Cuội vốn là nhân vật
huyền thoại của người dân Việt. Từ thuở nhỏ ta hẳn đă từng hát câu
đồng dao:
" Thằng
cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi
cha ời ời… "
(1)
Cuội đi ra từ trong
nhiều truyện cổ dân gian. Cũng nhiều loại cuội, có “thằng cuội”,
“chú cuội”, lại có cả “chàng cuội” với vợ con hẳn hoi, c̣n cụ cuội
th́ chưa thấy ai nói tới bao giờ. Không hiểu v́ sao dân ta lại không
ưa ǵ họ hàng nhà này. Có lẽ v́ họ hay nói sai sự thực, nên đă bị
mang tiếng từ xưa: Nói dối như cuội.
Cũng chẳng nên trách
cứ nhau làm ǵ, đôi khi cuội cũng chỉ v́ có nhiều ham muốn, hăng hái
quá mức; chưa hiểu hết được lẽ đời mà lại ham làm việc lớn, nên
người đời tuy không ưa nhưng cũng chẳng ghét. Ta vẫn thường trách
đùa những người hay hứa hẹn suông là: Sao ông “cuội” thế!
V́ vậy chớ có dại mà
nghe lời cuội, lắm lúc thêm bực ḿnh, hỏng việc, lại c̣n trở thành
tṛ cười cho thiên hạ.
Thực ra từ thời khởi
thủy, các cụ nhà cuội là những người chăm chỉ, làm nghề nông, ngày
ngày lên rừng kiếm củi, lượm cây, hái quả, hoặc cầy cấy để kiếm sống.
Có chuyện kể rằng: Đă
từ lâu rồi, cuộc sống con người c̣n hoang sơ lắm, có một chàng Cuội
trẻ, lấy việc săn bắt muông thú, trồng cây tỉa bắp làm kế sinh nhai.
Chàng vốn tốt bụng và
nhiều ước vọng. Những đêm trăng sáng, nằm chơi trên chơng tre giữa
sân ngửa mặt nh́n trời, chàng thấy cung trăng ngời ngời vẻ đẹp, lại
thấy cả nàng tiên nữ bên thềm cung Quảng như mỉm cười vẫy gọi.
Chàng muốn được lên đó.
Với cả họ hàng.
Để thực hiện mơ ước
này, chàng đă trồng một bụi tre rất to, hy vọng sẽ làm một cái thang
thật dài bắc lên tận nơi mơ ước ấy.
Một lần vào rừng sâu,
thấy bầy khỉ rất đông nô rỡn trên một cây cổ thụ lớn, cành lá xum
xuê. Chúng vặt nhũng chiếc lá non, những chiếc búp đỏ hồng nhai ngấu
nghiến. Con nào con nấy béo mầm, có nhiều con trông dáng đă già, mặt
mũi nhăn nheo, người rụng trụi cả lông nhưng vẫn nhanh nhẹn leo trèo,
thoăn thoắt chuyền cành không kém ǵ lũ khỉ non. Chàng đoán rằng đây
là loại cây quư đă che chở, nuôi dưỡng đàn khỉ, nên đă t́m cách
tách một nhánh cây non đem về trồng phía sau nhà. Hàng ngày chàng
chăm sóc, tưới tắm và khấn vái cầu cho cây chóng đâm chồi nẩy lộc,
mong sẽ là một cây giúp ích cho mọi người.
Không phụ công người,
cây lớn rất nhanh, cành lá vươn dài tươi tốt, những chùm rễ tua tủa
đâm ra từ cành cao, thơng xuống đất mẹ hút chất bổ nuôi cây. Với sức
lớn không ngờ của nó, Cuội càng tin rằng đây là cây thần, sẽ giúp
Cuội cùng họ hàng sung sướng giữa cuộc đời vất vả này. Hàng ngày
chàng quét sạch lá rụng, tưới tắm, dọn dẹp, không để thứ ǵ bẩn thỉu
ô uế dưới gốc cây quư.
Đó là cây đa.
Người trong bản làng
gần đó thường chê cười Cuội là lẩm cẩm, không chịu thu vén cửa nhà,
chăn nuôi gà lợn; mà chỉ sợ sân bẩn,ruồi muỗi, hại cây. Ngày ngày
đi làm lụng vất vả về nhà chỉ lo chăm chút cây đa.
Trong lũ trai bản làng,
Cuội không có ǵ nổi hơn, lại lầm lỳ nên thường bị các cô gái trêu
ghẹo. Một buổi chiều, đi làm ruộng về, các cô rủ nhau vào nhà Cuội
chơi. Thấy Cuội chưa về, các cô bèn nâng liếp cửa, vào nhà, ngó
nghiêng khắp chỗ rồi rũ ra cười v́ cung cách ăn ở của Cuội: Cửa nhà
luộm thuộm, áo khố quẳng lung tung, nồi niêu bát đũa cái lành, cái
vỡ. Trong ngoài lạnh tanh không có chim muông, tiếng gà tiếng chó…
Duy chỉ thấy cây đa sau nhà là thật tươi tốt, dưới gốc cây sạch sẽ
không một cọng rác, phía trước thân cây lại thấy một bệ đất có bát
hương thờ cúng. Mấy cô tinh nghịch kéo nhau ṿng lại phía sau gốc,
vén váy … tè ra vài băi.
Vừa lúc ấy có tiếng
cuội về, các cô hoảng quá, vội lủi ngay ra sau vườn xé rào, vừa bấm
bụng cười vừa ù té chạy.
Cuội thấy động, vào
nhà th́ chẳng thấy ai nhưng khi ra vườn sau th́ thấy gốc đa có mùi
khai nồng nặc. Tức giận, Cuội dậm chân đành đạch, chạy đôn đáo xem
xét khắp nơi, mắng chửi ầm ĩ. Đă định đuổi theo túm lấy kẻ bậy bạ,
đánh cho một trận, nhưng bốn bề đă im ắng. Không biết là ai, Cuội
đành hậm hực lăn ra nền nhà nằm thở.
Đêm ấy sáng trăng, khí
trời mát mẻ, khi Cuội tỉnh dậy th́ trăng đă lên cao. Có tiếng đất
rơi rào rào sau nhà nghe rất lạ tai, Cuội nhỏm ngay dậy chạy ra xem
có chuyện ǵ. Cây đa, suốt buổi chiều tối không thể chịu nổi mùi
khai nơi chân gốc, đă rùng ḿnh, rũ đất bay lên, bỏ đi. Khi cuội
chạy đến nơi th́ cây đă bay lưng lửng lên ngang tầm với. Sợ và tiếc,
cuội kêu, gọi ầm ỹ rồi nhảy vội lên ôm nhánh rễ ḷng tḥng mong kéo
cây trở lại.
Cây Đa vẫn bay lên.
Cuội ta không biết phải làm thế nào. Nhảy xuống th́ hăi, cứ bám vào
th́ lo… Cây đa hướng vầng trăng sáng mà bay lên măi.
Thế rồi, cây đa từ từ
hạ xuống cung trăng, Cuội lồm cồm đứng dậy ngơ ngác định thần.
Từ đấy Cuội sống cuộc
đời tẻ nhạt, ngày ngày ngồi dưới gốc đa trên mặt trăng mơ ước mà
nh́n về mặt đất, ḷng ngơ ngẩn khôn nguôi.
*
* *
Trong thành phố thường
có những người lang thang, sống lay lắt trong những vườn hoa, nơi
khuất nẻo. Trong khu vườn hoa Hồ Tây, Mai Xuân Thưởng cũng có một
ông già như vậy.
Ông ta là người trầm
cảm, chắc không c̣n người thân. Đôi khi cả tháng trời ông ta như
biến mất, nhưng rồi lại thấy xuất hiện quanh quẩn ở đâu đó quanh khu
công viên có gốc đa già (2). Khi th́ ông ngả người trên ghế đá, ngó
người qua lại, khi th́ lại thấy ông ngồi trên gốc cây, bệ gạch nh́n
ra mặt hồ nước mênh mang, trầm tư cả buổi như để sống lại cả quăng
đời ch́m nổi của ḿnh.
Vốn là người ít nói,
nhưng với người hợp chuyện th́ cũng có khi ông như mở cả ruột gan.
Đôi khi ông ngồi cả buổi với người cùng cảnh ưu tư, gật gù tâm đắc,
hiếm khi thấy họ cười.
Có lần người ta c̣n
gập ông ngồi nói chuyện với bà con từ xa đến, ăn chực nằm chờ nơi
vườn hoa Mai Xuân Thưởng để vào khiếu kiện ở Văn pḥng Thủ tướng
hoặc biểu t́nh đưa kiến nghị đến các nhà ông lớn ở gần đó. Những lúc
ấy ông như được nhập lại với cuộc đời. Ông hỏi han, an ủi họ nhưng
nét mặt vẫn như vô hồn, không hề xúc cảm. V́ h́nh như ông đă biết
trước được những điều này ắt sẽ sảy ra, cũng như ông dự đoán được
hậu vận của chính cuộc đời ḿnh.
Có người hay chuyện kể
rằng: Ông vốn là người Hà nội, lại là Hà Nội gốc, con nhà khá giả.
Thời Pháp thuộc, ông học ở Trường Chu Văn An – ngay cạnh hồ, kế nơi
đây. Hồi ấy ông tham gia rất hăng hái phong trào học sinh sinh viên,
biểu t́nh, băi khóa đ̣i dân sinh, dân chủ. Và ông cũng đă bị bọn
cảnh sát tây-ta bắt, đă nếm mùi giam giữ, đánh đập đôi lần. Sau được
thả và bị theo rơi, ông bỏ ra vùng tự do hoạt động. Vốn sẵn nhiệt
huyết, làm việc ǵ cũng hết ḿnh, ông tin tưởng tuyệt đối vào Cách
mạng v́ thấy con đường ḿnh theo là chính nghĩa, cao cả, pha chút
hào hùng và đầy tính nhân đạo. Khi c̣n công tác trong các đội tuyên
truyền, văn nghệ, với lư tưởng trong sáng, với tài liệu sách vở mà
ít ai được đọc qua, ông đă đưa đến cho nhiều người ở các tầng lớp
khác nhau nơi đội đi qua những hiểu biết mới lạ mà đầy hy vọng. Với
người đă từng được đến trường học, ông nói với họ về tinh thần dân
tộc, về sự h́nh thành, phân hóa giai cấp, về quy luật phát triển của
xă hội; với những người có tầm hiểu biết đơn giản, th́ ông đưa họ
đến với những viễn cảnh trong mơ ước không xa, với những nông trường
bát ngát lúa vàng, có máy gặt, máy cầy tân tiến bên cạnh những nhà
máy rất lớn, khói tỏa lưng trời, cung cấp đầy đủ sản phẩm tiêu dùng
cho bà con. Xă hội là công bằng, nhu cầu là thỏa măn.
|
Khi tham gia Cải cách
ruộng đất, ông bao giờ cũng thực hiện cao những chỉ tiêu của cấp
trên giao, nên đă phát động nông dân nghèo đấu tranh phát hiện được
nhiều địa chủ, cường hào và những phần tử Quốc dân đảng phản động ẩn
náu trong dân chúng nơi ông công tác để đưa ra xử lư nghiêm minh.
Ông tin rằng với sự
sáng suốt của Cách mạng dân ta sẽ đứng lên, đập tan ách thống trị
của bọn thực dân xâm lược, lật đổ giai cấp phong kiến, địa chủ, tư
sản bóc lột, giành lấy quyền làm chủ chính đáng của ḿnh.
Có tự do dân chủ là có
tất cả. Chẳng mấy chốc mà nước ta sẽ giàu mạnh chẳng kém ǵ các
cường quốc trên năm châu bốn biển.
Tuy nhiên có mấy khi
cuộc đời chiều theo ư con người. Trong và sau Cải cách ruộng đất,
cũng v́ những suy nghĩ quá đà, hành động quá khích mà ông vấp phải
những điều mà sau này phải ân hận suốt cả cuộc đời. Ông bị đ́nh chỉ
công tác.
Chán nản, ông xin đi
học chuyên môn. Với tŕnh độ Đệ tam trung học cũ - lúc bấy giờ được
coi là người có văn hóa cao, một lần nữa ông lại tạo được nguồn
nhiệt huyết mới. Ông tuy là học viên nhưng lại là trưởng một lớp
khóa đầu của trường Nông Lâm nghiệp Việt nam mới ra đời tại làng Cổ
Nhuế, cách làng Bưởi dăm cây số. Vốn ưa hoạt động, chuộng điều mới
mẻ, hay triết lư, giỏi thơ văn, ông tham gia tích cực các hoạt động
xă hội, và phạm phải sai lầm chết người là đă đọc, viết bài cổ vũ
cho nhóm Nhân Văn, Giai phẩm. Thế là ông bị đuổi học.
Nghề ngỗng chẳng có,
sống vất vưởng nhờ vả bạn bè, họ hàng xa gần trong thời kỳ mà xă hội
đầy dăy những nghi kỵ, sợ hăi v́ sự truy chụp về thành phần giai cấp.
Ông ngán ngẩm với nhân t́nh thế thái rồi quyết chí bỏ phố phường, họ
hàng lên thẳng nơi rừng xanh, thề một đi không trở lại, xa lánh cuộc
đời.
Nghe nói ông đă hóa
thân thành người lao động thực sự, đă làm việc cật lực trong một lâm
trường trên vùng sơn cước xa xôi và cũng đă có vợ con với cuộc đời
b́nh dị. Nhưng cái họa của cuộc đời ông là vô đơn chí. Vốn thẳng
tính từ xưa, không thể chịu nổi với những điều khuất tất nhỏ nhen
của cuộc đời, mà ngày càng lộ rơ trong chế độ độc tôn, độc đoán dù
cho ở trong tổ chức nhỏ nhất. Một lần nữa ông lại ở vào thế đối lập,
rất thiểu số trong tập thể. Ông lại c̣n bị cô đơn trong chính gia
đ́nh ḿnh.
Ông không chịu thỏa
hiệp với cuộc đời, th́ cuộc đời cũng sẵn sàng thải loại ông, nó đă
dứt ông ra khỏi quăng đời mà ông lầm tưởng sẽ măi là của ḿnh và ném
trả ông về với gốc đa này.
Nơi đây, mới chính là
của ông, nó luôn đồng t́nh, an ủi ông. Đó cũng là một trong những
vùng đẹp nhất của thành phố quê hương, nơi ông đă sinh ra, đă có một
thời niên thiếu đáng nhớ, có mái trường xưa, có cảnh vật hài ḥa,
trời nước mênh mông. Nơi mà người ta có thể ngồi ngắm hàng giờ
trong tĩnh lặng với tâm hồn thư thái, hoặc ngay cả khi với nỗi buồn
chĩu nặng dưới đáy ḷng.
Ông thấy cuộc đời ông
là một chuỗi thất bại. Ước mơ một xă hội công bằng của một thời tuổi
trẻ của ông đă không thành hiện thực. Xung quanh ông, xă hội ồn ào,
những kẻ hợp thời đang giàu lên phi lư một cách nhanh chóng, xe hơi
choáng lộn, biệt thự xa hoa, c̣n người dân thường th́ vẫn chẳng khác
xưa là bao. Lại thêm nhiều điều oan ức. Hàng chục, hàng trăm bà con
nghèo khó, nhếch nhác, đă từ hàng ngàn cây số, màn trời chiếu đất ra
đây ăn chực nằm chờ, khiếu kiện để đ̣i lại đất đai, đ̣i sự công bằng
đang diễn ra hàng ngày trước mắt ông.
Cũng có khi bỗng nhiên
thấy thanh thản, bớt được ưu phiền, muốn được chia sẻ nỗi ḷng, ông
tâm sự rằng khéo ḿnh cũng chẳng sống được bao lâu nữa, hệt như cây
đa già nơi ông quanh quẩn hàng ngày.
Gốc đa này đă mục lắm rồi, chỉ
c̣n một mảnh thân nhỏ liền với đất, c̣n th́ găy ruỗng cả. Thế mà nó
vẫn sống. Ông như thân thiết với cây và thường thay nó trả lời cho
những kẻ hiếu kỳ khi đứng xem cái cây khá đặc biệt này.
Nếu đứng xa nh́n lại
th́ tưởng cây có rất nhiều rễ thẳng và to bằng những thân bương (3)
lớn. Nhưng lại gần th́ mới té ra: Đấy chỉ là hàng chục chiếc cột sắt
rỗng, dài dăm bảy thước, sơn mầu xanh mà người ta đă chôn, chống
xung quanh giữ cho cây khỏi đổ. May mà cũng c̣n vài ba chiếc rễ phụ
cắm xuống đất, hút nước nuôi cây.
Với giọng chua chát ông thường bảo:
Cây đa này sẽ c̣n thọ
hơn tôi, nó có cả thảy 13 cái cột chống, c̣n tôi th́ chẳng có cái
nào! Trời gọi, là tôi đi liền.
Những người dân biểu
t́nh đứng xem th́ nh́n cây, mai mỉa: Cây này là Chế độ. Mấy cái rễ
phụ là các ông Trung Ương. Các cột sắt là các chú bộ đội, công an.
Cây đa này c̣n đứng được là nhờ vào các cột chống.
Họ c̣n nh́n ông già mà
cười và nói nhỏ với nhau: Bà con ḿnh ở quê từ lâu nay đă chẳng dại
ǵ mà trồng loại cây này. Nhiều đa th́ lắm cuội!
Thực ra, cây đa cũng
như ông già chẳng phải là đang sống mà chỉ là đang c̣n tồn tại khắc
khoải trong ḍng đời hỗn tạp này. Dù cho cây đa là của Cụ Hồ trồng
(4); và ước vọng đẹp đẽ suốt cuộc đời của ông già và của cả một thế
hệ vẫn chỉ là ước vọng xa vời. |