Làm con chim
hồng hộc bay giữa trời xanh quả thực là khó
Giáo sư Tương Lai
Cao Bá Quát -
con người "nhất sinh đê thủ bái mai hoa", suốt cuộc đời chỉ biết cúi
đầu trước hoa mai mà thôi, đă từng chia kẻ sĩ, nay ta gọi là trí
thức, thành ba loại, ứng với ba loài chim. Loại thứ nhất là hồng hộc
bay giữa trời xanh. Loại thứ hai là hạc đen ẩn bên sườn núi. Loại
thứ ba là hoàng yến luẩn quẩn ở chốn lâu đài của kẻ quyền quư. Con
người "những muốn vin mây mà lên cao măi" như Cao Bá Quát tất nhiên
muốn được là loại chim ǵ, và khinh loại chim ǵ rồi.
Đấy là chỉ
nẩy ra từ một bài thơ làm khi uống ruợu ở nhà bạn, trong những bài
thơ khác của ông, c̣n bao h́nh ảnh những kiểu loại chim khác nữa.
Khi th́ là cánh c̣ trắng giữa sông hồ trong cảnh sắc mùa xuân: "Xuân
tĩnh giang hồ nhất bạch âu". Có khi đó là "con hạc ốm kêu ở đền cổ".
Có khi chua chát, thảm hại như con sáo "chỉ v́ có thể nói được tiếng
người, để đến nỗi cụt mất đầu lưỡi" .
Chao ôi,
chỉ để nói được tiếng người, đúng hơn, nhại được vài âm thanh vô hồn
theo đúng tiếng người để rồi bị giam trong lồng, và rồi không bao
giờ c̣n véo von được tiếng của chính ḿnh nữa, cái thân phận con sáo
nói được tiếng người sao mà khốn khổ làm vậy. Giá mà con sáo cũng
biết suy nghĩ như con người th́ liệu nó có cam chịu phận cụt mất đầu
lưỡi như vậy không? Ấy thế nhưng, vào thời ông, lắm kẻ sĩ tuy không
bị cụt đầu lưỡi nhưng nào có nói được chính tiếng của ḿnh đâu, họ
"...phải nói khẽ, sợ nói to trái ư trời, trời ghét"! Đâu phải là ư
trời mà là ư người đấy thôi, người có quyền! Đâu phải là trời ghét
mà là người ấy ghét đấy. Mà ghét, là v́ lời của kẻ sĩ có tài và
trung thực thường không thuận tai. "Trung ngôn nghịch nhĩ", đó là
một khái quát xuyên thời gian! Kẻ sĩ, người trí thức mà không nói
được tiếng nói của chính ḿnh, không nghĩ được điều ḿnh cần nghĩ và
muốn nghĩ, th́ suy cho cùng, nào có khác ǵ con sáo bị cụt mất đầu
lươi đâu?
Ấy vậy mà
làm con "hồng hộc" bay giữa trời xanh thật quả là khó lắm lắm. C̣n
chọn được cách thế của con "hạc đen" ẩn bên sườn núi đâu có dễ? Sự
nghiệp và thân phận của Cao Bá Quát thật long đong.
Ông cũng
từng dấn thân trên đường hoạn lộ: “Quan cái phân phân ngă hành hỹ”,
mũ lọng nhộn nhịp ta cứ đi! Thế nhưng, “bước đường phẳng lặng th́ mờ
mịt, bước đường ghê sợ th́ nhiều”. Đến núi Nam Tào, nh́n vào đền thờ
của Trần Hưng Đạo và nơi ẩn dật của Chu Văn An, ông ngậm ngùi “Xuân
trên ḍng Kiếp dồn cả vào miếu của vị vương lừng tiếng. Mây ở núi
Phượng phủ kín ngôi nhà của bậc ẩn dật ngày xưa, Mà nay th́ chuyện
cũ anh hùng đă gửi cả cho làn sóng biếc”.
Với ông,
Chu Văn An và Nguyễn Trăi là hai thần tượng mà ông kính phục. Khi có
người bạn lên đường nhận chức tri phủ Thường Tín, chốn quê của Chu
Văn An và Nguyễn Trăi, ông viết bài thơ dài khuyên bạn và nhờ hăy v́
ông mà đến lạy trước bàn thờ hai vị đó. Trong bài thơ này, ông bộc
lộ nỗi niềm: “Tiều Ẩn và Ức Trai là hai nhân vật tuyệt vời, Tài trai
sống ở đời, đă không làm được việc phơi gan, bẻ găy chấn song, giữ
vững cương thường. Lại ngồi nh́n bọn cầm quyền sói lang hoành hành...
Rồi lúc già th́ gối đầu vào vợ con mà chết! Giả sử hạng người ấy
xuống suối vàng gặp hai Cụ. Th́ cũng mặt dày, trống ngực đánh, thần
sắc rũ rượi ra mà thôi”.
Những muốn
làm con hồng hộc bay giữa trời cao như Nguyễn Trăi đă từng có lúc
tung hoành trong sự nghiệp cứu nước, hoặc nếu không, th́ như Chu Văn
An thanh cao như chim hạc đen ngủ một ḿnh bên sườn núi, thế nhưng
Cao Bá Quát “Cây đàn thanh kiếm bao năm đi lầm đường... ngày nay một
manh áo vải đứng giữa trời đất bao la”. Và, ông nhờ báo cho bạn:
“rằng tôi c̣n khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên thôi! Ông điên v́
thời cuộc như Khuất Nguyên bên ḍng sông Mịch La. Ông điên v́ hoài
băo bị dập tắt, khát vọng không thực hiện được: “Mặt trời đỏ đi đằng
nào? Để dân đen than thở măi”.
Cái kết cục
bi thảm của một kẻ sĩ như ông là điều đă được báo trước.
Giáo sư Tương Lai
Cựu Viện trưởng viện Xă hội học |