Về vấn đề vai tṛ của Doanh nghiệp nhà nước
Nguyễn Thanh Giang
Lời Ṭa soạn:
Ngày nay, trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế trầm trọng, nhiều kinh
tế gia, kể cả một vài nhà lănh đạo đă phải công khai yêu cầu xét lại
vai tṛ chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Trong phiên họp Quốc hội ngày 10 tháng 5 năm 2008, phó chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nói : “ Năm 2006, các doanh nghiệp nhà
nước đă vay hơn 48.000 tỉ đồng (chiếm 60% tổng đầu tư toàn xă hội),
để đầu tư phát triển sản xuất nhưng làm ra chỉ 42.000 tỉ đồng, thậm
chí thua lỗ. Những tập đoàn, Cty nhà nước lớn được coi là "anh cả"
của nền kinh tế mà tiền làm ra một năm không đủ trả nợ th́ làm sao
giữ được vai tṛ chủ đạo ổn định nền kinh tế". Tiến sỹ Nguyễn
Quang A – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, bức xúc thốt
lên : “Đă đến lúc phải nghiêm túc nh́n nhận lại vai tṛ "chủ đạo"
của khu vực kinh tế nhà nước … Cách triệt để hơn là nên tận dụng cơ
hội này để xem xét lại tận gốc rễ vai tṛ của kinh tế nhà nước (
theo tôi chúng không những không giữ được vai tṛ chủ đạo mà là một
trong những nguyên nhân chính của vấn đề) … ”.
Tập san Tổ Quốc
đăng lại bài viết dưới đây để thấy rằng những tiếng nói quả cảm, đầy
trách nhiệm như vậy cũng đă từng gióng lên tha thiết từ cách đây non
chục năm. Tiếc rằng ĐCSVN đă không sáng suốt tiếp thu và con người
này đă từng bị cầm tù v́ cho rằng như thế là “Tuyên truyền chống chủ
nghĩa xă hội ”! .
Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ VI của Đảng đă nhấn mạnh: “
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy
luật là điều kiện bảo đảm sự lănh đạo đúng đắn của Đảng ”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội (6
- 1991) cũng xác định “Để khắc phục khuyết điểm, sai lầm, đưa đất
nước vượt qua khỏi t́nh trạng khủng hoảng, Đảng ta chủ trương trước
hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy”. Nhờ sự phản tỉnh
tiến bộ ấy, Đảng chẳng những cứu được đất nước thoát cơn nguy khốn
của cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng mà, trong ṿng thập kỷ qua
đă ngập ngừng chớm bước tới đài vinh quang.
Không thể nói là không hiển hách khi đang ậm ạch lê bước với tốc
độ tăng trưởng 0, 4% thời kỳ 1976 – 1980; 3,9 % thời kỳ 1986 –
1990, bỗng vươn vai Phù Đổng sải bước dài 8,7% năm 1992; 8,1% năm
1993; 8,8% năm 1994; 9,5% năm 1995; 9,3% năm 1996… Nói chung, trong
mười năm qua ta đă đạt được tăng trưởng kinh tế vững chắc với tốc độ
tăng trưởng trung b́nh bằng hoặc cao hơn so với tốc độ thần kỳ của
khu vực Đông á.
Không hiển hách sao khi ta biến hoá từ h́nh ảnh thảm thương của
Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị vác rá đi xin từng ít mỳ, chút bo bo với
niềm mơ ước như là lư tưởng về cái chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực
quy thóc mỗi năm đến cái ngôi thứ nh́, ba trên thế giới về xuất khẩu
lương thực? Năm 1999, cho dù đầu năm hạn hán El Nino kéo dài, cuối
năm lũ lụt La Nina chà đi xát lại suốt 7 tỉnh miền Trung, ta vẫn
xuất khẩu 4,6 triệu tấn gạo (tương đương 8 – 9 triệu tấn thóc). Đời
sống dân cư đă khác xa những ngày chưa đổi mới. Không kể bọn vô
lương, nhờ tham nhũng, biển thủ của cải, mồ hôi nước mắt của nhân
dân bỗng chốc bốc lên thành triệu phú ( thậm chí có thể cả tỷ phú)
đôla; số nhân khẩu thuộc diện thiếu đói cũng giảm từ 20 triệu người
xuống c̣n 12,5 triệu người. Mức giảm của tỷ lệ nghèo đói trong nhân
dân đă từ 30% trong năm 1992 xuống 15,7% trong năm 1998. Kỳ tích xoá
đói giảm nghèo đạt được như thế khiến nhiều nước, nhiều tổ chức quốc
tế thán phục và ngợi khen.
Tuy nhiên, sau cái vươn vai khoẻ khoắn, h́nh như đang là cái
ngáp dài thiểu năo. Đường parabôn biểu diễn mức tăng trưởng kinh tế
nước ta đạt cực đại năm 1995, sau đó tụt sang nhánh thứ hai và thật
sự hụt hẫng từ 1998. Năm 1999 có lẽ mức tăng GDP thực tế không được
4,8%. Năm nay, sang năm… không biết c̣n mấy ai tin vào điều ǵ có
thể tốt đẹp nếu không tiếp tục đổi mới, đổi mới hoàn toàn, đổi mới
thực sự !
T́nh trạng thất nghiệp đang ngày càng trầm trọng. Tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị từ 6% trong năm 1997 ( * ) đang tăng đến 8%.
Riêng ở Hànội, tỷ lệ này là 10,3%. Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn
có thể đến mức vào khoảng 30%. Sức mua của nhân dân kém hẳn, làm cho
nền kinh tế đang rơi vào trạng thái thiểu phát nguy hiểm. Thu ngân
sách giảm mạnh từ 23% GDP trong năm 1996 xuống dưới 18% trong năm
1999. Mức đầu tư tính theo GDP cũng giảm từ 29% trong năm 1997 xuống
mức thấp nhất kể từ 1992 để chỉ c̣n 19%. Đầu tư nước ngoài đang từ
mức cao 2 tỷ đôla mỗi năm ( tương đương 8% GDP ) trong giai đoạn
1995-1997 tụt xuống chỉ c̣n 600 triệu đôla năm 1999 ! Sau cơn khủng
hoảng tài chính Châu á đầu tư tư nhân đă lần lượt quay trở lại Hàn
Quốc, Thái Lan, Malayxia… trong khi Việt Nam cứ mỏi mắt trông chờ
!
Có thể và cần t́m nguyên nhân gây t́nh trạng bi đát này trong
các chủ trương, chính sách đối nội và đối ngoại, trong sự vận hành
tŕ trệ, ậm ạch của bộ máy hành chính quan liêu, lỗi thời… Ở bài
viết nhỏ này, tác giả chỉ đặt vấn đề xem xét vai tṛ và trách nhiệm
của các doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế nước ta.
I - Thực trạng doanh
nghiệp nhà nước
Từ quyết định sáng suốt dứt bỏ nền kinh tế chỉ huy tập trung
quan liêu bao cấp, mạnh dạn bước vào cơ chế thị trường, các doanh
nghiệp nhà nước đă được sắp xếp, tổ chức lại theo nhiều nghị định,
quyết định : quyết định 315/HĐBT (ngày 1-9-1990), nghị định 388/HĐBT
(ngày 20-11-1991), quyết định 90/TTg và quyết định 91/TTg (
ngày7-3-1994 ), nghị định 44/NĐ-CP ( ngày 29-6-1995 ), chỉ thị 500/TTg
( ngày 25-8-1995 ) và chỉ thị 20/ TTg ( ngày 21-4-1998 )... Từ
khoảng 15.000 DNNN lớn nhỏ, nhờ các biện pháp sát nhập, giải thể bớt
các doanh nghiệp quá manh mún, non yểu, nay chỉ c̣n khoảng 5.700
DNNN. Con số c̣n lại chỉ không đầy một nửa. Nhờ đó tiềm lực về vốn
của các DNNN đuợc tăng lên đáng kể, quy mô vốn b́nh quân của mỗi
doanh nghiệp tăng từ 3,1 tỷ đồng lên 11,5 tỷ đồng.
Toàn bộ số DNNN hiện sử dụng 80% lượng vốn xă hội. Hầu hết các
khoản viện trợ phát triển, giải ngân qua các bộ, đều được phân bổ
cho các DNNN do trung ương quản lư. Tuy nhiên, một tỷ lệ lớn các
DNNN có quy mô lớn và trung b́nh đến nay vẫn tiếp tục làm ăn thua lỗ.
Ngay cả trước khi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực tác động
đến Việt Nam, ước tính chỉ không đầy 40% số DNNN làm ăn có lăi. Hai
trăm doanh nghiệp lớn nhất được ưu tiên chiếm dụng tới 60% tổng số
vốn nhà nước th́ cũng đồng thời “ ưu tiên “ gánh 40% tổng số nợ.
Dùng phưng pháp phân loại qua tỷ số giữa lợi nhuận và nợ th́ các
doanh nghiệp loại “yếu kém nhất” đang ôm món nợ 20 ngh́n tỷ đồng,
đối với các doanh nghiệp loại “ hoạt động không hiệu quả ” con số
nghiệt ngă đó là 43 ngh́n tỷ đồng, tính đến cuối năm 1997. Nhóm các
DNNN “ yếu kém nhất “, trong quá tŕnh kinh doanh và phát triển đă
tạo ra được cho ḿnh số nợ trung b́nh cao gấp hai lần giá trị vốn
nhà nước đă chu cấp. Trong dó, 50 doanh nghiệp đặc biệt có số nợ cao
gấp nhiều lần giá trị vốn nhà nước. Do hầu hết các doanh nghiệp đều
bị thua lỗ triền miên nên khả năng trả được nợ hết sức mờ mịt, nếu
không muốn nói trắng ra là: không thể có !
“Lăo thành“ như Tổng Công ty Gang Thép Thái Nguyên mà đến cuối
năm 1998, tổng bí thư Lê Khả Phiêu cùng phó thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng trong chuyến thăm và làm việc, để ra sức tiếp tục cứu, đă phải
ra sức tiếp tục cho : cho khoanh nợ số tồn đọng 2 000 tấn thép trong
kho tương đương 87 tỷ đồng từ năm 1998 sang 1999-2000 không tính lăi;
cho giăn nợ số tiền đầu tư một số hạng mục công nghệ mới với giá 25
tỷ đồng ; cho được giăn các khoản vay 3-5 tới 8-10 năm; trong ṿng
3-4 năm, cho giăn hẳn khoảng một nửa số công nhân.....!
“Nho nhỏ” như công ty Lâm đặc sản Hà Nội, sau khi ăn vét kiệt
quệ những đồng vốn nhà nước cấp, đến nỗi trong két sắt chỉ vỏn vẹn
77.080 đồng tiền mặt mà số nợ phải trả vẫn c̣n đến 10 tỷ đồng. Dă
man đến mức, trong khi không chịu trả đủ lương cho công nhân (số
tiền nợ lương của 122 công nhân là 18 triệu) th́ lănh đạo lại đem
tài sản của Công ty cho tư nhân vay, từ đấy tạo thêm một khoản vốn
bị tư nhân chiếm dụng, một khoản nợ khó đ̣i, là 9 tỷ đồng.
“Quư phái“ như Tổng công ty Vàng Bạc Đá quư Việt Nam, được xem
như một “ tập đoàn kinh tế 90“, có tới 50 công ty hoạt động trên cả
nước. Nhưng, hầu hết đều lỗ. Có lăi chăng chỉ là lăi giả, c̣n lỗ th́
chắc chắn thật ! Riêng 1999 lỗ hàng chục tỷ đồng. Số khai lăi trước
thuế của một công ty đồ sộ đến thế mà chỉ là 2,5 tỷ đồng. Tính thuế
vốn như Bộ Tài chính quy định th́ khoản lỗ phải là hàng chục tỷ.
Riêng Công ty Vàng Bạc Đá quư Hải Pḥng, từ 1996 –1998 lỗ và thất
thoát 40 tỷ đồng.
Số nợ của 12 nhà máy đường trong năm 1997 mới ở mức hai con số :
77 tỷ và khả năng chi trả vào khoảng 35 tỷ. Sang năm 1998, tăng lên
ba con số để đạt 267 tỷ, trong đó, khả năng chi trả là 186 tỷ. Đến
năm 1999 lại vươn lên 308 tỷ mà khả năng chi trả chỉ vẫn dừng ở mức
khoảng 186 tỷ.
Làm với tinh thần độc lập, tự chủ cũng lỗ, liên doanh với nước
ngoài cũng lỗ. Cty liên doanh Mitsui Vina, liên doanh giữa Tổng công
ty Nhựa Việt Nam với Nhật Bản lỗ gần 16 triệu USD trong 2 năm 1998-
1999. Liên doanh với Coca Cola lỗ đến trắng tay...
Món nợ do các DNNN tạo ra khủng khiếp đến nỗi làm cho báo cáo
của Chính phủ trước kỳ họp thứ sáu của Quốc hội phải nghẹn ngào thốt
lên : “ Không thể tiếp tục dùng ngân sách nhà nước, tiền đóng thuế
của dân để nuôi dưỡng các DNNN đă trở thành gánh nặng của nền kinh
tế ! ”
Cách đây dăm năm, trong một bản góp ư vào Báo cáo Chính trị của
Đại hội VIII, tôi không nén nổi ḷng ḿnh, cũng đă từng thẳng thắn
cảnh báo: “ Nhiều doanh nghiệp nhà nước đang là các bầu sữa tong teo
của nhân dân bị vắt ra đau đớn để nuôi béo một bọn người vừa bất tài,
vừa vô trách nhiệm,vừa phi nhân bản “.
Lẽ ra tôi phải viết “ hầu hết DNNN “, nhưng lúc ấy ḷng dũng cảm
của tôi chỉ dừng ở mức dám dùng một tính từ chỉ số lượng hoàn toàn
bất định: “nhiều“ Bây giờ th́ bên cạnh câu ấy, tôi c̣n muốn minh hoạ
thêm bằng một biếm họa chua xót mà ở giữa là một cái bồ sứt cạp
thủng đáy; phía trên là mồ hôi, nước mắt, xương máu nhân dân đang
được mạnh tay đổ vào; phía dưới, ngoác ra hàng loạt cái mồm khốn nạn
chen nhau nhồm nhoàm nhai nuốt.
II - Tác hại của doanh
nghiệp nhà nước
Cũng như chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trước
đây, chủ trương ưu tiên củng cố, xây dựng các doanh nghiệp nhà nước
hiện nay đang tạo ra nhiều nghịch lư, nhiều phản giá trị cả trong
kinh tế lẫn xă hội.
Thật vậy, DNNN không chỉ là những cái bồ thủng đáy để người ta
rót của cải, tiền bạc của nhân dân , của nhà nước vào những cái mồm
tham nhũng đủ mọi cấp, đủ mọi loại, mà c̣n là những cái bồ sứt cạp
để người ta đổ tung toé một cách vô tội vạ những khoản “tiền chùa”
to lớn, tạo nên t́nh trạng lăng phí rất đau ḷng. Con số nợ tổng
cộng của các DNNN năm 1999 là 200 000 tỷ đồng chắc c̣n nhỏ hn nhiều
so với các khoản lăng phí gây ra từ cái cớ xây dựng sự nghiệp vai
tṛ chủ đạo cho DNNN.
Giải thích thế nào về t́nh trạng đất nước th́ nhỏ, giao thương
quốc tế chưa phát triển mấy mà phải quy hoạch xây dựng tới 114 cảng
lớn ? Chỉ riêng từ Sài G̣n đến Cần Giờ có mấy km đường sông thôi mà
bầy ra đến 20 cảng ! Phú Lộc (Thừa Thiên – Huế) đến Quảng Ngăi, cách
nhau chưa đầy 150 km mà nào Chân Mây, Tiên Sa, Dung Quất. Lại c̣n
đang tính thêm Kỳ Hà ! Lại toan cái nào cũng cần vươn lên tầm quốc
tế!
Trên cái chấm nhỏ tư ty ở bản đồ, trong phạm vi 10 km2 của huyện
Kiên Lương- Hà Tiên người ta đếm được 4 nhà máy xi-măng. Tiềm năng
đá vôi Hà Tiên không lớn lắm. Riêng đối với Nhà máy Xi- măng Hà Tiên
2 thôi, đá vôi ở đây cũng chỉ đủ cung cấp trong ṿng 30 năm nữa.
Trước mắt, do có tới 4 nhà máy nên xi-măng sản xuất ra ế ẩm v́ cung
đă vượt cầu nhiều lần.
Việc xây dựng tràn lan nhà máy xi-măng ḷ đứng rất lạc hậu của
Trung Quốc đang và sẽ c̣n để lại không biết bao nhiêu hậu quả khôn
lường về nợ tài chính và tác hại ô nhiễm môi trường! Nguồn nguyên
liệu đá vôi trong nước, đặc biệt là ở miền bắc, khá đồi dào, nhưng
người ta lại đi nhập quá nhiều clanh-ke về nghiền thành xi-măng,
trong khi các loại xi-măng sản xuất bằng nguyên liệu trong nước đang
bị ứ đọng !
“ Sự nghiệp bách hoa tề phóng“ của hàng loạt nhà máy đường ở các
tỉnh cũng gây nên tấn bi hài kịch khóc dở mếu dở. Có nhà máy xây
xong mà không ra đời được. Có nhà máy chỉ sống thoi thóp một thời
gian rất ngắn. Nông dân nhiều nơi được tuyền truyền, khích lệ để hôm
trước phá rừng trồng mía, hôm sau chặt mía bỏ thối ngoài đồng. Tổng
số vốn đầu tư cho 44 nhà máy đường lên tới gần 10.000 tỷ đồng. Trong
đó, già hai phần ba vay của nước ngoài. Niên vụ 1998-1999, 41 nhà
máy đường trong cả nước chỉ chạy 64% công suất thiết kế đă sản xuất
được 552.500 tấn đường. Niên vụ 1999-2000, cả 44 nhà máy vào cuộc,
với tổng công suất 78 200 tấn mía cây sẽ có nguy cơ sản xuất 950.
000 tấn đường. Như vậy sẽ có ít nhất 200. 000 tấn đường dư thừa.
Trong nước tiêu dùng không hết th́ xuất khẩu. Vậy là tốt quá rồi c̣n
ǵ ! Khốn nỗi, giá thành sản phẩm của các DNNN của ta hầu như bao
giờ cũng rất cao, cho nên, nếu đem xuất khẩu hết lượng đường dư thừa
ấy th́ nhà nước phải bù lỗ 20 –50 triệu ! Dẫn chứng này nhỏ nhưng
biểu hiện khá sinh động tính “ưu việt “ và tính vô chính phủ của
DNNN.
Do được ưu tiên, được cưng chiều nên tuyệt đại bộ phận các DNNN
vẫn chờ đợi sự xin - cho, sự bảo hộ của nhà nước, do vậy hoạt động
kinh doanh, sản xuất hết sức kém cỏi. Nếu so sánh trong cùng một
ngành nghề và quy mô th́ biên chế quản lư của DNNN thường gấp 2-3
lần doanh nghiệp tư nhân. Với các doanh nghiệp có cùng một tổng tài
sản cố định th́ số lao động của DNNN hầu như bao giờ cũng nhiều gấp
mười lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu quả sử dụng vốn
đă thấp lại không ngừng suy giảm. Năm 1995, mỗi đồng vốn nhà nước
c̣n tạo được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Năm 1998,
các con số tưng ứng là 2,9 và 0,13. Quá nửa số DNNN có tỷ suất sinh
lời trên tổng vốn thấp hơn lăi tiết kiệm !
Theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, mức tiêu thụ năng
lượng hiện nay của Viêt Nam chỉ bằng một phần bẩy của Thái Lan. Đứng
ở mức thấp nhất trong các nước đang phát triển. Tổn thất điện năng
năm 1998 là 16,08%, lớn gấp 1,8 lần Thái Lan. Năm 1998, một người
làm trong công ty phân phối điện ở Thái Lan quản lư 352 khách hàng
và bán được 1.597.331 kwh điện. Trong khi đó, ở Việt Nam, một nhân
viên chỉ quản lư được 55 khách hàng (hơn 6 nhân viên quốc doanh Việt
Nam mới quản lư được lượng khách hàng bằng 1 nhân viên Thái Lan ),
và bán được 363.880 kwh. Cho nên giá điện ở Việt Nam là 0,075 USD/kwh,
trong khi ở Indonesia chỉ có 0, 016 USD/ kwh; ở Thái Lan là 0,03; ở
Singapor : 0,05 ; ở Malaysia : 0,052.
Ở tất cả các ngành mà DNNN được độc quyền th́ nhân dân dều bị
bắt chẹt tiêu thụ với giá cắt cổ. Ngành bưu điện có thành tích hàng
đầu tiến lên hiện đại hoá nhưng giá sử dụng dịch vụ đắt đến nỗi
người nước ngoài cũng phải kêu ca. Một cán bộ khoa học Việt Nam,
trong quá tŕnh giao lưu học thuật chỉ cần gửi một tập tài liệu nhỏ
ra nước ngoài đă mất đứt nửa tháng lương.
Trong sản xuất thép, các DNNN đóng vai tṛ chủ đạo, cho nên, giá
thành sản xuất thép trong nước thường cao hơn giá thép nhập khẩu.
Giá thép nhập là 285 USD, trong khi đó giá sản phẩm trong nước trung
b́nh là 300 USD/ tấn.
Nghịch lư biểu hiện đến mức thật là khó xử qua câu chuyện này.
Kể từ 1 tháng 4 năm 2000, nhà nước chủ trương cho nhập khẩu phân bón
tuỳ theo nhu cầu, không cần quo-ta. Nhưng, Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam lại ra văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ cần quy định và
duy tŕ cho đến hết năm 2002 thuế suất và phụ thu phân bón nhập khẩu
ở mức 30% đối với phân supe lân và mức 15% đối với phân NPK. V́ sao
phải như vậy ? Chẳng qua v́ do cái sức ỳ quá lớn của các DNNN tại
các doanh nghiệp sản xuất phân bón quốc doanh như : Supe photphat
Lâm Thao, Supe photphat Long Thành, Phân lân Văn Điển, Phân lân Ninh
B́nh, không chịu cải tiến công nghệ, không chịu cải tổ bộ máy hành
chính cồng kềnh, nên giá thành sản xuất quá cao. Gía supe lân trong
nước tới 838. 000 đồng/tấn, trong khi giá nhập chỉ có 650.000. Phân
NPK nội 2.734. 000 đồng/tấn, trong khi nhập ngoại chỉ có 2. 284.000.
Hỏi rằng, ta v́ hàng chục triệu nông dân vốn đă khổ nghèo, đang
làm ăn c̣n rất vất vả hay v́ chỉ có mươi ngàn CBCNV trong ngành phân
bón ? Hỏi rằng giai cấp công nhân đang lănh đạo nông dân tiến lên no
ấm, giầu sang hay đang là cái gánh nặng đè trên cổ nông dân ?
Một số vị giám đốc quá phè phỡn với “bổng lộc chùa“, vừa thiếu
năng lực, vừa ậm ạch ngại vươn lên cạnh tranh không những đang phù
hoạ với các thế lực bảo thủ ra sức chống lại trào lưu hội nhập toàn
cầu, ngăn trở Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ mà c̣n lỳ lợm
chiếm chỗ làm, chặn đường xây dựng cơ đồ, sự nghiệp của thế hệ trẻ.
Trong khi nhiều nhà khoa học tài ba, nhiều giáo sư, tiến sỹ cứ
đúng tuổi là tự nguyện xin hoặc được quyết định nghỉ hưu; trong khi
nhiều cán bộ trẻ, nhiều kỹ sư, thạc sỹ tràn đầy sức lực, dồi dào trí
tuệ c̣n thất nghiệp, bị tước đi khả năng thi thố tài năng, cống hiến
xứng đáng cho đất nước th́ một số ông giám đốc, một số bà chức trọng
quyền cao mạo danh thiết tha với sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước
tung ra kiến nghị đ̣i kéo dài tuổi hưu trí. Hăy biết nghĩ rằng nếu
thực sự có tài th́ về hưu rồi vẫn cứ cống hiến được; nếu thực sự tâm
huyết th́ hăy nhích sang một bên, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ sống
c̣n và vươn tới. Hăy biết tin rằng chắc chắn thế hệ sau sẽ hơn chúng
ta.
III - Sức đóng góp của
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
Theo báo cáo kinh tế không chính thức của Ngân hàng Thế giới do
Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 1999 thực hiện
th́ trong năm 1999, kinh tế Việt Nam có hai điểm sáng nổi bật.
Điểm sáng thứ nhất là nông nghiệp tăng trưởng xấp xỉ 5% ; do đó
đă bù đắp cho mức tăng trưởng công nghiệp khiêm tốn (5,7% - so với
12,8% thời kỳ 1993-1997) và mức tăng trưởng dich vụ càng khiêm tốn
hơn (1,6% - so với 9,0% thời kỳ 1993-1997) để trở thành nguồn gốc
chính của tăng trưởng, của xoá đói giảm nghèo. Sản lượng lúa tăng
thêm 2 triệu tấn để đạt 31 triệu tấn. Xuất khẩu gạo tăng từ 3,5
triệu tấn lên mức kỷ lục mới là 4,6 triệu tấn.
Điểm sáng thứ hai là tăng trưởng xuất khẩu diễn ra trên một diện
rộng các mặt hàng. Xuất khẩu sang cả thị trường Châu Á và Châu Âu
đều tăng mạnh. Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế tạo tăng 18%. Giá
trị xuất khẩu các mặt hàng chưa qua chế biến tăng 13%.
Nguồn gốc điểm sáng thứ nhất chính là nhờ vào tăng năng suất và
đa dạng hoá nông nghiệp, nhờ sự xuất hiện các doanh nghiệp nhỏ trong
khu vực dịch vụ, đáng kể nhất là khu vực kinh tế hộ gia đ́nh, chủ
yếu là các hộ sn xuất nông nghiệp. (Đến đây, người viết cũng như
người đọc hẳn không thể không tưởng nhớ bí thư tỉnh uỷ Kim Ngọc,
người trí thức công nông dũng cảm đáng kính đă có công tiên phong mở
đường tạo ra nguồn gốc điểm sáng này).
Cùng với các trang trại, hộ kinh tế gia đ́nh ở nông thôn, các
doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài... đang góp phần chủ yếu huy động mạnh mẽ năng lực tiềm tàng
của hàng triệu, hàng triệu lao động Việt Nam tạo ra tỷ trọng trong
tổng thu nhập quốc dân lớn hơn khu vực các doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù đă có lợi thế quan trọng qua khoản thu rất lớn về dầu mỏ, tỷ
trọng trong tổng thu nhập quốc dân của các DNNN chỉ đạt 49%.
(C̣n nhớ, trong bản góp ư vào dự thảo báo cáo chính trị của Đại
hội VIII mang tiêu đề “ Thế nào là định hướng đúng “, tôi đă từng
sững sờ thốt lên:
“ Vậy mà, sao vẫn phải “ tập trung các nguồn lực để phát triển
kinh tế nhà nước ” và gán ghép cho nó cái chỉ tiêu chiếm tỷ trọng
60% GDP ?
Liệu có làm thế nào trong dăm năm tới đạt được chỉ tiêu đó không ?
Hay là, chỉ đạt được tỷ trọng đó khi GDP phải teo lại ?”)
Hiện nay, khu vực tư nhân mới chỉ tạo ra gần 1/2 GDP trong các
ngành chế tạo nhưng 600.000 doanh nghiệp nhỏ, 5.600 doanh nghiệp
vừa đang hoạt động trong lĩnh vực này cùng với xu thế gia tăng mạnh
hứa hẹn triển vọng vượt trội hẳn khu vực nhà nước.
Các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ trong ngành chế tạo, đặc
biệt là các doanh nghiệp quy mô tương đối lớn có đặc điểm hoạt động
theo định hướng xuát khẩu cao, hơn cả các DNNN. Trung b́nh, các
doanh nghiệp này xuất khẩu khoảng 3/4 sản phẩm mà họ sản xuất ra.
Như vậy, lại cũng chính các thành phần ngoài quốc doanh là nguồn
gốc tạo nên điểm sáng nổi bật thứ hai trong kinh tế Việt Nam 1999.
Khu vực tư nhân trong nước là nơi thu hút lao động nhiều nhất.
Hiện nay, các doanh nghiệp gia đ́nh và các doanh nghiệp tư nhân vừa
và nhỏ sử dụng trên 64% công nhân công nghiệp trong khi các DNNN chỉ
sử dụng 24%. Ông Andrew Steer, đại diện Ngân hàng Thế giới tại Hà
Nội cho biết 90% lực lượng lao động ở Việt Nam, tức 36 triệu người
làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân. Trong 5 năm qua, 5 triệu việc
làm mới được tạo ra, hầu hết là từ khu vực kinh tế tư nhân.
Ta xuất khẩu gạo thứ nh́, thứ ba trên thế giới nhưng nhiều lúc,
nhiều nơi, dân vẫn đói. Chỉ v́ không vận chuyển được gạo từ nơi thừa
đến nơi thiếu. Vai tṛ quốc doanh trong kinh doanh lương thực rất mờ
nhạt. Hàng năm cần vận chuyển từ nam ra bắc trên dưới 600 ngàn tấn,
vận chuyển điều hoà cho miền núi 600-700 tấn. Các phương tiện vận
chuyển quốc doanh phần do kém linh hoạt, phần v́ phí vận chuyển quá
cao nên không đảm đương việc này. Chính nhờ đội ngũ các công ty tư
nhân cần cù chăng màng lưới kinh doanh lương thực đều khắp các địa
bàn nên đă đảm nhiệm việc mua và cung ứng 70% lượng gạo xuất khẩu,
80% lượng gạo cung ứng tiêu dùng trong cả nước.
Mặc dù bị đối xử chưa công bằng, khu vực kinh tế tư nhân vẫn
kiên tŕ thầm lặng đóng góp phần rất xứng đáng cho nền kinh tế chung
của đất nước, vẫn mạnh mẽ vươn lên đạt mức tăng trưởng cao hơn khu
vực các DNNN.
Trong tổng sản lượng sản xuất toàn ngành công nghiệp 10 tháng
đầu năm 1999 gồm 144.533 tỷ đồng, tăng 10,3% cùng kỳ năm trước th́
khu vực quốc doanh trung ương tăng 5%, quốc doanh địa phương tăng
3,8 % và, khu vực ngoài quốc doanh tăng tới 8,2%. Bước sang 2 tháng
đầu năm 2000, so với cùng kỳ năm trước, mức tăng giá trị sản xuất
công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh vẫn tăng ở mức cao nhất : 15,8%
; mức tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng đạt 13,5%,
trong khi đó, mức tăng của khu vực quốc doanh chỉ đạt 10,2%. (Ở mục
“ Nhịp điệu Phát triển ” trên tờ Lao Động, số ra ngày 29-2-2000, do
tế nhị chỉ nêu 2 con số lớn phía trên, mà không tiện nêu số bé hơn
của khu vực kinh tế quốc doanh)
IV- Nh́n thẳng vào sự
thật, thực sự đổi mới tư duy và hành động
Tôi tâm đắc với ư kiến sau đây của nhà nghiên cứu Trần Khuê
trong tập tài liệu “ Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển ” của ông :
“ Đă có một thời ta phản đối quan điểm “ Bất kể mèo trắng hay mèo
đen, miễn là bắt được chuột ”. Rơ ràng thiên hạ coi trọng việc bắt
được chuột nên họ tiến nhanh hơn chúng ta. Mấy chục năm liền chúng
ta chỉ lo chọn mèo quốc doanh, c̣n mèo phi quốc doanh, phi tập thể
th́ dứt khoát không nuôi. Mèo quốc doanh th́ được chăm sóc đầy đủ
đến mức thấy không cần phải bắt chuột nữa. Gần đây ta thấy cần phải
chấp nhận cả năm loại mèo v́ chuột hoành hành dữ quá, đăc biệt có
nhiều mèo lại thông đồng câu kết cả với chuột. Điều đáng mừng là ta
đă nhận ra được việc bắt chuột là quan trọng. Chắc chắn là sẽ thấy
cần dùng loại mèo nào và không cần dùng loại mèo nào. Hiện nay các
loại mèo lười bắt chuột và hay ăn vụng đang ra sức phản đối hoặc làm
chậm tiến tŕnh cổ phần hoá...”.
Liệu đă thật sự có “Điều đáng mừng là ta đă nhận ra... ” chưa ?
Khi mà, trong diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 8 Khoá
VIII, tổng bí thư Lê Khả Phiêu vẫn chỉ thị : “ Các đồng chí trung
ương phụ trách các ngành kinh tế tổng hợp, phụ trách các cơ quan tư
pháp cần nêu các chính sách vĩ mô có tác dụng trở ngại ǵ đến hiệu
quả hoạt động của DNNN? Trách nhiệm trong việc củng cố DNNN thế nào
? Các đồng chí trung ương ở các tỉnh cần nêu trách nhiệm trong việc
phát triển kinh tế hợp tác thế nào?...”
Thế là, các ngài giám đốc DNNN mặc dù đă ăn tàn phá hại đến mức
không thể chịu đựng nổi, vẫn có bùa hộ mệnh để đ̣i các cơ quan trung
ương phải kiểm điểm v́ đă không ưu tiên đủ độ, không tiếp tục đổ
thêm nhiều hơn nữa tiền của, xương máu nhân dân ra cho họ tiêu sài
phung phí. Họ vẫn có chỗ dựa vững chắc để chống lại chủ trương cổ
phần hoá đang trở thành vô cùng bức thiết.
Sao lại cứ phải như thế ? Sao lại cứ phải thiên vị coi là con
cưng cái đứa kém cỏi hoang toàng, trong khi vẫn ghẻ lạnh các thành
viên gia đ́nh tuấn tú, linh lợi và có sức vươn rất đáng quan tâm ?
Năm 1998, Ban Quản lư Đổi mới DNNN đă đưa ra một chưng tŕnh
toàn diện cái cách DNNN bao gồm :
-
Đa dạng hoá sở hữu bằng các biện pháp cổ phần hoá và chuyển đổi sở
hữu...
-
Cơ cấu lại, điều chỉnh lại quy mô một số DNNN
-
Giảm số DNNN không có khả năng sống c̣n (giải thể, sát nhập)
Nhưng, tại sao tiến tŕnh cổ phần hoá diễn ra c̣n quá ngập ngừng
và chậm chạp; trong khi, thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp
được CPH đều có mức tăng trưởng lợi nhuận và doanh thu lớn hơn ! V́
sao chủ trương CPH và chuyển đổi sở hữu lại chủ yếu chỉ tập trung
vào các DNNN cỡ vừa và nhỏ (có vốn dưới 10 tỷ đồng); trong khi, thực
tế cho thấy nhiều DNNN cỡ lớn làm ăn quá chừng bê trễ, nợ chồng chất
ngày càng tăng nhanh ?
Không thể giao phương án cải cách doanh nghiệp bao gồm việc sắp
xếp lại hay CPH cho các cấp chủ quản xây dựng và chỉ đạo thực hiện.
Như thế khác nào trông chờ họ tự đẽo, tự cưa cái ghế của họ, tự gạt
đi cái “mâm cỗ chùa” của họ ? Cần thiết lập một cơ quan độc lập đủ
mạnh để thực hiện chương tŕnh cái cách DNNN. Cơ quan này phải có
quyền lực thực sự, đồng thời phải chịu mọi trách nhiệm trước nhà
nước.
Cần xác định lại thế nào là vai tṛ chủ đạo của kinh tế nhà nước
? Đâu phải muốn đóng được vai tṛ chủ đạo th́ phải và chỉ cần chiếm
tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông đồng thời chi phối cưỡng
bức các thành phần kinh tế khác thông qua việc tăng cường quyền lực
tài chính và chính trị.
Muốn đóng vai tṛ chủ đạo, muốn chỉ đạo được, muốn chi phối được
về thực chất th́ không thể lạm dụng mệnh lệnh hành chính mà phải
thông qua sự thuyết phục bởi tính hiệu quả. Hiệu quả của các hoạt
động sản xuất và kinh doanh của các thành phần kinh tế nhà nước phải
đủ sức cạnh tranh và cạnh tranh thắng cuộc đối với các thành phần
kinh tế khác. Chừng nào kinh tế nhà nước tạo ra những hiệu quả cao
hơn các thành phần kinh tế khác, th́ khi đó nó mới chi phối được nền
kinh tế quốc gia và mới xứng đáng vai tṛ chủ đạo.
Những năm trước đây, đối với các DNNN, Trung Quốc cũng đă từng
chủ trương “ phóng quyền, nhường lợi “, nghĩa là tăng tối đa quyền
tự chủ của các DNNN, đồng thời tăng phần lợi ích để lại cho các
doanh nghiệp này. Dần dần biện pháp này bộc lộ nhiều tiêu cực, dẫn
đến t́nh trạng “phóng quyền th́ loạn, thu quyền th́ chết ”. Từ 1995
đến nay Trung Quốc buộc phải chuyển sang chủ trương “ Nắm cái lớn,
buông cái nhỏ” đối với DNNN. Trong đó “nắm lớn“ không phải là nhà
nước toàn nắm những doanh nghiệp lớn về quy mô mà chủ yếu nắm những
doanh nghiệp, những tập đoàn có ư nghĩa quyết định sự phát triển của
đất nước, của địa phương. Họ cũng không tham nắm số lượng. Hiện nay
Trung Quốc có gần 300000 DNNN (trong đó khong 1/3 làm ăn có lăi, 1/3
thua lỗ nặng, 1/3 nếu khái tính th́ không lỗ, tính chi tiết th́ cũng
lỗ). Chính phủ Trung Quốc chỉ chủ trương nắm khoảng hơn 1000 doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp khác, họ đẩy mạnh đa dạng hoá sở
hữu bằng nhiều h́nh thức : cải tổ, liên hiệp, sát nhập, cho thuê,
khoán kinh doanh, hợp tác cổ phần...
Việc chuyển h́nh thức sở hữu có thể và cần làm thật mạnh tay đối
với các doanh nghiệp không thuộc loại doanh nghiệp công ích.
Đối với vấn đề cổ phần hoá, cần nghiên cứu thoả măn ba yêu cầu
mà nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Viêt Nam đă nêu. Một là, phải dỡ
bỏ tất cả các hạn chế về sở hữu cổ phần tối đa hiện tại để cho phép
có thể có một sở hữu đa số.
Điều này tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh tư nhân có tài năng và
có năng lực quản lư mua đa số cổ phiếu của các DNNN. Hai là, phải
tăng cường sự minh bạch hơn trong quá tŕnh CPH, thông qua công bố
và quảng cáo bán cổ phần trong thời gian ít nhất một tháng để thu
hút sự tham gia của mọi người có nhu cầu. Ba là, phải chuyển quyền
bán và phát hành cổ phiếu ra ngoài bộ máy lănh đạo của DNNN.
Song song với việc xử lư tích cực đối với các DNNN cần khẩn
trưng hơn trong việc tạo lập môi trường sản xuất - kinh doanh b́nh
đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, kể cả DNNN phải chuyển sang hoạt động theo một luật
doanh nghiệp thống nhất. Từ đó tạo một sân chơi phẳng, một trường
đua phân minh để chiến thắng thực sự thuộc về tài trí chứ không phi
chỉ dành cho các cậu ấm, cô chiêu được nuôi dưỡng bằng những bầu sữa
bao cấp của nhà nước.
Vào giữa năm 1999, chính phủ Nhật Bản đă đồng ư tài trợ hào hiệp
20 triệu Yên nhằm trợ giúp xây dựng và thực hiện kế hoạch khuyến
khích khu vực tư nhân gồm : một là, hoạch dịnh các chính sách của
chính phủ nhằm khuyến khích khu vực tư nhân; hai là, đảm bảo đối xử
công bằng giữa các DNNN và doanh nghiệp tư nhân về tài chính, cấp
phép, hải quan, phân bổ hạn ngạch, thuế và các lĩnh vực khác ( năm
1998, chỉ có 10% doanh nghiệp tư nhân được vay tiền, trong khi 3/4
trong số họ có nhu cầu vay ) ; ba là, cho phép các doanh nghiệp tư
nhân tiến hành kinh doanh tự do, không bị can thiệp tuỳ tiện mà chỉ
dựa trên cơ sở pháp luật.
Hăy cùng nhau nhắc lại nghị quyết trung ương VI : “ Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều
kiện bảo đảm sự lănh đạo đúng đắn của Đảng”.
Hăy nh́n thẳng vào sự thật, thực sự đổi mới tư duy và hành động
để ngăn chặn kịp thời cản suy thoái và khủng hoảng trầm trọng, đưa
đất nước tiến lên!
Hà Nội 20 tháng 4 năm 2000
Nguyễn Thanh Giang
Phần lớn tư liệu trong bài được tham khảo từ báo Lao Động và từ
cuốn “ Việt Nam chuẩn bị cất cánh “, báo cáo kinh tế không chính
thức của Ngân hàng Thế giới. |