Tài Liệu T́nh Báo Về
Vụ CSVN Bán Nước Việt
Nam
Nghĩa Nhân
Vài sự kiện dẫn đến viêc bán nước của CSVN
Sau vụ CSVN bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính
cho biết th́ không ai biết được ai trong bộ chính trị đă kư tên
trong vụ bán nước nầy . Bộ chính trị CSVN đă dấu nhẹm chuyện nầy và
BÍ MẬT ĐĂ được BẬT MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC
NHƯ SAU:
1) Lê Khả Phiêu bị Trung Quốc gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân
(Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và
sanh được một bé gái. LKP không đem con về v́ sợ tai tiếng đưa đến
nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đ̣i lấn vùng biển vào tháng 1 năm
1999. Đồng thời đ̣i đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu
LKP không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút kư bản hiến biển
ngày 30 tháng 12 năm .
2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do ông
Tang Jiaxuan và t́nh báo TQ sang Việt Nam, họ gặp kín ông Lê Khả
Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất .
3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang
Trung Quốc, ông Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đă đồng ư việc
hiến thêm đất. Trung Quốc nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đăi
Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều Cung Tầng Mỹ Nữ ở nhà
khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng ông Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan .
4) Bộ Trưởng Trung Quốc Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp
Bô. Trưởng CSVN tại ThaiLand khi ông viến thăm nước nầy. Ngày 26
tháng 7 năm 2000. Ông Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi
trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang ThaiLand gặp Bộ Trưởng
Ngoại giao Trung Quốc tại khách sạn Shangri-La Hotel Ban kok phía
sau pḥng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một
chồng hồ sơ đ̣i CSVN hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rơ TQ đ̣i
luôn 50/50 lănh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đ̣i VietNam cắt 24,000 sp Km
vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.
5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị CSVN cử Phan Văn
Khải qua gặp mặt Lư Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất
rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và
được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào
trưa hôm đó. Nh́n thấy mặt Khải tỏ vẻ không hài ḷng và hoan mang về
vụ hiến đất (Điều nầy chứng tỏ Khải không rơ chuyện nầy). Lư Bằng
cho Khải biết là hai20tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đă gặp
nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi. Lư Bằng ôm chặc PVK và khen DCSVN
làm việc rất tốt và ông cho biết là đă có Nông Đức Mạnh (lúc đó là
chủ tịch Quốc Hội DCSVN) đă đi đêm sang Trung Quốc vào tháng 4 năm
2000 và Lư Bằng đă gặp lại Nông Đức Mạnh, vào tháng 8 năm 2000 ở New
York Hoa Kỳ. Lư Bằng cho biết Nồng Đức Mạnh phải được cử làm Bí Thư
DCSVN sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không th́ sẽ bị Trung Quốc 'đ̣i
nợ cũ'. Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói
với LB là sẽ xem lại sự việc. Lư Bằng nhăn mặt bắt Khải ngồi chờ,
vào gọi điện thoại, nói ǵ trong đó và trở lại nói là Chủ Tịch Giang
Trạch Dân muốn gặp
Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải đưA 3c đưa đi gặp GTD và cho
ông Zhu Rongji hù dọa Khải nói: Trung Quốc đă nắm trong tay Lê Khả
Phiêu, Nồng Đức Mạnh ...nếu không nghe lời TQ Khải
sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị 'chích thuốc'. Khải cuối đầu và run
sợ, sau đó đ̣i về. Trước khi Khải về, một lần nửa Giang Trạch Dân
nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nồng Đức Mạnh chứ không nhắc
tới tên người khác trong Quốc Hội CSVN. Khải không được khoản đải
như một vị quốc khách v́ tính t́nh bướn bỉnh v́ không nghe lời đàn
anh .........
6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000 , Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao VN Lê
Công Phụng được Trần Đức Lương phái âm thầm đến Trung Quốc gặp ông
t́nh báo của Trung Quốc là ông Hoàng Di, ông nầy là cánh tay phải
của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc. Ông ta nói tiếng Việt rất rành.
Hai bên đă gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt, (Tỉnh Móng
Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho bộ chính trị CSVN, ông Lê Công
Phụng Cho biết lúc đầu ông Hoàng Di vẫn khăn khăn đ̣i chia 50/50 với
Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt 'Beibu Bay' đ̣i lấy luôn đảo
Bạch Long Vĩ sau đó ông Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin
lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ v́ đă được lâu đời là
của Việt Nam . Kết Qủa cuộc đi đêm
Việt Nam c̣n lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 sq Km vùng vịnh
cho Trung Quốc. 7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, ông Trần=2 0Đức Lương
rời Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc
của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của t́nh báo Trung
Quốc. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua
bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều người
trong quốc hội. Phe thân Nga và Phe Miền Nam đă không đủ sức đấu với
Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương. Bản hiến chương hiến đất cho Trung
Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng CSTQ trả cho số tiền là 2 tỉ
US Dollar được chuyển cho Việt Nam qua h́nh thức Đầu Tư. DCSTQ chỉ
thị cho DCSVN sẽ phải làm ǵ trong kỳ đại hội đảng thứ 9 vào tháng 3
năm 2001 sắp tới. Trần Đức Lương được khoảng đải ở Thành Bắc QTNN.
8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lư Bằng được cận
vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lư Bằng cho
Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16,000 sq km vùng vịnh
Beibu của Việt Nam là hợp lư. Trần Đức Lương cám ơn DCSTQ về số tiền
nầy. Số tiền 2 tỉ đồng nầy được Lương đem về để làm bớt sự phẩn nộ
của Khải, Kiệt và những nhân vật khác trong quốc hội CSVN. Ông Lư
Bằng nhắc lại chuyện Trung Quốc đă bán vũ khí và hổ trợ cho đảng
CSVN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung Quốc dùng để
trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản
Dốc, Cao Bằng.... Thêm lần nữa Lư Bằng chỉ gB Bi lời thăm Lê Khả
Phiêu và Nồng Đức Mạnh !. Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa
về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji . Zhu Rongji không nói ǵ khác
hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ đồng sẽ được giao cho Việt Nam sau khi
Lương trở về nước
9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để
gặp ông Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung
Quốc đă mua vùng Vịnh Bắc Việt của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ
US Dollar.
Baotoquoc.com
General
Secretary Le Kha Phieu Met with Foreign Minister
Tang Jiaxuan 31/12/1999 On December 31, 1999, General Secretary of
the Communist Party of Vietnam Le Kha Phieu met with Chinese Foreign
Minister Tang Jiaxuan in Hanoi, during which Foreign Minster Tang
conveyed the cordial greetings from President Jiang Zemin. He
indicated that we had just experienced an important moment in the
history of the Sino-Vietnamese relations.. The Treaty of Land Border
between China and Vietnam had been officially signed at long last
after 20-plus years of negotiations. This was a major event that
merited celebration in the bilateral relations. He attributed the
settlement of land border disputes, first and
foremost, to the foresight and able guidance of the leaders of the
two countries, the General Secretaries of the Communist Parties of
the two countries in particular who pointed out the direction for
and gave impetus to the negotiations. Your contributions were
irreplaceable. The official signing of the Treaty of Land Border
symbolized that we would bring peace, amity and stability along the
land20border between the two countries into the 21st
century. This would not only benefit the two peoples and the coming
generations, but also contribute to the advancement of the relations
between the two countries and two parties, the bilateral cooperation
in all dimensions and peace and stability of the region at large.
The achievements of the land border negotiations had been hard-won.
This would provide an example for the settlement of the questions
left over from history between the two countries. At the same time,
it also demonstrated to the world that China and Vietnam were
capable of resolving all the outstanding questions left over from
history through friendly
consultations.
General Secretary Le Kha Phieu said that the signing of the Treaty
of Land Border was of great significance to the friendly relations
and cooperation of the two countries built on the basis of
mutual-trust and was the result of the painstaking efforts of both
sides. It marked a step forward in the good-neighborly, friendly
relations of solidarity of the two countries and would exert
positive impact to peace and stability of the region.
Foreign
Minister Tang Jiaxuan said that the relations between th e two
countries and the two parties were enjoying sound momentum of
development. Mutual trust was enhanced and solidarity stepped up
through the frequent contacts of state and party leaders, which
played a guiding role in the furtherance of the relations between
the two countries and two parties. He went on to say that mankind
would embark on a new millennium in some 10 hours' time. We should
value all the more the peaceful environment, which did not come
easily and treasure the traditional friendship between the two
countries, the two parties and the two peoples. We had every
confidence that the 21st century would see even better
Sino-Vietnamese relations.General Secretary Le Kha Phieu indicated
that one of the highlights of Vietnam-China relations was that the
leaders of the two countries reached an agreement on putting a
complete end to the past and building a future featuring friendship
and mutual trust. It was the consistent policy of Vietnam to develop
good-neighborly and friendly cooperation with China. The friendship
between Vietnam and China would enjoy further development and would
be carried on generation after generation. The spirit of cooperation
manifested during the land border negotiations was bound to give
impetus to the development of bilateral relations in all the fields.
Meanwhile, we would move up the settlement of other outstanding
questions left over from history between the two countries by
drawing on the experience of this round of negotiations. The two
sides also exchanged views on the current regional and international
situations. General Secretary Le Kha Phieu thought highly of the
independent foreign policy of peace pursued by China and expressed
appreciation to China that attached importance to the development of
good-neighborly and friendly relations with its surrounding
countries. He maintained that Vietnam was not in favor of a uni-polar
world, and the world should be characterized by variety. General
Secretary Le Kha Phieu asked Foreign Minister Tang Jiaxuan to convey
his best wishes to General Secretary Jiang Zemin and other Chinese
state and party leaders. Prior to this, Foreign Minister Tang
Jiaxuan met with President Tran Duc Luong of Vietnam. Tang conveyed
the warm regards from President Jiang Zemin, to which President Tran
Duc Luong expressed his gratitude. He also expressed his belief that
the Chinese people would ach ieve greater success in the new century
under the leadership of President Jiang Zemin.
Tư liêu
tham khảo
:
Hoàng –
Sa - Trường – Sa Bảo Gió Trở Lại !!! ???
Hải chiến
Trường Sa 1988
Hải chiến
Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc xung đột trên biển Đông năm 1988
giữa Hải quân Trung Cộng với Hải quân Việt Nam (cộng sản) để chiếm
các đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 mà kết
quả thắng lợi thuộc về Trung Cộng, phía Việt Nam mất 3 hải vận hạm
của hải quân Việt Nam (cộng sản), 64 thủy binh Việt Nam được ghi
nhận đă chết.
Trong các
tài liệu của Hải quân Việt Nam (cộng sản), sự kiện này được biết đến
với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88).
Bố trí
kiểm soát Trường Sa của các nước
Việt Nam
(cộng sản) chiếm 3 đảo: Trường Sa Lớn (Spratly), Nam Yết (Namyit) và
Sinh Tồn (Sincowe). Ngoài 3 đảo, Việt Nam c̣n chiếm 3 cồn là An
Bang(Amboyna), Song Tử Tây (SouthWest) và Sơn Ca (Sand cay), cùng 7
đá nổi, 9 đá ch́m và băi ngầm, tổng cộng 22 đơn vị.
Philippines chiếm 5 đảo: B́nh Nguyên (Flat), Vĩnh Viễn (Nanshan),
Bến Lộc (West York), Loại Tá (Loaita) và Thị Tứ (Thitu). Ngoài 5 đảo,
Philippines c̣n chiếm 3 cồn , 2 đá nổi và 8 đá ch́m, tổng cộng 18
đơn vị.
Đài Loan
chiếm Đảo Ba B́nh (Itu Aba).
Đảo
Trường Sa diện tích 0,13 km², bằng 1/10 Phú Lâm.
Trung
Quốc chiếm 2 đá nổi (reef) là Đá Chữ Thập (Fiery Cross) và Đá Ga Ven
(Gaven), cùng 6 đá ch́m, tổng cộng 8 đơn vị.
Quần đảo
Trường Sa là một nhóm gần 100 đảo đá ngầm và đảo nhỏ đang trong t́nh
trạng tranh chấp ở Biển Đông. Là một phần của các đảo ở Biển Đông,
quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những ngư trường lớn và giàu
dầu mỏ, khí đốt, hiện vùng mở rộng (diện tích) của nó vẫn c̣n chưa
được biết và đang trong ṿng tranh căi. Việt Nam, Trung Hoa Dân Quốc
(Đài Loan) và Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (Trung cộng), đều tuyên bố
chủ quyền trên toàn bộ quần đảo, trong khi Brunei, Malaysia và
Philippines, mỗi nước tuyên bố chủ quyền nhiều phần.
Nhiều
nước tham gia cuộc tranh căi này có quân đội đóng trên từng phần của
quần đảo Trường Sa và kiểm soát nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đảo
đá ngầm khác nhau. Đài Loan chiếm một trong những đảo lớn nhất là
đảo Ba B́nh. Tháng 2 năm 1995, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa chiếm đảo
đá ngầm Vành Khăn (Mischief reef), gây nên một cuộc khủng hoảng
chính trị lớn ở Đông Nam Á, đặc biệt với Philippines. Đầu năm 1999,
những cuộc tranh căi lại tăng lên khi Philippines tuyên bố rằng
Trung Cộng đang xây dựng đồn bốt quân sự trên đảo đá ngầm. Mặc dầu
những sự tranh căi sau đó đă giảm bớt một chút chúng vẫn là một
trong những nguyên nhân có thể gây ra một cuộc chiến lớn ở Đông Á có
sự tham gia của Trung Cộng hay một cuộc chiến nhỏ hơn giữa các nước
tuyên bố chủ quyền khác.
Chính
quyền Việt Nam (cộng sản) hiện nay đang trấn giữ 21 đảo. Nhóm đảo
này được gộp vào thành một huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Ḥa.
Pháp
lư chủ quyền
Trường Sa
cách lục địa Trung Hoa khoảng 750 hải lư, nên không nằm trong thềm
lục địa của Trung Hoa. Hoàng Sa cũng cách Hoa Lục lối 270 hải lư.
Tại bờ
biển Việt Nam, thềm lục địa chạy thoai thoải từ dăy Trường Sơn ra
Hoàng Sa. Về địa h́nh, Hoàng Sa là một hành lang của Trường Sơn từ
Cù Lao Ré ra khơi. Đây là những b́nh nguyên của thềm lục địa Việt
Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất học quốc tế Tiến Sĩ Khoa
Học A. Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên
cứu và đo đạc đă lập phúc tŕnh và kết luận: "Về mặt địa chất, những
đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam" (Géologiquement les
Paracels font partie du Vietnam).
Tại
Trường Sa cũng vậy. Về độ sâu và địa h́nh đáy biển, các đảo cồn đá
băi Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại
băi Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400 m, và
tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200 m. Băi Tứ Chính cách bờ
biển Việt Nam khoảng 190 hải lư và cách lục địa Trung Hoa tới 780
hải lư. Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lư và cách Hoa Lục 750 hải
lư. Từ Trường Sa về bờ biển Trung Hoa có rănh biển sâu hơn 4.600 m.
Không có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long,
Việt Nam đă chiếm cứ công khai, liên tục, ḥa b́nh các hải đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi rơ:
République Francaise (Cộng Ḥa Pháp)
Empire
d’Annam (Vương Quốc An Nam)
Archipel des Paracels (Quần
Đảo Hoàng Sa)
1816 -Ile de Pattle 1938
(Đảo Hoàng Sa) Lịch sử Trung Hoa không mang lại bằng chứng nào cho
biết họ đă liên tục chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế
hay ít nhất từ đời Măn Thanh.
Theo Trung Cộng, năm
1956, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam (cộng sản) Ung Văn Khiêm đă nói
với đại biện lâm thời của Trung Cộng rằng Hoàng Sa và Trường Sa về
mặt lịch sử đă thuộc về lănh thổ Trung Quốc.
Lá thư ngày 14 tháng 9
năm 1958 do của Thủ tướng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng gởi Thủ
tướng Trung Cộng Chu Ân Lai này được nhiều người xem là sự thừa nhận
của Việt Nam (cộng sản) đối với chủ quyền của Trung Cộng đối với
Trường Sa và Hoàng Sa. Trả lời phỏng vấn của BBC, tiến sĩ Balazs
Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á, đă cho rằng cả lá thư của
Phạm Văn Đồng cũng như tuyên bố miệng của Ung Văn Khiêm đều không có
giá trị pháp lư ràng buộc.
Diễn biến
Trong những tháng đầu năm
1988, Hải quân Trung Cộng cho quân chiếm đóng một số băi đá thuộc
khu vực quần đảo Trường Sa, chiếm giữ Đá Chữ Thập (31-1), Châu Viên
(18-2), Ga Ven (26-2), Huy Gơ (28-2), Xu Bi (23-3). Hải quân Việt
Nam (cộng sản) đưa vũ khí, khí tài ra đóng giữ tại các đảo Đá Tiên
Nữ (26-1), Đá Lát (5-2), Đá Lớn (6-2), Đá Đông (18-2), Tốc Tan
(27-2), Núi Le (2-3), bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm
vi chiếm đóng của hải quân Trung Cộng ra các đảo lân cận. Phía Việt
Nam dự kiến Trung Cộng có thể chiếm thêm một số băi cạn xung quanh
cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông kinh tuyến 1150.
Căn cứ vào t́nh h́nh xung
quanh khu vực Trường Sa, Hải quân Việt Nam (cộng sản) xác định: Gạc
Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Cộng chiếm giữ th́
họ sẽ khống chế đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ tại quần
đảo Trường Sa. V́ vậy, thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân (Việt
Cộng) hạ quyết tâm đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao...
Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân Việt Cộng giao cho Lữ đoàn Vận
tải 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.
Trong khi đó, hải quân
Trung Cộng sau khi đưa quân chiếm đóng các đảo ch́m Chữ Thập, Châu
Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ cũng đang có ư đồ chiếm giữ ba đảo Gạc
Ma, Cô Lin và Len Đao. Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Cộng huy động lực
lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu
hoạt động ở đây thường xuyên lên 9 đến 12 tàu chiến gồm: 1 tàu khu
trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3
tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Trước t́nh h́nh đó, ngày
31 tháng 3, Tư lệnh Hải quân Việt Cộng lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125,
Lữ đoàn 146, các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng
thái sẵn sàng chiến đấu cao. Đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ
đoàn 125 ở Hải Pḥng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường.
Bộ tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của
Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1,3,5, Trường Sĩ quan Hải quân Việt
Nam (nay là Học viện Hải quân Việt Nam), nhà máy Ba Son... đến phối
thuộc khi cần thiết.
Lúc 19h ngày 11 tháng 3
tàu HQ-604 rời cảng ra đảo Gạc Ma để thực hiện nhiệm vụ trong chiến
dịch CQ-88 ("Chủ Quyền 88").
Ngày 12 tháng 3, tàu HQ-605
thuộc Lữ 125 do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy được lệnh từ Đá
Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6h ngày 14 tháng 3. Sau 29 tiếng
hành quân, tàu 605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14 tháng 3 và cắm cờ
Việt Nam trên đảo.
Thực hiện nhiệm vụ đóng
giữ các đảo Gạc Ma và Cô Lin, 9h ngày 13 tháng 3, tàu HQ-604 của
thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và tàu HQ-505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ
được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với 2
tàu 505 và 604 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn
công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do Trần
Đức Thông Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn
đo đạc và biên vẽ bản đồ (thuộc Bộ Tổng tham mưu). Sau khi hai tàu
của Việt Nam thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của Hải quân Trung Cộng
từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc đôi bên chỉ cách nhau 500 m.
17 giờ ngày 13 tháng 3,
tàu Trung Cộng áp sát tàu 604 và dùng loa gọi sang. Bị uy hiếp, 2
tàu 604 và 505 kiên tŕ neo giữ quanh đảo. C̣n chiến hạm của Trung
Cộng cùng 1 hộ vệ hạm, 2 hải vận hạm thay nhau cơ động, chạy quanh
đảo Gạc Ma.
Trước t́nh h́nh căng
thẳng do hải quân Trung Cộng gây ra, lúc 21 giờ ngày 13 tháng 3, Bộ
Tư lệnh Hải quân ViệtCộng chỉ thị cho Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ
Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp
đó Bộ Tư lệnh Hải quân (Việt Cộng) chỉ thị cho lực lượng công binh
khẩn trương dùng xuồng chuyển vật liệu xây dựng lên đảo ngay trong
đêm ngày 13 tháng 3. Thực hiện mệnh lệnh, tàu 604 cùng lực lượng
công binh trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma, tiếp đó lực
lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam và triển khai 4
tổ bảo vệ đảo.
Lúc này, Trung Cộng điều
thêm 2 hộ vệ hạm trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ lực lượng đă đến từ
trước, yêu cầu phía VN rút khỏi đảo Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp
nhận định: Trung Cộng có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ
huy bộ đội b́nh tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác
chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
Ngày 14 tháng 3, chiến sự
diễn ra tại khu vực các đảo Gạc Ma, Cô Lin, và Len Đao.
Băi Gạc Ma
Sáng ngày 14 tháng 3, từ
tàu HQ 604 đang thả neo tại Gạc Ma, Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ
đoàn 146, phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Cộng đang tiến
lại gần. Tổ 3 người gồm thiếu uư Trần Văn Phương và hai chiến sĩ
Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Lanh được cử lên đảo bảo vệ lá cờ Việt Nam
đang cắm trên băi.
Phía Trung Cộng cử 2
xuồng chở 8 lính có vũ khí lao thẳng về phía đảo. Chỉ huy Trần Đức
Thông ra lệnh cho các thủy thủ từ tàu 604 tiến về bảo vệ băi để h́nh
thành tuyến pḥng thủ, không cho đối phương tiến lên.
6 giờ sáng, Hải quân
Trung Cộng thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo giật cờ Việt
Nam. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn bị thương. Thiếu úy Trần
Văn Phương bị bắn tử thương, trước khi chết ông đă hô: "Thà hy sinh
chứ không chịu mất đảo, hăy để cho máu của ḿnh tô thắm lá cờ truyền
thống của Quân chủng Hải quân".
Do Hải quân Việt Nam
không chịu rút khỏi đảo, lúc 7h30, Trung Cộng dùng 2 chiến hạm bắn
pháo 100 mm vào tàu 604, làm tàu bị hỏng nặng. Hải quân Trung Cộng
cho quân xông về phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy
quân trên tàu sử dụng các loại súng AK, RPD, B-40, B-41 đánh trả
quyết liệt, buộc đối phương phải nhảy xuống biển bơi trở về tàu.
Hải quân Việt Cộng vừa
chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh và hỗ trợ các
chiến sĩ bảo vệ cờ. Trung Cộng tiếp tục nă pháo, tàu 604 của Việt
Nam bị thủng nhiều lỗ và ch́m dần xuống biển. Vũ Phi Trừ - thuyền
trưởng, Trần Đức Thông - lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, cùng một số thủy
thủ trên tàu đă tử trận cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.
Đảo Cô Lin
Tại đảo Cô Lin, 6 giờ,
tàu HQ-505 của Việt Cộng đă cắm hai lá cờ trên đảo. Khi thấy tàu 604
của Việt Nam bị ch́m, thuyền trưởng tàu 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ
neo cho tàu ủi băi. Phát hiện tàu 505 đang lên băi, 2 tàu của Trung
Cộng quay sang tấn công tàu HQ-505. Khi tàu HQ-505 trườn lên được
hai phần ba thân tàu lên đảo th́ bốc cháy.
8h15, thủy thủ tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo
vệ đảo, và đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu 604 bị ch́m ở phía băi Gạc
Ma ngay gần đó.
Đảo Len Đao
Ở hướng đảo Len Đao, 8h20
ngày 14 tháng 3, Hải quân Trung Cộng bắn mănh liệt vào tàu HQ-605
của Hải quân Việt Cộng. Tàu 605 bị bốc cháy và ch́m lúc 6h ngày
15/3, thủy thủ đoàn của tàu bơi về đảo Sinh Tồn.
Thượng uư Nguyễn Văn Chương và trung uư Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa
thương binh và chiến sĩ về tàu 505 (sau khi bị bắn cháy nằm trên băi
Cô Lin). Thi hài các chiến sĩ Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Tư, cùng
các thương binh nặng được đặt trên xuồng. Số người c̣n sức một tay
bám thành xuồng một tay làm mái chèo đưa xuồng lết trên mặt nước để
tới băi Cô Lin.
Kết quả
Trong trận chiến ngày 14
tháng 3 năm 1988, Việt Cộng bị thiệt hại 3 tàu bị bắn cháy và ch́m,
3 người tử trận, 11 người khác bị thương, 70 người bị mất tích. Sau
này Trung Cộng đă trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt, 61
người vẫn mất tích và được xem là đă tử trận.
Việt Cộng bảo vệ được chủ
quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao. Trung Cộng chiếm đảo Gạc Ma từ
ngày 16 tháng 3 năm 1988 và vẫn giữ cho đến nay.
Trong năm 1988, Hải quân
Việt Cộng đưa quân ra đóng giữ tiếp 11 băi đá ngầm khác. Ngày 17
tháng 10, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh kư văn bản 19/NQ-TƯ về việc
bảo vệ khu vực băi ngầm trong thềm lục địa phía Nam (khu DK1). Ngày
5 tháng 7 năm 1989, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 180UT về việc
xây dựng cụm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật thuộc tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu (DK1), xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm
lục địa này. Từ tháng 6 năm 1989, Hải quân Việt Nam bắt đầu đóng giữ
các băi đá ngầm: Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế
Dương, Ba Kè.
Trong thời gian xảy ra
chiến sự, Hải quân Liên Xô đóng ở Cam Ranh đă không can thiệp, tương
tự như Đệ thất Hạm đội của Mỹ năm 1974 trong Hải chiến Hoàng Sa.
Nguyên nhân
Theo phía Trung Cộng th́
trong khi các tàu của họ đang bỏ neo để yểm trợ cho một nhóm nghiên
cứu thăm ḍ mỏ dầu ở đây th́ Hải quân Việt Cộng nổ súng tấn công, v́
thế hải quân Trung Cộng bắt buộc phải tự vệ. Khi hạm đội Trung Cộng
di chuyển tới Trường Sa, Trung Cộng lấy danh nghĩa đưa phái đoàn
khoa-học Liên Hiệp Quốc đi khảo sát. Sau này Chính phủ Trung Cộng
tuyên bố rất tiếc là biến cố đă xảy ra. Về phía Liên Hiệp Quốc th́
cho rằng họ không có công tác khảo sát nào ở Trường Sa.
Vào tháng 4 năm 1988,
Trung Cộng cũng đă thông qua một nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam,
trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa mà theo Việt Nam là của
Việt Nam.
Bất chấp luật lệ chiến
tranh
Theo các báo của Việt
Cộng th́ khi tàu của Việt Nam bị đánh đắm th́ tàu chiến Trung Cộng
chặn không cho tàu của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế đến cứu. Đây là một
sự vi phạm những điều luật căn bản nhất của chiến tranh.
Hải chiến
Hoàng Sa 1974
Hải chiến Hoàng
Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng ḥa và Hải quân
Trung Quốc từ 17 đến 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa. Sau
khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam Cộng ḥa đă thu hồi chủ quyền
toàn bộ quần đảo này từ chính phủ bảo hộ Pháp. Sau trận chiến, Trung
Quốc đă chiếm đóng toàn bộ quần đảo cho đến nay.
Bối cảnh
Quần đảo Hoàng
Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng ḥa bảo vệ và thực
hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent
group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group).
Dưới thời Việt Nam Cộng ḥa đă có đài khí tượng do Pháp xây, trực
thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy
quân lục chiến.
Năm 1956, Hải
quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc
đảo.
Năm 1958, Trung
Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lănh hải 4 điểm, trong đó có tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức
Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo
Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores).
Vào giai đoạn
này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng
ḥa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng ḥa
và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9
năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi
nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ
Trung Quốc quyết định về hải phận 12 hải lí của Trung Quốc (nhưng
thực chất chỉ tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc chiến
tranh Việt Nam chứ không hề có ḍng nào khẳng định chủ quyền của
Trung Quốc ở 2 quần đảo này).
Năm 1961, chính
phủ Việt Nam Cộng ḥa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng
Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng ḥa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam
Cộng ḥa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa
đến thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng ḥa cũng thiết
lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Năm 1970, Hoa
Kỳ và Nhật Bản kư Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa Reversion
Treaty) trao trả quần đảo Điếu Ngư (Diaoyu) (tức Sento Shosho hay
Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự
phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt,
cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng
Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải
đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải quân
Việt Nam Cộng ḥa th́ đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc, và là nguy cơ cho Việt Nam Cộng ḥa trong việc bảo vệ Hoàng
Sa.
Năm 1971, Hải
quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng ḥa tiếp tục chạm súng
trên hải phận Hoàng Sa. Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt
Nam, v́ nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt
Nam Cộng ḥa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ c̣n một trung
đội địa phương quân trấn giữ nhóm Nguyệt Thiềm.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Đệ thất Hạm đội rút quân và
thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đă xem
việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng ḥa.
Năm 1974 Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng ḥa quyết định thiết lập
một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ
hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Khi
một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa thăm ḍ một số đảo
Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên th́ khám
phá ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra
sau đó.
Tương quan
lực lượng
Phía Việt Nam
có Tuần dương hạm Trần B́nh Trọng (HQ-5), Tuần dương hạm Lư Thường
Kiệt (HQ-16), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), Hộ tống hạm Nhật
Tảo (HQ-10), một đại đội hải kích thuộc Hải quân Việt Nam Cộng ḥa,
một số Biệt hải (biệt kích hải quân) và một trung đội địa phương
quân đang trú pḥng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Trung Quốc có Liệp tiềm đĩnh số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo
lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 391, Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm
đĩnh số 281 và hai chiến hạm số 402 và số 407 chở quân (không rơ
loại), Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục
chiến, và hai đội trinh sát.
Diễn tiến
Ngày 16 tháng 1
năm 1974, Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn
của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa thăm ḍ một số đảo Hoàng Sa phát hiện
hai chiến hạm số 402 và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền,
và phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại
các đảo Quang Ḥa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc.
Sau khi cấp báo
về Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng, HQ-16 dùng
quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lănh hải Việt Nam.
Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang hiệu yêu
cầu phía Việt Nam Cộng ḥa rời lănh hải Trung Quốc.
Ngày 17 tháng 1
năm 1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa đổ bộ một
toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ cờ Trung
Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng ḥa rút trở lên tàu. Cùng
trong ngày Liệp tiềm đĩnh số 274 và Liệp tiềm đĩnh số 271 của Trung
Quốc xuất hiện.
Ngày 18 tháng 1
năm 1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam Cộng
ḥa bay ra Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để trực
tiếp chỉ huy trận đánh. Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm
chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Ḥa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Lực
lượng hành quân Hoàng Sa 1 được tăng cường thêm Tuần dương hạm Trần
B́nh Trọng (HQ-5) làm soái hạm cho cuộc hành quân, và Hộ tống hạm
Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham
chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ c̣n một máy hoạt động.
8 giờ 30 ngày
19 tháng 1, hai nhóm Biệt Hải của Việt Nam Cộng ḥa gồm 74 người đổ
quân đảo Quang Ḥa, bị một đại đội của hải quân Trung Quốc tấn công.
Cuộc giao tranh dẫn đến thương vong của Hải quân VNCH gồm có 2 người
chết và 2 bị thương, các toán Biệt Hải được lệnh rút khỏi đảo.
10 giờ 22 cùng
ngày, một hộ tống hạm Trung Quốc nổ súng vào khu trục hạm Trần Khánh
Dư của VNCH khi đó đang ở gần đảo Quang Ḥa. Khu trục hạm Trần Khánh
Dư bị hư hại nhẹ nhưng phản pháo bắn ch́m hộ tống hạm đối phương.
Đến trưa, hai
bên ngừng chiến, các chiến hạm của VNCH tập trung về vùng đảo phía
Tây Hoàng Sa, 30 binh sĩ đổ bộ lên các đảo Vĩnh Lạc và Cam Tuyền.
Đến lúc đó, trên đảo Hoàng Sa đang có một trung đội Địa Phương Quân
thuộc tiểu khu Quảng Nam và 4 nhân viên khí tượng trú đóng.
Trong thời gian
xảy ra chiến sự, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng ḥa nhận được
thông báo của Văn pḥng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài G̣n,
cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided
missile frigate) và chiến đấu cơ MIG từ Hải Nam đang tiến về phía
Hoàng Sa. Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng ḥa sau đó yêu cầu Đệ
thất Hạm đội trợ giúp, nhưng không thành công. Các chiến hạm Việt
Nam Cộng ḥa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Đêm hôm đó, 3
chiến hạm VNCH bị hư hại được lệnh rút về căn cứ hải quân Đà Nẵng.
Hộ tống hạm HQ 10 trong ngày 19 đă bị trúng hỏa tiễn Styx, chịu
thiệt hại nặng và bị ch́m, thủy thủ đoàn gồm 82 người bị mất liên
lạc.
10 giờ 22 ngày
hôm sau, 20 tháng 1, 4 phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh
tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa. Tiếp đó, quân Trung
Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của VNCH trên các đảo này.
Sau 20 phút, lực lượng của VNCH trên các đảo bị mất liên lạc, bốn
chiến hạm c̣n lại trên vùng biển Hoàng Sa cũng bị trúng đạn và hư
hại nhẹ.
Kết quả
Theo tài liệu
của Việt Nam Cộng ḥa th́ 274 trúng đạn, tay lái bất khiển dụng phải
ủi vào băi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát, 271 hoặc 389 bị ch́m
tại trận, và 389 và 391 bị hư hại nặng. HQ-10 trúng đạn vào pháo
tháp bị ch́m tại trận, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, HQ-5 và
HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10
tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương. Hai
ngày sau trận hải chiến, ngày 20 tháng 1, tàu chở dầu Ḥa Lan "Kopionella"
vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang trôi dạt trên
biển. Đến mười ngày sau, ngày 29 tháng 1, ngư dân Việt Nam vớt được
một toán quân nhân Việt Nam Cộng ḥa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1
sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên
Quang Ḥa, đă dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo tài liệu
của Trung Quốc th́ 274, 271, 389, 391 đều trúng đạn, 281, 282 và
402, 407 bị hư hại trung b́nh, HQ-10 bị ch́m tại trận. Trung Quốc
bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ[10]. Trung Quốc có trao
trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Hồng Thập Tự.
Trung Quốc
chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này. Sau trận chiến, Việt
Nam Cộng ḥa đă ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các chứng cớ
lịch sử về chủ quyền của ḿnh[cần dẫn nguồn] và đă được Chính phủ
Pháp ủng hộ v́ trước đây theo Ḥa ước Pháp Thanh th́ người Pháp đă
thực hiện chủ quyền ở quần đảo này. Tuy nhiên, Trung Quốc đă cho đập
phá các bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, đào các mộ của người
Việt đă chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt.
Hộ tống hạm
Nhật Tảo (HQ-10) của Việt Nam Cộng Hòa bị Trung Cộng đánh đắm
ở Hoàng Sa năm 1974
Tuần dương hạm
Lư Thường Kiệt (HQ-16) của Việt Nam Cộng Hoà trong trận hải chiến
Hoàng Sa năm 1974 với bọn xâm lăng Trung cộng
Khu trục hạm
Trần Khánh Dư (HQ-4) của Việt Nam Cộng Hoà trong trận hải chiến
Hoàng Sa năm 1974 với bọn xâm lăng Trung Cộng
Soái hạm Trần
B́nh Trọng (HQ-5) của Việt Nam Cộng Hoà trong trận hải chiến Hoàng
Sa năm 1974 với bọn xâm lăng Trung Cộng
Liệp tiềm đĩnh
số 271 Hải quân Trung Cộng chụp từ chiến hạm VNCH trước khi nổ súng
This image has been resized. Click this bar to view the full image.
The original image is sized 800x485.
Chiến sĩ Biệt
hải Việt Nam Cộng ḥa
Du lịch Thác
Bản Giốc từ bên Trung Cộng!
Hoàng Sa-Trường
Sa giờ đây đang là chốn quê hương đẹp nhất của Trung Cộng. Tiếp theo,
thác Bản Giốc được mang tên Trung Cộng là thác Đức Thiên, cũng trở
thành thác "đẹp nhất" tại Trung Cộng và hoành tráng hàng thứ hai của
thế giới!
Hàng loạt tour
du lịch mời chào trên các trang lữ hành của Trung Cộng, ca ngợi thác
Đức Thiên là chốn thần tiên. "những năm trước đây chưa được khai
thác v́ đường xá xa xôi cách trở" (giải thích trên mạng lữ hành
Trung Cộng).
Hôm nay xin mời
bà con Việt Nam du lịch cùng các bác Trung Cộng một chuyến cho biết
cảm giác "Núi liền núi, Sông liền sông".
Đến nơi!
Tư liệu tham khảo :
Biên giới trên
bộ Việt-Trung: Sẽ phân giới cắm mốc khu vực thác Bản Giốc
Nghĩa Nhân
Lịch sử:
Đường biên giới không đi qua ải Nam
Quan.
Theo kế hoạch
của Ban Biên giới Chính phủ, năm 2008 sẽ hoàn thành nốt phần c̣n lại
công việc phân giới cắm mốc biên giới trên bộ giữa Việt Nam - Trung
Quốc, bao gồm cả những khu vực phức tạp như thác Bản Giốc thuộc tỉnh
Cao Bằng. Trả lời Báo Nhân Dân hôm 2-1, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao đặc
trách vấn đề biên giới, ông Vũ Dũng, cho biết thác Bản Giốc gồm hai
phần, trong đó phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, không có
tranh chấp.
Phần thác thấp
gắn liền với sông Quây Sơn. Theo Công ước Pháp-Thanh, đường biên
giới đi giữa sông Quây Sơn đến thác và mốc 53 nằm phía trên thác
đánh dấu sự chuyển hướng đường biên giới từ sông lên bờ. “Hiện nay
ta và Trung Quốc chưa phân giới cắm mốc đoạn biên giới khu vực này
nhưng có thể khẳng định phần thác thấp sẽ được phân giới theo luật
pháp và tập quán quốc tế về trung tuyến ḍng chảy hoặc trung tuyến
tàu thuyền đi lại được. Hoàn toàn không có chuyện Việt Nam mất thác
Bản Giốc như một số người nói. Hàng triệu lượt khách du lịch đến
thác Bản Giốc đều biết rất rơ điều này” - ông Dũng nói.
Với khu vực cửa
khẩu Hữu Nghị, ông Vũ Dũng cho biết thêm một số người hiểu nhầm là
đường biên giới đi qua ải Nam Quan. Thực ra trấn Nam Quan do Trung
Quốc xây dựng vẫn thuộc Trung Quốc. Và theo các văn bản pháp lư lịch
sử, đường biên giới luôn nằm phía nam ải Nam Quan.
C̣n vị trí cụ
thể đường biên, do hạn chế của điều kiện lịch sử, các văn bản pháp
lư về hoạch định và phân giới cắm mốc giữa Pháp và nhà Thanh (Trung
Quốc) có những điểm không rơ ràng. Đường biên giới được vẽ trên bản
đồ tỷ lệ lớn từ 1/20.000 đến 1/500.000, có nghĩa 1 mm trên bản đồ
tương đương với 20-500 m trên thực địa. Hơn nữa, địa h́nh trên bản
đồ không hoàn toàn phù hợp với địa h́nh trên thực địa nên rất khó
xác định hướng đi của đường biên giới tại các khu vực này. Chính v́
vậy mà tại các khu vực này đă xảy ra tranh chấp rất phức tạp và kéo
dài.
Chút tư liệu
tham khảo 2:
Tại khu vực
mốc 53 (xă Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy
Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc
Kinh cũng đă công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1976, phía
Trung Quốc đă huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang
lập thành hàng rào bố pḥng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác
Bản Giốc thuộc lănh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một
đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới,
việc làm đă rồi, xâm phạm lănh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn P̣
Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. ...
Năm
1955-1956, Việt Nam đă nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam:
tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng ḷng tin của Việt Nam, họ đă sửa kư hiệu
một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất
Việt Nam thành của Trung Quốc. Thí dụ, họ đă sửa kư hiệu ở khu vực
thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một
phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn P̣ Thoong.
Nguồn: Cuốn
"Vấn đề Biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc" do NXB Sự Thật - Hà
Nội ấn hành năm 1979. |