Ư Thức
Nhân
Bản
Trong
Văn
Chương
Xuân
Vũ
Nguyễn Thanh Liêm
Phi
Lộ:
Xuân Vũ tên thật là Bùi Minh Triết sinh ngày 19-3-1930 tại làng
Hương Mỹ, quận Mỏ Cày, tĩnh Bến Tre. Thân phụ là cụ Bùi Văn Hai,
giáo chức, có sáng tác cả ngàn bài thơ Đường luật nhưng không có phổ
biến. Lúc nhỏ học trường Tiểu học Mỏ Cày, rồi vào Collège Le Myre De
Vilers. Năm 1945 ông bỏ học đi theo Kháng Chiến, vào chiến khu
U-Minh làm phóng viên cho tờ “Tiếng Súng Kháng Địch” của Khu 9. Năm
1955 ông tập kết ra Bắc làm biên tập viên cho báo “Văn Nghệ.”. Sau
một thời gian sống ở Hà Nội, ông rất thất vọng với chế độ Cộng Sản
do Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông lănh đạo. Xuân Vũ nhiều lần
t́m cách trốn về Nam nhưng lần nào cũng thất bại. Măi đến năm 1965
ông mới có cơ hội chánh thức xin về Nam để nghiên cứu phong trào
Đồng Khởi tại tĩnh nhà (Bến Tre). Ông được chính quyền Hà Nội chấp
thuận cho đi B (tức là vượt Trường Sơn đi vô Nam). Ông phải mất hai
năm gian nan nguy hiểm trên đường Trường Sơn mới vào được tới chiến
khu D ở Tây Ninh vào năm 1967. Năm sau ông quyết định trở về với chế
độ tự do. Ông ra tŕnh diện với chính quyền tĩnh Bến Tre, được đưa
về Sài G̣n phục vụ trong Bộ Chiêu Hồi, với chức vụ Phó Giám Đốc Nha
Chiêu Hồi. Quyển hồi kư nổi tiếng của ông, quyền “Đường Đi Không
Đến,” được ra đời trong năm 1971 và được giải thưởng Văn Học Nghệ
Thuật Quốc Gia (1972-1973).
Năm 1975
gia đ́nh ông sang định cư ở Corpus Christi, Texas. Ông phải làm lụng
vất vả đủ nghề để nuôi sống gia đ́nh. Năm 1987 ông dời về San
Antonio (Texas). Khi việc gia đ́nh tạm ổn định ông bắt đầu viết lại,
và viết rất hăng say. Tính đến cuối năm 2003 ông đă hoàn tất 78 tác
phẩm. Từ tháng 9 năm 2003 ông bắt đầu bị đau, phải đi lộc thận.
Tháng 11/2003 ông phải giải phẫu tim. Bệnh biến chứng sau đó, và
cuối cùng ông mất hồi 2:22 phút chiếu ngày 1-1-2004, hưởng thọ 73
tuổi, để lại một vợ 5 con.
***
Đầu năm 2004
một hung tin đă đến với các văn nghệ sĩ và một số không nhỏ đồng bào
Việt Nam hải ngọai: nhà văn Xuân Vũ đă từ trần. Tin này được phổ
biến nhanh chóng và rộng rải. Không biết bao nhiêu bài vở được đăng
trên các báo chí nói về nhà văn nổi tiếng này. Riêng tờ “Tự Do” số
372 (từ ngày 14-02-04 đến ngày 27-02-04) đă dành hơn 100 trang (từ
trang 110 đến hết trang 223) đăng bài nói về Xuân Vũ của hơn mười
văn thi sĩ nổi tiếng như Xuân Tước, Hồ Trường An, Hải Bằng, Thanh
Thương Hoàng, Hà Thượng Nhân ...Bài nào cũng rất có giá trị, cũng
đều nói lên sự nghiệp văn chương sáng chói cũng như con người đáng
thương, đáng kính, và đáng quư của nhà văn quá cố. Các tác giả ở đây
là những người đă từng thân thiết và biết rơ Xuân Vũ. Bài vở của họ
cho chúng ta nhiều chi tiết rất đặc biệt về con người và sự nghiệp
của nhà văn.
Điểm nổi bật
trước nhất là sức viết và khối lượng tác phẩm khổng lồ của ông.
Trước 1975 tác phẩm của ông không có ǵ đáng kể về phương diện số
lượng. Những năm đầu tiên trên đất Mỹ, v́ bận làm việc nuôi thân và
gia đ́nh, ông cũng không viết được ǵ nhiều. Nhưng, “sau một số năm
làm việc “ra tiền” nhưng không “ra chữ” kia, Anh (Xuân Vũ) đă quay
lại bàn giấy để chuyên tâm trở lại cái nghiệp của ḿnh.” (Trương Anh
Thụy, Tự Do Bi-weekly, số 372, tr. 192.). Thầy Đồ Họ Tăng đă rất
ngạc nhiên về sự quay trở về nghề viết này của Xuân Vũ. Thầy Đồ đă
có lần nghĩ một cách sai lầm là “anh chàng lănh giải thưởng của “hai
chế độ thù nghịch này” sẽ không chung t́nh với nàng văn chương nữa
đâu.” Nhưng Thầy Đồ thú nhận rằng:”đồ tôi đă lầm, Xuân Vũ dọn về San
Antonio, anh lại viết khỏe hơn, liên tiếp những tác phẩm đánh lớn và
ăn khách xuất hiện.” (Thầy Đồ Họ Tăng: Xuân Vũ, giơ cao cây viết tới
những ngày cuối, bài chưa đăng).
Ông Lê Tùng
Minh trong bài “Xuân Vũ, Một Ngôi Sao Văn Học Đă Tắt,” cho biết nhà
văn này “có sức sáng tác khác thường! Chỉ trong ṿng 8 năm gần
đây (1996-2003), mỗi năm nhà văn tuổi 70 này đă cho ra đời trung
b́nh là 4 tác phẩm, với khoảng trên dưới 1,000 trang...” (nt.,
tr.152).
Cũng Trương
Anh Thụy, nói về sức sáng tác và số lượng tác phẩm lớn lao của Xuân
Vũ, viết: “ Anh đánh Đông, chinh Tây, viết ào ạt, viết đủ thứ...
Anh đều đặn có mặt trên khoảng 20-30 tờ báo hải ngoại...Theo như một
ước tính, có lẽ c̣n chưa kể các bản thảo hay những tác phẩm chưa
hoàn tất, tổng tác phẩm của Anh cho đến nay đă lên tới 75 nhan sách,
truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, truyện trường thiên, rồi hồi
kư, biên khảo...” (nt. , tr. 192).
Và theo Mặc
Bích th́ “Gần 100 cuốn sách (nếu kể cả sách đang in hay sắp in).
Người đọc có hiểu được bao nhiêu tơ mà tầm đă rút ruột nhả ra? Làm
việc suốt ngày với trí tuệ, không chỉ cần mẫn mà c̣n say mê.”
(nt., tr.112).
Nhận xét
của Nguyễn Thị Thanh B́nh về sức viết Xuân Vũ là “Ông lúc nào
cũng thấy như ḿnh không c̣n nhiều thời gian để viết. Viết, viết, và
viết, như thể ông vẫn c̣n quá nhiều điều để nói mà vẫn chưa nói
hết.” (nt., tr. 180).
Những nhận
xét được trích dẫn trên đây cũng đă được chính Xuân Vũ xác nhận
trong bài tựa cho quyển Tự Vị Thế Kỷ (xuất bản 1990) của ông:
“Tôi hiện nay tạm đủ sống, tôi bỏ mọi việc làm để chỉ viết mà thôi,
viết bằng tay phải và tay trái chứ không chỉ viết bằng tay trái như
năm năm đầu tị nạn bận lo cơm áo nữa...Chưa bao giờ tôi thấy tiếc
th́ giờ như bây giờ. Và cũng chưa bao giờ tôi thấy tôi thích cái
thằng tôi như bây giờ.” (tr. VI-VII).
Ông chưa bao
giờ thích “cái thằng tôi như bây giờ” v́ bây giờ ông được để hết th́
giờ vào việc viết lách, và có tất cả tự do để viết ra những ǵ ông
muốn viết. Có điều là những ǵ ông muốn viết ra thật quá nhiều,
nhiều đến đổi ông sợ không có đủ th́ giờ để viết mặc dù ông có thói
quen viết thật nhanh. Ông tiếc th́ giờ là vậy. Nhưng những điều ông
muốn viết ra là những ǵ? Đó là những ǵ ông đă đụng chạm, đă chứng
kiến, đă thu nhập vào nội tâm, đă nghiền ngẫm suy tư, đă ghi sâu vào
kư ức, đó là tất cả những ǵ đă diễn ra trước đôi mắt nhân chứng
trong cuộc sống của ông, một cuộc sống thật là rộng rải, thật là
phong phú. Đây không phải là cuộc sống yên ấm, chật hẹp trong nhung
lụa, suôn sẻ hưởng một nền giáo dục kinh viện, kết thúc với những
bằng cấp thật cao, rồi cưới vợ giàu có đẹp đẻ, chiếm địa vị nào đó
trong xă hội yên b́nh, sống một đời dư dảsung sướng hạnh phúc. T́nh
thế của đất nước từ năm 1945 đă không để yên cho ông đi học hết
trung học. Ông đă phải bỏ học về quê Bến Tre, tham gia phong trào
cứu quốc. Ông đă ư thức được ḷng yêu nước, và ư thức về sự dấn thân
vào những hoạt động hữu ích cho quốc gia. Trong thời gian đi kháng
chiến ở trong Nam, cũng như những tháng ngày tập kết ngoài miền Bắc
ông đă học được rất nhiều, không phải là những bài học ở học đường
nhưng là những bài học quư giá hơn ở ngoài đời. Là người rất thông
minh, lại đóng vai tṛ một nhà văn, một phóng viên của tờ “Tiếng
Súng Kháng Địch” thuộc Khu IX kháng chiến, ông có cơ hội tiếp xúc
với hầu hết những nhân vật quan trọng, đầu năo của công cuộc kháng
chiến chống Pháp. Lúc tập kết ra Bắc cái thông minh giúp ông tạo
điều kiện để gặp gỡ giới văn nghệ sĩ miền Bắc, để hỏi han, để t́m
hiểu, để suy tư. Ông đọc rất nhiều sách, nhiều tài liệu về văn
chương, về tư tuỏng, của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở trong
nước cũng như ở ngoại quốc. Phải nói là ông biết quá nhiều về quê
hương ông, về xă hội Việt Nam, miền Nam cũng như miền Bắc, và công
cuộc kháng chiến oai hùng của những người đứng lên chống Pháp lúc
ban đầu. Ông cũng biết quá nhiều về những nhân vật quan trọng lănh
đạo công cuộc kháng chiến về sau. Nhưng cái biết nhiều nhất và nguy
hiểm nhất của ông là những bí ẩn, những âm mưu thầm kín, những giả
dối lừa bịp, những tham tàn nhơ nhuốc của những kẻ cầm đầu cuộc Cách
Mạng, cũng như những giáo điều cùng chế độ cộng sản, và xă hội chủ
nghĩa mà ông thường mỉa mai bằng danh từ xă nghĩa. Kho kiến thức đó
là kho tài liệu vô cùng phong phú để cho ông viết ra liên miên hết
quyển này đến quyển khác. Mở đầu truyện ngắn “Tự Vị Thế Kỷ” ông
viết: “Từ mười năm qua tôi chỉ có một đích ngắm. Viết tất cả những
ǵ tôi biết về Cộng Sản Hà Nội ra thành chữ để ai muốn đọc th́ đọc.
Tập Truyện Tự Vị Thế Kỷ này là quyển thứ sáu tôi viết về Cộng
sản...Viết những truyện này tôi có ư định mô tả bản chất và mặt mũi
Cộng sản, không phải chung chung mà bằng xương bằng thịt, có tên có
tuổi.”(Tựa Tự Vị Thế Kỷ).
Với ông
người cộng sản cũng như chủ nghĩa cộng sản không có ǵ đáng phục,
đáng đi theo. Nó chỉ là một cái ṿng lẩn quẩn. “Dùng sức dân để Phá
Ngục Bastille để xây ngục Bastille khác to và kiên cố hơn để nhốt
dân. Đó là Cộng sản.” (Tựa Tự Vị Thế Kỷ). Ngục Bastille của Pháp
thời quân chủ tượng trưng cho quyền độc đoán của nhà vua, cho sự áp
bức người dân, sự đày đọa người dân trong dốt nát, khốn khổ, bần
cùng, bắt họ phải phục vụ cho giới thượng lưu quyền thế. Ư nghĩa của
sự phá ngục Bastille là lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế. Tưởng
người dân sẽ được giải phóng khỏi sự áp bức của chế độ độc tài bất
công và bất nhân, nhưng mà không. Cộng sản chỉ đập phá, lật đổù chế
độ chuyên chế của nhà vua để thay thế bằng một chế độ chuyên chế,
độc tài khác gớm ghê hơn nữa của chế độ cộng sản. Nhiều tác phẩm của
Xuân Vũ được sáng tạo với chủ đích vạch trần những sự chuyên chính
độc tài của Cộng sản Hà Nội, cũng như những thủ đoạn lưu manh tham
tàn của những người lănh đạo chế độ phi nhân này. Ông viết :
“Nhiều nhà văn, nhà chính trị, nhà trí thức và người thường – không
nhà ǵ cả – cho rằng cộng sản là loại người không tim, không có nhân
tính. Tôi đồng ư hoàn toàn. Nhưng chúng giỏi che dấu và giỏi lừa
bịp. Cho nên con quỉ khát máu mang bộ mặt người vẫn sống chung được
với loài người thậm chí c̣n được loài người tin yêu mới lạ chứ.”
(Tựa Tự Vị Thế Kỷ).
Xă hội Cộng
sản Việt Nam đă được Xuân Vũ vẽ ra trong hai bức tranh thật sống
động, khác nhau nhưng tiếp nối lẫn nhau. Bức tranh thứ nhất là bức
tranh của xă hội Việt Nam dưới chế độ Cộng sản Hồ Chí Minh trước năm
1975. Quyển “Sông Nước Hậu Giang” và một số các truyện ngắn
trong “Con Người Vốn Quư Nhất” và “Tự Vị Thế Kỷ” của
ông đă góp phần vẽ nên bức tranh này. Đặc biệt nhất là bộ hồi kư năm
quyển (Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá
Rụng, Đến Mà Không Đến, và Đồng Bằng Gai Gốc) mật thiết liên hệ
tới bức tranh Cộng sản Việt Nam trước 1975. (Những quyển hồi kư này,
nhất là quyển Đường Đi Không Đến) có giá trị đặc biệt mà tôi sẽ đề
cập đến ở phần sau.
Bức tranh
thứ hai vẽ lên xă hội Việt Nam sau khi bị Cộng sản thống trị từ Bắc
chí Nam sau ngày 30 tháng tư 1975. Tác phẩm “Đỏ Và Vàng”, và
nhiều truyện ngắn trong “Thiên Đàng Treo Đứt Giây” và nhiều tác phẩm
khác của ông đă góp phần xây dựng bức tranh thứ hai này.
Ta hăy nh́n
vào bức tranh thứ nhất trước. Ngay từ lúc công cuộc kháng chiến c̣n
dở dang mà những tệ hại của chủ trương nhuộm đỏ phong trào tranh đấu
cũng như những xấu xa đen tối của những người lănh đạo Cộng sản cũng
đă thể hiện rồi. “Sông Nước Hậu Giang” cho thấy rơ bộ mặt thật của
Cộng sản và những kẻ mặt người ḷng thú do Hồ Chí Minh gởi từ ngoài
Bắc vào Nam đóng vai tṛ lănh đạo kháng chiến ở vùng này. Đây là một
quyển tiểu thuyết kể những sinh hoạt của một số cơ quan trong khu IX
mà nhân vật chính là anh Quang, một thanh niên có chút tŕnh độ học
vấn trung học nhưng đă bỏ học đi theo kháng chiến. Anh phục vụ trong
một cơ sở ấn loát và sau đó làm phóng viên cho tờ “Tiếng Súng Kháng
Địch”, tờ báo của Khu IX Kháng Chiến. Nhân vật này mang tên tiểu
thuyết là Quang nhưng có lẽ tên thật của anh ta ở ngoài đời là Xuân
Vũ. Quang có cơ hội biết rơ chủ trương nhuộm đỏ kháng chiến của Hồ
Chí Minh như thế nào, việc thanh toán các đảng phái khác như thế nào
cũng như nhiều hạng người từ hạng thật cao đến hạng cùng đinh, từ
các nhà trí thức thật lớn đến những kẻ dốt đặt không đọc được một
chữ nào. Quang có cơ hội làm quen với họ, chơi thân với họ, biết rơ
chuyện ǵ xảy ra trong đời họ. “Sông Nước Hậu Giang” cho thấy trong
hàng ngũ kháng chiến có nhiều hạng người: có những người đi kháng
chiến là đi theo tiếng gọi của non sông khi tổ quốc lâm nguy. Họ chỉ
biết làm bổn phận công dân khi sơn hà nguy biến, không nghĩ ǵ đến
địa vị, đảng phái. Có lẽ Quang, Tú Anh, và nhiều trí thức miền Nam
khác trong truyện là những người thuộc nhóm này. Bên cạnh đó cũng có
những người kháng chiến khác xem cộng sản là lư tưởng cứu nguy tổ
quốc và nhân loại. Những người này, ngoài ư thức phụng sự dân tộc,
c̣n muốn gia nhập đảng cộng sản để tranh đấu hữu hiệu hơn. Họ có thể
có một số cũng thuộc thành phần trí thức, địa chủ ở miền Nam. Hạng
người thứ ba là hạng kháng chiến thuộc thành phần bần cố nông hay
trung nông, và đây là thành phần quyết chí vô đảng cộng sản cho bằng
được. Đây là thành phần được gọi là “tiến bộ” theo nghĩa của Cộng
sản. Sự phân biệt các thành phần , gần như là kỳ thị giai cấp này,
đưa đến hậu quả tai hại là:
“những
người làm bí thư chi bộ CS đều là thành phần cơ bản, tức là bần cố
nông. Do đó những người tiến bộ thường là bần cố nông. Công tác của
họ là chèo xuồng, liên lạc, sản xuất, gửi giấy tờ chớ không làm nổi
các việc văn hóa như đánh máy hoặc làm trưởng, phó cơ quan. V́ vậy
có sự chèo ngoe là trưởng cơ quan chuyên môn luôn luôn là trí thức,
c̣n bí thư chi bộ th́ lại là bần cố! Trưởng cơ quan là người ngoài
đảng khi muốn làm việc ǵ thuộc nội bộ lại phải có sự đồng ư của bí
thư chi bộ. Muốn thi hành kỷ luật một nhân viên đảng viên, vị trưởng
cơ quan phải thỉnh ư bí thư chi bộ chớ không dám quyết định một
ḿnh... Chi bộ là một thứ tổ chức nằm trong tổ chức, một thứ cơ quan
nằm trong cơ quan, đôi khi lại chỉ huy ngược lại cơ quan và thủ
trưởng của ḿnh. Đó gọi là đảng lănh đạo.” T́nh trạng đặc biệt này
đưa đến sự xung đột gay go giữa những giai cấp với nhau. Sự kỳ thị,
xung đột c̣n nguy hiểm, tệ hại hơn nữa là sự tranh chấp, thanh toán
nhau giữa các đảng phái chính trị, như sự xung đột đỏ xanh và sự
thanh toán nhau giữa hai đảng Đỏ là cộng sản, và đảng Xanh là dân
chủ. “Đỏ và Xanh là hai đồng chí cùng kháng chiến phục vụ dân tộc,
nhưng đỏ lại lộng quyền và có tham vọng thanh toán đám xanh để nắm
toàn bộ quyền hành...CS kết nạp th́ DC cũng kết nạp. Nhưng về sau,
CS thấy DC gây được ảnh hưởng lớn nên sợ hải, bèn t́m cách thanh
toán DC.” (Sông Nước Hậu Giang, tr. 140-141).
Trong mưu đồ
nhuộm đỏ và thống lănh phong trào kháng chiến, HCM gởi những cán bộ
CS cao cấp, những người thân cận với ông ta, vào Nam t́m cách thay
thế thành phần lănh đạo phong trào tranh đấu trong Nam dù họ có bao
nhiêu công lao đối với kháng chiến đi nữa. Đây là sự chứng kiến của
Quang:
“Quang đă về
cơ quan mới... Cơ quan mới là ban Tuyên Huấn của Pḥng Chính Trị
Phân Liên Khu miền Tây. Từ ngày phái đoàn trung ương vào, các cơ
quan quân đội trong chiến khu IX đều thay đổi từ tổ chức đến người
chỉ huy. Tất cả những cấp chỉ huy khu gốc người Nam Bộ đều được đặt
vào chức vụ khác hoặc không có ghế ngồi. V́ bất tài, kém đức (!?)
hay v́ ǵ khác để người ngoài trung ương vô tha hồ chia chiếu và xôi
thịt.
(Măi về sau
khi tập kết ra Bắc, nh́n thấy thành phần trong chính phủ Hà Nội,
Quang mới nhỡ lẽ ra là cuộc kháng chiến này là một tṛ bịp vĩ đại
của cụ Hồ. Khi cần đưa ra đỡ đạn cà nông và chặn xe tăng Pháp th́ họ
kêu dân Thành Đồng Tổ Quốc nhào ra. Khi kháng chiến thành công rồi,
mâm cỗ dọn lên, cụ Hồ cùng các cháu Trung và Bắc Kỳ vuốt râu chạm
cốc, dân Nam Kỳ chun dưới đít ván chực xương. Đéo có mặt nào ngồi
được cái ghế kha khá. Sáng mắt chưa dân Thành Đồng Tổ C̣?)(SNHG,
tr.297-298).
Sau đây là
một số các trường hợp cụ thể: “... Tư lệnh Phân Liên Khu miền Tây là
tướng hô Dương Quốc Chính, chính ủy là Lê Đức Thọ kiêm Tư lệnh kiêm
luôn chính ủy Liên khu Nam Bộ (Thọ thay Lê Duẩn trong chức Bí thư
Trung ương Cục sau này), với tên mắt lươn Đinh Ngọc Thủy làm Trưởng
Pḥng Chính Trị (Sau này ra Hà Nội, Thủy được giao cho làmTrưởng
phái đoàn Việt Nam đi triển lăm thành tích nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa ở các nước Đông Âu XHCN và Liên Xô. Tại Bucarest, Thủy quơ
ẩu cô bé đoàn viên Thanh Niên cộng sản bị cô đồng chí phản đối báo
cáo lên đại sứ quán VN. Thủy xấu hổ nhảy lầu tự vận nhưng không
chết). Bộ Tư Lệnh Phân Liên Khu miền Đông gồm có Tư lệnh Trần Văn
Trà, chánh ủy Phan trọng Tuệ. Các nhân vật trụ cốt gốc Nam Bộ được
đẩy êm về vườn xúc tép cắm câu cá tra. Trương văn Giàu (không phải
Trần văn Giàu) văng luôn hai chức Tư lệnh khu 8 rồi khu 9. Nguyễn
văn Trấn đi Tây không về. Trịnh Khánh Vàng đáo nhậm Sài G̣n. Huỳnh
văn Nghệ Tô Kư về làm tỉnh đội trưởng Thủ Biên và Bà Chợ (Bà Rịa,
Chợ Lớn). Nguyễn văn Sa chính trị viên Trung đoàn Tây Đô về làm tỉnh
đội trưởng Bạc Liêu ăn hút dưỡng lăo đả đời. Hoàng Thế Thiện (Bí thư
Vơ Đại Tướng!?) thay Sa trong chức chính ủy. Tất cả chính trị viên
đều do tỉnh ủy nắm. Như vậy Trung ương đă hạ bệ Nam Bộ một cách êm
ru. Đám cán ngáo Nam kỳ tha hồ chửi lên cụ Hồ chơi đểu. Thằng nào
dám chửi công khai sẽ có trại giáo hóa chào đón. Cán bộ tiểu đoàn vô
nghỉ mát ở đây cũng nhiều. Hoàng Thọ bị Lê Duẩn mạo thơ Nguyễn B́nh
rồi đem đi thủ tiêu ở Cạnh Đền vào thời điểm này. Phi Líp, Phi Hùng,
hai cán bộ tiểu đoàn trật quần trước mặt chính ủy Hoàng Dư Khương bị
đưa vô trại giáo hóa rồi biệt tích. Kháng chiến thật diệu kỳ cho ai
và chẳng diệu kỳ cho ai?) (SNHG, tr. 304-305).
Trên đây là
một số trường hợp cho thấy mưu đồ xăm chiếm độc quyền phong trào
kháng chiến toàn quốc của cộng sản Bắc Việt. Nhưng bên cạnh mưu đồ
lớn lao kia cái tồi tệ nhất là cảnh các ông to cộng sản Bắc Việt âm
mưu độc ác chiếm đoạt cho được người phụ nữ trẻ đẹp con nhà gia giáo
giàu có ở miền Nam bằng mọi cách kể cả việc chia uyên rẻ thúy, đưa
người yêu/vị hôn thê hay ông chồng đi vào chỗ chết để dễ dàng thực
hiện ư đồ đen tối của ḿnh. Dùng tiền của, quyền thế dụ dỗ, bức hiếp
phụ nữ tuổi đáng con cháu ḿnh để thỏa măn thú tính, điều này không
thiếu ở những cán bộ chỉ huy Cộng sản trong “Sông Nước Hậu Giang.”
Những tội ác dâm ô, thác loạn của các lănh tụ và các cán bộ cao cấp
Cộng sản được phơi bày đầy dẫy trong các tác phẩm của Xuân Vũ, ngoài
quyển tiểu thuyết vừa kể. Ngoài ra c̣n có những chuyện hết sức ghê
tởm chỉ có trong thế giới Cộng sản của Hồ Chí Minh cũng được tác giả
ghi ra, như chuyện một cô gái c̣n trẻ bị một cán bộ lớn tuổi áp bức
làm t́nh với ông ta trên vơng làm cho chiếc vơng không chịu đựng nổi
sức nặng của hay người vùng vẫy đă phải đứt ngang làm cho cả hai
người té từ trên cao xuống những ḥn đá lơm chỏm của Trường Sơn. V́
cô gái nằm dưới cho nên lưng cô bị một ḥn đá nhọn đâm lủng lưng găy
xương sống, nằm yên một chỗ, không cựa quây được. Sau 3 ngày khổ sở,
không thuốc men, cô này chết trong đau thương. Chi tiết này được ghi
trong “Đường Đi Không Đến” và sau này được viết lại thành truyện
ngắn “Lại Vốn Quư Nhất” trong quyển “Con Người Vốn Quư Nhất.” Cũng
trong “Con Người Vốn Quư Nhất” c̣n có câu chuyện kinh tởm hơn mà
không ai có thể tưởng tượng được.
Đó là chuyện
“Hạnh Ngộ Bọt Bèo” do một tên tù cộng sản kể về việc anh ta đă từng
phục vụ trên một chiếc tàu chuyên đi từ Bắc vào Nam chở các thương
binh cộng sản, nói dối là đưa ra tàu Liên Sô chũa bệnh, nhưng khi
tàu ra biễn khơi th́ được lệnh quăng hết tất cả thương bệnh binh
xuống biển.
Bức tranh
thứ hai của Xuân Vũ cũng cung cấp nhiều chi tiết mà tác giả cho là
“ly kỳ, quá sức hấp dẫn, quá sức tưởng tượng... những chi tiết không
thể thấy ở đâu ngoài Việt Nam, những chi tiết không một nhà văn nào
tưởng tượng nỗi... Sau đây là những chi tiết, chỉ liếc qua đă kinh
tâm tán đởm. Mười cây cho một đầu người, trẻ con nữa giá. Một năm
tám ngàn người được cho vượt biên – Thu: 300 triệu đô la – 600 bgàn
lạng vàng – 30,000 lạng vàng,v.v... Vàng ở đâu mà nhiều đến thế? Đó
là của những người “làm tất cả để được bỏ nước ra đi.” Và nhờ buôn
những công dân của nước ḿnh mà nhà nước xă hội chủ nghĩa Việt Nam,
qua tay của những cán bộ có 30-35 tuổi đảng, đă thu lợi đến mức
đó...” (Tựa Đỏ Và Vàng) . Tác phẩm Đỏ Và Vàng vạch trần tất cả mánh
khóe vơ vét, làm tiền của chủ nghĩa xă hội, của chính phủ cộng sản
và cán bộ các cấp trong việc bán tích kết vượt biên. Kế hoạch cho
vượt biên lấy tiền được nghiên cứu, chuẩn bị và thi hành như thế
nào, ác độc ra sao, thu vào được bao nhiêu... những chi tiết kinh
khủng này được Xuân Vũ mô tả khá đầy đủ trong tác phẩm này. Giá qui
định của Trung Ương là từ bảy đến mười lạng vàng, nhưng cán bộ có
thể tùy ư tăng lên, đó là chưa kể các khoản trà nước khác không có
trong “kế hoạch.” Tác phẩm cho thấy cán bộ thi hành kế sách đă thu
hoạch được cho cá nhân và gia đ́nh một sự sản đồ sộ. Làm tiền công
khai, trắng trợn, không bao lâu cán bộ và cấp lănh đạo giàu to, và
xài tiền như nước. Sau đây là một phút phản tĩnh của một cán bộ thi
hành chính sách làm tiền này:
“Cách mạng
là ǵ? Câu hỏi đó đă được trả lời rơ ràng nhất sau khi cách mạng
thành công. Khi đang tiến hành th́ cách mạng thật cao cả, nhưng khi
thành công rồi th́ ḷi bộ mặt gian trá, đê tiện và sát nhân. Khi mới
bắt đầu đi theo cách mạng th́ thằng này cũng như mọi người, hăm hở
tự hào biết bao nhiêu. Nhưng khi cách mạng thành công rồi lại nản
chí vô cùng. Lắm lúc nghe người dân bảo: “Đừng có cách mạng phải tốt
hơn không?” – Hai Khiết nghĩ lan man, lan man.
Nhiều khi
Hai Khiết hối hận v́ đă ăn hối lộ, đă gian dâm, đă lấy công quỹ xài
như nước, đă bắt dân để tống tiền, thậm chí giết oan nhiều người,
nhưng với cách mạng ngày nay đó là sự b́nh thường. Không ăn hối lộ
tiền đâu trác táng, không nạy công quỹ lấy đâu bịt mồm em út, không
bốc lột nhân dân lấy đâu đấm mỏm các anh lớn. Anh lớn không phải là
thần thánh, anh lớn ham xe hơi, nhà đẹp và quơ vợ bé vợ mọn hơn cả
em út.
Hai Khiết
không thể làm một cây sen trong hồ mà chỉ là một mớ bùn trong cái
băi bùn dưới gốc cây sen.” (Đỏ Và Vàng, tr. 150-151).
Trong khi đó
th́ người dân sau khi bị bốc lột đến tận xương tủy, phải sống một
đời không một chút giá trị của con người. Chuyện Bố C̣i trong “Con
Người Vốn Quư Nhất” có thể tiêu biểu cho cảnh khốn khổ tột cùng của
con người dưới chế độ cộng sản phi nhân Hà Nội.
Tựa quyển Tự
Vị Thế Kỷ tác giả viết: Kỳ Cục là cảm giác đầu tiên của tôi đối với
Cộng sản... Bây giờ lưu vong. Đứng xa Cộng sản một vạn cây số, và
sống trên một nước Tự do, tôi thấy Cộng sản càng Kỳ Cục.” Và cái kỳ
cục đó đă được Xuân Vũ đưa vào Tự Vị Thế Kỷ của ông. Ông bảo: “Tên
sách nghe có hơi khô khan, nhưng khi vở vào trong bạn sẽ bắt gặp nào
bộ mặt tổng bí bị mèo quào, nào ủy viên bộ chính trị o gái bị gái
mắng, nào giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc nhảy lầu tự vận v́ muốn
chạy tôi dâm ô, nào chánh ủy giật vợ thuộc cấp, nào đại tướng mê
nhạc tím nhạc vàng, nào chính trị viên đi bia nhộng, nào đồng chí
cuỗm vợ đồng chí, nào thí sinh nham nhỡ,vv... Cả một quyển Tự Vị
sống mà mỗi một trang sách như một trang tự vị để bạn đọc có thể tra
cứu về Cộng sản: tàn bạo, vô luân, xảo quyệt, dâm ô, lưu manh, rởm,
đểu, vv...” (Tựa Tự Vị Thế Kỷ).
V́ cái kỳ
cục đó mà Xuân Vũ thấy không thể nào sống được trong chế độ cộng sản
Hà Nội. Ông xin về Nam sau khi tập kết được một năm. Xin về không
được th́ ông t́m cách trốn đi. Nhưng trốn cũng không được thành ra
ông lại phải ở lại xă hội cộng sản Bắc Việt thêm một thời gian nữa.
Ông lại có nhiều cơ hội để biết rơ thêm về “xă nghĩa,” về “triều
đ́nh nhà Hồ, ” và nhất là cái “không c̣n nhân tính của người cộng
sản.” Sau cùng ông cũng được cho “đi B” tức là về Nam để nghiên cứu
viết về chiến dịch Đồng Khởi. Hành tŕnh về phương Nam của ông được
ghi lại khá chi tiết trong bộ hồi kư năm quyển của ông (Đường Đi
Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không
Đến, và Đồng Bằng Gay Gốc). Trừ Đường Đi Không Đến được viết trong
khoảng 1971-72, các tác phẩm khác chỉ được viết sau này khi tác giả
đă định cư ở Mỹ.
“Đồng Bằng
Gai Gốc” là quyển thứ năm trong bộ hồi kư năm quyển này. Con đường
về Nam là con đường núi rừng hiểm trở, nguy nan, chết chốc, mà cảnh
“Mạng Người Lá Rụng”, và “Xương Trắng Trường Sơn” là h́nh ảnh nổi
bật nhất trong kư ức của người chiến sĩ này. “Đồng Bằng Gai Gốc” là
giai đoạn cuối cùng của con đường về Nam. Về đây Xuân Vũ được nh́n
thấy lại quê hương Mỏ Cày ở tĩnh Bến Tre, và bà ngoại cùng những
người thân khác trong gia đ́nh tác giả. Về được quê hương, sống bên
cạnh những người thân, nhưng ḷng không quên được cái hăi hùng của
những ngày tập kết ra Bắc. Xuân Vũ kể:
“Câu chuyện
bất ngờ đưa tôi vào cái hố đau thương của dân Nam Bộ mù quáng: “Tập
Kết”. Tập kết là thắng lợi của riêng Trung Ương Đảng chớ không phải
của dân Việt Nam càng không phải của dân Nam Bộ. Ngược lại, đối với
dân Nam Bộ là một sự phủ phàng, một sự tàn bạo, một sự lừa gạt ngọt
ngào.
Tiểu Đoàn
Trưởng Lê Thanh Nhàn, tức Nhàn Râu là một anh hùng dân tộc. Anh là
con trai độc nhất của một ông Hội Đồng, anh có bằng Tú Tài, biết làm
thơ và vẻ tranh. Đầu kháng chiến anh đứng ra chiêu tập dân làng và
tiến tới thành lập bộ đội vơ trang, sau này trở thành Tiểu Đoàn Chủ
Lực 308. Giặc Pháp phải nể uy danh. Tám năm xông pha trên trăm trận,
Nhàn Râu ra Bắc được ǵ?
– Tù!!...
Riêng những
đơn vị Nam Bộ ra Bắc th́ mất phiên hiệu, một số làm lính giữ ngựa
cho triều đ́nh nhà Hồ, số c̣n lại th́ đi phá rừng Lam Sơn, rừng Xuân
Mai. Trong số này có không ít những người bất măn bỏ ra dân làm nghề
vô danh hoặc lên rừng cạo đầu làm Mán, Mường...kể không xiết nỗi đau
buồn. Đến khi cần th́ Đảng Bác gọi lại, đem đút vô ḷ sát sinh
Trường Sơn...
Đảng Cộng
Sản sinh ra để làm hai việc: nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói
láo, hễ làm là làm bậy. Xin đọc giả nhớ giùm cho như vậy. Sông có
thể cạn, núi có thể ṃn nhưng chân lư đó không bao giờ thay đổi.”
(ĐBGG, tr.334-335).
Về đây Xuân
Vũ có cơ hội biết rơ hơn sự tuyên truyền láo khoét của Cộng sản Hà
Nội. Những anh hùng cách mạng mà Cộng sản Hà Nội vẽ ra để tuyên
truyền, để đề cao ḷng ái quốc, để dụ dỗ người khác noi theo đều
không đúng sự thật. Nguyễn Văn Trỗi có chết nhưng không chết anh
hùng như Cộng sản vẽ ra. Nữ anh hùng Tạ Thị Kiều cũng chỉ là chuyện
thổi pḥng một cách lố bịch để tuyên truyền. C̣n bao nhiêu chuyện
khác nữa do các văn thi sĩ Cộng sản nặn ra để đề cao những đảng viên
bần cố nông với ḷng yêu nước và sự hy sinh thật là lố bịch chưa
từng thấy trong lịch sử anh hùng của dân tộc.
Nhưng về quê
hương Xuân Vũ cũng được người thân cho biết về chính sách b́nh định
ở vùng này cũng như tư cách của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa. Nói
về quân cán chính Quốc Gia, một người bà con của Xuân Vũ bảo:
“Tụi này
hiền mà ác, ác mà hiền...
Hiền là nó
không bỏ bom bắn phá, nó chỉ dựng sân khấu hát xướng và đi phát
thuốc men, gạo vải cho bà con. Cho nên bà con ở yên không ai chạy đi
đâu hết. Lại c̣n đi coi hát của tụi nó. Quán xá chợ búa c̣n y
nguyên. Nhà ai nấy ở. Chỉ vài ngày nó đă lập được chánh quyền, biến
vùng giải phóng thành vùng quốc gia, vậy không phải hiền là ǵ? Cán
bộ không phương ǵ giải thích tuyên truyền về “sự tàn ác” của chúng
nó. Chúng điều tra rất kỷ những chuyện làm bậy bạ của cán bộ địa
phương. Ông nào có vợ bé, ông nào ṃ vợ chủ nhà đóng quân, ông nào
rượu chè be bét, cô nữ cán bộ nào có chửa hoang, chúng đều nói trúng
ngay trân. Cuối cùng chúng nó hỏi: như vậy giải phóng để làm ǵ?
Chưa hết chúng c̣n phân phát một cuốn sách nói về cán bộ miền Nam
tập kết ra Bắc bị đày đi phá rừng đi đập đá làm đường, rồi trên
đường Trường Sơn ốm đau chết chóc như thế nào, cuối cùng chúng lại
hỏi: giải phóng để làm ǵ? Ở cuối quyển sách có in h́nh mấy chục cán
bộ chiến sĩ Nam Bắc hồi chánh. Trong đó có nhiều ông chức lớn lắm. Ở
ngoài b́a sách chúng vẽ h́nh cụ Hồ ốm o, chống gậy và đề một câu: Hồ
Chí Minh đă ngủm.” (ĐBGG, tr.350-351) .
Sự khác biệt
giữa hai chế độ đă quá rơ ràng. Người thông minh như Xuân Vũ không
thể không thấy để quyết định lựa chọn con đường sáng sủa tốt đẹp cho
ḿnh và thế hệ tiếp theo. Ông đă sáng suốt quyết định trở về với
hàng ngũ quốc gia. Ông đă được bác sĩ Hồ Văn Châm, tổng trưởng Chiêu
Hồi tiếp và mời giũ chức vụ khá quan trọng, phó giám đốc nha chiêu
hồi, trong bộ này. Giám đốc nha là Phạm Thành Tài tức nhà văn Sơn
Nam, vốn là chỗ quen biết. Ông Tài đă cho ông hai pḥng lầu, một
pḥng riêng, một đống pelure, một bó viết Bic, một cần vụ để có sai
ǵ th́ sai. Ông bắt đầu viết “Đường Đi Không Đến”.
Và tác phẩm
này làm cho ông nổi danh ngay. Ông đă được giải thưởng văn học nghệ
thuật năm 1972. “Đường Đi Không Đến” là quyển hồi kư ghi lại kinh
nghiệm “đi B” tức là đi trở về miền Nam công tác. Đây là quyển hồi
kư quan trọng nhất của Xuân Vũ. Nó được ghi lại trước biến cố lịch
sử năm 1975. Nó đánh dấu sự thức tỉnh và chuyển hướng quan trọng
trong cuộc đời Xuân Vũ. Và theo tôi đây là tác phẩm có giá trị nhất
của ông về phương diện tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Dưới ng̣i
bút thật linh động Xuân Vũ đă sâu xa phân tích và ghi lại tâm trạng
và kinh nghiệm đi B của ông, một kinh nghiệm hết sức kinh hoàng trên
con đường 559 tức đường ṃn Hồ Chí minh theo giải Trường Sơn. Nếu
không khí chính trị ở Hà Nội lúc ông tập kết ra miền Bắc đă gây cho
ông cảm giác đầu tiên là Cộng sản “Kỳ Cục” để ông phải xin trở về
Nam liền sau đó, th́ con đường đi B với cảnh “Xương Trắng Trường
Sơn” và “Mạng Người Lá Rụng” đă gây cho ông một sự thức tỉnh vô cùng
quan trọng. Vấn đề “giá trị của con người,” vấn đề “nhân phẩm” và
“nhân quyền,” vấn đề “cúu cánh biện minh cho phương tiện, ” cùng với
sự “hy sinh mạng người một cách phi lư,” được đặt ra ở đây trong lúc
này. Và tinh thần “nhân bản” được khơi dậy mạnh mẽ khi người ta bắt
đầu ư thức về điều kiện giá trị của con người bị chà đạp, ư thức về
nhân phẩm/nhân quyền bị tước đoạt, ư thức về sự sống cũng như cái
chết đều trở thành phi lư, và ư thức về sự lừa dối trở thành tư
tưởng chỉ đạo.
“Khi ra đi,
tác giả viết, ông chủ nhiệm ủy ban thống nhất – trung tướng Nguyễn
Văn Vịnh có đến gặp chúng tôi và bảo rằng đoàn chúng tôi về đến nơi
sẽ có Chính Phủ Liên Hiệp! T́nh h́nh sáng sủa hơn bây giờ nhiều. Như
vậy ai mà nằm lại cho được. C̣n một gị cũng phải nhắc c̣ c̣ đi tới
chớ.” (Đường Đi Không Đến, tr. 18). Lời hứa của chính quyền cộng sản
không khác ǵ h́nh ảnh của mớ cỏ non và con ngựa già nua của ông lăo
đánh xe rất quen thuộc với tác giă từ lúc nhỏ :
“Để lợi dụng
cái sức lực c̣n lại trong con vật, lăo già đă nghĩ ra một cách có vẽ
nhân đạo hơn. Lăo ta buộc một mớ cỏ non trên đầu cần câu và buộc
chiếc cần câu dọc theo gọng xe.
Mỗi lần con
ngựa bị mắc vào xe, nó cứ nh́n thấy cái mớ cỏ non đó nhảy múa trước
mặt nó, tưởng chừng nó có thể ngoạm được và nhai ngấu nghiến đi
ngay.
Nhưng tội
nghiệp, con vật ngây thơ, cố ngay xương sống ra kéo chiếc xe đầy
khách, mong rút ngắn cái khoảng cách giữa cái mồm nó và mớ cỏ. Cái
mớ cỏ vẫn nhảy múa trước mặt nó, quyến rũ vô cùng, giuc nó chạy tới,
chạy nhanh tới.
Con vật ngây
thơ vẫn cố sức phi tới với chút sức tàn, mong đớp được mớ cỏ. Có bao
giờ lăo chủ xe lại giải thích cho con vật thân yêu của lăo v́ sao nó
chạy hoài mà không ngoạm được mớ cỏ?” (Thay Lời Tựa Đường Đi Không
Đến).
Con đường
vào Nam dọc theo Trường Sơn vô cùng nguy hiểm, vất vả. Tác giả đă
chứng kiến bao nhiêu cảnh chết chóc đau thương, bao nhiêu cảnh bệnh
hoạn, đói khát, bao nhiêu người sống lê lết không c̣n mang tính con
người nữa. Họ như con ngựa kiệt sức của ông lăo xe ngựa, cứ cố sức
vươn lên, cố sức với tới mớ cỏ treo trước mắt như một hứa hẹn không
bao giờ đạt được. Đói, khát, ốm đau, bom đạn, thiên tai, xảy ra
thường xuyên trên con đường này. Người ta trở nên ích kỷ, bần tiện,
không chia nhau một chút muối, dấu kỷ một chút đường, tiện tặn từng
hạt gạo. Con người không c̣n là con người nửa. Trong một cơn đau tác
giả đă phải trải qua một tâm trạng vô cùng bi đát. Hăy nghe tác giả
kể :
“Tôi nh́n ra
trời. Thấy ǵ đâu, một màu đen dày đặc... Tôi thấy tôi bé lại như
một hạt mưa rơi xuống từ vô tận, vỡ tan ra và trôi theo cái ḍng
nước sôi ấy. Và đời tôi đâu c̣n biết bám tựa vào dâu nữa...Hai tiếng
Văn Điển đến với tôi trong lúc này thật là điều không hay ho chút
nào. Bởi nó gợi lên cho tôi cái tên của một băi tha ma: nghĩa trang
Văn Điển. Cái khí lạnh của Trường Sơn cùng với cái khí âm của nghĩa
trang Văn Điển đè nặng, vây riết lấy tôi. Hiện lên trước mặt tôi
hằng ngàn ngôi mộ với những tấm mộ bia cái thấp cái cao, cái mới cái
củ, cái xanh cái vàng. Đó là nơi gửi xương gửi thịt của một số cán
bộ Miền Nam tập kết ra Bắc. Ngoài đó những người bịnh tật hoặc có
tuổi hết mong ngày về xứ thường than thở với bạn bè : “Chắc tao phải
ở lại Văn Điển rồi!” Tôi th́ tôi không phải ở lại Văn Điển nhưng
tránh khỏi cái Văn Điển của Hà Nội, tôi lại phải nh́n thấy cái Văn
Điển của Trường Sơn, cái thứ Văn Điển không có mộ bia và không có
khói hương trống kèn, hay nói đúng ra Trường Sơn giờ đây đă trở
thành một Văn Điển kéo lê thê hằng ngh́n cây số.” (ĐĐKĐ, tr. 86-88).
Người ta,
hay đúng ra người cộng sản nhân danh cái ǵ để xô đẩy hằng muôn vạn
người đi vào tử đạo này? Marx bảo “con người là quư nhất,” vậy mà
chủ nghĩa cộng sản Mác-Lê ở đây có xem con người ra ǵ đâu. Năm Cà
Dom trong ĐĐKĐ nói một cách mỉa mai: “Tựu trung con người cũng chỉ
là một con vật đi hai chân thôi, nhất là trên con đường này.” (nt.,
tr. 456). Chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện” mà cộng
sản đă triệt để lạm dụng là một chủ trương hết sức phi nhân. Nó chà
đạp lên nhân phẩm của con người, nó tước đoạt hết nhân quyền, nó đày
đọa con người vào cái chết vô cùng phi lư. Gần đến cuối đoạn đường
chết chốc, tác giả chán nản ghi :
“Tôi tự thú
nhận với tôi rằng tôi đă nản chí, tôi không c̣n muốn phấn đấu
nữa...Tôi nhớ lại lời của Lâm một chiều mưa. Câu nói ấy cứ thỉnh
thoảng lại vang lên trong tâm trí tôi. Bây giờ, cùng với cái t́nh
huống nguy ngập này, nó lại trở lại với tôi như một người bạn, như
một kẻ thù, như một sự vuốt ve như một lời hăm dọa: “Lần đầu tiên
tao cảm thấy tao đi không đến nơi.” Đối với tôi hôm nay, đây không
phải là lần đầu tiên tôi cảm thấy điều đó. Mà điều đó là cái điều
tôi thấy thường xuyên khi tôi ăn cơm, mỗi khi tôi lên cơn sốt...
“Nhưng đến
đây, bên bờ con suối đầy dẫy những đau thương vô lư, tôi lại cảm
thấy tôi góp vào đó một sự đau thương và vô lư bằng cả cái con người
tôi.” (nt., tr. 457-458).
Thân phận
phi lư của con người cũng như sự sử dụng con người như những phương
tiện được thấy lại trong “Đến Mà Không Đến” của tác giả:
“Thân phận
con người trở thành nhỏ bé, vô nghĩa. (Bây giờ ngồi viết những ḍng
này, nh́n lại cái đoạn đường Chó Ngáp, tôi chợt nghĩ: Đảng Việt Cộng
đă dắt nhân dân ta đi qua nhiều đồng chó ngáp mà rồi không đến đâu
cả.)” (ĐMKĐ, tr.279-280).
Thật là một
hy sinh phi lư! Thật là một chủ trương phi nhân! Con người không
phải là con vật, con người không thể được dùng làm phương tiện để
biện minh cho bất cứ một cứu cánh nào. Con người là một thực thể có
tri thức, có t́nh cảm, có hoạt động, có nhu cầu, có ước vọng, có giá
trị của con người. Hăy cho con người có quyền tự do, có quyền làm
người. Đừng chà đạp lên nhân phẩm, đừng tước đoạt nhân quyền, hăy
trả lại cho con người giá trị thật sự của con người. Đó là thông
điệp của Xuân Vũ qua bộ hồi kư của ông. Và qua thông điệp này ông
thật là một nhà văn lớn không những cho người dân Nam Bộ mà cho cả
người dân Việt, hay đúng ra không phải cho riêng người Việt Nam mà
cho con NGƯỜI nói chung viết bằng một chữ N hoa.
Đối với nhà
văn lớn này, nhà văn Lăo Thành Xuân Tước có đề nghị là chúng ta,
những người thương kính Xuân Vũ, hăy thiết lập một cái quỹ mang tên
“T̀NH THƯƠNG XUÂN VŨ,” (hay XUAN VU
FOUNDATION)
để vinh danh nhà văn và để giúp cho các công tŕnh văn hóa có giá
trị nhân bản sau này. Tôi hết sức đồng ư với nhà văn Xuân Tước và
xin kêu gọi những ai có ḷng thương mến Xuân Vũ và có nhiệt tâm đối
với văn hóa nhân bản hăy cùng tôi góp sức làm nên quỹ này.
Nguyễn
Thanh Liêm
Xuân Vũ -
Xuân Tước gặp nhau sau 45 năm măi măi c̣n Xuân Xuân Tước
Xuân
Tước
Đầu năm
1946, phong trào kháng chiến chống Thực dân Pháp bùng nổ mạnh trong
tỉnh Bến Tre. Sau trận chỉ huy ngăn giặc ở cầu Ba Lai, rồi đi về Cái
Mơn, Mương Choại, cho đến khi có tin ông Khu Bộ trưởng Đào văn
Trường mất, rồi ông Khu Bộ phó Trương văn Giàu về đóng hành dinh ở
Bến Tre,th́ tôi giao lực lượng do tôi chỉ huy cho ông ta và rút lui
về hoạt động dân sự.
Tôi chọn
vùng Cồn Lớn, xă Thanh Phong để xây cất một Trại huấn luyện thanh
niên. Trại gồm có hai dăy nhà lá dài mà thấp, một dùng làm pḥng học
và một dùng chỗ nghỉ cho trại sinh. Chỗ ăn và chỗ học dùng chung.
Với trại này xin ghi công anh Đỗ Quang Thời một bạn thân của tôi,
nay đă mất. Chỉ trong ṿng 3 ngày, anh huy động dân làng xây lên các
dăy trại, rồi vận chuyển các vật dụng cần thiết cho trại. Mười lăm
ngày sau th́ trại khai giảng và tôi là trại trưởng.
Hơn 80 thanh
thiếu niên từ các vùng của tỉnh Bến Tre được qui tụ về trại. Trại
chia làm hai phân trại : một cho thanh niên và một cho thiếu niên.
Một buổi sáng, một người bạn là anh Nguyễn Duy Hưng đưa đến giới
thiệu cho tôi một bạn trẻ vóc dáng thông minh, vai mang ba lô, đầu
đội nón bàng. Anh nói :
— Đây là em
Bùi Quang Triết, cháu gọi tôi bằng cậu. Em mới 16 tuổi, vừa mới rời
trường Trung Học Le Myre de Vilers ở MỹTho về. Tôi bắt tay cả hai
cậu cháu. Anh Hưng nói tiếp :
— Theo lứa
tuổi qui định, em Triết phải theo lớp Thiếu niên, nhưng tôi xin cho
cháu học lớp Thanh niên.
Tôi nh́n em
Triết với đôi mắt sáng, với nét hùng dũng của một người trai thời
chiến, gật đầu chấp nhận liền. Thành ra, trong phân trại Thanh niên,
em Triết là người nhỏ tuổi nhứt.
Tôi đă điều
hành ba trại huấn luyện thanh niên qua ba giai đoạn và thấy rơ :
— Hồi năm
1942-43, số trại sinh đều là những người trung niên do các quận,
làng giới thiệu. Các bạn này rất bỡ ngỡ v́ không hiểu ǵ về Phong
trào thanh niên hết. Chúng tôi đă mở một con đường sáng để anh em
cùng học tập và đi vào một nếp sống mới hơn. Tuy là trại huấn luyện
Cán bộ Thanh niên đế quốc Pháp, nhưng chúng tôi đă hướng dẫn an hem
đi vào một con đường mới, không nói ǵ đến Pháp.
— Đến năm
1943, tôi về Trại thanh niên Hưng Khánh Trung do anh Đặng ngọc Tốt
tổ chức. Các trại sinh đa số là những người có học ban Trung học và
Tú Tài. Tuy nói là trại Thanh niên Tiền phong, nhưng cả trại chúng
tôi không có cảm t́nh với người Nhựt đang thay thế Pháp làm chủ nước
VN. Chúng tôi hướng dẩn về một tương lai đẹp đẽ hơn cho quê hương
ḿnh.
— Nay chúng
tôi đang lo xây dựng một Trại huấn luyện Thanh niên cứu quốc. Không
ai thấy có mùi Cộng Sản trong đó hết. Chúng tôi hướng về công cuộc
tranh đấu chống thực dân Pháp để mưu độc lập và tự do cho nước nhà.
Trong trại,
em Triết tuy là một thiếu niên, nhưng em hoạt động hăng hái không
thua một thanh niên nào. Với tài hội họa, em vẽ tranh ảnh của Romain
Rolland, Maxime Gorki, Henri Barbusse để treo tường (tuyệt nhiên
không có ảnh Hồ Chí Minh). Anh lại khéo kẻ các chữ lớn : Dân Tộc,
Khoa Học, Đại Chúng làm mục tiêu xây dựng Trường.
Từ 5 giờ
sáng, các trại sinh đă thức dậy hát bài « Ai nghe chăng cung kèn
rạng đông » rồi chạy ra sân tập thể dục. Sau đó th́ anh em chạy
xuống biển tắm. Một hôm, các trại sinh thấy nhiều quyển sách trôi
giạt vào bờ, nhiều quá, hàng trăm quyển, an hem thi nhau vớt, đem
lên phơi, gỡ ra từng trang một. Thế là chúng tôi có được một tủ sách
cho trại sinh đọc và học.
Em Bùi Quang
Triết là người có công nhiều nhát trong việc tô bồi các quyển sách
của thanh niên lúc ấy. Rồi khi tôi cho đánh máy tập thơ Đươm Hồng
th́ cũng chính do em Triết đă lo đóng thành từng tập giúp tôi.
Sau khóa
học, em Triết chia tay với chúng tôi rồi về phụ trách Phong trào
Thiếu nhi trong tỉnh Bến Tre. Từ đó tôi mất liên lạc với em.
Cho đến
những ngày sau này, tôi được biết em Triết là nhà văn Xuân Vũ rất
nổi tiếng. Rồi tôi được đọc một số bài của em, nhắc lại nhũng ngày
đă qua và cá nhân tôi. Một hôm tôi đọc quyển Những văn nghệ sĩ
miền Bắc mà tôi đă biết lại thấy Xuân Vũ nhắc đến tôi. Cảm động
v́ mối thân t́nh của em, tôi gọi điện thoại cho em :
— Anh đây,
Xuân Vũ. Anh là Anh Tư, là thi sĩ Tâm Điền mà em thường nhắc đến đây
!
— Xuân vũ
mừng được liên lạc với tôi. Qua điện thoại, chúng tôi nhắc lại mối
thân t́nh từ 45 năm trước. Rồi từ đó, chúng tôi thường liên lạc thư
từ, điện thoại với nhau, bàn bạc chuện thơ văn, báo chí.
Tôi thành
thật cám ơn em Xuân Vũ đă dành cho tôi một chỗ đứng trong ḷng em.
Em đă tặng cho tôi nhiều danh hiệu mà tôi nhớ măi. Khi th́ tôi là
Cây dừa lăo Bến Tre, khi th́ Một chuyên gia thượng thặng về
nông thôn. Rồi đến tháng chạp năm 1998, tôi nhận được quyển
Những Bậc Thầy của tôi do Xuân Vũ gởi tặng, trong đó em đă dành
cả một chương nói về t́nh liên hệ giữa em và tôi. Với chương này em
đă viết :
Thi sĩ
vàng : Xuân Tước, tức Thi sĩ Tâm Điền, thầy tôi
Đây
biển rộng, đay rừng sâu
Với
chương hồi kư này, anh Tư, nhà thơ Tâm Điền ngày xưa và là người bạn
thân Xuân Tước ngày nay, xin nhận tấm ḷng thành của em Xuân Vũ,
người Em, người Học Tṛ, người Bạn Thân của đời tôi.
Nhân dịp Tết
năm Kỹ Măo (1999), tôi làm một bài thơ để gởi đến người em thân
thương của tôi.
Gởi Xuân
Vũ
Mùa xuân
phơn phớt cành mai,
Chim sẻ
ríu rít dưới trời mùa xuân.
T́nh xưa
kết lại thêm gần,
Hoa Xuân
rợp nở, t́nh Xuân đậm đà.
Tuy không
chung một mái nhà,
T́nh anh
em vẫn đậm đà thân thương
Mai vàng
mấy độ nở,
Tuyết
trắng mấy mùa rơi,
Thân t́nh
luôn gắn chặt,
Dù vạn
thuở không phai.
Gặp nhau
giữa buỗi quê nhà loạn,
Kẻ Bắc
người Nam vẫn một ḷng
Thơ nhạc
bốn mùa Xuân vạn nẻo
Văn
chương ḥa hợp một ḍng sông.
Ḍng sông
Cửu chung ḷng thân hữu,
Xứ Dừa
Xanh một thuở gần nhau,
Ḥa chung
muôn vạn sắc màu,
Sông dài,
đất rộng, thuở nào dám quên.
Hương Mỹ
làng này,
An Hội
t́nh đây,
Nhớ thuở
Cồn Chim, Cồn Lớn,
Nhớ ngày
Thạnh Phú, Ngàn Dừa
Đôi bạn
thân t́nh măi măi
Nắm tay
cùng chắp cánh bay.
Cùng nhau
trong cuộc vơi đầy
Quê hương
luyến nhớ những ngày xa xưa
Dù cho
trăm nắng ngàn mưa,
T́nh thân
một thuở không mờ sắc son.
Đây biển
rộng, đây rừng sâu,
Đây mênh
mông cao cả
Đây thiên
nhiên ḥa hợp với ḷng người,
Đây muôn
hồng tươi đẹp giữa hồng tươi.
Qua năm
tháng t́nh xưa ta giữ măi
Nhớ cọng
nam sâm với ḍng sửa chảy
Nhớ con
c̣ng gió vùi thân theo mà,
Nhớ nổng
cát dài, rau muống nở hoa,
Lời thơ
đẹp, t́nh thiên nhiên ḥa hợp.
Rừng sâu
và biển rộng,
Ngày nào
đây trời nước bao la,
T́nh xưa
chép lại bây giờ,
Một trang
giáy mỏng bến bờ xa xăm.
Xuân
Tước
(Tâm Điền)
Ngày Tết năm
Kỷ Măo (1999)
Trích :
Nguyệt San Non nước, số 21, tháng 6, 2000 - Số đặc biệt Xuân Vũ
XUÂN VŨ:
MỘT NGÔI SAO VĂN HỌC ĐĂ TẮT !
Lê Tùng
Minh
Một đêm đă
xa lắm rồi, xa đến hơn 50 năm về trước, tại ngă ba Huyện Sử, nằm
giữa tuyến kinh xáng Chắc Băng – Thới B́nh (Càmau) thuộc chiến khu U
Minh trong thời Nam Bộ Kháng Chiến Chống Pháp (1945-1954), tôi đă
gặp và làm quen với một anh thanh niên trạc tuổi hai mươi, nước da
trắng, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt đă đượm máu phong sương. Đó
chính là anh Xuân Vũ (tên họ thật là Bùi Quang Triết), phóng viên
của tờ báo “Tiếng Súng Kháng Địch", trực thuộc Sở Văn Hóa-Thông Tin
Nam bộ (1950-1954), và là nhà văn Xuân Vũ sau này (1960-2003).
Tôi gặp
Xuân Vũ tại quán sách báo của nhà thơ Nguyễn Bính - Anh Nguyễn Bính
vốn là Cán bộ của Sở Văn hóa Thông tin Nam bộ, v́ bất măn với cấp
lănh đạo, nên đă rời bỏ cơ quan từ năm 1949, về Huyện Sử lấy một phụ
nữ nông dân làm vợ, cất một cái cḥi tại chợ Huyện Sử để bán sách
báo kháng chiến; nhưng cái “nồi cơm gia đ́nh” của nhà thơ là do bàn
tay lao động sản xuất của người vợ nông dân chu toàn! Xuân Vũ đến
quán sách Nguyễn Bính là v́ yêu chuộng tài làm thơ của Anh. C̣n tôi,
cùng lứa tuổi với Xuân Vũ, tuy là chiến sĩ Quân Báo, nhưng lại thích
văn chương, do đó lần nào trên đường từ căn cứ địa đi ra mặt trận,
tôi đều ghé qua quán sách báo – mà chúng tôi hay gọi văn hoa là
“Quán Thơ Nguyễn Bính”.
Xuân Vũ và
tôi đều được nhà thơ mến khách chiêu đăi một b́nh “Trà Quạu” (tức
trà thật đậm). Và đến lúc đó, tôi mới biết Xuân Vũ là tác giả của
bài thơ “Ngày Mai Em Lớn Cầm Súng Bắn Tây” đă được đăng trên tờ báo
“Tiếng Súng Kháng Địch”. Bài thơ ấy, là sáng tác đầu tay của Xuân
Vũ, đă được nhạc sĩ Phan Vân phổ thành ca khúc cùng tên, được phổ
biến rộng răi trong vùng giải phóng. Chúng tôi, tuy mới gặp nhau lần
đầu, nhưng rất dễ thân nhau, v́ cùng là học sinh đă “Xếp bút nghiên
lên đường tranh đấu”, đi theo “Tiếng gọi của sơn hà nguy biến”....
Xuân Vũ là người sinh trưởng ở Mỏ Cày (Bến Tre), tôi sinh ra và lớn
lên ở Long Phú (Sốc Trăng). Nếu không có tham gia kháng chiến, th́
dù chỉ cách nhau có hai gịng sông lớn- Sông Tiền và Sông Hậu- chúng
tôi cũng không có cơ hội làm quen với nhau!
Quen nhau
đây, xa nhau đó là chuyện b́nh thường, rất dễ xẩy ra trong chiến
tranh. Xuân Vũ thường đi công tác ở các đơn vị thuộc ba thứ quân
(Dân quân Du kích, Địa phương quận, Chủ lực quân) ở khắp các địa
phương trong khu 9, để lấy tin, viết phóng sự đăng báo. C̣n tôi lại
thường len lỏi ngoài vùng địch chiếm để trinh sát t́nh h́nh quân
địch, nhằm phục vụ cho các chiến dịch tiêu diệt quân thù trên chiến
trường. Bởi vậy, chúng tôi hầu như không có điều kiện để thực hiện
lời hứa “Sẽ gặp lại nhau ở Quán Thơ Nguyễn Bính”. Trong mấy năm
kháng chiến sau cùng (1950-1954), chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc
với nhau!
Mười năm sau (1950-1960).
Đó là vào
một buổi chiều mùa Đông, mưa phùn lất phất bay, gió bấc se se lạnh,
tôi và hai người bạn đồng hương, rủ nhau đến ‘Quán trà Nam Bộ” ở đầu
đường Quang Trung (gần Hồ Gươm), để “uống trà nóng cho ấm ḷng trong
những ngày xa quê hương”! Chúng tôi uống trà với đậu phộng rang,
cùng những câu chuyện râm ran, ḥa chung không khí ‘Trà Đạo” của các
ông khách ghiền trà đang xúm xít ở các bàn chung quanh, tạo thành sự
ồn ào, trong một cái quán nhỏ hẹp, nhưng ấm áp t́nh người, giữa cái
giá lạnh của một chiều Đông Hà Nội!
— “Các bạn
biết không? Uống trà như chúng ta đang uống ở đây chỉ là uống cho đỡ
ghiền, chớ chưa đúng nghĩa “Uống Trà Chuyên Nghiệp” đâu nhé!”
Một anh Nam
bộ ở bàn bên cạnh, trạc tuổi ba mươi, có mái tóc dài trùm cả ót- mà
văn nghệ sĩ Hà Nội hay gọi đùa là “Kiểu tóc Nguyễn Tuân”, trông rất
nghệ sĩ, nói một cách sôi nổi
— “Xin hỏi
anh Xuân Vũ: Thế nào là uống trà chuyên nghiệp?”
Một anh Nam
bộ ngồi cùng bàn với người vừa nói, thắc mắc hỏi
Nghe hai
tiếng Xuân Vũ, tôi liền nhớ lại Xuân Vũ của mười năm trước: ”Chẳng
lẽ đúng là anh ta” Tôi thầm hỏi
— “Đây là
sự giải thích của nhà văn Nguyễn Tuân, trong truyện “Những Chiếc Ấm
Đất” của ông. Tôi chỉ là người lập lại nguyên văn mà thôi Theo nhà
văn Nguyễn Tuân : «Một người uống trà chuyên nghiệp, có những bộ đồ
trà rất quư. Uống trà phải nấu với nước xin ở chùa Đồi Mai, ở cái
giếng ấy mà thôi, không đâu khác... »
Xuân Vũ
cười, nói thêm:
— "Đó là
truyên được tiểu thuyết hóa mà thôi! Ai biết chùa Đồi Mai là ở đâu
để mà xin nước chớ?”
Tôi chú ư
theo dơi cách nói chuyện và quan sát cử chỉ của Xuân Vũ... Tôi khẳng
định: «Chính anh ta là Xuân Vũ mà tôi đă quen ở mười năm trước!»
— «Xin lỗi
anh, anh có phải là Xuân Vũ, phóng viên của báo “Tiếng Súng Kháng
Địch” ở quân khu 9 vào năm 1950 không?”Tôi day qua bàn bên kia, hỏi
người được gọi tên là Xuân Vũ.
Xuân Vũ quay
qua nh́n tôi, đưa bàn tay trái lên vuốt tóc một cách điệu nghệ, nh́n
tôi lom lom, suy nghĩ vài giây, rồi như đă nhớ ra... Anh ta reo lên:
— “Nhớ rồi!
Một đêm ở “Quán Thơ Nguyễn Bính” tại chợ Huyện Sử... phải không? Đêm
đó, chúng ta cùng uống “Trà Quạu” do nhà thơ chiêu đăi. Anh Nguyễn
Bính c̣n ngâm cho chúng ta nghe bài XUÂN VỀ... có đúng không?”
Một anh bạn
Bắc Kỳ ngồi chung bàn với Xuân Vũ, nổi hứng, cất giọng ngâm 4 câu
đầu của bài “Xuân Về” rằng:
“Đă thấy
Xuân về với gió đông
Với trên
màu má gái chưa chồng
Bên hiên
hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt
nh́n trời, đôi mắt trong.”
Khách uống
trà đều vỗ tay hoan hô người ngâm thơ...
Xuân Vũ đứng
lên bắt tay tôi, nói:
— “Nếu tôi
nhớ không lầm, anh là Sáu Tùng phải không?”
— “Phải Anh
có trí nhơ rất tốt!” Tôi đáp và hỏi Xuân Vũ:
— «Sau 5
năm ra Bắc, anh đă thực hiện được mộng ước NHÀ VĂN của anh hay chưa
»?
— «Xuân Vũ
là nhà văn trẻ đầy triển vọng của Hội Nhà Văn Việt Nam đó!”
Cũng anh bạn
Bắc kỳ ấy nói chen vào.
— «Mới vọt
vẹt viết được vài truyện ngắn thôi... c̣n xa mới đạt được danh hiệu
NHÀ VĂN cho thật đúng nghĩa của bốn chử KỸ SƯ TÂM HỒN!»
— Xuân Vũ
khiêm tốn tự xét ḿnh, rồi hỏi lại tôi:
— «Anh đă
đạt được nguyện vọng trở thành nhà viết tiểu thuyết trinh thám, như
anh đă tâm sự với tôi hay chưa»
Tôi lắc đầu,
trả lời:
— «Tôi vừa
tốt nghiệp khoa Sử của Trường Đại Học Tổng Hợp, và đang chờ sự phân
công của Bộ Giáo Dục.»
- Cả hai
chúng tôi đều vui mừng đă gặp lại nhau, sau mười năm xa cách, và vui
mừng hơn là mỗi người đều có sự nghiệp viết lách của ḿnh... Nhưng
sau đó, chúng tôi cũng không thường gặp nhau...
Bởi v́ Hội
Nhà Văn Việt Nam đang ở vào thời kỳ «đấu tranh chống ảnh hưởng của
Phong trào Nhân văn Giai phẩm» – Thời kỳ mà truyện ÔNG NĂM CHUỘT của
cụ Phan Khôi đă làm cho ông Hồ Chí Minh bực ḿnh, và Lê Duẫn, Trường
Chinh, Lê Đức Thọ... đều nổi giận! Thời kỳ mà Trần Dần đă miêu tả
rằng: «Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa,
trên màu cờ đỏ. Đất nước khô khan này, sao không thấm được vào Thở»
(Trong bài thơ Nhất Định Thắng), đă làm cho Bộ Chính Trị Trung Ương
Đảng điên tiết! V́ vậy Xuân Vũ cùng nhiều văn nghệ sĩ khác đều phải
vùi đầu vào cái gọi la chỉnh huấn, chỉnh huấn liên tục, và kiểm thảo
tư tưởng không ngừng; phải đi lao động thực tế ở các công trường,
nông trường, để cải tạo tư tưởng, nhưng được khoát dưới mỹ từ là “Đi
thực tế để có vốn sống hiện thực, nhằm mục đích giúp cho các nhà văn
sáng tác nên những tác phẩm có tính Đảng cao!”
C̣n tôi, sau
khi được phân công về công tác ở Viện Sử Học, trực thuộc Ủy Ban Khoa
Học Nhà Nước, cũng không thoát khỏi “Búa Ŕu Chỉnh Huấn” chống chủ
nghĩa xét lại hiện đại. Bởi v́, theo đánh giá của Ban Tuyên Huấn
Trung Ương Đảng do Trường Chinh lănh đạo, th́ cơ quan này là “Cái Ổ
Xét Lại Hiện Đại”, mà người cầm đầu là ông Viện Trưởng Viện Triết
Học Hoàng Minh Chính... Do vậy, cùng sống trên mảnh đất thủ đô, mà
tôi và Xuân Vũ rất ít gặp nhau. Trong những năm 1960-1964, ở Hà Nội
nói riêng, ở Miền Bắc Việt Nam nói chung, là “Thời Kỳ Khủng Bố “ của
nhà nước chuyên chính vô sản đối với những Trí thức- Văn Nghệ sĩ có
tư tưởng Xét lại sự Lănh đạo của Đảng.”(!)
Vào một buổi
chiều của những ngày cuối năm 1963, tôi đạp xe đạp từ Phố Hàng Chuối
ra đến ngă tư Trần Hưng Đạo- Hàng Bài, với ư định vào “Nhà Hàng Ăn
Quốc Doanh Hàng Bài”, để kiếm món ǵ nhét cho đầy cái dạ dày đang
trống rỗng.... Bỗng tôi nghe tiếng của Xuân Vũ, từ trong cái quán
bia hơi ở ven đường Trần Hưng đạo, gọi vói ra:
— “Sáu Tùng! Sáu Tùng! Vô đây, vô đây... »
Tôi xuống xe
đạp, dắt “con ngựa sắt” để dựa vào tường nhà trong khuôn viên của
quán bia hơi. Tôi cười nh́n Xuân Vũ hỏi:
— “Bấy lâu,
đi đâu biệt tăm, không thấy lại “Quán Trà Tri Kỷ”? (chúng tôi đặt
tên cho quán trà Nam Bộ như vậy)
— “Đâu có
rảnh rỗi mà lại Tri Kỷ hay đến Tri Âm như những ông bạn nhàn hạ
được! Văn Nghệ Sĩ XHCN là phải đi “thâm nhập thực tế” ở khu mỏ than
Hồng Quảng, rồi về Nông trường Ḅ Ba V́, lại đi Nông trường chè Phú
Thọ, nên làm ǵ có điều kiện để đến nơi hẹn ḥ của dân Nam Kỳ
Quốc!?”
Xuân Vũ cười
ha hả, mai mỉa trả lời.
Tôi ngồi bệt
xuống sân gạch cùng uống bia hơi, nhai đậụ phộng rang muối, với Xuân
Vũ và nhà văn Nguyễn Tuân.
— “Tôi đă
gặp cậu vài lần tại nhà của anh Sáu Giàu (tức Trần Văn Giàu), không
biết có đúng hay không nhỉ?”
— Nhà văn
Nguyẽn Tuân hỏi tôi.
— “Chính
hắn, chớ c̣n ai nữa... Hắn là đệ tử sử học đắc ư nhất của giáo sư
Trần Văn Giàu mà!”
Xuân Vũ chen
vào nói ồm ồm.
— “Xuân Vũ
nói đùa đấy, anh đừng tin lời của hắn! Đúng là tôi đă có gặp anh tại
nhà ông Sáu Giàu đôi ba lần... »
Đáp lời của
nhà văn Nguyễn Tuân xong, tôi day qua trả đũa Xuân Vũ:
— «Anh đă
thiếu nợ của mụ tú nào, mà sao mái tóc “kiểu Nguyễn Tuân” của bạn đă
bị cắt đi mất rồi. Thật là xấu hổ quá!”
Xuân Vũ vẫn
cười vui vẻ, trả lời hóm hỉnh rằng:
— «Tớ mắc
nợ của mụ tú Sáu Búa (ám chỉ Lê Đức Thọ) nên đă bị mụ ấy lấy cây búa
cạo đến sạch sẽ... »
Rồi Xuân Vũ
đổi giọng nhè nhè hỏi tôi:
— «Này, ông
đă từng ăn phở Tư Lùn lần nào chưả”
Tôi lắc đầu,
đáp :
— “Không
biết phở Tư Lùn ở đâu, làm sao ṃ đến để ăn cho được?”
— “Được,
bây giờ hỏi thiệt, ông c̣n tiền không? Nếu c̣n, th́ nhờ nhà văn sành
ăn phở (Xuân Vũ chỉ Nguyễn Tuân) sẽ dẫn chúng ta đi ăn phở Tư Lùn.”
Tôi gật đầu
đồng ư! Quán phở Tư Lùn nằm tại đầu đường Yết Kiêu, là một trong vài
hiệu phở nổi tiếng của Hà Nội xưa. Nhờ có chuyện đi ăn phở Tư Lùn mà
tôi mới biết chổ ở của nhà văn Nguyễn Tuân, ở trong hẻm Trần Hưng
Đạo ngó thẳng qua quán phở Tư Lùn. Có lẽ nhờ có quán phở này mà
Nguyễn Tuân đă nổi danh là người viết về Phở hay nhất trong văn học,
không ai sánh bằng!
Lần ăn phở
tại quán phở Tư Lùn cùng với Xuân Vũ và nhà văn Nguyễn Tuân, cũng là
lần cuối tôi hội ngộ với Xuân Vũ ở Hà Nội!
Bốn năm sau (1964-1967)
Một đêm mưa
tầm tă, tại Xóm Mới, một xóm nhỏ nằm bên ven sông Vàm Cỏ đông, thuộc
địa phận huyện Ḷ G̣, tỉnh Tây Ninh, mà bên kia sông là lănh thổ
Campuchia, địa phận tỉnh Prây-Ven, tôi lại gặp Xuân Vũ trong quán hủ
tiếu Ba Nhỏ (Tên của ông chủ quán đă được khách đến ăn đặt thành tên
quán)
Tôi vừa bước
vô quán vừa cởi áo mưa ra, th́ nghe tiếng của ai đó, rất quen, đang
ngồi ăn trong quán, gọi thật to:
— “Sáu
Tùng, tại sao lại gặp ông ở tại mật khu này nữa vậỷ Tôi đă trốn nợ
đời... từ thủ đô ngàn năm văn vật chạy vô đây! C̣n ông chắc chạy
trốn nợ t́nh của các cô gái Hà Thành chớ ǵ?”
Cả quán cười
ồ... Tôi xoay người lại nh́n: Hóa ra không ai khác là anh chàng nhà
văn tài hoa, hay nói đùa họ Bùi, tên Xuân Vũ. Tôi liền “phản pháo”
ngay, rằng:
— «Ông Sáu
Búa (ám chỉ Lê Đức Thọ), chủ nợ của anh, ủy nhiệm cho tôi vào tận
“rừng sâu núi hiểm” này, để đ̣i cho được món “nợ tư tưởng”
Révisionnisme (Chủ nghĩa xét lại hiện đại) đó nghe!»
— “Tớ đă vô
tận đây rồi, th́ có đến 12 búa tớ cũng chẳng sợ, nên 6 Búa đâu có
nghĩa ǵ đối với tớ! Nhưng tôi chỉ ngại ông đ̣i tiền 2 tô phở Tư Lùn
thôi... »
Xuân Vũ cười
trả lời một cách thoái mái. Rồi anh ta hỏi tôi:
— «Ông vào
đây hồi nào vậỷ”
Tôi kéo ghế
ngồi vào cùng bàn với Xuân Vũ, rồi trả lời gọn lỏn rằng:
— Từ mùa
khô năm 1964.
Tôi hỏi lại
anh ta:
— «C̣n anh,
vào đây từ lúc nàỏ”
— “Như vậy,
anh là “cựu binh”! C̣n tôi vừa mới sạch mùi “tân binh”, 2 năm!”
Xuân Vũ vừa
trả lời vừa chỉ vào bộ quần áo ‘Giải phóng quân” của anh đang mặc.
Lúc này, tôi
mới chú ư: Về bên ngoài, Xuân Vũ bây giờ không phải như nhà văn Xuân
Vũ ở Hà Nội, mà h́nh như anh đă thay đổi hoàn toàn! Nước da của anh
đă xạm màu sốt rét, sau 2 năm lăn lộn trong chiến khu miền Đông
“rừng thiêng nước độc”. Mái tóc “kiểu tóc Nguyễn Tuân” đă biến mất,
nhường cho mái tóc “hớt cua”thật ngắn. Xuân Vũ đă biến thành một sĩ
quan giải phóng về h́nh thức, với bộ quân phục màu xanh lá cây, đầu
đội nón tai bèo, đeo súng nhỏ K.54 xề xệ bên hông phải, treo lủng
lẳng trên giây ceinture màu vàng.
— «Bây giờ,
anh đúng là một CHIẾN SĨ VĂN NGHỆ GIẢI PHÓNG trên chiến trường Nam
bộ rồi đó!”
Tôi nói với
giọng pha tṛ.
— “Cám ơn
anh đă tặng cho “danh hiệu cao quí” đó. Nhưng không biết tôi có làm
tṛn nhiệm vụ “vinh quang nặng nề đó hay không?”
Xuân Vũ cười
mỉm, nói với giọng đùa cợt
Sau khi ăn
hủ tiếu xong, mưa rừng cũng đă tạnh hẳn, tôi kéo Xuân Vũ ra bờ sông
vắng để tâm sự. Xuân Vũ cho biết: Chính anh tự nguyện xin đi B, và
vận động sự ủng hộ của Đảng đoàn Văn nghệ măi, mới được Ban Tổ chức
Trung Ương chấp thuận Về tới Trung ương cục, anh được phân công về
Tiểu ban Văn nghệ, trực thuộc Ban Tuyên Huấn do Trần Bạch Đằng phụ
trách. Xuân Vũ cũng cho biết: Anh đă gặp được bà Nguyễn Thị Định, và
bà ấy đă đề nghị anh nên về quê hương Bến Tre, lấy tài liệu sống để
viết một tác phẩm lịch sử mang tên “Bến Tre, Ngọn Cờ Đầu Của Phong
Trào Đồng Khởi”, do bà ấy lănh đạo hồi 1959-1960. V́ vậy, tháng tới
anh sẽ về Bến Tre với sự giới thiệu trực tiếp của bà Nguyễn Thị
Định- Phó Tư Lệnh Bộ Chỉ Huy Quân Sự Miền.
— “Tôi tin
rằng, thông qua chuyén đi về quê hương Đồng Khởi, cũng là quê hương
của tôi lần này, sẽ có chất liệu đầy đủ cho tôi sáng tạo nên một tác
phẩm có giá trị cao hơn cuốn Ḥn Đất của Anh Đức!”
Xuân Vũ nói
rất hứng khởi và tràn đầy sự tự tin!
— “Tôi cũng
hy vọng anh sáng tạo được một tác phẩm bất hủ cho nền văn học giải
phóng! Nhưng tôi e anh sẽ không hài ḷng trước một thực tế không
giống như những ai đă kể về Đồng Khởi đâu!”
Tôi nói một
cách dè dặt.
Xuân Vũ tỏ
vẻ ngạc nhiên, trầm ngâm... rồi hỏi:
— “Anh đă
biết được sự thật thế nào về cuộc Đồng khởi Bến Tre? Nhưng dù sự
thật có phũ phàng đến thế nào... tôi cũng phải về quê nhà một lần,
để trang trải vấn đề t́nh cảm, và kiểm chứng thực tế luôn...»
Sau đó, Xuân
Vũ hỏi tôi:
— «Hiện
nay, anh công tác ở đâu? Tôi muốn liên lạc với anh th́ làm thế nàỏ”.
— “Không
dấu ǵ anh, tôi công tác ở ngành T́nh Báo, nên không tiện cho địa
chỉ cơ quan, v́ sẽ vi phạm kỷ luật đă quy định! Nhưng khi nào anh
muốn gặp tôi th́ cứ viết thư hẹn, và đưa cho anh Ba Nhỏ, chủ quán hủ
tiếu mà chúng ta vừa ăn đó. Anh chỉ nói: “Nhờ anh chuyển gấp cho anh
Sáu Kiếng” là tôi nhận được ngay! Sáu Kiếng là tên của tôi hiện
nay”.
Tôi không
thể nói thật cho Xuân Vũ biết: “Ba Nhỏ là mật hộ viên của tôi”. Và
càng phải giữ bí mật về thân phận của tôi hiện nay. Từ năm 1964, tôi
không phải là tôi của những năm trong kháng chiến chống Pháp, hay là
những năm đầu tập kết ra ở Hà Nội nữa! Trên lĩnh vực chính trị, hiện
giờ tôi đă đứng trên chiến tuyến của Mặt Trận Quốc Gia đối đầu với
Mặt Trận Cộng Sản (núp dưới danh nghĩa Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền Nam Việt Nam). Vả lại, tôi đang “nằm vùng” trong hàng ngũ Quân
Giải Phóng, khoát áo Cán bộ Giải phóng, mạo danh là đồng chí của
Xuân Vũ, nên phải cảnh giác với mọi người chung quanh, kể cả người
thân!
Tôi muốn lôi
kéo Xuân Vũ về với chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, để anh có điều kiện
phát huy đến đỉnh cao về năng lực sáng tạo văn học của anh. Nhưng
tôi phải kiên nhẫn chờ đợi cơ hội thuận lợi, để sau khi anh đă “va
đầu vào thực tế phũ phàng” của cái gọi là “Đồng Khởi Bến Tre”, mà Hà
Nội đă thần thánh hóa vai tṛ “vĩ đại của chị Ba Định”, trong việc
chỉ huy “đoàn quân vũ trang bằng súng bặp dừa” đă đánh thắng cả “sư
đoàn Mỹ- Ngụy” (!?) Tôi tin tưởng anh sẽ tỉnh ngộ nhanh, bởi v́ Xuân
Vũ vốn là môt nhà văn thức tỉnh... và đến lúc ấy, tôi chỉ “rót thêm
một giọt nước vào ly nước đă đầy” là ly nước của anh sẽ tràn ra,
không ai ngăn chặn được!
Cuối năm
1968.
Tôi đang
ngồi tại văn pḥng của A17 (mật danh của Sở Điệp Báo) tại đầu đường
Mạc Đỉnh Chi (Sàig̣n), th́ nhận được một bản báo cáo của Ty An Ninh
Bến Tre, cho biết: «Nhà văn Xuân Vũ đă ra tŕnh diện với tư cách là
người T̀M TỰ DO!” Tôi rất vui khi nhận được tin Xuân Vũ đă tự thức
tỉnh, từ bỏ hàng ngũ cộng sản, trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia,
không v́ sợ gian khổ, cũng không phải v́ bă lợi danh, mà v́ Lư Tưởng
Tự Do, v́ sự nghiệp sáng tác chân chính của anh!
Ngày hôm
sau, tôi điện thoại xuống Ty An Ninh Bến Tre hỏi thăm t́nh trạng của
Xuân Vũ, th́ được biết Ban Q. (Ban Thẩm Vấn) của số 3 Bạch Đằng, đă
bốc Xuân Vũ về Sàig̣n ngay trước khi tôi gọi điện thoại. Vậy là tôi
có thể đến gặp Xuân Vũ dưới h́nh thức “Thẩm vấn để khai thác tin
tức”- Bởi v́ theo nguyên tắc bảo toàn an ninh, ngăn chặn những phần
tử “Chiêu Hồi Giả”, cho nên bất cứ ai ở trong hàng ngũ cộng sản trở
về với quốc gia, đều phải qua giai đoạn Thẩm Vấn ở địa phương hoặc ở
Trung ương (tùy theo chức vụ và vai tṛ của họ). Tôi muốn gặp Xuân
Vũ cũng phải tôn trọng nguyên tắc đó! Cho nên, tôi phải gọi điện
thoại cho Ban Q. xin đăng kư thẩm vấn “nhà văn T́m Tự Do Xuân Vũ”,
nhưng được trả lời rằng: «Dù là ưu tiên 1 (tức trong nội bộ Phủ Đặc
ủy) nhưng cũng phải đợi đến khi Ban Q. và CIA Sàig̣n thẩm vấn xong,
th́ mới xếp lịch thẩm vấn cho A17 ». Tôi đành phải chờ!
Một tháng
sau. Vào những ngày cận Tết Kỷ Dậu (2-1969), tôi được Ban Q. sắp xếp
cho gặp nhà văn Xuân Vũ. Tôi gặp Xuân Vũ, không bằng tư cách là Thẩm
Vấn Viên, mà với tư cách là bạn hữu. Vậy là, trong ṿng 20 năm
(1950-1970) tôi chỉ gặp được Xuân Vũ có 5 lần - Một lần trong cuộc
kháng chiến chống Pháp (1950). Hai lần ở Hà Nội (1960, 1963). Một
lần trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1967). Và lần này tại Sàig̣n,
thủ đô của quốc gia Việt Nam Cộng Ḥa, một vùng trời Tự Do (1969).
Rơ ràng, tôi và nhà văn Xuân Vũ đă có “Duyên Kỳ Ngộ” của hai Học
Sinh yêu nước “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu’, của hai Thanh
Niên có mộng ước “cầm bút viết lên những nét điển h́nh của con người
Việt Nam, của tâm hồn Việt Nam”; và của hai Chiến Sĩ Việt Nam, đă
một thời chọn sai lư tưởng cách mạng, nhưng cũng đă thức tỉnh, chối
bỏ chủ nghĩa cộng sản, trở về với chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc!
Khi gặp tôi
tại Sàig̣n, Xuân Vũ rất ngạc nhiên. Anh hỏi:
— «Anh bỏ
chiến khu trở về đây hồi nào vậỷ”
Đến lúc này,
cả hai chúng tôi đă cùng chung chiến tuyến quốc gia, nên tôi không
cần dấu thân phận thật của tôi nữạ Thế là, chúng tôi cùng đồng cảm
về những ǵ chúng tôi đă đánh mất trong những năm hoạt động trong
hàng ngũ cộng sản, và những ǵ ḿnh sẽ đạt được trong cuộc chiến đấu
cho lư tưởng Tự do, cho quyền sống của con người!
Sau thời gian kết thúc giai đoạn thẩm vấn, ngành an ninh đă làm sáng
tỏ tư cách ‘T́m Tự Do” chính đáng của nhà văn Xuân Vũ! Do đó anh đă
được Bộ Trưởng Thông Tin Chiêu Hồi bổ nhiệm vào chức vụ Phó Giám đốc
Trung tâm Chiêu hồi (tọa lạc tại Thị Nghè). Tôi lại bận công vụ trên
chiến trường ở Campuchia, nên chúng tôi vẫn không có điều kiện gặp
nhau thường xuyên!
Măi đến mùa
Xuân 1972, khi tôi đă về làm việc luôn ở Sàig̣n, tôi mới thường gặp
Xuân Vũ ở Trung tâm Chiêu Hồi. Một hôm, Xuân Vũ tham khảo ư kiến của
tôi, rằng:
— "Tôi vừa
hoàn thành tác phẩm “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN”. Và tôi có ư định đưa đứa
con đầu ḷng trong cuộc đổi đời của tôi để tham gia giải Văn Học
Nghệ Thuật Quốc Gia 1973, anh thấy thế nàỏ”
— «Tôi rất
tán thành, mặc dù tôi chưa được đọc qua nội dung của tác phẩm. Bởi
v́ tôi tin vào văn tài của anh, đặc biệt là cái Subject (Chủ đề)
“Đường Đi Không Đến” đă là một ư tưởng độc đáo rồi! Nhưng tôi khuyên
anh nên lấy câu châm ngôn của dân gian Pháp là “Tout n’est pas bon à
dire!” (Không phải điều ǵ cũng nói ra được), để làm phương châm
duyệt lại tác phẩm của anh, khi nộp cho Ban Chấm Giảị”
Tôi động
viên và góp ư với nhà văn Xuân Vũ
Không biết
nhà văn Xuân Vũ có sửa chữa lại hay không? Nhưng tác phẩm “Đường Đi
Không Đến" của anh, đă đạt Giải Thưởng Văn học Nghệ Thuật Quốc Gia
năm 1973! Kết quả đầy vinh quang đó, là do chính tài năng văn học
của bản thân Xuân Vũ, cộng với thực tiễn đă trải qua trong cuộc đời
của người chiến sĩ văn nghệ. Nhà văn Xuân Vũ lần đầu tiên xuất hiện
trên văn đàn Miền Nam Tự do, như một ngôi sao sáng chói!
Từ 1973 đến trước 30-4-1975, nhà văn Xuân Vũ c̣n cho độc giả miền
Nam thưởng thức thêm 2 tác phẩm nữa của anh : “XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG
SƠN” và “ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN”. Độc giả Sàig̣n có nhiều ư kiến khác nhau
về 3 cuốn Hồi Kư của nhà văn Xuân Vũ (kể cả Đường Đi Không Đến),
Nhưng nói chung là “hấp dẫn người đọc!”
Riêng có cuốn “Đến Mà Không Đến” th́ có những phản ứng ngầm của một
số sĩ quan An ninh- Chính trị. Họ cho rằng, nhà văn Xuân Vũ, qua tác
phẩm “Đến Mà Không Đến” đă ám thị về “sự thất vọng” của nhà văn đối
với các nhà lănh đạo nền Đệ nhị Cộng ḥa’(?). Khi nghe được dư luận
ngầm này, có phần nào bất lợi cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Xuân Vũ, tôi vội vă đến gặp anh, nhằm mục đích trao đổi ư kiến, trên
tinh thần “bằng hữu chi giao”, nghe bạn “bị oan t́nh không đành làm
ngơ”!
Khi nghe tôi
cho biết dư luận ngầm đó, Xuân Vũ bật cười, nói một cách nghiêm túc
rằng:
— “Kể ra,
các vị đó cũng chịu khó đọc hồi kư “Đến Mà Không Đến” của tôi, và có
suy tư về khía cạnh tư tưởng chính trị của nó. Nhưng, pardon (xin
lỗi) các vị ấy đă soi bằng cái kiếng đen, cho nên mới nh́n thấy cái
h́nh thù méo mó của nó!”
Rồi anh hỏi
tôi:
— “C̣n theo
con mắt của nhà Sử học kiêm T́nh báo th́ như thế nàỏ”
— "Anh cho
phép tôi nói một cách trung thực nhé! Họ là những người có trách
nhiệm bảo vệ nền an ninh chính trị của quốc gia, do đó họ phải cảnh
giác đối với những tác phẩm văn học có tính bài xích chế độ dưới bất
cứ h́nh thức nào, dù ít hay nhiều. Cho nên, chúng ta không thể trách
họ! “Đến Mà Không Đến” của anh, theo cá nhân tôi, là phản ánh trung
thực sự suy tư của anh đối với thực tiễn mà anh đă đối diện, mặc dù
anh không “vạch mặt chỉ tên”, nhưng ai có trí tuệ đều thấy rơ là:
“Anh đă đến với một chế độ tự do, nhưng anh đă bị thất vọng, và coi
như không đến bến bờ tự do thật sự theo lư tưởng của anh!" Tôi không
phản đối sự suy tư của nhà văn theo chiều hướng nào, hơn nữa tôi
cũng tán thành cái logic của chủ đề tác phẩm! Nhưng tôi xin nhắc lại
với anh, trong khi chiến tranh Quốc- Cộng chưa chấm dứt, th́ lúc nào
anh cũng phải nhớ câu châm ngôn: ”Tout n’est pas bon à dire!” Tôi
chân thành nói với anh.
Rất tiếc, v́
t́nh h́nh thời cuộc quá khắc nghiệt, tôi không có diều kiện để gặp
lại nhà văn Xuân Vũ! Lúc này anh làm Biên Tập Viên cho Đài Mẹ Việt
Nam. Nhờ đó, trước ngày 30-4-1975, anh và gia đ́nh đă được Mỹ bốc ra
khỏi Miền Nam Việt Nam, trước khi quân Cộng sản chiếm Sàig̣n...
"Nhà văn
Xuân Vũ đă thoát khỏi sự trừng phạt nặng nề mang tính chất trả thù
của chế độ cộng sản, đối với những ai chống đối họ! Từ nay, tại
THIÊN ĐÀNG TỰ DO của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ, anh mặc sức mà sáng tác
nên những tác phẩm văn học có giá trị nhân văn, để đời cho mai
sau!”- Tôi thầm nghĩ như vậy, khi biết tin Xuân Vũ đă bay sang bên
kia Đại Tây Dương!
Hai mươi năm sau (1975-1995)
Sau ngày
30-4-1975, tôi bị Cộng sản bắt giam, từ nhà tù Chí Ḥa (Sàig̣n) đến
nhà ngục Hỏa Ḷ (Hà Nội), tổng cộng là 15 năm 7 tháng 4 ngày. Nhờ
Chính phủ Hoa kỳ can thiệp (đến 3 lần), chính quyền cộng sản Việt
Nam mới chịu tha, với điều kiện bắt buộc tôi phải kư giấy cam kết
rằng: ”Khi ở nước ngoài không được kêu gọi hay tổ chức chống chính
phủ Cộng Ḥa XHCN Việt Nam!” Tháng 8-1993, tôi được sang tị nạn
chính trị ở Mỹ theo diện R.D. (Rapid Departure). Và tôi đă định cư ở
vùng Đông Bắc Mỹ từ đó. Nhưng trong hai năm 1994-1995, tôi chưa liên
lạc được với nhà văn Xuân Vũ! Tết năm Ất Hợi (1995), tôi có dip sang
thăm người anh bà con ở Santa Anna (California), và đi xem chợ Hoa
Xuân tại Little Sàig̣n, nên tôi mới thấy tên của nhà văn Xuân Vũ
trên các tạp chí Xuân như: “Diễn Đàn Phụ Nữ”, “Quê Hương”... và một
số tác phẩm của Xuân Vũ, mới viết trong 20 năm ở Hoa Kỳ (1975-1995),
để trên kệ sách của nhà sách Văn Nghệ trong chợ Phước Lộc Thọ, như:
“Đồng Bằng Gai Góc” (Hồi kư), “Sông Nước Hậu Giang” (Tiểu thuyết),
Dưới Bóng Dừa Xanh” (Tiểu thuyết) v.v... Tự nhiên trong ḷng tôi cảm
thấy vui vui, với tâm trạng của một người bất ngờ nhận được tin bạn
cũ. Bởi vậy, khi lật từng trang sách của Xuân Vũ, tôi cảm thấy như
đang “nói chuyện với Xuân Vũ” vậy! Cho nên, tôi tự bảo với ḷng
ḿnh: ”Thế nào cũng phải t́m cho ra số phone nhà của người bạn cố
tri – Nhà văn Xuân Vũ – để hiểu rơ cuộc sống và nhất là những thành
quả sáng tác văn học, mà anh đă đạt được trong suốt 20 năm lưu vong
ở xứ người (?)".
Vào cuối năm
1995, Bác sĩ Huỳnh Chí Thành, người bạn cũ trong thời Nam bộ Kháng
chiến, từ California gọi điện thoại báo cho tôi biết số phone nhà
của Xuân Vũ ở San Antonio (Texas)...
— “Sau 6
giờ chiều – giờ Texas – ông hăy gọi, v́ lúc ấy Xuân Vũ mới có mặt ở
nhà!”
Bác sĩ Thành
dặn tôi.
Đúng 8 giờ
tối hôm đó, tôi gọi điện thoại cho Xuân Vũ.
— “Hello!
Cho tôi nói chuyện với nhà văn Xuân Vũ.”
Tôi nói, khi
nghe bên kia đầu giây có người nhấc điện thoại...
— “Xuân Vũ
đây! Xin lỗi, ai ở bên kia đầu giây?”
Tiếng của
Xuân Vũ tuy đă khàn đục của người già, nhưng tôi vẫn nhận ra cái âm
điệu của anh ta.
— “Sáu Tùng
đây! Anh không nhận ra tiếng nói của tôi hay sao”
— “Xin lỗi!
Tôi không nhận ra tiếng nói của anh! Tên của anh, tôi nghe quen lắm,
nhưng vẫn chưa nhớ là gặp ở đâu? Anh nhắc dùm lại một vài kỷ niệm
giữa chúng ta, có được không?”
— “Anh và
nhà văn Nguyẽn Tuân dẫn tôi đi ăn Phở Tư Lùn ở đầu phố Yết Kiêu Hà
Nội, có nhớ không?”
— “A! nhà sử
học kiêm nhà t́nh báo... phải không?”
Xuân Vũ
ngưng vài giây, rồi mới thắc mắc hỏi:
— «Tại sao
tiếng nói của ông nghe ngọng nghịu khác thường vậy”
Tôi mới kể
tóm tắt cho Xuân Vũ nghe về cảnh khổ của tôi trong hơn 15 năm tù, và
bị tai biến mạch máu năo sau khi ra tù, nên tiếng nói mới bị ngọng
nghịu như vậy.
— “Ông c̣n
sống sót và được sang định cư ở Mỹ, có thể coi là một cuộc tái sinh.
Chắc chắn rằng, ông sẽ thọ hơn 20 năm nữa đó!”
Sau khi động
viên tôi, Xuân Vũ nói tiếp:
— "Ông cứ
coi chuyện ở tù của ông như chuyện “Tái ông thất mă” vậy! Bởi v́
“cái vốn tù đày” trong hơn 15 năm của ông, sẽ là chất liệu sống, để
ông sáng tạo nên một tác phẫm bất hủ cho đời rồi đấy!”
— “Cám ơn sự
động viên chí t́nh của bạn! Nhưng bây giờ tôi muốn biết thành quả 20
năm sáng tác văn học của nhà văn tài hoa của xứ dừa như thế nào? Ông
có thể vui ḷng kể sơ qua cho tôi biết được không?”
Tôi thành
thật yêu cầu.
— «Ông có
biết không? “Tài hoa xứ dừa” hay xứ cau ǵ nữa, khi lưu vong sang xứ
Coca Cola đều phải “Tay làm hàm nhai”, ăn “Sandwich th́ phải vích
tối ngày vậy mà...” Xuân Vũ cười gịn, vẫn giữ phong cách pha tṛ
như thuở nào.
— “Sang tới
xứ Cờ Hoa, đặc biệt khi đến “Sàig̣n Nhỏ” ở vùng “đất ấm t́nh nồng”
Cali, tôi đă thấy tên ông ở hầu khắp các hiệu sách... Tôi mừng cho
ông có đất dụng vơ, bù lại những năm tháng ở Hà Nội...»
Tôi cười,
nói nửa đùa nửa thật.
— «Khi ông
xông vào thị trường chữ nghĩa Việt Nam ở hải ngoại, rồi ông mới thấy
giá trị của câu “Văn chương rẻ như bèo”(!). Nhưng, cầm bút là nguồn
sống tinh thần, là nghiệp dĩ của đời ḿnh, giống như “kiếp con tầm
th́ phải nhả tơ” mà không đ̣i hỏi sự bù đắp của xă hội... V́ vậy,
ḿnh cứ sáng tác đều đều, không để cho “cái đầu suy nghĩ” và “cánh
tay viết lách” được rảnh rang, phải bắt nó làm việc, làm việc, và
làm việc... cho đến khi trái tim ngừng đập mới thôi. Nhờ sự cố gắng
tối đa như thế nên suốt trong 20 năm qua, tôi cũng đạt được một
thành quả gọi là “không phụ ḷng của độc giả mến mộ” nhà văn xứ dừa
này! ”Xuân Vũ tâm sự với một giọng không vui không buồn.
Nhà văn Xuân
Vũ khiêm tốn nên không khoe thành quả văn học của anh với tôi. Nhưng
tôi vẫn biết được anh đă miệt mài sáng tác, với một năng lực sáng
tạo phi thường, rất hiếm thấy trong số nhà văn cùng lứa tuổi với
anh, qua số lượng sách của anh đă được các nhà xuất bản ở hải ngoại
ấn hành trong ṿng 20 năm qua. Từ 1975 đến 1995, nhà văn Xuân Vũ đă
tŕnh Làng Văn Hải ngoại với hơn 40 tác phẩm văn học, khoảng chừng
7.000 trang (gồm có Hồi kư, Tiểu thuyết, Khảo luận...) Tính trung
b́nh, mỗi năm, nhà văn Xuân Vũ cho ra đời 2 tác phẩm văn học, trong
hoàn cảnh rất chật vật về thời gian, v́ vừa lao động kiếm tiền để
đảm bảo đời sống của gia đ́nh, vừa tranh thủ thời gian nghỉ ngơi để
viết văn!
Trong một
bức thư gửi cho tôi (tháng 4-1996), nhà văn có tâm t́nh như sau:
”Viết văn đối với tôi là một việc cao quí gian khổ và đau khổ, lắm
khi đầy đe dọa nữa! Nhưng nếu chết đi mà c̣n được đầu thai theo
thuyết luân hồi của nhà Phật, th́ tôi xin tiếp tục cầm bút để hoàn
thành những ǵ c̣n bỏ dở ở kiếp này... Ôi! Cây bút nhỏ bé gầy g̣,
nhưng nếu không có nó th́ nhân loại chỉ là một loài súc vật ḅ lê
trong vũng bùn ngàn năm!”
Qua đoạn thư trên, chúng ta – những độc giả yêu quí nhà văn Xuân Vũ
– đều có thể nhận thấy rơ ràng rằng: ”Nhà văn Xuân Vũ đă vượt qua
bao khó khăn và gian nguy để hoàn thành những tác phẩm văn học cho
đời! Cho dù trong hoàn cảnh nào, nghiệp văn vẫn là lư tưởng cao cả
của Xuân Vũ! Anh không chỉ muốn viết văn ở kiếp này, mà c̣n muốn
tiếp tục viết văn ở kiếp sau nữa. Bởi v́ Xuân Vũ đă nh́n thấy VĂN
HỌC ĐĂ GÓP PHẦN SÁNG TẠO NÊN NỀN VĂN MINH CỦA NHÂN LOẠI!
Từ 1996 đến
2003, chúng tôi thường diện đàm với nhau, chủ yếu là thăm hỏi sức
khỏe và trao đổi về những vấn đề thời sự chính trị ở quê hương Việt
Nam. C̣n công việc văn chương th́ hầu như không có trao đổi, bởi v́
chúng tôi, mỗi người theo đuổi một lĩnh vực chuyên môn, tuy cùng
ngành khoa học xă hội, nhưng lại khác nhau về phương pháp luận và
cách thể hiện – Xuân Vũ theo đuổi sự nghiệp sáng tác văn học. C̣n
tôi th́ chuyên tâm nghiên cứu lịch sử.
Có lần, tôi
ngỏ ư muốn có NHỮNG TÁC PHẨM ĐẮC Ư NHẤT CỦA XUÂN VŨ, để tôi thử viết
một tiểu luận VỀ GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA XUÂN VŨ. Và nhà văn Xuân Vũ đă
trả lời cho tôi như sau: ”Nếu bạn có nhă ư muốn điểm sách của tôi
th́ để thong thả tôi t́m đủ bộ gởi cho bạn... rồi bạn hăy viết mới
dzui (đúng chữ của Xuân Vũ.)”. V́ vậy tôi đành phải chờ (?).
Tháng 8 năm
1998, nghe tin bà xă tôi qua đời trong một tai nạn bất ngờ (!) Anh
Xuân Vũ đă gọi điện thoại chia buồn, và an ủi tôi. Tôi ghi nhớ măi,
không thể nào quên câu nói của anh, rằng:
— “Chỉ có
hai vợ chồng lưu vong nơi đất khách, bà xă đột ngột qua đời không
một lời trối trăn, thật là quá bi thảm cho anh! Chắc hẳn là bạn rất
cô đơn trong những ngày tháng sắp tới... Nhưng tôi tin tưởng bạn,
vốn là một chiến sĩ kiên cường trong chiến tranh, đă từng ngồi tù
cộng sản 15 năm, không thể dễ dàng bị gục ngă! Mong bạn sẽ dùng ng̣i
bút b́nh luận chính trị và khảo luận lịch sử, làm vũ khí tinh thần,
để đẩy lùi sự cô đơn, và tạo nguồn vui hạnh phúc bằng sự sáng tạo
nên những tác phẩm cho mai sau!”
— Cám ơn anh
Xuân Vũ (và bạn bè xa gần) đă nâng đỡ về tinh thần cho tôi rất
nhiều! Nhờ vậy, tôi đă vượt qua nỗi buồn cô đơn, tiếp tục sự nghiệp
nghiên cứu và biên soạn lịch sử Việt Nam...
Cuối năm
1998, nhà văn Xuân Vũ có gửi cho tôi 4 cuốn sách của anh vừa mới
phát hành. Đó là: cuốn “Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như tôi Biết” (Hồi kư –
Tập II), cuốn “Những Bậc Thầy Của Tôi” (Khảo luận) và 2 cuốn “2000
Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi” (Tập 5 & 6 – Hồi Kư, viết chung với Dương
Đ́nh Lôi). Tôi đă đọc ngấu nghiến những tác phẩm mới ra đời của Xuân
Vũ... trong mấy ngày đêm, với tổng số hơn 1.700 trang.
Đọc xong các
tác phẩm mới ra đời của nhà văn 69 tuổi (1930-1998) – Xuân Vũ, tôi
phải thầm khâm phục sức sáng tác của anh! Nếu mới đọc qua đầu đề
cuốn Hồi Kư “2.000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi”, bạn đọc sẽ có cảm giác
đầu tiên đây chỉ là những “chuyện đánh nhau”, ngán chết (!). Nhưng
không, đây là một bức tranh về những cuộc đời trong một xă hội ở
thời chiến tranh – Hỉ, Nộ, Ái, Ố... có đủ cả, được diễn tả bởi một
ng̣i bút diêu luyện, của một nhà văn biết chọn lọc những câu chuyện
điển h́nh, tạo nên một “xă hội Củ Chi” rất hấp dẫn!
C̣n cuốn Hồi
kư về “Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết”, là một tác phẩm không chỉ
có giá trị về tư liệu “Lịch Sử Văn Học Việt Nam Hiện Đại”, mà c̣n có
giá trị phê phán sự lănh đạo độc tài của Đảng CSVN trong lĩnh vực
văn học! Các bạn hăy đọc và nghiền ngẫm những lời tâm sự sau đây của
nhà văn Xuân Vũ: “Cuộc diện đấu tranh giữa chính nghĩa Quốc gia và
tà thuyết Cộng sản vong bản đang đến hồi quyết liệt, mất c̣n. Kẻ
viết quyển sách này kính chúc các văn nghệ sĩ trong và ngoài nước
hăy đoàn kết và thực hành đúng tinh thần cao cả của nhà nho tiền bối
Nguyễn Đ́nh Chiểu: “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. (sách đă dẫn,
trong “Đôi Lời Tác Giả’).
Đặc biệt
cuốn khảo luận “Những Bậc Thầy Của Tôi”, nhà văn Xuân Vũ đă gửi gấm
một tâm sự nuối tiếc về ước vọng của nhà văn, rằng: «Tất cả cuộc
sống xưa b́nh thường bỗng nhiên trở thành kỷ niệm. Tôi c̣n nhớ nhiều
người quá mà không viết nổi nữa. Không có nhà văn nào khi chết mà đă
hoàn thành tất cả những ư định của ḿnh. Cuốn sách này coi như “trạm
nghỉ chân” cuối cùng, nghỉ xong rồi ngủ luôn không đi đâu nữa
hết...” (Sách đă dẫn, trang IX, trong bức thư gửi cho Nxb của Xuân
Vũ).
Đọc được tâm
sự này của Xuân Vũ, tự nhiên tôi có một cảm xúc buồn buồn. Tôi nghĩ:
“Chắc người bạn già của tôi đă không c̣n đủ sức khỏe để thực hiện
những tác phẩm văn học đă tích lũy sẵn trong tâm hồn nghệ sĩ của
anh! Anh đă có hoài băo làm một nhà văn chân chính, như nhà văn Nga
Piotr Pavlenko đă từng nói: ”Văn chân chính phải dám tiêm vào mạch
máu của dân tộc những nhân tố mới bằng ng̣i bút của ḿnh.” Nhưng giờ
đây, lẽ nào Xuân Vũ lại gác bút ở cuối đường? ” Mặt khác, tôi lại
nghĩ: ”Hay ông bạn già của tôi – chỉ c̣n 1 tuổi nữa là THẤT THẬP rồi
- đă lâm bệnh nặng, đoán trước được thời gian chia tay vĩnh viễn với
gia đ́nh và bạn bè? Nhưng Xuân Vũ không muốn cho bè bạn bận ḷng,
nên đă không cho biết về bệnh t́nh của ḿnh?”
Tuy nhiên,
trong thực tế của 5 năm qua (1999-2003) nhà văn Xuân Vũ vẫn tiếp tục
viết không ngừng nghỉ, với một năng lực phi thường, đối với một thể
trạng bệnh hoạn của anh! Anh viết truyện ngắn, truyện dài, phiếm
luận... Và sửa chữa, hoàn thành những tác phẩm chưa in.... Anh có
mặt hầu khắp trên các tạp chí Việt ngữ ở Mỹ, ở Canada, ở Pháp v.v...
Đâu đâu, trên thế giới này, cộng đồng người Việt hải ngoại đều đọc
được những sáng tác văn học mới nhất của nhà văn Xuân Vũ. Hai truyện
dài gần đây nhất của nhà văn Xuân Vũ, đang đăng từng kỳ trên bán
nguyệt san Tự Do của nữ văn sĩ Mặc Bích (Houston – Texas), là truyện
“THẤT SƠN, ĐỊA LINH NHÂN KIỆT”, và truyện “QUÊ NỘI QUÊ NGOẠI”, có
thể nói là rất hấp dẫn người đọc!
Trong tuần
đầu tháng 11-2003, anh đă chủ động gọi điện thoại cho tôi đến 2 lần.
Có thể nói, đây là một hiện tượng bất b́nh thường suốt trong 8 năm
nay (1995-2003), trong sự giao tiếp bằng điện thoại giữa Xuân Vũ với
tôi!
Lần thứ
nhất, anh động viên tôi nên hoàn thành càng sớm càng tốt tác phẩm:
Hồi kư của “NGƯỜI TÙ BỊ ĐỔI TÊN.” Anh nói như sau:
— “Hồi kư
của “Người Tù Bị Đổi Tên” là một câu chuyện t́nh báo, nhưng đă hàm
chứa một giai đoạn lịch sử đấu tranh giữa Chính Nghĩa và Phi Nghĩa,
của dân tộc Việt Nam (1945-1975), thật sự hấp dẫn người đọc, v́ mỗi
lần tôi đọc từng kỳ trên bán nguyệt san Tự Do của bà Mặc Bích, là có
tâm lư nôn nóng muốn xem tiếp, để biết câu chuyện sẽ diễn biến và
kết cục ra sao. Vậy ông dự định chừng nào mới cho ra mắt bạn đọc
quyển Hồi Kư “Rút Ruột” đó?”
— “Cám ơn
nhà văn tài hoa đă quá khen để động viên tôi! Nhưng tôi không có sức
viết nhanh như ông đâu! Tôi sẽ cố gắng hoàn thành trong năm 2004
hoặc 2005!”
Tôi trả lời
một cách dè dặt, đồng thời hỏi lại Xuân Vũ:
—”Tính từ
sau tháng 4-1975 đến cuối năm 2003, ông đă sáng tác được bao nhiêu
tác phẩm rồỉ”
— “Thú thật
với ông, tôi không nhớ chính xác đâu! Độ chừng gần 80 tác phẩm ǵ
đó! Số lượng nhiều mà nội dung dở ẹt th́ cũng vứt vào xọt rác thôi.
Cái chính là chất lượng của tác phẩm mới là điều đáng nói với một
nhà văn chân chính! Có phải thế không bạn?”
Xuân Vũ nói
thật nghiêm túc.
Lần thứ hai,
trong cuộc điện đàm với tôi, nhà văn Xuân Vũ đă tiết lộ một tâm sự
“buồn vạn kiếp” của thân phận lưu vong, kư sinh trên xứ lạ quê
người!
— “Ông đă
từng đến Bến Tre, nhưng không biết ông đă từng đến Quê Ngoại của tôi
hay chưa? Quê ngọai tôi là một vùng đất nằm ven con rạch chảy suốt
bề ngang Cù Lao Minh, và chảy qua hai phố chợ Tân Hương và Cầu Mống.
Sau nhà ngoại tôi là một cánh đồng rộng trải dài tới xóm Cái Bần
thuộc làng Đại Điền, một làng trù phú, có những nhà giàu nhất nh́
tỉnh Bến Tre»
Xuân Vũ vừa
kể đến đó, tôi liền cắt ngang, hỏi:
— “Quyển
tiểu thuyết “Xóm Cái Bần” của ông, có phải là viết về xóm Cái Bần mà
ông đang kể đó không?”
— “Đúng, cái
xóm đó! Ông có biết không, quê ngoại đối với tôi là một bài thơ dài,
một thiên hồi kư vô tận, không tài nào viết ra nổi! Tới chết, tôi
vẫn c̣n mang theo những h́nh tượng đẹp đẽ về một miền quê, nơi tôi
cất lên tiếng khóc chào đời trong một ngôi nhà xưa u tịch. Đối với
tôi, không có mảnh đất nào đẹp bằng Quê Ngoại... Đó là mảnh trời
riêng của tôi, không thể t́m đâu ra, mảnh trời riêng ấy, trên cơi
đời này!”
Xuân Vũ thở
dài, nuối tiếc...
— "Hay là
ông cố gắng sắp xếp đi về thăm Quê Ngoại một chuyến, để khỏi ân hận
khi vĩnh viễn nằm xuống trên đất lạ!”
Tôi thành
tâm khuyên bạn.
— “Bác sĩ
Huỳnh Chí Thành ở Cali cũng nhiều lần khuyên tôi như ông vừa khuyên
vậy... Nhưng tôi đă suy nghĩ kỹ rồi: ”Chính quyền Cộng sản sẽ không
chấp nhận cho nhà văn chống cộng, như Xuân Vũ, được tự do trở về
thăm Quê Ngoại đâu!”
Xuân Vũ cười
một cách chua chát.
Bẳng đi một
thời gian, khoảng hơn một tháng, tôi và nhà văn Xuân Vũ không điện
đàm với nhau...
Một đêm cuối
tháng 12-2003, tôi nhận đươc điện thoại từ Cali, Bác sĩ Huỳnh Chí
Thành báo hung tin: ”Xuân Vũ đang trong t́nh trạng hôn mê bất tỉnh,
và phải thở bằng b́nh dưỡng khí!”
— “Nhắm
Xuân Vũ có vượt qua được trận hung hiểm này hay không?”
Tôi sốt ruột
hỏi.
— “Xem ṃi
khó khăn lắm! Chúng ta đành phải cầu nguyện cho anh ta, vậy thôi!”
Bác sĩ Huỳnh
Chí Thành thở dài...
— ”Bạn bè
cùng trang lứa với chúng ḿnh đă lần lượt xếp hàng đi về bên kia thế
giới hết rồi! Chừng nào sẽ đến chúng ta đâỷ”
Tôi b́nh
thản hỏi.
— “Thôi th́
nguyện ước nào chưa thực hiện được, phải tranh thủ thực hiện đi! Nếu
không, chắc chắn sẽ mang hận xuống dưói tuyền đài chớ biết làm sao?”
Huỳnh Chí
Thành xúc động nói.
Đêm nhận
được hung tin về Xuân Vũ, tôi cứ trằn trọc, không ngủ được! Vẫn biết
rằng: "Ai cũng không tránh được cửa TỬ!” nhưng khi nghe bạn bè đang
bước vào cửa đó, th́ ḷng ḿnh lại không dằn được nỗi niềm bi thương
cho số phận của con người, trong đó có chính ḿnh!
Tôi nghĩ
nhiều về Xuân Vũ...
Anh, quả
thật là một nhà văn có sức sáng tác khác thường! Chỉ trong ṿng 8
năm gần dây (1996-2003), mỗi năm nhà văn tuổi 70 này đă cho ra đời
trung b́nh là 4 tác phẩm, với khoảng trên dưới 1.000 trang. Như vậy,
so với 20 năm đầu ở hải ngoại (1975-1995), tốc độ sáng tác của Xuân
Vũ đă tăng lên gấp đôi, trong khi tuổi càng già hơn, sức khoẻ càng
yếu hơn. Nhưng, văn tài vẫn không sút kém, mà c̣n có chiều sâu tâm
hồn hơn, bắt kịp hơi thở của thời đại hôm nay – Thế kỷ 21!
Trong hơn
một năm nay (từ tháng 4-2002), nhà văn Xuân Vũ đă giúp cho tạp chí
Phương Đông, do nhà báo Việt Hùng chủ trương, cơ sở tại thành phố
Lowell thuộc tiểu bang Massachusetts, làm “CAI VƯỜN VƯỜN HOA PHƯƠNG
ĐÔNG”. Có người cho rằng, đây chỉ là một việc làm có tính chất “tếu
vui” cho qua những ngày cuối đời của nhà văn Xuân Vũ mà thôi (?) Tôi
cho đó là một thành kiến sai lầm! Theo dơi mục “Vườn Hoa Phương
Đông” trong suốt 21 tạp chí (Từ tháng 4-2002 đến tháng 12-2003), tôi
nhận rơ mục đích cao đẹp trong việc làm “Cai Vườn” của nhà văn Xuân
Vũ, là: Khuyến khích những ai thích viết văn th́ cứ mạnh dạn viết
(như Cai Vườn Xuân Vũ đă nói: ”Ai viết được một bức thư th́ có thể
viết văn được...”); làm cho mọi người không c̣n có mặc cảm “múa ŕu
qua mắt thợ”! Nhờ truyền bá tinh thần “Văn Học Đại Chúng” đó, nên đă
có nhiều tên tuổi lạ, nhiều bạn trẻ thích viết văn làm thơ, đă mạnh
dạn xuất hiện trên “Vườn Hoa Phương Đông”. Qua đó, giới văn học hải
ngoại có thể phát hiện ra những văn tài mới... Một ông bạn già, bạn
đọc thường xuyên của tạp chí Phương Đông, có nói với tôi rằng: ”Từ
ngày có Xuân Vũ xuất hiện trong mục Vườn Hoa Phương Đông, nội dung
của tạp chí Phương Đông có phàn tươi mát và rôm rả, hấp dẫn người
đọc hơn!”. Vậy, Vườn Hoa Phương Đông, nếu không có Xuân Vũ làm Cai
Vườn, th́ tương lai sẽ ra saỏ
Tối ngày
1-1-2004, tôi nhận được liền 2 cú điện thoại: Một của nhà báo Việt
Hùng ở Massachusetts, một của Bác sĩ Huỳnh Chí Thành ở California,
đều thông báo TIN BUỒN: ”XUÂN VŨ ĐĂ VĨNH VIỄN XA CHÚNG TA RỒI!”
Tôi lặng
người... và chỉ thốt ra một câu từ cơi ḷng của người bạn cố tri,
một thân phận lưu vong nơi xứ người, thật sự mến mộ nhà văn:
«XUÂN VŨ–MỘT
NGÔI SAO VĂN HỌC ĐĂ TẮT!»
Kính cẩn
nghiêng ḿnh tiễn Bạn Xuân Vũ đi về bên kia thế giới trong sự an
b́nh, vui vẻ. Thành tâm chúc Bạn Xuân Vũ đạt được ư nguyện, như anh
đă tâm sự với tôi, là «sẽ tiếp tục Sự Nghiệp Văn Chương ở kiếp sau,
nếu có luân hồỉ»
Đêm anh
đi...ḷng tôi lạnh giá… Vẫn c̣n đây những kỷ niệm xưa rồi.
Đêm anh
đi...tuyết rơi phủ trắng… Những ngày tới năo nuột ḷng tôi.
Đông Bắc Hoa
Kỳ! Một đêm đầu tháng 1-2004
Lê Tùng Minh |