do các nấc thang của cuộc chiến quyết định,
bộ mặt văn học Hiện đại dường như cũng diễn tiến theo sát các biến
cố lịch sử, tạo nên ba giai đoạn chính, mà trong mỗi giai đoạn, thế
lưỡng phân về ư thức hệ không có ǵ thay đổi, song đội ngũ sáng tác
th́ có bổ sung, hoán chuyển, và chủ đề, đề tài, h́nh thức biểu hiện...
ở mỗi vùng đều thay đổi khá nhiều :
1. Giai đoạn 1945-1954
: văn học cách mạng kháng chiến ra đời ở chiến khu và các vùng tự
do, văn học đô thị ở trong vùng tạm chiếm. Lực lượng cầm bút chủ yếu
vẫn là thế hệ nhà văn trước 1945, nhưng một bên hào hứng với ánh
sáng cách mạng, với tư thế con người đứng lên giành độc lập, một bên
mang tâm sự mặc cảm của kẻ "trong tề", nhiều người vẫn khắc khoải
hướng về "người đi khu chiến"; một bên phải thử thách ḿnh trước một
hiện thực sôi động chưa từng biết, một bên vẫn tiếp tục sở trường
quen thuộc trước kia.
2. Giai đoạn1954-1975 :
đất nước chia đôi, văn học tồn tại hợp thức dưới hai chính thể nhà
nước thuộc hai khối đối địch nhau. Văn học miền Bắc (và vùng giải
phóng miền Nam) vừa kế thừa lớp người cầm bút trong kháng chiến
chống Pháp vừa có thêm nhiều lực lượng trẻ góp mặt, mục tiêu quán
xuyến là xây dựng xă hội chủ nghĩa và đấutranh chống Mỹ ngụy. Văn
học miền Nam không chỉ là lực lượng tại chỗ về sau ngày càng đông
đảo, mà c̣n được bổ sung từ Hà Nội và các vùng kháng chiến hồi cư,
không chủ trương định hướng sáng tác, thả lỏng cho mọi sự sáng tạo
tự do, v́ thế nhiều khuynh hướng đối lập cùng song song tồn tại, có
chống cộng và ḥa giải, tâm lư chiến và phản chiến, lại có cả văn
chương đứng ngoài chính trị...
3. Giai đoạn từ sau
1975 : đất nước thu về một mối tạo điều kiện cho nền văn học hiện
thực xă hội chủ nghĩa mở rộng thành văn học cả nước, cất tiếng ca
tưng bừng "Việt Nam - Hồ Chí Minh" của người chiến thắng, đưa lên "tượng
đài" h́nh ảnh người anh hùng đánh Mỹ, và từng bước dơi theo tư thế
của con người ấy trong cuộc sống ḥa b́nh. Trong khi đó, ở nhiều
nước có cộng đồng người Việt di tản, một ḍng văn học hải ngoại ra
đời, buổi đầu cũng do lực lượng văn nghệ sĩ cũ ở miền Nam đóng vai
tṛ chính, vừa bàng hoàng phẫn hận trước bi kịch đổ vỡ của những con
người ở phía bên kia cuộc chiến, vừa dày ṿ trong nghịch cảnh lưu
vong : phải trải qua muôn ngh́n khổ ải để t́m đất hứa, bơ vơ nơi xứ
lạ, nỗ lực hội nhập để sống c̣n nhưng vẫn không quên khẳng định "căn
cước" của chính ḿnh... Cách phân chia này tưởng cũng dễ được nhiều
người thừa nhận.
Tuy nhiên, văn học từ
1975 đến nay phải chăng vẫn chỉ là một giai đoạn mà thôi? Nên nhớ về
mặt lịch sử, cái mốc 1975 là một bước ngoặt trọng đại chưa bao giờ
có trong ba phần tư đầu thế kỷ, nó đánh dấu một kỷ nguyên độc lập
trong thống nhất vẹn toàn. Từ 1975 hay chính xác hơn là từ 1980 trở
đi, cả dân tộc trên khắp mọi miền đă lần lần cất được cái áp lực
nặng nề của tâm lư con người thời chiến - phải dẹp bỏ tất cả, thu
ḿnh lại hoặc căng ḿnh ra "chịu trận" - để trở lại nếp sống thường
nhật, với những giây phút riêng tư, chùng lắng, những lo nghĩ tính
toan vụn vặt, và biết bao nhu cầu, dục vọng, thói quen, sở thích...
cả những "ẩn số" nằm trong đáy tâm khảm, những "nỗi đau thân phận"
muôn thuở của kiếp người. Trong xă hội cũng như trong mỗi gia đ́nh,
mỗi cá nhân, hàng loạt vấn đề b́nh thường mà ngổn ngang, "tơ ṿ trăm
mối", cứ thế đặt ra, không dễ ǵ giải quyết ngay một lúc và cũng
không thể giải quyết theo kiểu dứt khoát "trắng đen", "bạn thù" như
thuở c̣n chiến tranh. Thế mà văn học rất lâu về sau vẫn không theo
kịp bước chuyển đó. H́nh thái nhà văn - chiến sĩ / cầm bút - cầm
súng chưa thôi ám ảnh tâm thức sáng tạo, và trên mọi trang viết, đề
tài thời sự chính sách được ưu tiên lựa chọn, mặt khác âm hưởng sử
thicơ hồ được đẩy đến nấc tột cùng. Con người điển h́nh vẫn đẹp một
cách cao cả, uy nghiêm, không chút động tâm trước muôn vàn những
chuyện "tuế toái bà dằn" của thực tế. Đó là kiểu người hướng ngoại,
không có bi kịch, hiếm khi phải đối diện với chính nó trong t́nh
trạng phân thân hay vôthức. Cuộc sống mà văn thơ miêu tả bao giờ
cũng được xếp đặt hợp lư, rất đúng tinh thần duy lư, tưởng như khó
có thể len vào dù chỉ là một thoáng phi lư, siêu h́nh. Phải nói giữa
cái được phản ánh và cái phản ánh bây giờ đă khó điều ḥa được với
nhau, văn học đang trượt theo đà quán tính của nó, làm nó bị chững
lại, nhất là vào những năm đất nước lâm vào khủng hoảng bởi chế độ
bao cấp đă đến hồi quá tải.
Bức bối của đời sống
hiện thực bắt buộc phải t́m ra giải pháp. Năm 1986, chủ trương đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng với nó, văn nghệ được "cởi
trói" (39) , bắt đầu dậy lên một luồng sinh khí mới. Nhưng trong
chiều sâu nhận thức của nhiều người, không phải đến bấy giờ mới chợt
thức tỉnh. "Khoán chui" đă xuất hiện từ sớm và sớm hơn nữa là vè,
tiếu lâm, tục ngữ, ca dao hiện đại. Cũng vậy, từ 1978-1979 lư luận
phê b́nh đă lên tiếng cảnh báo hiện tượng "phải đạo" của cả một
khuynh hướng văn chương : nó là "sự lấn át của b́nh diện cái phải
tồn tại đốùi với b́nh diện cái đang tồn tại", "sự lấn át của cấp lư
tính đối với cấp cảm tính trong nhận thức của chủ thể mỹ học, sự lấn
át của nội dung đối với h́nh thức trong cấu trúc của h́nh tượng và
tác phẩm nghệ thuật, sự lấn át của lư trí đối với cảm xúc trong h́nh
ảnh con người mới cũng như sự lấn át của bản chất đối với hiện tượng
trong h́nh ảnh cuộc sống mới được phản ánh vào tác phẩm", nó khiến
cho "nhân vật mờ nhạt", "bị sự kiện lấn át", "đến một mức độ nào đó
xu hướng này đẻ ra chủ nghĩa minh họa" (40) . Chỉ mới là một vài
tiếng nói đơn độc buổi đầu mà đă đủ gây nên cả một "cú sốc", dường
như trong tâm lư xă hội có cái ǵ nghịch lư giữa không muốn chấp
nhận nó song cũng chẳng thể chối bỏ. Nhưng rồi tiếp đấy là những năm
trăn trở, vật lộn âm thầm, và rèn thêm dũng khí để người sáng tác tự
bứt dần khỏi "cái động h́nh" bám rễ sâu trong tư tưởng, nói như
Nguyễn Minh Châu "đó là những năm các nhà văn nghĩ rất nhiều và băn
khoăn day dứt rất nhiều về mối quan hệ giữa văn học và đời sống thực
tại đang một ngày một xa" (41) . Mỗi tác phẩm ra đời lại là thêm một
bằng chứng văn học đang cố gắng vượt lên, đang tự điều chỉnh cho
đúng hướng : Nguyễn Trăi ở Đông Quan và Rừng trúc của Nguyễn Đ́nh
Thi 1978-1980, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải và Mưa mùa hạ của Ma
Văn Kháng 1982, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn
Minh Châu, Đứng trước biển, Cù lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Hồn
Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Nhân danh công lư của Lưu
Quang Vũ 1983-1984, Ánh trăngcủa Nguyễn Duy, Sân ga chiều em đi, Tự
hátcủa Xuân Quỳnh 1984, Người đàn bà ngồi đan của YÙ Nhi, Khối vuông
ru-bích của Thanh Thảo, Mùa lá rụng trong vườncủa Ma Văn Kháng, Bên
kia bờ ảo vọng của Dương Thu Hương 1985, Thời xa vắng của Lê Lựu,
Miền hoang tưởng của Xuân Khánh 1986... Cho đến cuối năm 1987,
Nguyễn Minh Châu đă có thể yên tâm "đọc lời ai điếu" (42) cho cả một
chặng đường văn nghệ đă qua mà với tư cách là người trong cuộc, ông
biết rơ đến ngóc ngách mọi sở trường sở đoản. Bởi thế, chúng tôi coi
những năm từ 1978-1979 trở đi là một thời gian quá độ, "tiền đổi mới"
(préréforme), là bước chuẩn bị cần thiết về cả tiềm lực sáng tạo lẫn
cơ sở lư luận cho sự nở rộ của chặng đường sau mà ta có thể lấy năm
1988 ? năm xuất hiện một loạt truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ? làm
mốc chính thức : chặng đường thật sự trở lại với cảm hứng thế sự,
cảm hứng đời tư, với cái tôi trữ t́nh và phản tỉnh xă hội, với những
cách tân ngôn ngữ, cấu trúc, thi pháp, qua truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Vơ Thị Hảo, Lê Minh Khuê,
Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ và rất nhiều cây bút sắc sảo
khác, qua tiểu thuyết của Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Ma Văn Kháng,
Lê Lựu, Xuân Khánh, Đoàn Lê, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Quang Lập... kư của Tô Hoài, Phùng Gia Lộc, Phùng Quán, Trần Duy
Quang... thơ của Văn Cao, Đặng Đ́nh Hưng, Chế Lan Viên (Di cảo),
Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Trần Vũ Mai, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo,
Nguyễn Duy, YÙ Nhi, Đoàn Thị Lam Luyến, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng
Hưng, Dư Thị hoàn, Nguyễn Quyến...
Cũng không phải là t́nh
cờ mà trước sau một vài năm tính từ thời điểm 1988, văn học hải
ngoại cũng có những chuyển biến thấy rơ. Trong khi một số nhà văn
lớp trước bớt nói đến ẩn ức chính trị, đi t́m cảm hứng trong lịch sử
hoặc trong những chiêm nghiệm thân thế, trầm mặc về đời người... sau
nhiều "mùa biển động", th́ đông đảo các nhà văn trẻ ? mà số lượng nữ
khá vượt trội - lại mải mê ghi lại vô vàn cảnh ngộ lư thú, nực cười
của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác
dồn năng lực t́m ṭi các cách viết mới, cách đặt câu xếp chữ tân kỳ,
cách ám dụï bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa nghĩa, và cũng có
không ít nhà văn, không chút thờ ơ trước luồng gió đổi mới từ trong
nước, đang cố gắng thoát khỏi những mặc cảm quá khứ, chủ động lên
tiếng "hợp lưu" để cùng với ḍng văn học đổi mới ở trong nước "hợp
chung thành một ḍng văn học Việt có trong có ngoài, trong sự cảm
thông giữa những người cầm bút" (43) .
Hoàng Ngọc Hiến muốn
gọi giai đoạn mới này của văn học Hiện đại Việt Nam là giai đoạn "hậu
hiện thực xă hội chủ nghĩa" (44) . Chúng tôi nghĩ, có lẽ cách làm
cần thiết hơn là chỉ ra được yếu tính của nó : một giai đoạn mà sự
sáng tác văn chương đă giảm thiểu tối đa tính chức năng của văn học
giai đoạn trước, đă ấp ủ trong ng̣i bút cái nội lực của tinh thần
dân chủ, mặt khác đă từng bước đáp ứng những thôi thúc bí ẩn bên
trong của công việc sáng tạo, nghĩa là không c̣n quá áp sát bởi
chính trị.
4 - VI - 2001
Nguyễn Huệ Chi
Chú Thích
1. Xem bài Vấn đề phân
kỳ văn học sử Việt Nam. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 59-75.
2. Bài trên được sửa
lại và in trong cuốn Các vấn đề của khoa học văn học. Trương Đăng
Dung chủ biên. Nxb. Khoa học xă hội, Hà Nội, 1990. Tr. 372-398.
3. Xem bài Đổi mới nhận
thức lịch sử trong khoa học xă hội và trong nghiên cứu văn học. Tạp
chí văn học, số 6-1990.
4. Xem bài Vấn đề phân
kỳ trong lịch sử văn học dân tộc và quy luật vận động củá văn học
dân tộc. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 25-40.
5. Xem bài Vấn đề chọn
mấy năm mốc trong việc phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 41-51.
6. Xem bài Suy nghĩ về
phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam. Tạp chí văn học,
số 3-1985, tr. 52-58.
7. Xem Mấy vấn đề thi
pháp văn học Trung đại Việt Nam. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
8. Klanixoi Tiborơ. Về
khái niệm thời kỳ văn học. Sđd, tr. 399-408.
9. Thanh Lăng. Bảng
lược đồ văn học Việt Nam, Tập thượng, Nxb. Tŕnh bày, Sài G̣n, 1967.
Phần mở đầu, tr. XXXXI-XXXXII.
10. Như trên, tr.
XXXXII-XXXXIII.
11. Trung Hoa văn học
thông sử, 10 quyển. Trương Quưnh, Đặng Thiệu Cơ, Phàn Tuấn chủ biên.
Hoa nghệ xuất bản xă, Bắc Kinh, 1997. Sách này viết đến tận cuối thế
kỷ XX nhưng chúng tôi chỉ chọn 4 quyển đầu, tức thời kỳ thứ nhất (Cổ
đại) trong bảng phân kỳ của họ.
12. Xem Trung Quốc văn
học sử, 4 quyển. Nxb. Cao đẳng giáo dục, Bắc Kinh, 1999. Sách này
chỉ viết từ thời Thượng cổ dến năm 1919. Phần "Tổng tự" của Viên
Hành Bái, Q. I, tr. 12 và 18.
13. Lanson. Histoire de la
littérature française (in lần đầu 1894), remaniée et complétée pour
lapériode 1850-1950 par Paul Tuffaut. Nhà sách Hachette, Paris,
1951. Trong sách này, Lanson và Paul Tuffaut đă chia lịch sử văn học
Pháp thành bảy thời kỳ :1. Thời kỳ Trung cổ; 2. Thời kỳ từ sau Trung
cổ đến hết Phục hưng; 3. Thế kỷ XVI; 4. Thế kỷ XVII; 5. Thế kỷ
XVIII; 6. Thế kỷ XIX; 7.
Thời kỳ Hiện đại
(1919-1950).
14. M. H. Abrams. A
Glossary of Literary Terms. Nxb. Harcourt Brace College, Fort Worth,
Philadelphia, San Diego, New York, Orlando, Austin, San Antonio,
Toronto, Montreal, London, Sydney, Tokyo, tr.210. Các dẫn liệu trong
cuốn sách này và trong cuốn Thử thách của vấn đề phân kỳ của
Lawrence Besserman (chú thích 28) đều do ông Nguyễn Nam, Trường đại
học Harvard, chỉ giúp. Xin ghi nhận ở đây ḷng biết ơn của chúng tôi.
15. M. H. Abrams. Sđd,
tr. 205. Nguyên văn : "suggests that there is an order in American
political history more visible and compelling than that indicated by
specifically literary or intellectual categories".
16. Như trên, tr. 205.
17. Xem bài Xác định
cái dân tộc, cái cổ điển làm cơ sở để phân kỳ văn học dân tộc
(1984). In trong Nho giáo và văn học Việt nam Trung cận đại. Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995, tr. 500-523.
18. Xem mục "Le monde
médiéval" trong sách Encyclopedia Universalis, CD-Rom PC.
Nguyên văn : "Dans le cadre original,
une civilisation s'est élaborée à partir d'éléments dont la plupart
étaient classiques, germaniques ou chrétiens". Sau đây là hai đoạn
trích nói về uy thế của đạo Cơ đốc và của Ṭa thánh La-mă trong suốt
thời Trung cổ :
"Để thực hiện sự thống nhất về tinh
thần, phải gieo rắc tín ngưỡng, đón trước những sự bất đồng, và nuôi
sống nó bằng những giáo đồ của nó. Nhiệm vụ thứ nhất là việc truyền
bá Phúc âm, sánh vai cùng sự bành trướng của phương Tây. Khi th́
những tông đồ nối gót những người lính, những viên chức và những nhà
buôn, và họ vinh danh hành động của họ; khi th́ họ khai thông con
đường của họ. Họ chinh phục trước tiên là phía Bắc xứ Francie, nước
Airơlen, nước Anh, nước Đức. Dưới triều Carôlinhgiêng, họ buộc các
xứ Saxe, Moravie, Carinthie slovène quy theo đạo. Đến thế kỷ X, họ
thâm nhập vùng Scandinavie, cắm chốt ở Bohême, chiến thắng người
Hung và với tay tới Ba-lan. Với phong trào Drang nach Osten [ phong
trào "Tiến về phương Đông" của phong kiến Đức ở thế kỷ XII], họ mang
Phúc âm vào Phầân-lan, vào những vùng nói tiếng Slave ở Poméranie và
Prusse. Nhưng những vùng nói tiếng Slave ở Serbie, Bun-ga-ri và Nga
th́ thoát khỏi bàn tay La-mă. Giữa những năm 860 và 871, họ tiếp
nhận những nhà truyền giáo của xứ Byzance. Khi sự ly giáo nổ ra, họ
ở lại trong phạm vi ảnh hưởng của xứ này. Thầy tu nối vào chính trị
để cắt Đông Âu ra khỏi phương Tây" (Pour réaliser l'unité
spirituelle, il fallait répandre une croyance, y prévenir les
dissensions et la faire vivre par ses adeptes. La première tâche,
l'évangélisation, alla de pair avec l'expansion de l' Occident.
Tantôt les apôtres suivirent les soldats, les fonctionnaires et les
marchands et couronnèrent leur action, tantôt ils leur frayèrent la
route. Ils conquirent d'abord la Francie septentrionale, l'Irlande,
l'Angleterre, l'Allemagne. Sous les Carolingiens, ils convertirent
la Frise, la Saxe, la Moravie, la Carinthie slovène. Au Xe siècle,
ils pénétrèrent en Scandinavie, s'ancrèrent en Bohême, triomphèrent
chez les Hongrois et atteignirent la Pologne. Avec le Drang nach
Osten, ils portèrent l'Evangile en Finlande, dans les pays baltes et
aux Slaves de Poméranie et de Prusse. Mais ceux de Serbie, Bulgarie
et Russie échapèrent à Rome. Entre 860 et 871, ils avaient accueilli
des missionnaires de Byzance. Quand le schisme éclarta, ils
restèrent dans la sphère d'influence de celle-ci. Le religieux
rejoignit le politique pour couper l'Europe orientale de
l'Occident).
"Với tham vọng về sự độc lập của vị
Giáo trưởng Constantinople, nó trả lời bằng cách khẳng định không
khoan nhượng quyền lực vạn năng của La-mă. Để sắp đặt thế giới theo
kế hoạch của Chúa trời, nó công bố sự ưu thế của trật tự tinh thần
đối với trật tự chính trị, và vậy là ưu thế của Giáo hoàng đối với
Hoàng đế. Nó chỉ thực hiện đầy đủ điểm thứ hai của chương tŕnh này,
chính là cái điểm mà chúng ta quan tâm ở đây. Như vậy nó cắt La-mă
khỏi các thánh đường phương Đông, nhưng nó cũng làm cho La-mă của
phương Tây trở thành một chế độ quân chủ thực sự. mà người thủ lĩnh,
vị Giáo chủ, chính là quốc vương, trong tất cả sức mạnh của từ ngữ,
và những Bộ trưởng, Hồng y, đều được tuyển lựa trong tất cả các nước
la-tinh theo dạo Cơ đốc, c̣n những vị Toàn quyền, những Công sứ ṭa
thánh, th́ luôn luôn đi khắp các nước ấy.Trật tự tôn giáo đă tác
động trong cùng một nghĩa. Những tu viện cấp cao, ngay từ đầu thời
Trung cổ, đă chiếm một chỗ rất lớn ở phương Tây. Cho đến thế kỷ X,
những tu viện ấy dă trở thành độc lập, không c̣n phụ thuộc lẫn nhau.
Với ḍng Cluny ở thế kỷ X, chúng thường có thói quen tập hợp lại
xung quanh một quy chế, và xung quanh một vị thủ lĩnh độc nhất hoặc
một Hội đồng công cộng, một "tổng tập đoàn thầy tu", để giải thích
và làm cho quy chế được áp dụng. Số đông những trật tự sinh ra theo
cách ấy đă giành được quyền "miễn trừ" đối với uy quyền của Giám mục
địa phận, để chỉ c̣n phụ thuộc vào Giáo hoàng, và chúng phân tán ra
trong tất cả các nước phương Tây. Như vậy chúng tăng cường sự thống
nhất xung quanh La-mă" (Aux prétentions du patriarche de
Constantinople à l'indépendance, il répondit par l'affirmation
intransigeante du pouvoir universel de Rome. Pour ordonner le monde
selon le plan de Dieu, il proclama la supériorité de l'ordre moral
sur l'ordre politique, et donc du pape sur l'empereur. Il ne réalisa
pleinement que le second point de ce programme, celui qui nous
intéresse précisément ici. Il coupa ainsi Rome des Églises d'Orient,
mais il fit de celle d'Occident une authentique monarchie, dont le
chef, le pontif, était, dans toute la force du terme, souverain,
dont les ministres, les cardinaux, se recrutaient dans toute la
chrétienté latine, dont les plénipotentiaires, les égats,
parcouraient constament celle-ci. Les ordres religieux agirent dans
le même sens. Les abbayes avaient, dès le début du Moyen Âge, tenu
en Occident une très grande place. Jusqu'au Xe siècle elles avaient
été indépendantes les unes des autres. Avec Cluny au Xe siècle, elle
prirent la coutume de se grouper autour d'une règle et, pour
interpréter et faire appliquer celle-ci, d'un chef unique ou d'une
assemblée commune, d'un "chapitre général". La plupart des ordres
nés de la sorte obtinrent d'être "exempts" de l'autorité de
l'ordinaire pour ne relever que du pape et ils essaimèrent dans tout
l'Occident. Ils renforcèrent ainsi l'unité disciplinaire autour de
Rome).
19. Nxb. Thương vụ , Bắc Kinh, 1964,
tr. 76. Chuyển dẫn theo Trần Đ́nh Sử, Sđd, tr. 46.
20. Văn học Việt Nam từ các thế kỷ
Trung đại đến Cận đại. Nxb. Khoa học, Matxcơva, 1977. Chuyển dẫn
theo Trần Đ́nh Sử, Sđd, tr. 55.
21. Theo tác giả, thời đại văn học Cổ
điển được quy định bởi những đặc điểm sau : a. Trong việc lựa chọn
nhân vật, ở bộ phận văn học cao cấp, thượng lưu, nhân vật và môi
trường sinh hoạt của nhân vật thường mang tính chất điển nhă, cao
quư, trái lại, ở bộ phận văn học dân gian th́ lại mang tính chất tăm
tối, nghèo nàn; b. Bút pháp chung của văn học Cổ điển là tượng trưng,
ước lệ (trừ bộ phận văn học dân gian có thể không tuân thủ triệt để
các nguyên tắc sáng tác này), được nâng lên thành những mẫu mực lư
tưởng, những công thức cố định cho văn học mọi đời noi theo; c. Phi
ngă là đặc tính chung của văn học Cổ điển, cái tôi của tác giả ít
khi được bộc lộ trong sáng tác, nhưng trong văn học dân gian, cái
tôi vẫn có thể biểu lộ một cách dễ dăi; d. Quan niệm cái đẹp của văn
học Cổ điển là cái ǵ hợp với nghi lễ, trật tự trong vũ trụ, v́ thế,
mọi nghệ thuật đều phải có tính chất đối xứng, hoàn chỉnh, lời văn
của văn học Cổ điển thường là biền ngẫu, bảo đảm sự cân đối, nhịp
nhàng. Sđd, Tập thượng, tr.7-9.
22. Đặng Thiệu Cơ. "Tự luận". Sđd,
Quyển I, tr. 2.
23. Ba tập. Nxb. Xây dựng, Hà Nội,
1957.
24. Năm quyển. Nxb. Văn sử địa và
Nxb. Sử học, Hà Nội, 1957-1960.
25. Nhiều tập. Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
26. Nhiều tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
27. Thanh Lăng. Văn học
Việt Nam, Tập I : "Đối kháng Trung Hoa". Phong trào văn hóa, Sài G̣n,
in lần thứ hai, 1971. Những kiến giải về "phương pháp thế hệ" được
trt́nh bày ở các trang 43-52.
28. Helen Vendler.
Periodizing Modern American Poetry (Phân kỳ thi ca Mỹ hiện đại),
trong sách The Challenge of Periodization ? Old Paradigms and New
Perspectives (Thử thách của vấn đề phân kỳ - Các cấu h́nh cũ và
những viễn cảnh mới). Lawrence Besserman chủ biên. Nxb. Garland, New
York và London, 1996, tr. 242-243.
29. Xem Nguyễn Văn
Trung. Đạo Chúa ở ViệtNam. Nam
Sơn xuất bản, Montréal, Quebec, 2000. Thực ra ngoài b́a đề như vậy
nhưng bên trong là tài liệu đánh vi tính thuộc "tủ sách sử liệu Việt
Nam" mà tác giả cho phép các thư viện trong và ngoài nước được sao
chụp để tham khảo. Bản chúng tôi dùng là của ông Nguyễn Bá Chung.
Xin được cảm ơn người soạn sách cũng như người giữ sách.
30. Trần Đ́nh Hượu. Nho giáo và văn
học Việt nam Trung Cận đại. Sđd, tr. 522.
31. Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung
đại Việt Nam, Sđd, tr. 55.
32. Chúng tôi dựa vào giả thuyết của
Hoàng Xuân Hăn trong Lời giới thiệu Truyện Song Tinh, Nb. Văn học,
Hà Nội, 1987.
33. Theo Thanh Lăng. Bảng lược đồ văn
học Việt Nam, Quyển hạ, Sđd, tr. 24.
34. Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên,Tập III. Quốc học tùng thư xuất bản, Sài G̣n,
1967, tr. 15.
35. Xem Phạm Thế Ngũ, Sđd, tr. 96.
36.Trung Hoa văn học
thông sử. Sđd, Quyển X.
37. Mấy vấn đề thi pháp
văn học Trung đại. Sđd, tr. 50.
38. Xem Trung Hoa văn
học thông sử, Quyển IX và X. Sđd.
39. Chữ dùng của ông
Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, trong
buổi họp mặt với một số văn nghệ sĩ năm 1986, sau ngày ban bố Nghị
quyết Đại hội VI .
40. Xem Hoàng Ngọc
Hiến.Về một đặc điểm của văn học và nghệthuật ở ta trong giai đoạn
vừa qua. Văn nghệ, số 23, ra ngày 9 tháng Sáu năm 1979. Và Nguyễn
Minh Châu.Viết về chiến tranh.Văn nghệ quân đội, số 11-1978.
41. Trả lời phỏng vấn
trên báo Văn nghệ. Dẫn theo Vương Trí Nhàn. Sự dũng cảm rất điềm đạm.
Tạp chí Sông Hương, số 12-1989.
42. Nguyên Minh Châu.
Hăy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Tạp chíVăn
nghệ quân đội,số 10-1987.
43. Thụy Khuê. Hai mươi
lăm năm văn học hải ngoại - 1975-2000. Đặc san Xứ Quảng xuân Canh
th́n năm 2000. Hội ái hữu Quảng Nam-Đà Nẵng tại Massachusetts thực
hiện. Tr. 229.
44. Trong bài Thời kỳ văn học vừa qua
và hướng phát triển của văn học. Văn học-học văn. Trường Cao đẳng sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh và Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản,
1991. Tr.139. |