Nỗi đau dân chủ
Phạm Đ́nh Trọng
1. Nền dân chủ non trẻ bị chết yểu
Ngồi ở bậc thềm đền vua Hùng đất Tổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói
với những người lính đại đoàn Quân Tiên phong trên đường về nhận lại
Thủ đô Hà Nội từ tay quân Pháp xâm lược: Các vua Hùng đă có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước! Nước của các Vua
Hùng là nước Văn Lang. Suốt chiều dài lịch sử, nước Văn Lang nhiều
lần mất đi, nhiều lần phải dựng lại. Đến thời chúng ta, Hồ Chí Minh
là người sau cùng dựng lại nước Văn Lang của các Vua Hùng thành nước
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG H̉A. Chính thể Cộng ḥa chỉ là chính thể xóa
bỏ chế độ quân chủ. Dân chủ là tiêu chí duy nhất và trên hết của nhà
nước do Hồ Chí Minh dựng lên.
Suốt tuổi thanh niên học hỏi, tích lũy nhận thức, khám phá thế
giới ở Mĩ, Anh, Pháp, Hồ Chí Minh thấm thía sâu sắc giá trị nền dân
chủ tư sản ở các nước đó. Linh hồn của nền dân chủ đó chính là bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền năm 1791 của cách mạng Pháp và Hồ Chí Minh đă dẫn ra trọn
vẹn hai câu văn của hai bản Tuyên ngôn thấm đẫm tinh thần dân chủ
của nước Mĩ và nước Pháp ngay trong lời mở đầu Tuyên ngôn dựng nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Ngay từ năm 1941, Hồ Chí Minh đă đi bộ đến sưng chân trong đôi
dép bện bằng rơm từ Pắc Bó, Việt Nam đến Côn Minh, Trung Hoa để gặp
thiếu tá Mĩ L. A. Patti trong phái bộ đồng minh bàn chuyện hợp tác
chống phát xít Nhật. Bốn năm sau, việc hợp tác đó mới được thực hiện
nhưng đă diễn ra tốt đẹp không ngờ: Ngày 16. 7. 1945, một đơn vị
quân Mĩ nhảy dù xuống đất cách mạng Tân Trào. Hồ Chí Minh liền thành
lập đại đội Việt - Mĩ chống phát xít. Hồ Chí Minh giao cho đội viên
đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân Đàm Quang Trung làm đại
đội trưởng và thiếu tá Thomas chỉ huy đơn vị quân Mĩ làm tham mưu
trưởng đại đội. Chỉ ba ngày sau khi cách mạng Việt Nam giành được
chính quyền ở Hà Nội, ngày 22. 8. 1945 một viên tướng Mĩ dẫn đầu
phái bộ trong đó có cả thiếu tá Patti có mặt ở Hà Nội. Ngày 30. 8.
1945, bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh viết đă được
Thường vụ đảng Cộng sản thông qua, Hồ Chí Minh liền mời thư kí và
thiếu tá Patti đến 48 Hàng Ngang, Hà Nội và chính Hồ Chí Minh đă
dịch ra tiếng Anh và đọc bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cho người bạn Mĩ, thiếu tá Patti nghe.
Patti đă giật ḿnh khi nghe câu đầu tiên của bản Tuyên ngôn của nước
Việt Nam: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Ngay
tối hôm đó, Patti điện về Mĩ: Ngày 2. 9. 1945 sắp tới Việt Nam sẽ
tuyên bố độc lập. Câu mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh
đọc sẽ là câu mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ.
Vừa trở thành người đứng đầu nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa,
Hồ Chí Minh liền viết thư cho Tổng thống Mĩ bộc lộ mong muốn tạo
dựng quan hệ thân thiết Việt - Mĩ.
Những việc làm đó cho thấy ngay từ buổi đầu dựng lên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng ḥa, Hồ Chí Minh đă hướng nhà nước non trẻ tới
những giá trị dân chủ.
Bằng chứng của một nền dân chủ chính là ở sự h́nh thành và hoạt
động của Quốc hội. Đến nay nhà nước Cộng ḥa Việt Nam định đô ở Hà
Nội đă có mười hai khóa Quốc hội nhưng chỉ có duy nhất cuộc bầu cử
Quốc hội khóa đầu tiên năm 1946 thật sự tự do dân chủ. Nhà nước non
trẻ. Thù trong giặc ngoài ngổn ngang. Người dân vẫn được hưởng đầy
đủ quyền công dân của nước độc lập. Ai đủ điều kiện theo những qui
định của luật bầu cử đều có thể ra ứng cử. Mỗi đơn vị bầu cử, trong
danh sách ứng cử có vài chục người để bầu chọn lấy vài người. Tỉ lệ:
Vài chục người / vài người, mười / một. Mười người chọn lấy một
người th́ người được chọn ấy phải thật sự là người xuất sắc, nổi bật.
Bảy mươi người ứng cử ở Hà Nội để chọn lấy sáu người và Hồ Chí Minh
là người cao phiếu nhất. Người dân tự nguyện, nô nức đi bầu cử và
ngày 6. 1. 1946 đă đi vào lịch sử Việt Nam như ngày hội Công dân,
ngày hội Dân chủ.
Cuộc bầu cử Quốc hội năm 1946 diễn ta khi quân Pháp xâm lược đă
trở lại đánh chiếm Nam Bộ. Nhiều thùng phiếu bầu cử phải đặt trong
vùng quân Pháp chiếm đóng. Người dân đi bầu cử dưới họng súng quân
Pháp, trong sự chống phá của quân Pháp. Có người tay cầm lá phiếu đi
đến thùng phiếu đă bị quân Pháp bắn chết. Nhưng ngay cả ở những nơi
đó vẫn có trên tám mươi phần trăm cử tri đi bỏ phiếu. Dù có 50 đại
biểu Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh và
20 đại biểu Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội của Nguyễn Hải Thần
được các lực lượng chính trị thỏa thuận chấp nhận trở thành đại biểu
Quốc hội không qua bầu cử nhưng 333 đại biểu Quốc hội được bầu chọn
bằng những lá phiếu thấm đẫm khát vọng dân chủ và bằng cả những lá
phiếu thấm đẫm máu hi sinh v́ độc lập tự do, Quốc hội khóa Một năm
1946 được h́nh thành qua cuộc bầu cử thật sự tự do dân chủ đă thực
sự là Quốc hội của dân.
Bản Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo
và được Quốc hội năm 1946 thông qua mang tinh thần dân chủ rất sâu
sắc mà tất cả những bản Hiến pháp về sau đều không thể so sánh được.
So với bản Hiến pháp năm 1946, tất cả những bản Hiến pháp sau này
của nhà nước Việt Nam đều là sự thụt lùi, là sự tủi hổ về dân chủ!
Nhờ bản Hiến pháp dân chủ đó cùng với chính sách kháng chiến kiến
quốc đầy tinh thần dân chủ của Hồ Chí Minh mà cuộc kháng chiến giữ
nước do Hồ Chí Minh lănh đạo đă tập hợp được mọi thành phần xă hội,
mọi người Việt Nam yêu nước, từ những quan đại thần của triều đ́nh
Huế, từ những nhà tư sản, điền chủ cả nước đến những trí thức thành
đạt ở xa Tổ quốc đều vào rừng, ra cứ tham gia kháng chiến chống Pháp.
Nhưng dân chủ luôn đi liền với xă hội công nghiệp. Xă hội trước
công nghiệp, công cụ sản xuất thô sơ, năng suất lao động thấp kém,
vai tṛ người lao động v́ thế cũng thấp kém, thân phận mong manh,
nhỏ bé. Trước thiên nhiên dữ dội, trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, khó
khăn, trong xă hội đầy bất trắc, những thân phận nhỏ bé ấy muốn tồn
tại được phải dựa vào số đông. Họ có mặt trong cuộc đời là những đám
đông. Cá nhân nhỏ bé không được nh́n nhận, không được tính đến,
không có giá trị ǵ, chỉ là con số không! Trong quan hệ xă hội, số
đông tay trắng ấy phụ thuộc vào chủ nô, lănh chúa, phụ thuộc vào số
ít người có của. Đó là mối quan hệ của vài cá nhân có quyền và có
của với một đám đông lao xao chỉ là công cụ, không có cá thể, không
tên tuổi, không diện mạo, không cá tính! Chưa có cá nhân, chưa có ư
thức cá nhân, khát khao của đám đông ấy chỉ là khát khao cơm áo!
Máy hơi nước, máy phát điện xuất hiện kéo theo sự ra đời của
hàng lọat máy móc cơ khí, điện khí, đưa con người nhảy một bước dài
trên tiến tŕnh lịch sử bước vào xă hội công nghiệp. Máy móc ngày
càng hoàn thiện. Năng suất lao động ngày càng cao. Năng lực người
lao động ngày càng lớn. Vị trí người lao động ngày càng được khẳng
định. Máy móc đă thay thế vị trí công cụ mà người lao động trước đó
phải đảm nhiệm. Người lao động không c̣n là công cụ như trong những
xă hội trước nữa mà trở thành chủ thể trong xă hội công nghiệp. Mỗi
cá nhân thấy được vai tṛ và vị trí của ḿnh, ư thức được sự có mặt
của ḿnh trong xă hội và đ̣i hỏi xă hội phải nh́n nhận ḿnh như
những cá thể tự thân, độc lập. Đó là sự thức tỉnh lịch sử, là thành
quả vĩ đại của xă hội công nghiệp gắn liền với sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản và được cụ Các Mác nhận định rằng: Ư thức về cá nhân là
đóng góp vĩ đại của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử. Những thiết
chế của xă hội để nh́n nhận và khẳng định sự có mặt của cá nhân, bảo
đảm những quyền cơ bản của cá nhân, bảo đảm những quyền cơ bản của
con người được ghi thành văn bản trong luật pháp nhà nước tư bản. Đó
chính là nền tảng, là thiết chế của xă hội dân chủ. Những thiết chế
ấy chỉ có được từ xă hội tư sản công nghiệp. V́ thế có thuật ngữ Dân
chủ Tư sản.
Những xă hội nguyên thủy, xă hội nô lệ, xă hội phong kiến, cá
nhân bị đánh mất trong bầy đàn. Con người chưa có ư thức về cá nhân
th́ chưa thể có dân chủ! Con có khóc, mẹ mới cho bú! Cái tôi của mỗi
con người, quyền con người đ̣i hỏi phải được nh́n nhận, xă hội mới
có luật pháp đ̣i hỏi hành pháp phải bảo đảm sự nh́n nhận đó. Xă hội
dân chủ ra đời từ đó. Cái tôi của cá nhân được nh́n nhận, được tôn
trọng và xă hội dân chủ h́nh thành là thành quả vĩ đại, là giá trị
nhân đạo cao cả của cuộc cách mạng đưa giai cấp tư sản công nghiệp
lên địa vị thống trị xă hội thay giai cấp lănh chúa phong kiến.
Hồ Chí Minh dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa khi Việt Nam
c̣n ở “Phương thức sản xuất châu Á”, phương thức sản xuất nông
nghiệp thủ công cổ lỗ, trong xă hội c̣n mang nặng tư tưởng phong
kiến lâu đời, vẫn là xă hội trước công nghiệp, chưa có cá nhân. Bám
sau đội quân xâm lược, những ông chủ tư sản Pháp đến Việt Nam khai
thác thuộc địa, khai mỏ, dựng nhà máy mới tạo ra được vài đô thị
nghèo nàn và một lớp thị dân nhỏ bé. Đ̣i hỏi của cái tôi, đ̣i hỏi
của cá nhân của lớp thị dân này đă để lại dấu ấn trong văn chương Tự
lực Văn đoàn nhưng đó chỉ là đ̣i hỏi yếu ớt của lớp thị dân sơ khai,
thị dân phố huyện. Khát khao của chín mươi chín phần trăm dân số là
nông dân chân lấm tay bùn vẫn chỉ là khát khao cơm áo! Xă hội ấy lại
trong ṿng chi phối của những tín điều Cộng sản nông dân! Cộng sản
nông dân v́ chủ nghĩa Cộng sản của cụ Mác mà hồi học ở trường Sĩ
quan Thông tin rồi sau này tôi lại phải học ra rả ở trường đại học
đều khẳng định rằng chủ nghĩa Tư bản phát triển phải tranh giành
nguyên liệu, tranh giành thị trường tất dẫn đến chiến tranh đế quốc
và tiêu vong. Chủ nghĩa Tư bản phát triển cũng tạo ra giai cấp công
nhân công nghiệp đào mồ chôn chủ nghĩa Tư bản, mở ra buổi b́nh minh
huy hoàng của chủ nghĩa Cộng sản, thiên đường có thật trên mặt đất
của loài người! Nhưng chủ nghĩa Cộng sản lại đẻ non ra chính quyền
Xô Viết ở nước Nga Sa Hoàng và mu dích, phong kiến và nông dân! Chủ
nghĩa Cộng sản lại đẻ non ra chính quyền nông dân Mao Trạch Đông!
Những nhà nước Cộng sản phong kiến và nông dân ấy lại là khuôn mẫu
cho nhà nước công nông của Hồ Chí Minh!
Hồ Chí Minh muốn đem giá trị dân chủ của xă hội công nghiệp về
cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhưng những giá trị dân chủ ấy
chỉ chợt đến ở buổi ban đầu của nhà nước dân chủ non trẻ rồi nhanh
chóng tiêu tan v́ ba lực triệt tiêu:
Một. Xă hội công nghiệp giải phóng cá nhân. Cá nhân được h́nh
thành đ̣i hỏi quyền cá nhân, quyền con người. Quyền cá nhân, quyền
con người được luật pháp hóa tạo thành thể chế dân chủ của xă hội.
Nhưng xă hội Việt Nam vẫn là xă hội nông nghiệp, ư thức cá nhân chưa
thức dậy với số đông người dân. Quyền cá nhân, quyền con người không
những chưa thành đ̣i hỏi bức thiết của cả xă hội mà những biểu hiện
của cái tôi, của ư thức cá nhân c̣n bị gán cho tội tiểu tư sản, bị
phê phán, đấu tranh quyết liệt để lọai bỏ! Trong hồi tưởng của nhiều
nhà văn, nghệ sĩ thời kháng chiến chống Pháp đều nhắc đến cuộc đấu
tranh gay gắt trong các tổ chức xă hội và trong mỗi con người để cắt
bỏ cái đuôi tiểu tư sản của những thị dân đi kháng chiến!
Hai. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa vừa ra đời phải bước ngay
vào cuộc chiến tranh chống Pháp xâm lược kéo dài suốt chín năm.
Trong cuộc chiến tranh giữ nước, số phận đất nước được đặt lên trên
hết. Mọi cái tôi riêng tư phải gạt ra một bên. Mọi lợi ích cá nhân
phải hi sinh v́ mục tiêu lớn lao, cao cả đánh đuổi ngọai xâm, bảo vệ
độc lập dân tộc.
Tiếng súng kháng chiến chống Pháp vang rền cả nước. Một số đại
biểu Quốc hội ở các tỉnh khu Ba, khu Bốn theo Chính phủ kháng chiến
vào căn cứ trong rừng Việt Bắc. Các đại biểu Quốc hội ở các tỉnh khu
Bảy, khu Tám, khu Chín Nam Bộ xa ngái, của các tỉnh ở khu Năm, khu
Sáu Nam Trung Bộ mịt mù lửa đạn không thể cuốc bộ vượt Trường Sơn
dằng dặc ra Việt Bắc họp Quốc hội! Trong rừng Việt Bắc, bộ máy chính
quyền kháng chiến vẫn là Chính phủ nhưng Quốc hội của dân chỉ c̣n là
Ban, Ban Thường trực Quốc hội. Trưởng ban Thường trực Quốc hội
Nguyễn Văn Tố hi sinh khi Pháp bất ngờ tấn công lên Việt Bắc cuối
năm 1947 liền có ngay Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đ̣an
lên thay nhưng Quốc hội khóa Một chỉ c̣n là h́nh thức, là cái bóng
mờ nhạt bên cạnh bộ máy đảng đang ph́nh to trùm lên tất cả và bộ máy
nhà nước đă quân sự hóa. Bộ máy đảng trùm lên tất cả và bộ máy nhà
nước quân sự hóa th́ chỉ c̣n mệnh lệnh và phục tùng và mối quan hệ
Đảng - Chính phủ - Quốc hội là mối quan hệ trên – dưới. Đảng là tối
cao. Hội đồng Chính phủ là cơ quan cấp hai của đảng. Ban Thường trực
Quốc hội đương nhiên phải đứng sau cơ quan tác chiến là Bộ Tổng tư
lệnh, đứng sau cả những tổ chức tin cậy của đảng do đảng tổ chức ra
và sử dụng như những công cụ là Hội Liên Việt (sau đổi tên là Mặt
trận Tổ Quốc), Tổng Liên đoàn Lao động, đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ
. . ., v́ thế Ban Thường trực Quốc hội chỉ c̣n là cơ quan cấp bảy,
cấp tám của đảng! Đảng cần tiến hành cải cách ruộng đất, Ban Thường
trực Quốc hội liền ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất. Cải cách
ruộng đất là một biến cố khủng khiếp của nông thôn Việt Nam đă phá
tung cả cơ cấu xă hội từ ngàn đời của một cộng đồng mà nông nghiệp
là nền tảng bền vững đă tạo ra cả nền văn minh sông Hồng rực rỡ, tạo
ra văn hóa làng xă là đặc trưng, là sức mạnh trường tồn của dân tộc
Việt Nam trước mọi thử thách dữ dội của lịch sử. Thế mà sắc lệnh về
biến cố lớn lao, trọng đại ấy được ban hành mau lẹ, tức th́, đơn
giản như ban hành thông báo một cuộc họp xóm! Quốc hội đă là h́nh
thức th́ sắc lệnh hay sắc luật của Quốc hội cũng chỉ là h́nh thức mà
thôi!
Ba. Theo đuổi lí tưởng Cộng sản th́ phải chấp nhận khuôn mẫu tổ
chức xă hội, luật pháp xă hội, phải chấp nhận cả những áp đặt nghiệt
ngă của những nước Cộng sản đàn anh. Đó là h́nh mẫu chuyên chính vô
sản của chế độ độc tài Stalin và chế độ lănh chúa bạo liệt Mao Trạch
Đông!
Theo lí thuyết sách vở Cộng sản, chuyên chính vô sản mang bộ
mặt rất hiền từ, nhân hậu, cao cả, theo đó chuyên chính vô sản là
dùng chính quyền vô sản tiêu diệt giai cấp bóc lột, liên minh với
quần chúng lao động bị bóc lột trên cơ sở bảo đảm cho giai cấp vô
sản nắm chính quyền để tổ chức xă hội xă hội chủ nghĩa không c̣n
giai cấp và liên minh với vô sản các nước đưa cách mạng vô sản đi
tới thắng lợi trên ṭan thế giới. Nhưng thực tế chuyên chính vô sản
đă diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lí,
văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính
quyền. Chuyên chính vô sản đă dùng toàn bộ sức mạnh chính trị, sức
mạnh kinh tế, đặc biệt là sức mạnh bạo lực của nhà nước để bảo đảm
sự thống trị xă hội của đảng Cộng sản. Chuyên chính vô sản coi đảng
Cộng sản là tối cao, là chủ thể duy nhất trong xă hội. Chính phủ,
Quốc hội, quân đội, công an, ṭa án, nhà tù, văn học, nghệ thuật,
báo chí... đều là của đảng, đều là công cụ bảo đảm sự độc tôn thống
trị xă hội của đảng! Đă là công cụ th́ làm ǵ c̣n cá nhân! Dù là
Trưởng ban Thường trực Quốc hội, tức là Chủ tịch Quốc hội, nhưng
không phải là ủy viên Bộ Chính trị, không phải là ủy viên Trung ương
đảng, đến đảng viên cũng không th́ vẫn chưa tách khỏi đám đông quần
chúng lao xao để thành cá nhân!
Trong xă hội chỉ có những cá nhân là những người đứng đầu tổ
chức đảng các địa phương, tức là những lănh chúa vùng miền và những
người có vai vế trong tổ chức đảng ở trung ương. Người đứng đầu tổ
chức đảng ở các địa phương là ông chủ các vùng miền, là những cá
nhân quyền uy ở những nơi đó. Ủy viên trung ương đảng là ông chủ các
lĩnh vực mà họ trị nhậm, là những cá nhân quyền uy ở những lĩnh vực
đó. Ủy viên Bộ Chính trị th́ cá nhân c̣n lớn hơn! Tổng bí thư th́
tới tột đỉnh quyền lực, là ḥang đế, là Thiên tử, con Trời! Trời th́
xa lắm nhưng đảng th́ ngay trên đầu trên cổ nên nhất đảng nh́ Trời!
Xă hội chuyên chính vô sản là xă hội chỉ biết có đảng, chỉ có những
người có vai vế trong đảng như nêu trên mới thật sự có vai tṛ cá
nhân, c̣n lại tất cả đều là bầy đàn, là đám đông lao xao, là công cụ,
chưa được nh́n nhận là những cá nhân!
Trong tùy bút chính trị Đi T́m Cái Tôi Đă Mất, nhà văn Nguyễn
Khải ngậm ngùi: “Năm đất nước mới thống nhất, vào Sài G̣n được
gặp các nhà văn, nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm! Họ sống
thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khóang đạt như chưa từng
biết sợ ai, c̣n ḿnh th́ sợ đủ thứ...” Những người ở chế độ Sài
G̣n cũ sống thoải mái, hoạt bát, khoáng đạt, chưa từng biết sợ ai là
v́ họ là những cá nhân được nh́n nhận, được pháp luật tôn trọng và
bảo vệ cái tôi, cái cá nhân, cái quyền con người của họ. Họ được
sống thật với bản thể của họ. Họ được thể hiện cá tính, được bộc lộ
chính kiến. Cá nhân trong nghệ thuật là cá tính sáng tạo. Nghệ thuật
vô cùng cần thiết cá tính sáng tạo của cá nhân. Không có cá tính là
không c̣n nghệ thuật. Cá nhân trong xă hội là chính kiến. Chính kiến
cá nhân là những góc nh́n khác nhau về một vấn đề xă hội, là phản
biện xă hội không thể thiếu để xă hội phát triển. Nguyễn Khải phải
sợ đủ thứ v́ dù là nhà văn mang hàm đại tá quân đội nhưng ông vẫn
chưa có cá nhân, cái tôi, cái cá nhân của ông không được nhà nước
chuyên chính vô sản nh́n nhận! Đến tận cuối đời ông vẫn phải loay
hoay, day dứt khổ sở đi t́m cái tôi của ông! Không có cái tôi,
không có cá nhân, là công dân, Nguyễn Khải chỉ là một cái đầu nhấp
nhô trong đám đông người chen chúc chờ nhận tem phiếu tiêu chuẩn
lương thực, thực phẩm! Là nhà văn, đại tá, Nguyễn Khải chỉ là công
cụ trên mặt trận tuyên truyền của đảng, phải nghĩ, phải nói, phải
viết theo ư đảng! Nói thuận, viết ngoan th́ lên cấp, tăng tiêu chuẩn
tem phiếu! Viết không thuận, nói trái tai th́ ăn đ̣n! Trận đ̣n dằn
mặt Nhân văn Giai phẩm làm cho nhiều tài năng thân bại danh liệt
luôn là nỗi ám ảnh rùng ḿnh sởn gáy đối với mọi trí thức!
Mĩ đánh ta tàn khốc như thế cũng không đưa được miền Bắc Việt
Nam trở lại thời đồ đá như Mĩ tuyên bố. Nhưng trận đ̣n Nhân văn Giai
phẩm, ta đánh ta, văn chương Việt Nam lại trở về thời khuyết danh,
trở về thời văn học dân gian truyền miệng. Những tác phẩm có tên tác
giả chỉ là những diễn nôm minh họa đường lối chính sách của đảng,
sách in ra rơi ngay vào quên lăng! Nhưng những tiếu lâm dân gian
truyền miệng về những con người và sự việc của một thời nghiệt ngă
th́ c̣n măi! Lại vẫn nhà văn lớn Nguyễn Khải xót xa: “Tôi cũng
được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết
chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả ai nhắc đến ḿnh nữa!
Tôi là nhà văn của một thời! Thời hết th́ văn phải chết, tuyển tập,
toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân!”
Trận đ̣n Nhân văn Giai phẩm không phải chỉ có văn nghệ sĩ, nhà
khoa học hàng đầu bị khắc chữ “Chống đối” vào trán, bị gạt ra bên
lề cuộc sống, sống như chết! Hậu quả nặng nề của trận đ̣n Nhân văn
Giai phẩm là làm tê liệt sự sáng tạo cả đội ngũ trí thức. Văn nghệ
sĩ, trí thức không cần t́m ṭi sáng tạo, chỉ cần viết kịp thời phục
vụ các phong trào quần chúng! Mà các phong trào của quần chúng cách
mạng th́ dồn dập như sóng biển, hết phong trào nọ đến phong trào kia!
Chỉ cần viết vừa ḷng lănh đạo vốn xuất thân nông dân, năng lực thẩm
mĩ hạn chế, lại luôn nghi kị, đề pḥng với đám trí thức không thể
tin cậy! Nghĩ chân thành, viết tṛn trịa, thiện chí nhưng cơ quan
tuyên huấn, cơ quan an ninh văn hóa bóp méo ra thành ác ư cũng không
thể căi! Trong đầu người cầm bút lúc nào cũng lảng vảng bóng mấy ông
công an văn hóa và mấy ông tuyên giáo thủ cựu nên lúc nào cũng sợ!
Đến nhà văn lớn như Nguyễn Khải c̣n chưa có cá nhân, c̣n rúm ró
sợ đ̣n như đứa trẻ con th́ tám mươi triệu dân Việt Nam làm ǵ có
h́nh hài, làm ǵ có diện mạo:
Tám mươi triệu cái mặt không nh́n thấy mặt
Tám mươi triệu cái mồn tự nguyện bịt mồm . . .
Trí thức cụp tai
Ng̣i bút trượt dài sợ hăi
...Trí thức cụp tai xin phiếu bé ngoan
(thơ Nguyễn Đ́nh Chính)
Trí thức cũng chỉ là một lũ trẻ trong lớp mẫu giáo, cố xin đảng
tấm phiếu bé ngoan để được yên phận, không bị liệt vào đám trẻ cá
biệt để bị đe nẹt, bị cô lập, có tác phẩm, có công tŕnh cũng không
nơi nào cho công bố!
Các nước Tây Âu nhờ có thời ḱ đề cao con người kéo dài suốt ba
thế kỉ, từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVI, đó là thời ḱ Phục Hưng, thời
ḱ đứa trẻ trong bóng tối trung cổ vươn vai đứng dậy thành người lớn
bước ra ánh sáng. Tiếp liền thời ḱ Phục Hưng là thời ḱ Ánh Sáng
kéo dài đến thế kỉ XVII giải phóng tư tưởng con người khỏi sự trói
buộc của phong kiến và nhà thờ. Trí tuệ được giải phóng. Tài năng
được đánh thức. Con người trưởng thành bước ra ánh sáng, mở to mắt
nh́n vào thế giới, t́m ṭi, khám phá. Những phát minh khoa học ra
đời. Những nhà máy mọc lên. Tây Âu từ phong kiến, nông nghiệp thủ
công bước vào kỉ nguyên công nghiệp, khai sinh ra xă hội tư bản công
nghiệp và cũng khai sinh ra nền dân chủ tư sản, đưa Tây Âu phát
triển rực rỡ đến hôm nay.
Nh́n thấy các nước phương Tây phát triển là nhờ công nghiệp,
chúng ta cũng hăm hở, vội vă và ồn ào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhưng chúng ta lại không thấy rằng phải có những thế kỉ Phục Hưng đề
cao con người, phải có những thế kỉ Ánh Sáng giải phóng tư tưởng con
người, phải có nền dân chủ thực sự, cá nhân được nh́n nhận, giá trị
Con Người được tôn trọng bằng việc Quyền Con Người được thực thi,
phương Tây mới có được sự phát triển như hôm nay. Chúng ta sẽ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa như thế nào khi chuyên chính vô sản đă đưa
xă hội trở về thời trước công nghiệp ? Chúng ta sẽ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa như thế nào khi cá nhân chưa được nh́n nhận, tư tưởng
chưa được giải phóng, khi trong xă hội chỉ có người cầm quyền mới
được có tư tưởng, chỉ người cầm quyền mới được có chính kiến và tư
tưởng, chính kiến người cầm quyền trở thành tư tưởng, chính kiến xă
hội. Người dân có chính kiến khác với chính kiến người có quyền th́
trở thành tội phạm, bị trấn áp, tù tội! Chỉ người có quyền mới được
coi là người lớn, luôn dạy bảo, ban phát lời vàng cho xă hội, c̣n
lại tất cả chỉ là đám đông quần chúng vô danh! Người dân dù là trí
thức, văn nghệ sĩ, nhà khoa học cũng chưa được nh́n nhận như những
người trưởng thành, vẫn chỉ là lũ trẻ trong nhà trẻ dưới sự dạy bảo,
răn đe của người cầm quyền, vẫn phải ấp úng học chia động từ “mày
phải”! Mày phải nghĩ theo chính thống, nói theo chính thống, không
được có ư kiến khác biệt! Mày phải học nghị quyết của đảng để làm
theo nghị quyết, viết theo nghị quyết của đảng!
Chúng ta công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi con người, khi ư
thức xă hội, khi mối quan hệ xă hội c̣n ở thời trước công nghiệp nên
bao điều tệ hại đă xảy ra! Xă hội công nghiệp tạo ra văn minh đô thị
nhưng đô thị của ta vẫn là đô thị trước công nghiệp nên từ việc nhỏ
như đánh số nhà đến việc lớn như qui họach đô thị, giao thông đô thị
đều hỗn mang, rối loạn, vô chính phủ! Trong xă hội công nghiệp, nền
hành chính nhà nước là nền hành chính phục vụ, người dân đ̣i hỏi và
cả hệ thống hành chính đáp ứng, thỏa măn. Nhưng nền hành chính của
ta vẫn là hành chính cửa quan, công đường, ban phát của thời phong
kiến xa xưa, người dân khẩn khoản kính xin, cửa quan đủng đỉnh “ngâm
cứu”, vặn vẹo tra xét, thích th́ ban phát, không thích th́ cứ để đấy
hoặc đẩy dân đi ḷng ṿng! Xă hội thiếu dân chủ là mảnh đất màu mỡ
để quyền lực nhũng nhiễu và tham nhũng lộng hành! Đó chính là xă hội
Việt Nam hiện nay!
Tâm nguyện hướng tới một xă hội dân chủ của Hồ Chí Minh là có
thật. Những lời nói về dân chủ của Hồ Chí Minh là chân thành: Chế
độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Đối với mọi vấn
đề, mọi người được bày tỏ ư kiến của ḿnh, góp phần t́m ra chân lí.
(Hồ Chí Minh ṭan tập. NXB Sự Thật. Hà Nội 1987. Tập VII. Trang
482). Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của ḿnh, dám nói, dám làm (Sách dẫn trên, tập X,
trang 508). Nhưng xă hội mà Hồ Chí Minh thực thi với nhân dân ruột
thịt của ông lại là xă hội chuyên chính vô sản hoàn toàn đối lập với
xă hội dân chủ! Mâu thuẫn giữa mong muốn tốt đẹp của Hồ Chí Minh với
thực tế xă hội mà Hồ Chí Minh thiết lập cũng chính là mâu thuẫn giữa
lí thuyết của lí tưởng Cộng sản với thực tế của xă hội Cộng sản! Đó
là một bi kịch mà dân tộc Việt Nam đă phải nhận!
Xă hội dân chủ coi con người là trung tâm và quyền con người là
cơ sở của mọi luật pháp xă hội. Xă hội chuyên chính vô sản coi đảng
Cộng sản là trung tâm và coi việc bảo đảm sự thống trị xă hội của
đảng Cộng sản là cơ sở của luật pháp xă hội! Và chuyên chính vô sản
đă thủ tiêu dân chủ từ pháp luật đến thực tế!
( c̣n nữa
) |