Bạn đọc yêu
thơ sắp có dịp được thưởng thức những vần thơ độc đáo của một nghệ
sĩ tài ba bị đày đoạ suốt bốn mươi năm trời dưới chế độ cộng sản
toàn trị. Đó là tập thơ Trăng Ngục in trong cuốn Phùng Cung, Truyện
và Thơ Chưa Hề Xuất Bản do Nhà xuất bản Văn Nghệ ấn hành.
Ở nước ta, c̣n
quá ít người biết về nhà thơ Phùng Cung (1928-1997)! May lắm là chỉ
biết sơ sơ - anh đă tham gia trào lưu Nhân Văn - Giai Phẩm hồi giữa
thập niên 50, đă cho đăng truyện ngắn «Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh»
trên báo Nhân Văn số 4, tháng 10 năm 1956, sau đó bị đấu tố tơi bời,
rồi bị cầm tù ṛng ră 12 năm, ra tù c̣n bị hành hạ, sách nhiễu cho
đến ngày qua đời. C̣n với tính cách một nhà thơ th́ hầu như không ai
biết! Tập thơ «Xem Đêm» của anh, tuyển chọn những bài sáng tác vào
các thời kỳ khác nhau, được xuất bản một cách thầm lặng ở trong nước
cách đây không lâu, bị giới phê b́nh «cung đ́nh» ém nhẹm, nên cũng
ít ai được biết tới.
V́ thế lần này,
tập thơ Trăng Ngục trong cuốn Phùng Cung, Truyện và Thơ Chưa Hề Xuất
Bản chắc chắn sẽ đem lại một sự bất ngờ thú vị cho nhiều người yêu
thơ. Tập Trăng Ngục gồm có 35 bài làm trong thời gian 12 năm bị giam
cầm tại những nhà tù khét tiếng độc ác của chế độ cực quyền cộng sản
Việt Nam, như Hỏa Ḷ, Bất Bạt, Yên Bái, Phong Quang... Có những bài
được sáng tác ngay trong xà lim biệt giam - dưới một số bài tác giả
có ghi rơ những ḍng chữ: «Biệt giam Bất Bạt 61», «Biệt giam Yên Bái
65», «Biệt giam Lao Cai 71», «Biệt giam Bảo Thắng, Lao Cai 72»....
Chỉ có một bài làm khi mới ra tù - Đêm Vó Ngựa.
Chính trong «ngục
luyện» vô cùng ác độc đó của chế độ cộng sản, đă rèn đúc nên tính
chất, ư chí, phong cách, bút pháp của nhà thơ, đă mài giũa ng̣i bút
của người nghệ sĩ thêm sắc bén, thêm sức mạnh tấn công vào chế độ
tàn bạo lầy lụa máu và nước mắt của những người dân vô tội. V́ nhận
thức rơ «sứ mệnh trong sáng tuyệt vời» của thơ, nên Phùng Cung đă
dùng ng̣i bút của ḿnh vạch trần những tội ác của chế độ đang đày
đoạ biết bao dân lành, trong đó có cá nhân anh. Chắc ai cũng đều
biết là sáng tác trong tù ngục của chế độ độc tài Việt Nam, khi sự
kiểm soát của đám cai tù - mệnh danh là «quản giáo»! - vô cùng
nghiệt ngă, khi không có một tư giấy bút nào trong tay, đă là một
điều rất khó. Mà sáng tác với nội dung như Phùng Cung tự đề ra cho
ḿnh đúng với quan niệm của anh về «sứ mệnh» thi ca, th́ cái khó đó
lại nhân lên hàng chục lần! V́ nó đ̣i hỏi tác giả phải có ư chí và
dũng khí sắt đá, đ̣i hỏi nhà thơ phải kiên tŕ cao độ, phải học
thuộc, ghi kỹ vào «kho nhớ», và khi ra tù th́ phải khôi phục lại,
chép ra giấy, rồi cất giấu kỹ... để có ngày, như hôm nay, bạn đọc
được nâng niu những sáng tác đó trong tay.
Qua tập Trăng
Ngục, bạn đọc nghe rơ tiếng khóc da diết của một con tim chan chứa
t́nh yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc lầm than, xót xa trước bi
kịch của quê hương «đường quan lầy nước mắt», của «xóm làng queo
quắt», đất nước bị lũ «rắn rết đang hoành hành dữ dội Biết bao dân
lành ngày đêm rên siết», «dối trá đê hèn Trùm muôn cửa ngơ», cả nước
tuồng như ch́m đắm trong «nhật thực triền miên Ngày tối hơn đêm»...
Nhà thơ khóc cho số phận bao người dân khốn khổ, nghèo nàn, bất hạnh
- đó là những người vợ, người mẹ có chồng con bị bắt đi lính «ḥng
hơng mong thư tuyến lửa», «văng vẳng nỉ non tiếng ḷng chinh phụ»,
những thiếu phụ khóc chồng tử trận «ḥng hơng đợi người chồng tử
trận Mấy chục năm rồi Đă mỏi xanh ! Nước mắt hoa râm Câm trôi duyên
phận», là bà mẹ khóc con mới mười sáu tuổi đầu bị lấy đi chiến tranh,
chết bỏ xác ở Khe Sanh - Dốc Miếu, là những cụ già cô đơn dờ dệt sức
già - găi đất v́ tuổi trẻ - gái trai Bị lôi đi - đi hết để ném vào
cuộc chiến tranh ở miền Nam, là những người dân khốn khổ bị cái đói
lăn kín bốn mùa, là những oan hồn ngày đêm «thổn thức dưới mồ», là
những trí thức, văn nhân, nghệ sĩ «bơ vơ một nẻo», bị Đảng «hết móc
ruột moi gan Lại réo tên chỉ mặt» «nửa thế kỷ bị lưu đầy Trong cơi
tung hô», là Em Quỳnh, em bé gái 12-13 tuổi, lần lượt bị đồng chí
chủ nhiệm, đảng viên cốt cán, chú bí thư đảng uỷ mới bầu lợi dụng
thoả măn t́nh dục, rồi tống vào trại tù để giáo dưỡng, ở đây em lại
bị bác cảnh binh, chánh giám thị Quê làng Sen trọ trẹ «tự xưng danh
chức Đại diện bác Hồ Đại diện đủ ba lực lượng Đảng tiền phong -
chính quyền - quốc hội» giở tṛ cưỡng hiếp, em dại dột khóc to,
chánh giám thị sợ tai tiếng t́m cách lấp liếm, buộc tội cho em rồi
đẩy em đến toán lao động cực nhọc cho em chết thảm trong tù, v.v...
Triệu triệu giọt nước mắt của những con người bất hạnh đó trên đất
nước đau thương lă chă nhỏ xuống và nhà thơ cảm thấy dường như chúng
rúng động cả thiên cầu làm muôn vàn sao băng xao xuyến rơi...
...Tôi đứng
trong đêm
Ngửng đầu
nh́n cao xa
Vọng hỏi
Có phải
nước mắt con người
Đằm đằm dội
xuống
Mà trên
thiên cầu
Bao v́ sao
xao xuyến đổi ngôi.
Ḷng ái
quốc, tinh thần nhân bản sáng ngời trên mỗi vần thơ!
Đất nước ơi
Tôi mến
người
Như khi
nh́n em bé ngủ
Tôi thương
người
Như thương
mẹ ốm
V́ đâu
Người khoác
manh áo đỏ
Thừa sai -
cũn cỡn
Tủi nhục
tháng ngày
Long đong
chiều sớm
Ôi ! có bao
giờ
Người đau
đớn như thế này không.
Trong 12 năm
tù ngục, tiếng thổn thức của nhà thơ cho số phận đất nước, quê hương
không ngớt vang lên: Tổ quốc kính yêu ơi! Văn hiến - thuần phong mỹ
tục Phút chốc bàn tay cộng sản dập vùi... Quê hương ơi! Đường quan
lầy nước mắt , Ơi đất nước sa cơ Già - trẻ bơ vơ nheo nhóc... Ơi quê
hương Hỡi những ngày xưa! Thuỷ chung - nhân ái Tất cả ch́m - ngâm
Trong lừa dối cuồng điên... "Quê nôi" ơi ! Dối trá đê hèn Trùm muôn
cửa ngơ ...
Đọc Trăng Ngục,
đồng thời chúng ta cũng nghe được tiếng thét căm hờn đối với chế độ
cường bạo, độc tài chuyên chế, đầy sắt máu. Bạn đọc nhận thấy Phùng
Cung, vốn là một người cộng sản - do «ḷng cả tin - nhẹ dạ» thời
niên thiếu - đă tự «lột xác» triệt để như thế nào. Nhà thơ tuyên bố
dứt khoát «quyết khước từ bước chân cộng sản Lội máu dân lành Hàng
thế kỷ chưa ngơi». Không chút kiêng nể, e sợ, anh dám chĩa thẳng mũi
nhọn tố cáo vào chính những «vật thờ thiêng liêng nhất» của chế độ
cộng sản toàn trị, như «tḥ ḷ muôn mặt lê-mác-mác-lê» «mạ màu mao-ít»,
«đảng tiền phong - chính quyền - quốc hội», «bác Hồ». Anh «vả mạnh
tim đen quyền lực», vả mạnh vào chính những biểu tượng của quyền lực
độc tôn - «tàn bạo lên ngôi», «sừng sững dựng khải hoàn môn máu», «cờ
máu rợp trời Lợm gió!», «máu cờ đỏ phấp phới hờn ghen», «bóng cờ
ma», «nghênh ngáo quốc huy», ...«Thề phanh thây uống máu!...» - «có
quốc thiều nào man rợ thế không», «đài phát thanh Bắc Việt Vẫn tối
ngày bốn lần leo lẻo»... Anh dám lớn tiếng tố cáo thẳng thừng sự lừa
dối bịp bợm và độc ác của đảng cộng sản cầm quyền, vạch rơ bộ mặt
thật của giai cấp thống trị, «bản chất nó là cuồng bạo» lại «huênh
hoang lấp biển vá trời «Kiến tạo địa đàng - hạnh phúc», v.v... Có
một điều đáng nói là ngay từ cuối thập niên 50-đầu thập niên 60, nhà
thơ đă âm thầm lo lắng trước âm mưu của tập đoàn thống trị chuẩn bị
nội chiến. Anh «đă ưu tư» về điều đó trong bài «Sông Thương - Sao
Thương» sáng tác năm 64:
...Ôi ! ḷng đă ưu tư
LạÏi thai nghén chiến tranh
Hoạ cơm áo !
Vẫn giằng co súng gươm oan trái
Chăn viện trợ phủ kín biên thuỳ...
Và trong nhiều bài khác cái tinh
thần chống chiến tranh, chống cảnh huynh đệ tương tàn cũng thường
bật lên một cách mănh liệt:
...Chính chúng nó
Phường cộng sản
Lái buôn binh lửa
Ôi ! Binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - đi hết...
...Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa...
... Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không
mồ
Đồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
... Tôi biết em khóc nhiều
V́ chồng em tử trận
Em khóc lúc hừng đông
Nước mắt cử hành
Mặt nạ tay hèn
Lẻn vào đong đếm...
... Em khóc lúc hoàng hôn
Th́ quanh em
Lộng gió cô đơn
Từng giọt rực sáng
Trong nhiều thế giới...
... Năo ḷng thay !
Mảnh đất bán khai
T́nh nguyện tiền đồn
Đăng cai binh lửa...
... Tổ quốc kính yêu ơi
!
Khói lửa ngút trời
Cháy gia phả
Cháy t́nh bằng hữu
Cháy cơi trầu bách niên
giai lăo
Cháy tia trăng thơm
Trên làn tóc trẻ thơ
Hiếu chiến thừa sai
Ruổi cờ dẫn lộ
Giàn cầu lửa
Di lăn - bách hại
Ngập máu !
Lời thơ Phùng Cung nhẹ nhàng, thanh thoát, trang nhă, ư nhị, sâu
thẳm và giàu h́nh tượng, với những ngôn từ chắt lọc, sắc cạnh, đặt
đúng nơi đúng chỗ, đem lại cho người yêu thơ nỗi xúc động bàng hoàng
và nhiều khoái cảm đê mê. Bài Trăng Ngục - mà tác giả dùng làm nhan
đề cho tập thơ - chỉ có hai mươi tám chữ, mà vô cùng xúc động. Bài
thơ ghi lại một hoạt cảnh nhỏ của cuộc sống trong xà lim chật chội,
tối tăm, lạnh lẽo, hôi hám - giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh trăng lọt
qua song sắt vào tận ngục thăm nhà thơ, lúc đó đang lơ mơ ngủ, bỗng
anh chợt tỉnh và lặng người đi v́ xúc động: anh cảm thấy trăng
thương xót cảnh tù biệt giam cô đơn, đă nhẹ nhàng vá lụa trên vai áo
sờn rách của anh. Và tác giả thốt lên vô cùng ai oán: «Ôi, cái ngày
tự do xưa kia, sao mà cứ xa măi, biết bao giờ quay trở lại!». Bài
này, theo tôi, đáng coi là một tuyệt tác!
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh -
sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi !
Xa măi đến bao giờ.
Mà không chỉ một bài Trăng Ngục đó! C̣n bao nhiêu bài hay nữa, như
Biển Cả, Em Quỳnh, Tổ Quốc, Quê Hương, Nước Mắt, Cung Trời, Thu Xa,
Ḍng Sông, Quê Xa, Mỏi Xanh, Mẹ, Sông Thương - Sao Thương, Sống Chết,
Bước Vô Định, Tội Nghiệp...
Về thơ Phùng Cung, c̣n có thể viết nhiều nữa, nhưng ở đây tôi chỉ
xin giới thiệu vài đoạn dể thấy rơ cái t́nh cảnh bi thảm của nhà thơ,
cũng như ư chí bất khuất của anh.
...Ta một con người
Nạn nhân đang ṿng tù
ngục
Đêm ngày chân rỉ máu
cùm lim
Linh hồn bất khuất
Trên đầu là thượng đế
Dưới chân là mặt đất
hiếu sinh
Bức xúc lương tri
Ta phải xuống đường...
...C̣ng sắt cùm lim
ngấy máu tù
Vầng dương măi bỏ quên
ta
Bóng du nguyệt chưa qua
đă khuất
Thâu ngày đêm
Bị sự im lặng quấy rầy
Tóc mủn trạt vai chờ di
chúc
Trái tim vẫn đều đặn
Mô phỏng nhịp trữ t́nh...
Trong cảnh đoạ đày khủng khiếp như vậy, đêm ngày chân rỉ máu cùm lim
đến nỗi c̣ng sắt cùm lim ngấy máu tù, bản thân anh th́ bị lao phổi,
viêm loét dạ dày mạn tính do bị tù ngục, lại phải sống trong những
điều kiện khủng khiếp - hoàn toàn thiếu ánh nắng, ánh trăng th́ chỉ
thoáng qua trong giây lát, đêm xà lim lạnh buốt, bị sự im lặng giày
ṿ, tóc đă mủn ra rồi chỉ chờ ngày chủ của chúng vĩnh biệt cơi trần,
nhưng... lương tri của nhà thơ vẫn giục giă xuống đường, trái tim
của anh vẫn đập theo nhịp trữ t́nh của Nàng Thơ. Thật là đẹp biết
bao! Một tâm hồn cao thượng biết bao! Chính v́ thế anh đứng trên cao
khinh bỉ nh́n xuống bọn thống trị - tụi mặt dày tim rắn - và xót xa
v́ đất nước bị lọt vào tay chúng.
Đất nước tôi
Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dày - tay bẩn
Tim rắn - lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống
Tránh làm sao
Khỏi nát ngọc nhân
quyền...
Ngay cả lúc chúng thét gào dữ tợn th́ thái độ nhà thơ vẫn ung dung,
tự tại, không chút khiếp sợ:
...Ôi ! Bao yên lặng
thanh cao
Đang ch́m lăn
Trong thét gào man rợ
Th́ nhắm mắt
Th́ bưng tai
Phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ...
Và anh suy tư, suy tư rất nhiều, nghiễm nhiên thành triệu phú trầm
tư, vất vả lặn lội để kiếm t́m sứ mệnh trong sáng tuyệt vời của thi
ca!
...Nhà thơ chân đất
Đăy vải - gió đưa
Kiếm t́m sứ mệnh
Mỗi ư nghĩ trong ta
Đều trải qua lặn lội
Như phận chiếc c̣
Lặn lội trong phong dao...
Bài Xuống Đường , làm trong xà lim biệt giam Lao Cai hồi năm 71, là
một trong những bài thơ vừa có sức mạnh tố cáo, vừa nêu bật ư chí
mănh liệt của nhà thơ.
Lănh thổ mến yêu ơi !
Nai lưng trần dưới ṿm
trời nhiệt đới
Xứ sở của thi ca
Của ḷng cả tin - nhẹ
dạ
Của đói nghèo nhẫn nhục
Úp mặt - rủi may - đắp
đổi
Khóc mếu tối ngày...
Thế rồi, cái học thuyết Rắn-hổ-mang-vua (tôi đoán nghĩa của chữ lạ
trong bài như thế) đội lốt công nông từ trời Tây du nhập vào, lúc
đầu - khi chưa nắm được chính quyền - nó làm ra vẻ ngoan ngoăn, hiền
lành lắm, thậm chí c̣n t́nh nguyện làm ngựa làm trâu cho người dân (cái
ư này có xuất xứ của nó: tôi c̣n nhớ trong một cuộc kỷ niệm của Đảng
cộng sản Việt Nam - hồi c̣n đội lốt Đảng lao động - ông Hồ có đọc
hai câu thơ của một tác giả Trung Quốc để ví với Đảng lao động,
không sợ bất kỳ kẻ địch nào, nhưng lại nguyện làm trâu ngựa cho nhân
dân: Liếc mắt xem khinh ngh́n lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng
):
Học thuyết King-cô-bra
Đội lốt công nông -
ŕnh rập
Từ trời tây ập tới
Lúc thoát thai
Nó vờ xin rửa tội
Trộm cắp ánh tà dương
Trước mọi người
Nó khoanh tay - quỳ gối
- cúi đầu
T́nh nguyện đời đời
Làm ngựa làm trâu
Khi gấp khúc nó ngoan
ngoăn
Giành hoàn thiện chức
năng gia cẩu
Hầu hạ phấn son
Len lỏi trong lẵng hoa
Trong đồ chơi em bé...
Thế nhưng, khi nắm được chính quyền rồi th́ nó gây biết bao thảm hoạ
cho nhân dân...
Mong hiện nguyên h́nh
Như dưới ṿm trời bất
hạnh - hôm đây
Bản chất nó là cuồng
bạo
Huênh hoang lấp biển vá
trời
"Kiến tạo địa đàng -
hạnh phúc"
Tiếc thay, những người thường dân ngây thơ, mộc mạc đă trót lỡ ch́a
tay cho nó, nên nó càng mặc sức gây ra muôn vàn đau thương cho dân
chúng. Có những đoạn trong thơ làm người đọc liên tưởng đến cuộc cải
cách ruộng đất đầy tội ác ở miền Bắc...
...Khốn nạn thay !
Chân đất đầu trần chót
ch́a tay
Đă lỡ !
Thảm hoạ triền miên
Ôi ! tay chúng cầm lê
Đâm người - dấu mặt
Lại vội lau tay - vu
cáo - gây thù
Cha con nghi ngờ
Vợ chồng cảnh giác
Già trẻ xóm giềng
Nh́n nhau len lén
Di hoạ đứng ŕnh
Trong tối lửa tắt đèn
Ngột ngạt - tối tăm -
quằn quại
Vô phương khả đảo...
Bắt chước thiên triều đỏ ở Liên Xô và Trung Quốc, tập đoàn thống trị
cộng sản Việt Nam đălàm biết bao điều bạo ngược.
...Nhịp bước thiên
triều
Giày xéo thuần phong mỹ
tục
Lăng nhục miếu đền
Sừng sững dựng khải
hoàn môn máu
Quay quắt đổi đầu
Tḥ ḷ muôn mặt
Lê-mác-mác-lê...
C̣n người dân Việt Nam
khốn khổ th́
Lầm than buộc bụng vác
cờ
Tung hô bỏng họng
...Thiên triều tiếp sức
Ơng ẹo điệu ương ca
Mạ màu mao-ít
Ma thuật ngoan tay
Tạt độc dược vào tâm -
vào năo...
Và khi người dân trúng
độc rồi, chúng lại càng thêm bạo ngược:
...Cờ máu ngợp trời
Lợm gió !
Tiếng quốc thiều
Tăng âm cực đại thét
gào
..."Thề phanh thây uống
máu !..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man
rợ thế không
Trước mặt sau lưng
Ngàn trùng khóc lóc
Ôi ! mỗi tiếng chim kêu
Đếm từng đọi máu
Sóng máu ào ào
Tràn bờ thế kỷ...
Trong t́nh cảnh đó, nhà thơ dù đang trong ṿng tù ngục cũng thấy
lương tri giục giă phải xuống đường tranh đấu, cái ư chí đó vô cùng
mạnh mẽ, quyết hy sinh ḿnh v́ sự sống của muôn dân. H́nh ảnh mài
gươm dưới nguyệt của Đặng Dung trong bài Cảm Hoài hồi đầu thế kỷ 15,
đă được Phùng Cung khéo dùng lại để tạo nên một tứ thơ mới nói lên ư
chí của ḿnh - nước mắt mài gươm, vừa hợp với hoàn cảnh của nhà thơ,
lại gây ấn tượng mạnh.
...Phải xuống đường
T́m sinh trong tử
Nước mắt mài gươm
Gươm bén dân lành
Ta chắp tay - ngửa mặt
Cầu xin các đấng linh thần
Cho ta sức mạnh phi trần
Đủ tung hoành, xông xáo
Tận cùng hang ổ
Băm xả vào đầu con rắn đỏ
Cây cỏ vươn reo
Mượn gió nhắn bốn phương
Con rắn đỏ tử thương - răy giụa
Nó lí nhí van xin chôn cất...
C̣n có thể nói
rất nhiều nữa về thơ Phùng Cung, nhưng thiết tưởng với chừng ấy cũng
đủ để bạn đọc thấy chúng ta đang có trong tay những di sản quư báu
của thi ca nước nhà. Chỉ riêng việc những vần thơ này được trân quư,
bảo trọng c̣n lại cho đến ngày nay và tới tay bạn đọc đă là một điều
kỳ diệu! Chắc điều đó đáp ứng được phần nào ước nguyện thầm kín mà
nhà thơ hằng ấp ủ mấy chục năm trường khi c̣n ở cơi trần.
Hy vọng rằng
những hạt ngọc quư mà người nghệ sĩ Phùng Cung chiết ra từ máu và
nước mắt của ḿnh để hiến cho đời, sẽ càng thêm phô sắc, thêm rực rỡ
dưới ánh mặt trời và đem lại cho bạn đọc Việt Nam nhiều xúc động và
khoái cảm, đồng thời cũng đem lại những suy tư về trách nhiệm và
hành động của mỗi người trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân./.
Hè Moskva 03.08.03
Nguyễn Minh Cần |