Bà Tùng Long, thời trẻ.
Nhà văn nữ Bà
Tùng Long đă từ trần vào chiều ngày 26 tháng 4 năm 2006 (29 tháng 3
năm Bính Tuất) tại Sài G̣n, Việt Nam, hưởng thọ 92 tuổi. Ngày 29
tháng Tư, bà yên nghỉ tại nghĩa trang Trung Việt ái hữu ở Thủ Đức.
Bà là nhà giáo, nhà báo rồi trở thành nhà văn có nhiều tác phẩm nhất
trong nữ giới.
T́nh Yêu & Sự
Nghiệp
Bà Tùng Long
tên thật là Lê Thị Bạch Vân, sinh ngày 01 tháng 8 năm 1915 tại Đà
Nẵng. Trên giấy tờ ghi sinh ngày 21 tháng 4 năm 1915 tại Hội An.
Trong quyển Tâm T́nh Với Nghệ Sĩ của nhà báo Lê Phương Chi, NXB
Thanh Niên, 2001 cho biết:
"Sở dĩ có sự
ghi sai ngày sinh của bà như vậy v́ v́ bấy giờ Đà Nẵng (tức Touranne)
là thuộc địa của thực dân Pháp, nên thân phụ của bà không muốn con
ḿnh là dân xứ thuộc địa, mới về Hội An, quê Nội, làm giấy khai sinh
cho con. C̣n ngày tháng trong khai sinh ghi lộn xộn là v́ lư do
chính trị: Thân sinh của bà lúc đầu tùng sự trong một công ty ngoại
quốc, có tham gia phong trào Duy Tân do nhà cách mạng Phan Thành Tài
(cha của Phan Bá Lân và Phan Thuyết, sau nầy là giáo sư của các
trường Trung học tư thục Chấn Thanh và Đạt Đức) dẫn đầu. Thân phụ
của bà làm liên lạc viên cho phong trào. Khi phong trào tan vỡ, ông
Phan Thành Tài bị thực dân Pháp bắt đưa lên đoạn lầu đài, và một số
khác bị đày Côn Đảo.
Trước hiểm họa
ấy, thân mẫu bà lánh về Hội An ẩn náu với mẹ chồng. Bấy giờ bà nội
của bà cũng đă già yếu. V́ chữ hiếu, buộc ḷng thân phụ bà phải thi
vào Sở Douanes (Thương Chính). Đó là lư do cô bé Lê Thị Bạch Vân
khai sinh ở Hội An và ghi lệch ngày chào đời ở Đà Nẵng".
Bà học xong
bậc Tiểu học tại Đà Nẵng rồi ra học một năm Trung học trường Đồng
Khánh Huế.
Năm 1932, thân
phụ bà, cụ Lê Tường, đổi vào Sở Douanes Sài G̣n, bà tiếp tục theo
học Trung học tại Collège Des Jeunes Filles Indigènes, gọi là Trường
Áo Tím v́ nữ sinh mặc đồng phục áo dài màu tím. Sau đổi thành Trường
Gia Long và hiện nay là Trường Nguyễn Thị Minh Khai.
T́nh yêu của
bà trong tuổi thanh xuân cũng là cơ hội và môi trường để dấn thân
vào nghề báo, nghiệp văn khi gặp gỡ nhà báo Hồng Tiêu.
Nhà báo Hồng
Tiêu là em ruột của nhà báo Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận, quê quán ở
Quảng Ngăi. Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy (1902-1985) đă dấn thân vào
nghề báo với tờ Công Luận (1916-1939), Đuốc Nhà Nam (1928-1937),
Trung Lập (1924-1933)... Nhà báo Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận
(1900-1968) sáng lập tờ Phụ Nữ Tân Văn vào năm 1929 và đ́nh bản vào
năm 1934, chủ nhiệm tờ Sài G̣n (Hồng Tiêu làm chủ bút), sau nầy đổi
thành Sài G̣n Mới...
Cụ Lê Tường
cũng cộng tác với tờ Nam Phong (1917-1934), Hữu Thanh (1921-1924)...
v́ vậy khi gặp nhà báo Hồng Tiêu, xem như bạn đồng nghiệp và "vong
niên", cùng hoạt động trong Hội Trung Việt Ái Hữu nên lúc đó nhà báo
Hồng Tiêu "...thường tới bàn thảo công việc với cha tôi, và hay gợi
ư cho tôi viết báo, rồi giao tôi phụ trách Trang Phụ Nữ của báo Sài
G̣n, lẽ dĩ nhiên là được cha cho phép và khuyến khích. Và sau đó
cũng cha tôi tác hợp hôn nhân cho chúng tôi" (LPC- sđd).
Theo Lê Phương
Chi: "Đúng ra, nguyên quán anh em ông Hồng Tiêu ở tỉnh Quảng Nam,
nhưng cụ Tổ xưa kia làm quan ở B́nh Thuận. Khi đau nặng, gia nhân
đưa về ngang Quảng Ngăi, th́ măn phần tại đây. Cụ bà (là cô của tiến
sĩ Phạm Liệu, một trong Ngũ Phụng Tề Phi xứ Quảng) là mẹ của anh em
ông Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy sau nầy, ở lại nơi chôn ông cụ để cư
tang đái hiếu. Và rồi nơi đây trở thành quê hương thứ hai của tộc họ
Nguyễn Đức...".
Ông Phạm Liệu
(1872-1936), khi làm Án Sát Quảng Ngăi, là người phát giác đầu mối
để thông báo cho ṭa Khâm ra lệnh đàn áp cuộc khởi nghĩa Duy Tân
tháng 5 năm 1916, trong khi đó th́ thân phụ của bà tham gia trong
phong trào Duy Tân. Nhiều nhân vật khởi nghĩa bị tử h́nh và hạ ngục.
Cụ Lê Tường đă sát cánh cùng các cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan
Thành Tài, Lê Cơ, Lê Cảnh Hận, Lê Đ́nh Dương, Lê Ngung... làm sao
quên được nỗi đau khi dấn thân cho đại cuộc? Nhưng thân phụ bà đă
cảm nhận vận nước cơ trời để tạo dựng bước đường mới cho tương lai
cho con.
Năm 1935, bà
kết hôn với nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy.
Sinh hoạt
trong nghề báo thời gian, khi tờ Phụ Nữ Tân Văn đ́nh bản, bà thuê
"manchette" tờ Tân Thời, làm chủ bút, chủ trương về vấn đề phụ nữ và
đời sống, được sự hợp tác của các bạn học năm xưa đóng góp để có
tiếng nói trong làng báo. Được thời gian, v́ có sự rắc rối nên bà bỏ
tờ báo đi dạy ở trường Tôn Thọ Tường và chỉ viết cho tờ Sài G̣n.
Năm 1936, bà
hạ sinh người con gái đầu ḷng là Nguyễn Thị Thanh Hương.
Đệ Nhị thế
chiến bùng nổ, năm 1940 quân Nhật vào Đông Dương, sự thống trị của
Pháp và sự xâm lăng của Nhật đă tạo nhiều bất ổn trong nội t́nh ở
Việt Nam. Nhiều tổ chức đảng phái nổi dậy nhằm tạo cơ hội phục quốc
nhưng rồi bị đàn áp, khủng bố... gây thêm tang tóc cho đất nước. "Năm
1944, Sài G̣n bị máy bay quân Đồng Minh thả bom" (LPS - sđd) mọi
nguời t́m cách sơ tán, ông Hồng Tiêu bỏ công việc để trở lại Quảng
Ngăi, tâm sự của ông được trang trải qua bài thơ Cố Hương:
"Qua sông
ta gọi con đ̣
Ḷng ta như nắm chỉ ṿ
trong tay...
... Cố hương ơi! cố
hương ơi!
Người con mặt mốc chân
trời về đây
Tư bề lặng lẽ gió mây
Vô t́nh nước chảy mây
bay một chiều!".
Ông về tận vùng hẻo lánh ở Ba Gia, Đồng Ké thuộc xă Nghĩa Kỳ, quận
Tư Nghĩa để nương náu. Sau đó, bà mang 3 đứa con thơ Nguyễn Thị
Thanh Hương, Nguyễn Thị Nghi Xương và Nguyễn Đức Trạch để vợ chồng
khổ cực có nhau. Nhận thấy dân quê c̣n mù chữ nên bà mở lớp trường,
dạy học trong hoàn cảnh rất khó khăn, thiếu thốn mọi phương tiện.
Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, gia đ́nh bà kẹt luôn ở đó nên bà
tiếp tục dạy hoc.
Qua bốn năm dạy học, Ty giáo dục địa phương mời bà làm liên Hiệu
trưởng các trường quanh vùng Nghĩa Kỳ. Nơi đây, bà sinh hạ thêm 3
người con trai là Nguyễn Đức Lập, Nguyễn Đức Thạch và Nguyễn Đức
Thông. Sống ở làng quê với bao gian khổ và nghèo khó, tương lai đen
tối nên quyết định ra đi. Năm 1951, bà dẫn 6 người con trốn về Hội
An rồi lên tàu Demifère về lại Sài G̣n; trong chuyến tàu nầy có nhà
thơ Bùi Giáng nên quen biết nhau từ đó.
Ông Nguyễn Đức Nhuận cùng Nguyễn Ngu Í giả điên để tránh sự ḍm ngó
của chính quyền địa phương rồi t́m đường vượt thoát, năm sau ông lên
tàu nhưng chuyến đó đưa ra Côn Đảo, ông trở lại Đà Nẵng th́ bị tai
nạn xe cộ, găy chân, bà lặn lội ra quê để đưa chồng về Sài G̣n.
Năm 1952, bà dạy Pháp văn và Việt văn tại các trường Les Lauries,
Tân Thịnh, Đạt Đức... nhưng đồng lương không đủ sống nên bà viết
"feuilleton" cho các nhật báo. Tên tuổi Bà Tùng Long được nổi danh
từ đó.
Năm 1954 trở đi, bà cộng tác rất nhiều tờ báo, bà chuyên mục Gỡ Rối
Tơ Ḷng trên tờ Sài G̣n Mới và Tâm T́nh Cởi Mở trên tờ Tiếng Vang.
Bút hiệu Bà Tùng Long được độc giả ái mộ.
Trả lời cuộc phỏng vấn của Lê Phương Chi, Bà Tùng Long cho biết: "Tôi
viết văn là chịu ảnh hưởng của cha từ khi tôi c̣n nhỏ... C̣n tôi làm
báo th́ do chồng tôi khuyến khích".
Về bút hiệu Bà Tùng Long, bà giải thích: "Các vị nho học của chúng
ta có câu "Văn Tùng Long, Phong Tùng Hổ' nghĩa là mây theo rồng, gió
theo cọp... Tôi tên Vân cho nên lấy bút danh Tùng Long. Và khi kư
bút danh này, tôi thấy không trùng với ai, cho nên tôi dùng luôn đến
nay. V́ kư bút danh Tùng Long, tôi sợ độc giả hiểu lầm tôi là đàn
ông, cho nên tôi thêm chữ Bà vào để phân biệt... Hồi c̣n trẻ bà Đạm
Phương thường dùng danh từ Đạm Phương nữ sĩ, và bà Tương Phố cũng
dùng bút danh Tương Phố nữ sĩ... Riêng tôi không dám tự hào là nữ sĩ,
nên tôi không kư Tùng Long nữ sĩ...
Chẳng hạn như bà Staẽl và bà Maintenon bên Pháp, lúc nào cũng kư
dưới bài báo và những cuốn sách của ḿnh viết về các vấn đề giáo dục
và phái nữ, là Madame Staẽl, Madame Maintenon. Rồi về sau văn học sử
Pháp cũng ghi bút danh của các bà ấy với từ Madame đứng trước bút
hiệu.
C̣n tôi, trong các mục Gỡ Rối và Giải Đáp, tôi kư Bà Tùng Long là để
gần gũi với phái nữ. Vả lại, như vậy các nữ độc giả sẽ tin cậy và dễ
bộc lộ tâm t́nh hơn là chỉ kư Tùng Long, họ có thể nghĩ lầm tôi là
phái nam th́ họ sẽ ngần ngại khi muốn bộc lộ tâm t́nh".
Vừa đi dạy, hướng dẫn đàn con học hành, vừa viết báo, viết tiểu
thuyết có lúc 4, 5 "feuilleton" cho các nhật báo. Trong 2 thập niên,
từ năm 1956 đến năm 1972, có khoảng 50 tác phẩm được ấn hành.
Bà là người rất khiêm nhượng, trong quyển Hồi Kư Bà Tùng Long, NXB
Trẻ và Công ty Văn Hóa Phương Nam ấn hành năm 2002, nhân dịp mừng
thọ bà bà 88 tuổi. Bà bày tỏ: "Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng ḿnh
là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế
thôi". Và, "Nghề dạy học luôn được tôi xem là nghề tay mặt, c̣n viết
văn chỉ là nghề tay trái mà thôi".
Trả lời kư giả Trần Quân báo Time ở Sài G̣n năm 1961, bà cho biết: "Tôi
viết văn để nuôi con. Khi nào các con tôi, đứa lớn trưởng thành d́u
dắt được đàn em của nó, bấy giờ tôi sẽ nghỉ viết". V́ vậy, năm 1972,
bà gác bút quy ẩn. Thời điểm đó, con gái út của bà là Nguyễn Thị
Phương Chi, tốt nghiệp đại học. Bà đă giữ đúng lời hứa trước kia.
Đối với bà, như lời nhà văn Nguyễn Đức Lập, hiện cư ngụ tại Nam
California, anh có kể lại rằng vào những ngày cuối đời, bà thường
nói đùa rằng, bà đă viết nhiều, đủ các thể loại, nhưng tác phẩm mà
bà ưng ư nhất là chín người con, 5 gái, 4 trai, mà cho đến nay th́
không hao hớt người con nào, và đều nên người cả...
Bà có 9 người con: Nguyễn Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Nghi Xương,
Nguyễn Đức Trạch, Nguyễn Đức Lập, Nguyễn Đức Thạch, Nguyễn Đức Thông,
Nguyễn Thị Thanh B́nh, Nguyễn Thị Thanh Thái, Nguyễn Thị Phương Chi.
Hiện nay có 5 người (3 gái, 2 trai ở Việt Nam), 3 người ở California
và 1 người ở Tây Đức.
Tâm Hồn Nhà Văn
Qua các tác phẩm của bà trong thập niên 50 như: Lầu Tỉnh Mộng
(1956), T́nh Duyên (1956), Ngày Mai Tươi Sáng (1956), Ai T́nh & Danh
Dự (1957), Chúa Tiền Chúa Bạc (1957), C̣n Vương Tơ Ḷng (1857),
Giang San Nhà Chồng (1957), Hai Trẻ Đánh Giày (1957), Hoa Tỷ Muội
(1957), Mẹ Chồng Nàng Dâu (1957), Nhị Lan (1957), Một Người Chị
(1957), Tấm Ḷng Bác Ai (1957), Vợ Lớn Vợ Bé (1957), T́nh Vạn Dặm
(1958), T́nh & Nghĩa (1958), Vợ Hiền (1958)...
Trong thập niên 60 như: Trên Đồi Thông (1963), Con Đường Hạnh Phúc
(1963), Gịng Đời (1966), Ai Là Mẹ (1967), Bên Suối Chi Lan (1967),
Biệt Thự Mỹ Khanh (1967), Chọn Đá Thử Vàng (1967), Duyên Lành
(1967), Giữa Cơn Sóng Gió (1967), Một Bóng Người (1967), Những Phút
Chia Ly (1967), T́nh Câm (1967), Tờ Di Chúc (1967)...
Sự nghiệp sáng tác của bà khoảng 60 tác phẩm (trong đó có 16 tiểu
thuyết được tái bản sau 1975).
Truyện của bà đưa ra những thao thức, trắc trở trong đời sống, hoàn
cảnh nghiệt ngă... nhưng rồi kết cuộc cũng tạo được niềm cảm thông,
t́m được lối thoát cho cuộc sống. Nhà văn đề cập về tâm lư xă hội có
tính cách giáo dục, xây dựng hôn nhân gia đ́nh, ca ngợi t́nh yêu, đề
cao vai tṛ của nữ giới trong xă hội.
Trong chuyên mục Gỡ Rối Tơ Ḷng và Tâm T́nh Cởi Mở, bà cố gắng t́m
phương cách giải đáp để hàn gắn vết thương và mang tính nhân bản
trong đời sống. "Tôi không bao giờ khuyên các cặp ly dị. Mọi chuyện
đều có thể hàn gắn. Trước khi đưa ra lời khuyên, tôi luôn tự đặt
ḿnh vào hoàn cảnh những người gặp rắc rối với tư cách là người chị,
người bạn, người thân của họ..." (Trả lời cuộc phỏng vấn trên báo
Lao Động, tháng 4 năm 2003)
Trong đời sống và công việc, bà cư xử với đồng nghiệp với tấm ḷng
và sự tử tế. Nhà văn Hoàng Hải Thủy qua thời gian cộng tác với tờ
báo đă đề cập đến bà với những ḍng trân quư.
Từ nhỏ, bà theo Tây học nhưng lúc nào bà cũng giữ được phong tục và
truyền thống Á Đông, bà đem nếp sống đó đưa vào văn nghiệp.
Là nhà giáo, qua bao thập niên, học tṛ của bà vẫn tôn kính cô giáo
đă tận tâm hướng dẫn. Bà cho biết: "Nghề dạy học luôn được tôi xem
là nghề tay mặt, c̣n viết văn chỉ là nghề tay trái mà thôi".
Trong sinh hoạt xă hội, vào đầu thập niên 60, bà giữ chức Tổng thư
kư Hội Phụ Nữ Việt Nam, đăc cử Dân biểu tỉnh Quảng Ngăi trước ngày
cách mạng 1 tháng 11 năm 1963.
Sau 3 thập niên gác bút, Hồi Kư Bà Tùng Long vừa được NXB Trẻ và
Công ty Văn hóa Phương Nam phát hành nhân dịp mừng thọ bà 88 tuổi.
Cuốn Hồi Kư của bà chưa nói hết những ǵ mà độc giả mong đợi v́ hoàn
cảnh xă hội và sự hệ lụy của con cái.
Tháng 4 năm 1975, con gái bà, làm việc ở MACV lo thủ tục để gia đ́nh
ra đi nhưng lúc đó có 2 người con trai c̣n kẹt ở chiến trường nên vợ
chồng bà không nỡ ra đi. Cũng như bao bà mẹ khác, bà mang nỗi khổ
đau khi những đứa con bị tù tội, vài tờ báo mời bà cộng tác trở lại
nhưng bà từ chối.
Qua lời anh Nguyễn Đức Trạch, bà chỉ mong sao mẹ con được gần bên
nhau nhưng thời cuộc đă làm cho gia đ́nh phân ly nên bà mang nỗi
buồn và chỉ t́m niềm vui với đàn cháu.
Nối nghiệp song thân, trong nước có Nguyễn Đức Thông với bút hiệu
Nguyễn Đông Thức và ở hải ngoại có nhà văn Nguyễn Đức lập.
Mỗi buổi sáng, anh Nguyễn Đức Trạch, làm thơ với bút hiệu Trạch Gầm,
cùng tôi ngồi uống café với nhau. Sáng thứ Tư, 26 tháng 4, vắng bóng
anh, khi hỏi thăm, thân mẫu anh qua đời. Anh không về được để tiễn
đưa người mẹ hiền về cơi thiên thu! Nỗi đau của anh cũng giống tôi
nhưng anh ở cách xa vạn dặm c̣n tôi, trên cùng một mảnh đất mà không
được nh́n nhau lần cuối! Anh gởi tôi bài thơ Lời Gởi Mẹ, 32 câu, xin
trích 4 câu cuối:
"Bây giờ trong cơi hư
vô ấy
Mẹ thảnh thơi rồi có
phải không?
Giọt sầu mất nước giờ
hóa đá
Mây nước quê hương cung
lạc ḍng!"
Xin thắp nén hương ḷng tưởng nhớ người quá cố!
Vương
Trùng Dương |