Hoà giải hoà hợp (?!)
Tiêu Dao Bảo Cự
“…không phải tán thành
hoà giải hoà hợp mà chính là dị ứng, chống hoà giải hoà hợp mới rơi
vào bẫy của những người cộng sản, tự làm cho ḿnh yếu đi…”
Đọc tựa đề trên đây, chắc sẽ có bạn đọc hải ngoại chép miệng: Lại
hoà giải hoà hợp! Lại nghị quyết 36! Lại cái bẫy của cộng sản!... V́
thế tôi mới để tựa đề với dấu hỏi (?) và dấu than (!).
Nguyễn Hữu Liêm vừa có bài viết rất đáng chú ư trên
Danchimviet.com:
“Cho một ngôn ngữ chính trị mới: trường
hợp Đàn chim Việt”. Tác giả cho rằng “Bản sắc chính
trị của một khối quần chúng, ngoài những mệnh lệnh và ḷng nhiệt
thành, thường được quyết định bởi một số những thói quen ngôn ngữ.”
Từ đó đi đến nhận định: “Tùy vào thói quen ngôn ngữ chính trị mà
cộng đồng chính trị được thành h́nh, duy tŕ, tiếp nối. Hiện nay,
đối với người Việt, ở trong nước và hải ngoại, đă h́nh thành hai
cộng đồng ngôn ngữ chính trị mà thực chất chúng chỉ là sự tiếp nối
của thói quen ngôn từ chính trị của hai phía từ thời chiến tranh
trước 1975. V́ đây là hiện tượng của thói quen ngôn ngữ, nên chế độ
Cộng sản vẫn chưa có khả năng thay đổi bản chất cai trị; cũng như
thế cho cộng đồng người Việt hải ngoại, phần lớn là từ phía Việt Nam
Cộng Hoà, vẫn không thay đổi tư duy chính trị của họ được. Cả hai
bên đang tiếp tục dương cao khẩu hiệu thời chiến bằng ngôn từ chủ
nghĩa và t́nh cảm quá khứ nhằm biện minh cho chính nghĩa của phe
ḿnh. Cho đến khi nào thói quen ngôn ngữ này được vượt bỏ th́ chính
trị Việt Nam, nhất là ở quốc nội, mới được thay đổi đúng theo nhu
cầu của thời đại. Cả người cộng sản lẫn "chống cộng" cả hai đều đang
bị dính chặt vào đọa lực quá khứ trên b́nh diện ngôn từ”.
Nguyễn Hữu Liêm nhận định chính xác về t́nh h́nh đối đầu thể hiện
trong ngôn ngữ giữa hai phe sau chiến tranh nhưng tôi e rằng khi
nhấn mạnh tính quyết định của thói quen ngôn ngữ chỉ là một cách nói
có tính cường điệu để chỉ ra một t́nh h́nh đáng buồn. Thực chất vẫn
là do tư duy hay năo trạng quyết định. Có một số trường hợp, ngôn
ngữ quyết định năo trạng. Thí dụ trong một đám đông đang đi biểu
t́nh ôn hoà, có kẻ hô lên “Đả đảo! Đả đảo! Giết! Giết!”, có thể đám
đông sẽ bị kích động và trở nên hung hăng, đập phá. Một thí dụ khác,
những lời nói khiếm nhă trong lúc tức giận có thể gây ra đổ vỡ trong
suy nghĩ và t́nh cảm giữa những người thân thiết. Tuy nhiên, thông
thường năo trạng quyết định ngôn ngữ và trong chính trị lại càng như
thế.
Có t́nh h́nh như Nguyễn Hữu Liêm nhận định chính là do cả hai phía
cộng sản và chống cộng đều chưa thay đổi tư duy và nguyên nhân tôi
cho là v́ “hội chứng chính nghĩa”, điều mà tôi đă nhiều lần
phân tích trong các bài viết, và trong đoạn trích trên, Nguyễn Hữu
Liêm cũng có nhắc tới như một lư do. Nếu tư duy thay đổi, chắc chắn
ngôn ngữ sẽ thay đổi.
Vài thí dụ rơ ràng từ trong nước: Trước khi có chủ trương đổi mới,
trong kinh tế người ta dùng các từ “con buôn”, “con phe” “tư sản
bóc lột”, “ngăn sông cấm chợ”, “độc quyền quản lư sản phẩm”, “kinh
tế quốc doanh là chủ đạo”…, sau đó người ta ca ngợi “doanh
nhân”, thậm chí “doanh nhân là anh hùng của thời đại”, “tự do
lưu thông hàng hóa”, “giá cả do thị trường quyết định”, “kinh tế tư
nhân đóng vai tṛ quan trọng”, “khách hàng là thượng đế”… Trước
đây người ta gọi người Việt tị nạn cộng sản là “bọn phản động bỏ
nước ra đi”, “bọn ôm chân đế quốc”…, bây giờ người ta trân trọng
“khúc ruột ngàn dặm”, “Việt kiều yêu nước”… Những ǵ ngôn ngữ
chưa thay đổi, chính là tư duy chưa thay đổi liên quan đến việc duy
tŕ sự độc tôn lănh đạo của đảng. Một số từ được sử dụng nhưng c̣n
dè dặt như “nhân quyền”, “xă hội dân sự”… thể hiện sự ngập
ngừng bối rối trong nhận thức và thực hiện chính sách.
Trở lại với cụm từ “hoà giải hoà hợp”. Rơ ràng đây là một từ
có nội dung đẹp, tốt lành, có thể sử dụng trong nhiều trường hợp,
nhiều lănh vực. Thế nhưng bây giờ nó trở thành một từ bị nhiều người
hoài nghi, thậm chí căm ghét. Nguyên nhân là người ta cho rằng
đảng cộng sản đă độc chiếm từ này với một nội hàm xấu xa che đậy
nhiều âm mưu thủ đoạn và nó chẳng khác ǵ là một cái bẫy giương ra
cho những người chống cộng.
Sau đây chúng ta thử b́nh tĩnh phân tích lại những vấn đề liên quan
đến từ này, không chỉ là từ, là ngôn ngữ, mà c̣n bao hàm nhiều vấn
đề liên quan đến chính trị, tâm trạng, sách lược đấu tranh dân chủ
chống chế độ độc tài toàn trị.
Định nghĩa thế nào là hoà giải hoà hợp có lẽ quá rơ ràng và ít ai
tranh căi. Vấn đề là ai có nhu cầu hoà giải hoà hợp?
Trong quan hệ giữa người với người, quan hệ xă hội, có hai người
trở lên là đă có nhu cầu hoà giải hoà hợp v́ không ai giống ai,
nhiều khi khác biệt sâu sắc có thể đưa đến mâu thuẫn, xung đột. Từ
trong gia đ́nh giữa vợ chồng, cha con, anh em đến những người yêu
nhau, bà con, hàng xóm; cho đến giữa những người khác địa phương,
chủng tộc, tôn giáo, văn hóa; mở rộng ra giữa các dân tộc, các châu
lục, các nền văn minh trên thế giới, ai không cần đến hoà giải hoà
hợp để có được cuộc sống chung êm đẹp, thân ái, hoà b́nh?
Trong mối quan hệ giữa người Việt, kể cả trong và ngoài nước hay
giữa trong và ngoài nước, có nhu cầu hoà giải hoà hợp không? Có
người nói không. Thực chất vấn đề như thế nào? Ta thử xem xét một số
trường hợp có tính tiêu biểu:
Không kể đến những lời phê phán về một số Việt kiều muốn về nước để
du hí rẻ tiền, để t́m vợ trẻ, có những người muốn về nước để thăm
quê hương, bà con, bạn hữu, để làm từ thiện, làm ăn kinh doanh, thậm
chí muốn về ở hẳn, trong khi nhiều người chống lại những điều đó,
công khai lên tiếng hay âm thầm phản đối. Có cần hoà giải?
Các tổ chức chính trị hải ngoại tuy cùng mục đích chống độc tài cộng
sản nhưng vẫn công kích nhau thậm tệ, thậm chí chia rẽ ngay trong
từng tổ chức, tiêu biểu là Thông Luận và Việt Tân. Có
cần hoà giải?
Các vụ chống đối các báo Viet Weekly, Người Việt ở Mỹ , các
cá nhân Trịnh Hội-Kỳ Duyên, Madison Nguyễn …do mâu thuẫn quan điểm
và cách nh́n nhận vấn đề đă diễn ra có khi vô cùng gay gắt. Có cần
hoà giải?
Đàn Chim Việt, một trang web tự hào là cơ quan ngôn luận dân
chủ tự do hàng đầu, tạo điều kiện cho mọi tiếng nói không phân biệt
chính kiến, đă đi đến chỗ phân ly thành hai trang web cùng mang tên
Đàn Chim Việt. Có cần hoà giải?
Trong Phật giáo có hai giáo hội, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, có lúc đă đi đến chỗ đối đầu
căng thẳng. Ngay trong GHPGVNTN cũng đă bắt đầu có chia rẽ, mâu
thuẫn trầm trọng. Trong Thiên Chúa Giáo, sự kiện nóng hổi, Hồng y
Phạm Minh Mẫn yêu cầu không treo cờ vàng ba sọc đỏ trong Ngày Giới
Trẻ Thế Giới tổ chức tại Úc đă dấy lên bao lời phản đối, phê phán,
thậm chí có người quy ngay Hồng y là tay sai cộng sản. Trang web
Giao Điểm có vô số bài công kích Thiên Chúa Giáo một cách nặng
nề… Có cần hoà giải?
Có trí thức, văn nghệ sĩ hải ngoại muốn về nước góp phần xây dựng
quê hương trong lănh vực chuyên môn, xuất bản sách, tŕnh diễn văn
nghệ cho đồng bào thưởng thức. Bao nhiêu người đă bị dè bỉu, lên án?
Giữa trí thức, văn nghệ sĩ trong và ngoài nước, rất nhiều trường hợp
đă trở thành chuyện nhức nhối. Nguyễn Đắc Xuân và Nhă Ca lên án nhau,
đe dọa không phải chỉ trong đời này mà c̣n truyền đến cả đời sau con
cháu. Nguyễn Văn Trung với Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương giải quyết
đến bao giờ mới xong khúc mắc qua những lời lẽ không lấy ǵ đẹp đẽ
đối với trí thức? Vũ Hạnh và những nhà văn Việt Nam Cộng Hoà hiện ở
nước ngoài hay ngay cả với một số nhà văn trong nước bao giờ mới hết
ân oán?
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công Sơn bao giờ mới
hết chuyện bi kịch “đao phủ Mậu Thân”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng
sản”, “đâm sau lưng chiến sĩ”…, không những chỉ thể hiện ở các bài
viết trên mạng mà c̣n trong tâm trạng, tâm thức của không ít người
Việt hải ngoại. Rồi Đào Hiếu có “lạc đường” hay không lạc đường. Rồi
Phạm Duy, nhạc sĩ tài hoa nổi tiếng, muốn về sống và chết trên quê
hương những ngày cuối đời cũng chịu không ít lời dè bỉu. Ngay cả
thiền sư Nhất Hạnh, người được coi là thiền sư Việt Nam có ảnh hưởng
lớn nhất ở nước ngoài, có hàng vạn môn đệ khắp nơi trên thế giới, về
nước để rao giảng Phật Pháp, cầu nguyện giải oan cũng không tránh
khỏi điều tiếng thị phi. Nói chi đến Nguyễn Cao Kỳ với những lời lẽ
ngông nghênh, đao to búa lớn… Có cần b́nh tâm nh́n lại mọi chuyện
một cách tỉnh táo, trên b́nh diện rộng lớn hơn, với tinh thần bao
dung hơn?
Như thế nếu ai nói không hề có nhu cầu hoà giải hoà hợp trong cộng
đồng người Việt trong và ngoài nước quả là không có sức thuyết phục
hoặc chỉ là trường hợp cá nhân đơn lẻ, mà không chắc đă là như thế
nếu phân tích cho hết ngọn ngành hoặc khi có va chạm cụ thể. Nhưng
tại sao nhiều người vẫn nói?
Gần đây có lẽ là do Nghị quyết 36 của chính quyền cộng sản đối với
người Việt ở nước ngoài, nhấn mạnh đến tinh thần và những biện pháp
hoà giải hoà hợp, cộng với những hồi ức xa hơn về chính sách hoà
giải hoà hợp của cộng sản trong quá khứ, thực chất là triệt tiêu đối
lập, đă làm cho người Việt hải ngoại dị ứng với từ hoà giải hoà hợp.
Quan trọng nữa là nhận thức cho rằng mọi tội lỗi trong lịch sử hiện
đại đều do thủ phạm là những người cộng sản, c̣n tuyệt đại bộ phận
nhân dân đều là nạn nhân, cho nên giữa nhân dân không cần hoà giải
mà chỉ có hoặc là tiêu diệt những người cộng sản, hoặc là chính
người cộng sản phải có trách nhiệm hoà giải.
Nếu cho rằng kết quả của lịch sử trong những cuộc phân tranh của
người Việt như hiện nay, tất cả đều do người cộng sản quyết định và
thực hiện th́ quả là quá “đề cao cộng sản.” Kể cả tinh thần yêu nước
của nhân dân, chống đối sự đô hộ của Pháp, sự can thiệp của Mỹ,
chống bất công áp bức, khát vọng độc lập dân tộc, nhất nhất đều do
cộng sản giật dây th́ thật quá đáng. Làm sao lúc khởi đầu chỉ có năm
bảy đảng viên, cho đến nay trên 3 triệu người, cũng chỉ là một số
nhỏ trong nhân dân, họ có tài ba thần kỳ ǵ để điều khiển toàn bộ
nhân dân trên đất nước này, dù họ có thủ đoạn quỷ quyệt tàn bạo tới
đâu. Có điều ǵ mà nhân dân, những người không cộng sản, cũng phải
chịu trách nhiệm, về t́nh h́nh hiện nay của đất nước. Đây là một vấn
đề phức tạp cần đến chuyên đề riêng và chuyện tranh căi e cũng khó
hồi kết thúc nếu năo trạng những người trong cuộc không thay đổi.
Thực tế hiện nay là không thể tiêu diệt những người cộng sản và họ
cũng không chịu hoà giải hoà hợp theo cách mọi người mong muốn. Vậy
làm thế nào? Từ đây cũng có vấn để đặt ra là hoà giải với ai
và hoà giải như thế nào?
Nói tổng quát là hoà giải hoà hợp dân tộc, nghĩa là giữa mọi thành
phần dân tộc, trong đó có những người cộng sản và người Việt ở nước
ngoài. Nhưng v́ những người cộng sản đă trở thành giai cấp thống trị
nên trước tiên là hoà giải hoà hợp giữa các thành phần dân tộc không
có người cộng sản, nghĩa là những người bị trị. Đây là tuyệt đại đa
số nhân dân nhưng lâu nay đă bị chia rẽ nên mất đi sức mạnh. Trước
đây trong lịch sử, khi có ngoại xâm, chỉ có toàn dân đoàn kết một
ḷng mới có thể chống lại địch, bây giờ là nội xâm, một cách nói,
nếu nhân dân không đoàn kết, cũng không thể nào chống lại được chế
độ độc tài toàn trị.
Những người Việt ở nước ngoài, mấy ai tự hào đă hiểu được hoàn cảnh
sống và tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong nước, từ
nông dân, công nhân, doanh nhân cho đến trí thức, văn nghệ sĩ và các
tầng lớp khác? Ai đă hiểu được đời sống thực ở các thành thị, nông
thôn, miền núi? Ai đă biết những thay đổi trên khắp vùng, miền của
đất nước, những ǵ tốt và không tốt? Ai hiểu được thấu đáo sự vận
hành chi phối nghiệt ngă đời sống người dân trong chế độ độc tài
toàn trị? Không đủ hiểu biết, hoặc chỉ có một số thông tin trên báo
chí, làm sao có thể hoà giải hoà hợp? Sao lại nói không cần đến hoà
giải hoà hợp giữa nhân dân khi muốn cùng chung sức chống lại chế độ
độc tài?
Không thể hoà giải với kẻ ác hay với giai cấp thống trị mà chỉ
có thể hoà giải với kẻ ác đă hoàn lương hay kẻ thống trị đă từ bỏ
ḷng tham quyền lực. Nhưng muốn thế phải có cách cảm hóa kẻ ác và
chuyển hóa kẻ thống trị. Cách duy nhất là có sức mạnh và có
chính nghĩa. Hiện nay nhân dân Việt Nam có chính nghĩa nhưng chưa đủ
sức mạnh v́ bị chia rẽ, v́ bị nỗi sợ khống chế. Có thể vượt qua t́nh
trạng này nếu nâng cao dân trí, nâng cao nhận thức về dân chủ và có
được sự hoà giải hoà hợp giữa các thành phần dân tộc trong mục đích
chung đấu tranh cho tự do dân chủ.
Những người cộng sản quá khôn ngoan khi đưa ra chiêu bài hoà giải
hoà hợp. Nó có hiệu quả lôi cuốn những người có thiện chí hay nhẹ dạ,
đồng thời cũng làm phân hóa những người chống đối. Với sự chống đối
của nhiều người Việt ở hải ngoại, những người cộng sản mặc nhiên độc
quyền về hoà giải hoà hợp. Thực ra không phải tán thành hoà giải hoà
hợp mà chính là dị ứng, chống hoà giải hoà hợp mới rơi vào bẫy của
những người cộng sản, tự làm cho ḿnh yếu đi. Một phương thức lợi
hại lại đem trao cho đối phương độc quyền sử dụng có phải là điều
phi lư? Tại sao không tương kế tựu kế, dùng hoà giải hoà hợp như một
biện pháp để củng cố sức mạnh dân tộc và như một phương thức diễn
biến hoà b́nh trên mọi lănh vực. Chính diễn biến hoà b́nh là một
trong những điều người cộng sản lo sợ nhất chứ không phải là những
lời phê phán, tố cáo dù rầm rộ tới đâu.
Đại bộ phận nhân dân có thể chống lại sự thống trị của một thiểu số
người không? Câu hỏi lịch sử đó có lời đáp thế nào tùy thuộc vào sự
tỉnh táo và nhận thức của nhân dân chứ không ai khác. Đó cũng chính
là số phận của đất nước.
Tháng 7-2008
Tiêu Dao Bảo Cự |