Thời thế
tạo anh hùng th́ cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất người trí
thức. Nói rơ hơn là hoàn cảnh chính trị xă hội, là bản lĩnh, tài
năng các nhà lănh đạo quốc gia, và một phần chính yếu, là môi trường
giáo dục đương thời. Cho nên tôi rất tán thành hăy bắt đầu bằng vấn
đề giáo dục để bàn chuyện xây dựng lớp trí thức mới.
Về triết lư giáo dục
Sau nhiều
năm Phần Lan nổi lên với những thành tựu kinh tế, khoa học, công
nghệ làm cả thế giới khâm phục, người ta phát hiện ra cái gốc của sự
thịnh vượng ấy là giáo dục. Ba phần tư thế kỷ qua, nước Mỹ đă chiếm
vị trí số một trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ then
chốt. Nếu nói trí thức là nói tài năng th́ không đâu tài năng nở rộ
nhiều như ở Mỹ. Nhiều người chúng ta bất b́nh, phẫn nộ chính đáng
với một số chính sách nước lớn có khi quá tàn bạo của giới cầm quyền
Mỹ, song vẫn chưa bao giờ hết ngưỡng mộ trí tuệ và tài năng của trí
thức Mỹ mà những mầm mống thịnh vượng đă nảy nở từ những đại học đầu
tiên khi Mỹ mới lập quốc. Đọc thư của Tổng thống Pháp gửi các nhà
giáo Pháp, đọc bài diễn văn nhậm chức của bà Chủ Tịch ĐH Harvard,
càng thấy rơ vấn đề trí thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục. Nước
Pháp muốn khôi phục truyền thống văn hóa rạng rỡ của ḿnh từ Thế kỷ
Ánh sáng, nước Mỹ muốn tiếp tục dẫn đầu trong thế kỷ văn minh trí
tuệ, đều thấy cần dựa vào trụ cột giáo dục. Mà trong giáo dục th́
quan trọng trước hết là tư duy cơ bản về giáo dục, tức là triết lư
giáo dục, đương lối giáo dục.
Nh́n lại
lịch sử h́nh thành lớp trí thức VN qua các thế hệ, tôi vẫn băn khoăn
một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, h́nh như chưa có thế
hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ và cả phẩm chất
nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ trước– thời kỳ Tự
lực Văn đoàn, trào lưu Thơ mới, có các nhạc sĩ Văn Cao, Đặng Thế
Phong, có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng
Xuân Hăn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di,
Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, có những nhà
hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Phan Thanh...
Hầu hết những trí thức này đều học trường Pháp ra, mà sao tinh thần
dân tộc rất cao và năm 1945 tuyệt đại bộ phận họ đều đi theo cách
mạng để chống lại thực dân Pháp. Điều đó tựa hồ mâu thuẫn với quan
niệm phổ biến xưa nay là nhà trường thực dân chỉ cốt đào tạo ra
những người làm tay sai cho thực dân.
Trong khi
đó, các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở Liên Xô và các nước
xă hội chủ nghĩa cũ một cách bài bản, lớn lên trong nền giáo dục
thấm nhuần lư tưởng xă hội chủ nghĩa cao đẹp, hằng ngày được gián
tiếp hay trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xă
hội, yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân v́ dân v́ nước... mà sao có
vẻ như phẩm chất không được như ta kỳ vọng. Dường như có cái ǵ
không thật, có cái ǵ chưa ổn lắm, cho nên gặp hoàn cảnh không thuận
lợi th́ bộc lộ nhiều nhược điểm. Chúng ta có biết bao tiến sĩ, giáo
sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có ở VN,
nhưng nếu muốn trưng ra th́ cả nước hiện nay cũng có thể trưng ra cả
ngh́n viện sĩ kiểu này chứ không ít), rồi lại có cả những “bộ óc vĩ
đại thế kỷ 21”, nhiều nhân vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có
kế hoạch phải dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quư hơn vàng, để
xây một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiêu bậc đại trí.
Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được
con cháu hoan nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh?
Đó là cái
nghịch lư cần phân tích và lư giải khi bàn về giáo dục và đào tạo.
Riêng tôi nghĩ
rằng nền giáo dục, văn hóa Pháp mà thế hệ trí thức tiền bối 30-45 đă
được hưởng thật sự là một nền giáo dục tiên tiến thời đó. Cái phần
thực dân trong nền giáo dục ấy chỉ là cái vỏ ngoài do bọn thực dân
áp đặt ở thuộc địa mà cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, c̣n cái phần
nhân văn, cái phần văn hóa cơ bản, cái phần thật sự là tinh túy
trong triết lư giáo dục của nó thời đó th́ ai tiếp thu được đều tốt
cho họ, cho đất nước họ, cho nhân dân họ, không cứ là cho người Pháp,
cho nước Pháp. Có lẽ chính v́ nh́n thấy điều ấy mà Phan Chu Trinh đă
sáng suốt đề ra: hưng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Giờ đây
khi mà văn hóa, giáo dục đă lệch pha quá xa với kinh tế, đă đến lúc
chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về đường lối, triết lư giáo dục,
chứ không phải chỉ bàn chuyện nay hai không, mai năm không, v.v…
Những việc này cũng cần làm để khởi động dạo đầu cho công cuộc cải
cách, nhưng sa đà vào đó mà quên đi cái cốt lơi sẽ có tác dụng ngược
lại.
Không thể
máy móc vơ đũa cả nắm, nhưng có một sự thật là dường như phần lớn
những cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xă hội chủ nghĩa
trước đây đều thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ
phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên
trừ những trường hợp hăn hữu, họ thường chỉ là những chuyên viên kỹ
thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp
nào đó, ở thời đó, và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhăn
quan rộng, thiếu một tầm nh́n ra ngoài ngành nghề hẹp của ḿnh, cho
nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển chuyên môn, và càng bị hạn
chế đứng trước những vấn đề xă hội, văn hóa không thuộc phạm vi
chuyên môn hẹp của ḿnh. Mỗi người chỉ biết việc của ḿnh, chỉ lo
cho ḿnh, ít khả năng và cũng không thích thú hợp tác với bạn bè
đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ
cuồng, không ḥa nhập vào ḍng chảy văn minh của thời đại, không
chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ
ḿnh, tự đánh lừa ḿnh, và đánh lừa nhân dân ḿnh với những thành
tích không có thật. Chạy theo danh hăo, chạy theo quyền lực, chạy
theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức VN. Chưa bao giờ
trong xă hội ta có nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi
quan, nhưng thà nh́n khắt khe một chút để biết người biêt ta, c̣n
hơn nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch.
Những
sai lầm làm tha hóa giáo dục.
Trở lại
vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất là sự tha hóa
trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng nét chính của khủng hoảng
ấy là sự tha hóa, biến chất. Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo
dục. Có nhiều nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba
sai lầm lớn mà tôi gọi là sai lầm hệ thống trong quản lư giáo dục.
1. Chính
sách đối với người thầy. Đó là sai lầm đầu tiên và tai hại nhất do
quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai tṛ người thầy trong nền giáo
dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán
cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá tŕnh truyền
đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, là đúng. Nhưng từ đó đă xuất
hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai tṛ then chốt của thầy
đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về
cảm tính, khi th́ nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm”, khi
khác tôn chương tŕnh, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”,
nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương
tŕnh”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy
giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu
từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng
phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu
đă bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả
lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lư, lấy cớ ngân sách eo hẹp
(thật ra chỉ là do tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lư), bỏ
mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm,
làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần).
Có thể nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối,
tiêu cực, dối trá, lăng phí, quan liêu… hiện đă đi vào xương tủy của
giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị
được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái lỗi hệ thống cơ bản
này.
2. Tập
trung tất cả việc dạy và học vào thi cử, nói rơ hơn là thay v́ thi,
kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để bảo đảm kết quả
học tập vững chắc và thực chất th́ dồn hết cố gắng vào các kỳ thi
tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất h́nh thức mà
thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN:
gần thi mới lo học, học đối phó, học nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi
cái ǵ học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc
ḷng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi
cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”.
Nghĩa là tư duy có thay đổi ǵ đâu, hai mươi năm trời, tốn bao công
nghiên cứu, cuối cùng trở lại gần như điểm xuất phát, dưới một h́nh
thức có vẻ mới để che dấu một phương pháp cổ lỗ. Lại c̣n chuyện thi
trắc nghiệm, thi tự luận. Người ta thi trắc nghiệm với một mục đích
khác, ta không nghiên cứu kỹ, đưa ra áp dụng đại trà vào thi tốt
nghiệp THPT trong khi tŕnh độ chuyên nghiệp về kiểu thi này c̣n
chưa bảo đảm, cho nên gây tốn kém và làm khổ cả học sinh lẫn thầy
giáo. Rồi đùng một cái cấm các trường không được áp dụng h́nh thức
trắc nghiệm khi thi học kỳ, làm cả thầy và tṛ hoang mang, không
hiểu giáo dục là cái ǵ mà có thể quản lư tùy tiện như thế. Đem việc
học phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ không phải học trở thành
hoạt động giáo dục chủ yếu, đến mức muốn hiểu thực chất giáo dục VN
như thế nào chỉ cần quan sát hoạt động của nhà trường và xă hội
trong mùa thi. Từ kiểu thi nhiêu khê đẻ ra những dịch vụ kỳ lạ hiếm
thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả,
bằng thật nhưng học giả, v.v… Cho nên chừng nào c̣n duy tŕ kiểu học
và thi này th́ xă hội c̣n phải trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của
giáo dục. Chưa kể nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp
phục vụ cho các kỳ thi th́ lăng phí lên tới con số khủng khiếp, b́nh
thường đă khó chấp nhận, với t́nh h́nh kinh tế khó khăn như lúc này
càng khó chấp nhận hơn. Nhiều nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi
c̣n nhẹ nhàng hơn ta mà họ đă phê phán cái “địa ngục thi cử” của họ,
c̣n thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục ǵ.
3. Chạy
theo số lượng, hy sinh chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ
và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh
tranh nổi ngay với các nước trong khu vực. Đây chính là bệnh thành
tích, chứ không là ǵ khác. Phát triển số lượng th́ dễ, nhất là khi
người dân c̣n khát học tập như trong xă hội ta. Chỉ đảm bảo chất
lượng mới khó, vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ
báo cáo thành tích. Trên đă vậy th́ làm sao chống được bệnh thành
tích ở dưới. Trong hoàn cảnh ấy mà có người c̣n bênh vực bệnh thành
tích, viện lẽ chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là xa xỉ (!), th́
thật không hiểu nổi ta muốn phát triển giáo dục và khoa học theo
kiểu nào. Nguy hại là căn bệnh này nghiêm trọng nhất ở cấp đại học
và đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, công nhận GS, PGS. Trong
thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và
tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ
quốc tế. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật
chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ,
đánh giá công tŕnh nghiên cứu khoa học, đánh giá các luận văn thạc
sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, đánh giá các đại học...
phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những
tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác
so với quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh
bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ích riêng cho từng nhóm thay v́ phục vụ
sự nghiệp chung. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực quốc
tế thể hiện trong mọi chủ trương xây dựng đại học, cho đến gần đây
nhất vẫn rất chủ quan. “Điếc không sợ súng” đó là căn bệnh cố hữu
của ngành giáo dục.
Tất cả các
sai lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần dần biến chất, xuống
cấp, xa rời tất cả những giá trị cao quư c̣n sót lại từ quá khứ. Xu
hướng tha hóa ấy phát triển có nguy cơ đẻ ra một nền giáo dục phản
giáo dục.
GS Hoàng Tụy |