(Tiếp theo TQ
số 55)
2.
Những thảm họa dân chủ
Thắng lợi vang
dội của lực lượng kháng chiến trong chiến dịch Biên Giới năm 1950,
quân Pháp bị đánh tan tác phải rút chạy khỏi đường số Bốn, một dải
biên giới Việt – Trung được giải phóng, mở toang cánh cửa thông sang
nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa vừa ra đời. Lập tức từ hai nước,
tấp nập những đoàn người qua lại biên giới. Những đ̣an học sinh,
thiếu sinh quân Việt Nam sang Trung Hoa mượn đất mở trường. Những
đoàn cán bộ Việt Nam mượn đường Trung Hoa đi ra thế giới. Những đơn
vị quân đội nhân dân Việt Nam sang Trung Hoa huấn luyện rồi mang
súng đạn của Trung Hoa viện trợ trở về. Những đoàn cố vấn Trung Hoa
từ Hoa Nam mang tư tưởng Mao Trạch Đông dập d́u kéo sang Việt Bắc...
Trưởng đoàn cố vấn về tư tưởng, đường lối, chính sách là Ngải Tư Kỳ.
Trưởng đoàn cố vấn quân sự là Vi Quốc Thanh. Biên giới Việt – Trung
mở ra thông thoáng nhưng từ đây, những người cách mạng Việt Nam đă
phải nhận lấy cái đai kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông thít lên đầu.
Hai đai kim cô thắt chặt nhất là đai kim cô quân sự và đai kim cô tư
tưởng, đường lối chính sách. Lĩnh vực nào thoát được đai kim cô tư
tưởng Mao Trạch Đông th́ sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Lĩnh vực nào không thoát được th́ sẽ đi từ thảm họa này đến thảm họa
khác!
Quân đội
cách mạng thời kháng chiến chống Pháp được gọi là những người nông
dân mặc áo lính. Những người lính ấy phần lớn đều không có quăng đời
đi học. Một số người thoát mù chữ nhờ phong trào b́nh dân học vụ ở
địa phương và phong trào xóa mù chữ ở ngay trong các đơn vị quân đội.
Trên mặt bằng văn hóa và hiểu biết xă hội đó th́ số ít thanh niên ở
tầng lớp trên được học hành đầy đủ và số ít người từng là chỉ huy
đội quân bản địa của Pháp, được Pháp huấn luyện, đào tạo nhưng trái
tim yêu nước đă đưa họ đến với cách mạng. Với kiến thức văn hóa và
kiến thức quân sự quí hiếm đó, họ đă có đóng góp rất to lớn trong
việc xây dựng quân đội cách mạng từ buổi đầu, từ số không, trở thành
đội quân tinh nhuệ, càng đánh càng lớn mạnh, đă làm nên những chiến
thắng đi vào sử sách và họ đă trở thành những cán bộ chủ chốt, trở
thành những tài sản quí hiếm của quân đội, của cách mạng.
Cố vấn
quân sự Tàu đến đưa ra chuẩn mực đầu tiên và quyết định việc đề bạt,
sử dụng cán bộ phải có thành phần xuất thân công nông. Một loạt xáo
trộn từ cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh tới các đơn vị. Những trí thức và
nhà quân sự chuyên nghiệp đă trở thành những người cầm quân tài năng
của quân đội nhân dân Việt Nam tất nhiên đều không có thành phần
xuất thân công nông, đều bị gạt ra một bên, nhường chỗ cho những cán
bộ công nông. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuất thân từ đội
quân bản địa của Pháp phải nhường chức cho Văn Tiến Dũng, sư đ̣an
trưởng sư đ̣an 320, xuất thân từ nông dân!
Trung đoàn
trưởng Đặng Văn Việt chỉ huy trung đoàn đánh tan đạo quân do những
trung tá, đại tá Pháp chỉ huy trên đường số Bốn từ giai đoạn đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1950. Nhưng người cầm quân tài năng
được sử sách quân sự cách mạng gọi là Hùm Xám Đường Số Bốn lại là
con quan thượng thư triều đ́nh Huế và ông quan đại thần của chế độ
phong kiến ấy đă bị đấu tố, giam cầm đến chết trong cải cách ruộng
đất và bản thân Đặng Văn Việt cũng là trí thức, là sinh viên trường
Đại học Y khoa Hà Nội xếp bút nghiên tham gia đánh giặc. Thành phần
gia đ́nh và bản thân đều không thể tin cậy nên Đặng Văn Việt măi măi
dừng lại ở đường số Bốn dù ông đă rong ruổi trên mọi nẻo đường chiến
trận trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Là trung
đoàn trưởng từ năm 1950 nên khi có chế độ phong quân hàm, năm 1958,
người ta phải phong cho ông quân hàm cấp tá nhưng ông chỉ là cái
bóng, là phụ tá của người chỉ huy công nông, không ai cho ông đứng
đầu đơn vị! Không ai cho ông cầm quân chỉ huy! Không ai cho ông có
quyền quyết định! Trong khi những người lính b́nh thường của Đặng
Văn Việt có thành phần xuất thân công nông, nhiều người lên cấp
tướng! Trong khi những cán bộ cùng lứa với Đặng Văn Việt và ở cấp
thấp hơn lên đến thượng tướng, đại tướng th́ Đặng Văn Việt măi măi
dừng lại với quân hàm cấp tá!
Cám cảnh
hơn là cuộc đời trong quân ngũ của một trí thức đă xây dựng cho quân
đội cách mạng cả ngành bản đồ quân sự. Tốt nghiệp trường Cao đẳng
Công chính Đông Dương, chuyên khoa bản đồ, Nguyễn Bá Đạm đă đi khắp
ba nước Đông Dương lập bản đồ bán đảo Đông Dương. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 nổ ra, người công chức bản đồ ấy hăng hái gia nhập quân
đội cách mạng và mang toàn bộ vốn liếng kiến thức về bản đồ xây dựng
lên ngành bản đồ của quân đội cách mạng. Xuất thân là công chức của
Pháp, ông phải dừng lại ở quân hàm đại úy gần hai mươi năm! Cho đến
lúc về hưu, ngoài sáu mươi tuổi, hơn ba mươi năm trong quân ngũ, ông
chỉ có quân hàm thiếu tá! Trong khi những người lính công nông được
ông đào tạo trở thành người phụ trách ông và đều có quân hàm đại tá!
Điều canh
cánh lớn nhất của người trí thức là được đóng góp, được làm việc hết
ḿnh. Người trí thức cần được đóng góp hơn là cần được đăi ngộ. Để
được đóng góp, được làm việc hết ḿnh th́ phải có vị trí tương xứng
với năng lực. Có năng lực mà không được tin cậy sử dụng, không được
làm việc hết ḿnh, đó là bi kịch của trí thức! Đặng Văn Việt, Nguyễn
Bá Đạm đều mang bi kịch ấy! Buồn t́nh, Nguyễn Bá Đạm mang kiến thức
văn hóa và vốn sống những năm tháng rong ruổi của ḿnh gửi vào văn
chương. Khi viết văn ông mang tên vợ là Lê Khánh và nhà văn Lê Khánh,
hội viên hội Nhà Văn Việt Nam, đă ba lần giành giải nhất cuộc thi
truyện ngắn của báo Văn Nghệ và tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Giỏi
tiếng Anh, tiếng Pháp, tự học tiếng Nga, ông đă dịch nhiều sách văn
học Xô Viết ra tiếng Việt. Tôi có may mắn được quen biết ông từ khi
ông c̣n mang quân hàm đại úy. Ông là đại úy cục Bản đồ, bộ Tổng Tham
mưu c̣n tôi là hạ sĩ báo vụ ở tổng trạm thông tin vô tuyến điện của
Bộ Tổng Tư lệnh. Trước ngày 29. 6.1966, ngày Mĩ cho máy bay vào đánh
phá kho xăng Đức Giang ở Gia Lâm, Hà Nội c̣n b́nh yên, chiều chiều
tôi và ông thường gặp nhau chia quân đá bóng trên sân vận động Cột
Cờ. Trước năm 1975, ở cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh có rất nhiều sĩ quan
mang một quân hàm lưu cữu hàng chục năm. Ngôn ngữ lính tráng gọi
những quân hàm lâu năm không thay đổi ấy là quân hàm i nốc! Đại úy
Nguyễn Bá Đạm là đại úy i nốc! C̣n nhà văn Lê Khánh là nhà văn tài
hoa!
Thực hiện
chính sách cán bộ của cố vấn Tàu, chấp nhận bi kịch với cá nhân,
những người cầm quân tài năng, những người có năng lực chuyên môn
không được đặt đúng vị trí, không được thi thố, đóng góp hết tài
năng, không được nh́n nhận xứng đáng, thôi, cũng đành chấp nhận!
Nhưng khi cố vấn quân sự Tàu đưa ra cách đánh đ̣i hỏi hi sinh nhiều
xương máu không đáng phải hi sinh, không phù hợp với một dân tộc dân
số không đông, dẫn đến bi kịch cho cả dân tộc th́ người đứng đầu
quân đội cách mạng Việt Nam đă không thể nhắm mắt chấp nhận.
Chúng ta
mở chiến dịch Điện Biên Phủ, cố vấn quân sự Tàu bảo phải tập trung
quân số lớn, đánh nhanh thắng nhanh! Hỏa lực pháo binh từ trên cao
dập xuống! Quân đông từ núi cao tràn xuống, lấy số nhiều áp đảo số
ít sẽ nhanh chóng nghiền nát quân Pháp cố thủ dưới ḷng chảo Điện
Biên Phủ! Như quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa vừa ầm ầm vượt sông
Áp Lục đuổi quân Mĩ xuống tận vĩ tuyến 38 ở Triều Tiên. Cố vấn Tàu
kè bên và ư đồ của cố vấn Tàu được triển khai. Những đại đoàn bộ
binh đă dồn quân quanh Điện Biên Phủ. Những trung đoàn pháo binh,
tay kéo, vai đẩy, chân gh́ đă kéo pháo vượt qua những dăy núi cheo
leo vào trận địa. Chỉ c̣n đợi giờ G nổ súng! Nhưng lấy ư chí trọi
lửa đạn, lấy thân người bịt hỏa điểm có phải là cách đánh phù hợp
với Việt Nam? Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm dày đặc hỏa điểm th́
phải tốn bao nhiêu mạng người cho đủ? Người Pháp tập trung quân tinh
nhuệ xây dựng Điện Biên Phủ thành cứ điểm kiên cố làm chỗ dựa cho
chính quyền châu bản ngụy ở Tây Bắc, làm điểm xuất phát cho những
đơn vị biệt kích Pháp và lính ngụy Thái đánh phá sự b́nh yên của núi
rừng Tây Bắc, là nỗi đe dọa kề sát cơ quan đầu năo kháng chiến Việt
Bắc, buộc chính phủ kháng chiến phải tập trung quân thanh toán nỗi
đe dọa đó. Đó là ư đồ, là tính toán của Pháp. Pháp đă giăng cái bẫy
Điện Biên Phủ ra chờ lực lượng kháng chiến. Hùng hổ lấy số đông cố
giải quyết cho xong Điện Biên Phủ là sập cái bẫy đó! Điện Biên Phủ
sẽ là cối xay thịt với lực lượng kháng chiến, là điểm quyết chiến
quyết định số phận lực lượng kháng chiến và cũng là canh bạc cuối
cùng của người Pháp! Không thể lấy ư chí thắng bom đạn! Không thể
lấy thân xác bộ đội lấp đầy thung lũng Điện Biên Phủ! Đánh nhanh chỉ
thương vong lớn, thất bại nhanh chứ không thể thắng nhanh! Dân tộc
ta nhỏ đâu có nhiều người để thực hiện chiến thuật biển người! Phải
có cách đánh tiết kiệm xương máu, đánh chắc, tiến chắc, ít thương
vong mới chắc thắng! Một chiến thuật quân sự Việt Nam hiện đại ra
đời từ Điện Biên Phủ: Đánh vây lấn! Bao vây không cho giặc chạy
thoát! Đào hào lấn vào diệt dần từng cứ điểm, gỡ dần từng mảnh giáp,
bóc dần từng lớp vỏ cứng của tập đoàn cứ điểm hùng mạnh Điện Biên
Phủ!
Tiếp nhận
vũ khí viện trợ của Trung Hoa nhưng đủ bản lĩnh và tỉnh táo không
chấp nhận cách đánh không phù hợp của cố vấn quân sự Trung Hoa,
chúng ta mới có chiến thắng Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ
là bài học quí giá về tính độc lập dân tộc, là lời gióng giả cảnh
báo phải rũ bỏ ṿng kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông thít trên đầu,
cách mạng Việt Nam mới tránh được những thảm họa xương máu, mới
tránh được những lỗi lầm đau xót với nhân dân, với lịch sử, đất nước
mới thực sự độc lập và phát triển. Nhưng bài học ấy không phải ai
cũng nhận ra, lời cảnh báo gióng giả ấy không phải ai cũng nghe thấy!
Không thoát khỏi ṿng kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông, đánh mất tư
thế làm chủ, giao vai tṛ chủ thể cho cố vấn Trung Hoa, răm rắp phục
tùng tư tưởng chỉ đạo của nước lớn Trung Hoa, nhắm mắt làm theo bài
bản cách mạng vô sản Trung Hoa, lập tức những thảm họa liên tiếp
giáng xuống nhân dân ta, giáng xuống đất nước ta và thảm họa đầu
tiên là thảm họa cải cách ruộng đất!
Ở nước
Trung Hoa phong kiến rất điển h́nh, ruộng đất tích tụ rất lớn trong
tay chủ đất. Thiên nhiên lại khắc nghiệt, hết hạn hán lại lũ lụt.
Mất mùa thường xuyên xảy ra. Lịch sử Trung Hoa là lịch sử của những
cuộc nội chiến triền miên. Tiếng ngựa hí, tiếng gươm đao loảnng
xoảng không lúc nào dứt trong lịch sử. Đất nước mênh mông bị chia
cắt bởi những ông vua cát cứ, ông vua nào cũng đầy tham vọng bá
quyền. Những cuộc chinh phạt thôn tính nhau để thâu tóm thiên hạ kéo
dài từ thời cổ đại đến tận thời Cộng sản – Quốc dân đảng hiện đại.
Tất cả những tai họa của trời đất, của cường quyền, của chiến tranh
đều trút xuống đầu người nông dân Trung Hoa khốn khổ. Số đông nông
dân nghèo đói, cùng quẫn, cách biệt giai cấp nông dân – địa chủ rất
sâu sắc. Ḍng người nông dân Trung Hoa đói khổ phải tứ tán khắp thế
giới kiếm sống kéo dài trong lịch sử từ xa xưa đến tận hôm nay!
Cách biệt
giai cấp ở nông thôn Việt Nam không quá lớn và không quá nặng nề, có
khi không rơ ràng. Thời cải cách ruộng đất dân số nước ta mới trên
hai mươi nhăm triệu người, chưa đến một phần ba hiện nay. Người ít.
Đất đai màu mỡ. Thời tiết nhiệt đới hai mùa mưa nắng rất thuận với
nghề nông và đặc biệt rất phù hợp với cây lúa nước. Nông dân Việt
Nam, người chủ nền văn minh lúa nước với kho kinh nghiệm trồng trọt
cấy hái rất chủ động trên đồng ruộng. Người làm ruộng chăm chỉ, có
đầu óc, có kĩ năng đều là trung nông, có cuộc sống no đủ: Bởi anh
chăm việc canh nông / Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài / Ngày mùa
tưới ruộng, trồng khoai / Ngày ba tháng tám nằm dài mà ăn (Ca dao).
Thóc “bồ trong bịch ngoài” để “ngày ba tháng tám năm dài mà ăn”, đó
là mức sống của số đông người làm ruộng biết làm ăn ở những vùng
đồng bằng trù phú. Tự tạo ra cuộc sống đủ ăn, không bóc lột ai, họ
là trung nông. Nhưng với ruộng đất của họ, với cuộc sống thong dong
của họ, nếu khắt khe có thể đưa họ lên hàng địa chủ cũng được. Ở
Việt Nam giữa số đông nông dân là trung nông với số ít địa chủ thực
sự, khoảng cách rất mong manh. Chính khoảng cách mong manh đó là
khoảng cách tai họa, là không gian quyền uy của đội cải cách ruộng
đất, thương th́ để ở thành phần trung nông, đố kị, thù ghét th́ đôn
lên địa chủ, lôi ra đấu tố cho biết mặt!
Trung nông
là số đông, là thành phần ưu tú tiêu biểu của nông dân Việt Nam.
Toàn bộ kho tàng tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam đều nói về đời
sống lao động và đời sống tâm hồn của tầng lớp trung nông này và
chính tầng lớp trung nông là những người sáng tạo ra kho tàng quí
giá, đồ sộ đó. Bằng ca dao, tục ngữ, chính tầng lớp trung nông biết
làm ăn đă đúc kết, rút ra bài học cho mọi công việc đồng áng: Mạ
chiêm đào sâu chôn chặt / Mạ mùa vừa đặt vừa đi. Hoặc: Bao giờ đom
đóm bay ra / Hoa gạo rụng xuống th́ ta tra vừng... Rồi dự báo mưa
nắng để chủ động công việc đồng áng: Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng
th́ mưa. Dự báo cả bất thường của thời tiết để chủ động pḥng tránh
thiệt hại: Gió heo may, chuồn chuồn bay th́ băo...
Những
người giỏi giang ấy làm sao có thể nghèo khổ! Chính tầng lớp trung
nông Việt Nam đă tạo nên sự b́nh yên, bền vững của làng quê Việt Nam
qua mọi băo táp lịch sử. Chính tầng lớp trung nông Việt Nam đă tạo
nên vẻ đẹp văn hóa làng quê Việt Nam, tạo ra kho tàng văn hóa dân
gian, tạo ra cốt cách, phẩm chất, bản lĩnh con người Việt Nam. Chỉ
có số ít người không biết làm ăn, hoặc gặp biến cố, tai họa bất
thường, hoặc sa vào tệ nạn xă hội, rượu chè, cờ bạc, điếm đàng thành
tay trắng, phải đi làm thuê, ở đợ, bị phụ thuộc, bị bóc lột, bị gạt
ra bên lề, không có vai tṛ ǵ trong cuộc sống. Những người này
thường mù chữ hoặc chỉ đủ chữ kí được cái tên của ḿnh! Đó là những
người không b́nh thường, những thân phận thất bại thê thảm trong
cuộc sống, trong ḷng luôn chứa chất nỗi hằn học, đố kị với cuộc đời!
Như vậy,
dù cùng phương thức sản xuất châu Á, cùng chế độ phong kiến và cùng
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nhưng sự phân biệt giai cấp ở nông
thôn Việt Nam có nhiều khác biệt với nông thôn Trung Hoa. Đối kháng
giai cấp ở nông thôn Việt Nam cũng không dữ dội, quyết liệt như đối
kháng giai cấp ở nông thôn Trung Hoa. Đến con người nông dân Việt
Nam lại càng khác con người nông dân Trung Hoa. Lịch sử Trung Hoa là
lịch sử nội chiến. Những cuộc chiến tranh tương tàn chém giết lẫn
nhau giữa những người cùng ṇi giống kéo dài trong lịch sử! Đất rộng
sông dài chỗ nào cũng là băi chiến trường của những cuộc chinh phạt
giữa những quốc gia cát cứ Ngô, Sở, Hán, Tần, Tề, Lỗ...! Nơi nào
cũng đầu rơi, máu chảy! Thời nào thân phận con người cũng nhỏ bé như
con giun, con dế! Con người muốn tồn tại, muốn khẳng định phải sát
phạt đồng loại. Lịch sử ấy hun đúc nên con người sắt máu, hận thù!
Người đàn bà trong lịch sử Trung Hoa cũng là Đắc Kỉ, là Từ Hi Thái
Hậu ôm mộng bá quyền, khuấy đảo cung đ́nh, ra uy bằng chém giết để
thâu tóm quyền lực! Hoàn toàn khác với những người đàn bà trong lịch
sử Việt Nam là những người anh hùng đánh giặc cứu nước như Trưng
Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh, Bùi Thị Xuân... Những người đàn bà
Việt Nam trong nội trướng cũng một ḷng v́ dân v́ nước như nguyên
phi Ỷ Lan, vua đi đánh giặc xa, thay vua giữ yên triều chính, như
công chúa Huyền Trân, đổi thân ḿnh lấy đất đai, mở rộng bờ cơi Việt
Nam.
Lịch sử
Việt Nam là lịch sử giữ nước trước sự thôn tính của những đế quốc
khổng lồ. Một dân tộc bé nhỏ muốn tồn tại và giữ được nước phải đoàn
kết dân tộc, gắn kết lại với nhau bằng t́nh thương yêu đùm bọc. Mẹ
Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con. Năm mươi con theo Mẹ
lên núi thành người Thái, người Tày... Năm mươi con theo Cha xuống
đồng bằng, tiến ra biển thành người Kinh. Truyền thuyết đó là lời lí
giải về cội rễ sâu xa của t́nh thương yêu đùm bọc của người Việt, là
lời nhắc nhở tha thiết về sự cần thiết đoàn kết dân tộc. Lịch sử
Việt Nam là lịch sử đoàn kết dân tộc. Con người Việt Nam là con
người yêu thương, đùm bọc. Lá lành đùm lá rách. Người khá giả đùm
bọc, chia sẻ với người nghèo khổ, túng thiếu. Bầu ơi thương lấy bí
cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Người Việt dù là
người Kinh, người Thượng, dù là người Việt gốc Chăm hay người Việt
gốc Khơ Me, dù khác tộc, khác tông, khác giống nhưng cùng sinh sống
trên dải đất Việt Nam đều phải hết ḷng thương yêu đùm bọc nhau giữ
ǵn độc lập của Tổ quốc Việt Nam, giữ ǵn sự b́nh yên của đất nước
Việt Nam.
Xă hội và
con người nông dân Việt Nam và Trung Hoa khác biệt như vậy, khác
biệt từ hoàn cảnh lịch sử đến bản chất mối quan hệ xă hội, khác biệt
từ đời sống tâm hồn con người đến thế ứng xử xă hội! Nhưng cải cách
ruộng đất ở Việt Nam đă rập khuôn theo bài bản cuộc thổ cải của
Trung Hoa, răm rắp làm theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Hoa. Đưa
cuộc đấu tranh giai cấp bạo liệt một mất một c̣n vào trong ḷng một
dân tộc chỉ có thể tồn tại bằng thương yêu đùm bọc nhau! Vạch chiến
tuyến đấu tranh giai cấp sắt máu giữa làng quê đă xơ xác v́ chiến
tranh bom đạn, đă dốc kiệt sức người sức của vào cuộc kháng chiến
giữ nước! Đẩy một bộ phận nông dân lương thiện làm ăn chân chính đă
có đóng góp to lớn cho đất nước, cho cách mạng trở thành kẻ thù của
cách mạng, kẻ thù của cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt! Đưa những
người thất bại trong cuộc sống, những người nuôi bản thân không nổi
trở thành người điều hành cuộc sống của cả làng quê!
Trung nông,
thành phần ưu tú, tiêu biểu của nông dân Việt Nam, những người tạo
nên sự bền vững, b́nh yên của làng quê Việt Nam, những người tạo nên
bản sắc văn hóa Việt Nam, tạo nên sức sống bền bỉ Việt Nam th́ không
được tin cậy! Càng nghèo khổ, càng thất bại trong cuộc sống càng
được tin cậy! Đội cải cách về làng cố t́m cho ra những người nghèo
khổ nhất, thất cơ lỡ vận nhất, hèn kém nhất để bắt rễ, xâu chuỗi,
đưa lên làm cốt cán. Đội cải cách cùng cốt cán nắm quyền sinh quyền
sát ở làng xă: Điều hành cuộc sống làm ăn. Xác định thành phần giai
cấp từng gia đ́nh. Phải xác định đủ số lượng địa chủ theo tỉ lệ dân
số mà cố vấn Tàu đă qui định. Phân chia tài sản, ruộng đất tịch thu
của địa chủ. Đội cải cách cùng cốt cán lại có vai tṛ định đoạt
những bản án cho những phiên ṭa xét xử địa chủ. Những phiên ṭa đó
không bị chi phối bởi luật pháp v́ chưa có luật và cũng không cần
đến luật! Chỉ bị chi phối bởi không khí hừng hực của cuộc thanh toán
giai cấp do đội cải cách phát động và bị chi phối bởi cảm tính của
những người định đọat bản án. Đội cải cách ruộng đất là người ở nơi
khác đến, phần cảm tính không lớn nhưng cốt cán là người tại chỗ,
vốn là người thất bại trong cuộc sống, đang chứa chất hằn học với
cuộc đời, đang dồn nén sự đố kị với người khá giả th́ đây là cơ hội
để trút nỗi hằn học, để xả sự đố kị bằng việc nống những người có
chút của cải lên thành địa chủ và ra những bản án nặng nề nhất cho
những người bị đố kị, bị hằn học nhất! Thảm họa đến từ đó! Làng quê
đang b́nh lặng bỗng nháo nhác như có dịch bệnh! Người nông dân hiền
lành đến nhút nhát bỗng chồm chồm nhảy dựng lên như nhập đồng trong
những cuộc đấu tố địa chủ để lập công với đội cải cách. Cuộc sống
đang yên ổn bỗng tai ương ập xuống nhiều gia đ́nh. Hôm trước c̣n là
người nông dân đầu tắt mặt tối, lao động cần cù, lương thiện, tạo
được cuộc sống ổn định, được làng xóm nể trọng, lại có con trai đi
bộ đội đánh quân Pháp xâm lược, là gia đ́nh vẻ vang có công với nước.
Hôm sau bỗng thành địa chủ bị điệu ra đứng trước cuộc đấu tố của dân
làng! Hôm trước c̣n là gia đ́nh yên ấm, con dâu sống ḥa thuận với
bố mẹ chồng. Hôm sau, trong cuộc đấu tố địa chủ, con dâu bỗng nhảy
thách lên tố bố chồng cưỡng hiếp!
Bạn tôi,
nhà thơ LĐC là con rể vị chính ủy nổi tiếng của quân chủng lừng lẫy
chiến công trong cuộc chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh đánh phá
miền Bắc của không quân Mĩ. Vợ chồng anh ở chung nhà với bố mẹ vợ
trong khu gia đ́nh quân đội, cạnh nhà vị tướng tư lệnh quân chủng.
Có lần vui chuyện anh nói với chúng tôi về nỗi cô đơn của vị tướng
tư lệnh khi ông phải sống âm thầm suốt cuộc đời bên người vợ già
không con cái v́ bà chính là người con dâu trong cải cách ruộng đất
đă vu cho bố chồng tội cưỡng hiếp bà! Ông bố địa chủ của anh bộ đội
đi kháng chiến chống Pháp may mắn không bị xử bắn song t́nh cảm vợ
chồng của anh đă bị xử bắn rồi! T́nh cảm vợ chồng không c̣n nữa
nhưng người vợ có tinh thần cách mạng triệt để, có giác ngộ giai cấp
và tinh thần đấu tranh giai cấp cao như thế th́ anh bộ đội cách mạng
không thể li hôn được. Và họ cứ phải âm thầm sống bên nhau suốt đời!
Sau những
cuộc đấu tố địa chủ như những màn kịch cương dưới bàn tay đạo diễn
của đội cải cách ruộng đất là những phiên ṭa chóng vánh, đơn giản
và những trường bắn thi hành án được dựng lên ngay trên cánh đồng
làng. Đến bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ quang cảnh cánh đồng làng Đông Khê
ngoại thành Hải Pḥng trong cuộc đấu tố địa chủ Trần Đức Đài. Lũ học
tṛ lít nhít tiểu học chúng tôi trong thành phố ở ngơ Cấm gần Đông
Khê cũng được huy động đi dự làm áp lực của số đông quần chúng cách
mạng. Những người nông dân quần nâu áo vá và những người dân thành
thị quần áo xanh lam lũ ngồi thành từng khối trên cánh đồng mùa khô
sau vụ gặt cuối năm. Từng đợt, từng đợt biển người ầm ầm chuyển động
trong tiếng hô Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!
Đả đảo giai cấp địa chủ áp bức bóc lột nông dân!... Đối mặt với
những đợt sóng sôi sục căm thù đó, địa chủ Trần Đức Đài đứng gục mặt
co rúm lại. Một bà mặc váy đen, áo nâu vá chằng vá đụp xăm xăm đến
trước mặt địa chủ Trần Đức Đài, quát: Đài! Mày có biết tao là ai
không? Địa chủ Đài khoanh tay trước ngực chỉ hơi nghiêng mặt ngước
lên rồi lại cúi gục xuống, miệng mấp máy chưa thành tiếng th́ một
thanh niên quần áo nâu ở hàng trên cùng khối quần chúng cách mạng
liền bật đứng lên thét: Đả đảo địa chủ cường hào gian ác Trần Đức
Đài! Biển người gầm theo: Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo! Mỗi lần bắt đầu kể
một tội, bà mặc váy đen lại nhảy chồm lên, tay xỉa xói trước mặt địa
chủ Đài, hỏi: Đài, mày có nhớ tội... Người thanh niên giữ nhịp làn
sóng quần chúng cách mạng lại thét: Đả đảo địa chủ cường hào gian ác
Trần Đức Đài! Con sóng quần chúng cách mạng lại gầm lên: Đả đảo! Đả
đảo! Đả đảo! Cuộc đấu tố rất bài bản! Khí thế rất sôi sục! Sức mạnh
cách mạng đầy áp đảo! Địa chủ dù không có tội cũng không thể căi!
Hôm xử bắn địa chủ Đài lũ trẻ con chúng tôi không được đi dự. Tôi
chỉ được nghe người ta nói với nhau rằng bức tường đất trường bắn
được đắp lên ngay trên cánh đồng làng Đông Khê.
Bài bản
đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất sau này c̣n được áp dụng rất
thành công trong cuộc đấu tố Nhân văn Giai phẩm, trong cuộc đấu tố,
truy bức những đảng viên trung kiên, mẫn cảm trong vụ việc được gọi
là vụ Xét lại chống đảng, trong cuộc đấu tố lọai bỏ những tiếng nói
trung thực vạch ra những việc làm sai trái của người có chức có
quyền trong các cơ quan nhà nước và cả trong cuộc đấu tố những người
có chính kiến khác với chính thống hiện nay!
Năm 1976,
cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa kết thúc, những người lính cầm bút
chúng tôi từ khắp các quân đoàn, quân khu, quân chủng, binh chủng
được Tổng cục Chính trị tập trung về Hà Nội. Trung úy Hữu Thỉnh,
Thiếu úy Chu Lai. Chuẩn úy Nguyễn Khắc Trường. Thiếu úy Phạm Đ́nh
Trọng. Hạ sĩ Trần Đăng Khoa... Hơn hai mươi nhà văn quân đội, mỗi
người ở nửa gian trong dăy nhà dài ở Vân Hồ do Tổng cục Chính trị
mới xây để đón chúng tôi. Cùng với những chiến thắng đă đi vào sử
sách th́ thành quả cuộc chiến tranh chống Mĩ c̣n là tạo nên lớp nhà
văn chiến sĩ chúng tôi, cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp tạo nên
lứa nhà văn Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc... v́ thế hồi đó chúng tôi rất
được quan tâm. T́m đến Vân Hồ thăm nom chúng tôi có từ vị tướng,
thượng tướng Đàm Quang Trung đến các nhà văn lứa đầu của cách mạng
Nguyễn Đ́nh Thi, Nguyễn Xuân Sanh, Kim Lân... C̣n những nhà văn dân
sự cùng lứa chống Mĩ th́ coi Vân Hồ như chốn đi về thường xuyên của
họ. Trong một lần la cà với chúng tôi, một nhà văn từng trải, biết
nhiều và hay chuyện đă kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về bà Nguyễn
Thị Năm, một chủ đồn điền ở Thái Nguyên. Bước vào cuộc kháng chiến
chống Pháp, Chính phủ kháng chiến chỉ có ít vàng có được từ sự quyên
góp của dân trong tuần lễ vàng nhưng không có một hạt gạo nuôi quân.
Bà Nguyễn Thị Năm đă bỏ tiền riêng ra đong gạo nuôi hàng trung đoàn
Vệ quốc quân ṛng ră hàng năm trời, rồi mua cả vải may quần áo cho
cán bộ chiến sĩ. Người chiến sĩ Vệ quốc quân đi về trang trại của bà
Nguyễn Thị Năm như đi về nhà mẹ ruột của ḿnh. Bà Nguyễn Thị Năm
thực sự là người Mẹ chiến sĩ đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt
Nam, một người Mẹ có công lao to lớn đối với cách mạng. Đất căn cứ
cách mạng Thái Nguyên lại là nơi thực hiện cải cách ruộng đất đầu
tiên, từ đầu năm 1954. Bà Nguyễn Thị Năm lại là người đầu tiên bị
qui là địa chủ lớn và cũng là người đầu tiên bị tuyên án tử h́nh
trong cải cách ruộng đất! Nghe tin, nhà văn Ngô Tất Tố, người viết
tiểu thuyết Tắt đèn, kí sự Việc làng, người có hiểu biết rất cặn kẽ
về nông thôn và có sự đồng cảm sâu sắc với nông dân liền viết thư
can gián Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng không nên mở đầu sự nghiệp vĩ đại
cải cách ruộng đất bằng việc xử bắn một người đàn bà! Hồ Chí Minh
vốn là con người t́nh cảm cũng thấy không thể nhẫn tâm với một người
có công như bà Nguyễn Thị Năm liền có ư kiến với cố vấn Tàu. Nhưng
cố vấn Tàu không chấp nhận thay đổi bản án và bà Nguyễn Thị Năm vẫn
bị xử bắn! Sách báo chính thống không khi nào ghi lại chuyện đau
ḷng đáng xấu hổ này nên không thể kiểm chứng sự xác thực của câu
chuyện xuất bản miệng của mấy ông nhà văn đă hay thọc mạch lại quan
hệ rộng, chuyện ǵ cũng vanh vách. Không xác minh được nên câu
chuyện trên chỉ như một giai thoại, một câu chuyện dă sử. Nhưng bà
chủ đồn điền Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên đă nuôi hàng trung đ̣an Vệ
quốc quân là có thật! Bà chủ đồn điền Nguyễn Thị Năm bị xử bắn trong
cải cách ruộng đất là có thật! Và quyền quyết định cao nhất của cố
vấn Tàu trong cải cách ruộng đất là có thật!
Làm giầu
bằng mọi thủ đoạn độc ác xấu xa là người coi của cải tiền bạc cao
hơn mọi gía trị khác, cao hơn cả mạng sống của chính họ. Vô tư dốc
của cải trong nhà ra nuôi quân đánh giặc giữ nước th́ con người ấy
phải có một đời sống văn hóa tinh thần cao cả, đẹp đẽ. Con người ấy
không thể làm giầu bằng gian ác, bóc lột. Tội của bà Nguyễn Thị Năm
là tội rất mơ hồ, áp đặt. Công của bà Nguyễn Thị Năm rất cụ thể, to
lớn, có đầy đủ chứng cứ lịch sử. Phát súng oan nghiệt của cuộc đấu
tranh giai cấp vay mượn, ngọai lai đă kết liễu cuộc đời người đàn bà
có công lớn với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cũng là phát súng
oan nghiệt kết liễu nền Dân chủ non trẻ mà Hồ Chí Minh đă cố gắng
thực hiện trong những năm đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Sau hiệp
định Genève, Chính phủ kháng chiến trở về Hà Nội, dù Chủ tịch Hồ Chí
Minh có đứng trước Quốc hội nhận thiếu sót, sai lầm của cải cách
ruộng đất nhưng sai lầm ấy không phải do yếu kém, sơ suất nhất thời,
chỉ xảy ra một lần. Nghề này th́ lấy ông này tiên sư, khi chúng ta
c̣n lầm rầm câu kinh của ông thánh K. Mác: Đấu tranh giai cấp là
động lực thúc đẩy xă hội phát triển! Khi chúng ta c̣n lấy học thuyết
Chuyên chính vô sản cực ḱ phản dân chủ làm cứu cánh duy tŕ một nhà
nước độc đảng, duy tŕ một thể chế đảng trị th́ chúng ta c̣n phải
lấy cuộc cách mạng vô sản bạo liệt ở nước lớn Trung Hoa làm h́nh mẫu,
th́ chúng ta c̣n phải tôn những người đang tiến hành cuộc cách mạng
vô sản sắt máu ở nước lớn Trung Hoa lên làm thầy! Khi ấy cái ṿng
kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông c̣n đánh đai trên đầu những người
lănh đạo ở nước ta, th́ cách hành xử của nhà nước ta măi măi là cách
hành xử của cải cách ruộng đất, cách hành xử không cần biết đến pháp
luật, không cần biết đến đạo lí, ư muốn của người có quyền, ư muốn
của tổ chức nắm quyền trở thành phápluật nhà nước, th́ thảm họa cải
cách ruộng đất c̣n lặp đi lặp lại trong suốt quá tŕnh tồn tại của
nhà nước chuyên chính vô sản và những thảm họa ấy đă diễn ra trong
mọi lĩnh vực đời sống xă hội!
Trong văn
nghệ sĩ, trí thức là thảm họa Nhân văn Giai phẩm đă giết chết sự
sáng tạo, giết cả một nền văn học nghệ thuật suốt gần nửa thế kỉ
qua!
Trong sản
xuất kinh doanh là thảm họa cải tạo tư sản đă hủy họai phần lớn tài
sản, tư liệu sản xuất của xă hội, đưa xă hội đến chỗ kiệt quệ!
Trong hàng
ngũ những người chiến đấu giành độc lập cho đất nước là thảm họa của
vụ Xét lại, một vụ án được tạo dựng không cần xét xử, một vụ án
chính trị trong đó những người c̣n bị ṿng kim cô tư tưởng Mao Trạch
Đông thít trên đầu u mê cuồng tín thẳng tay trừng trị, lọai bỏ những
người tỉnh táo muốn phá bỏ ṿng kim cô đó! Hàng loạt những người có
công lớn với nước, thông tuệ, mẫn cảm, trung thực bị giam cầm, đày
đọa cho đến chết!
Những thảm
họa đó là những tội ác lớn với lịch sử, với dân tộc, gây đau thương
cho bao số phận con người đều là những tinh hoa, những người tài
năng, ưu tú, kiệt xuất của dân tộc, gây phân ră, li tán cả một dân
tộc vốn tồn tại bằng thương yêu, đùm bọc, gây đổ vỡ, tan nát cả một
nền tảng đạo đức xă hội! Những tội ác của chuyên chính vô sản với
nhân dân, với đất nước quá to lớn và quá rơ ràng thế mà đến nay nhà
nước sử dụng bạo lực gây ra những tội ác đó vẫn b́nh thản bỏ qua,
vẫn vô tâm im lặng, không thẳng thắn dũng cảm nh́n nhận để có lời
xin lỗi nhân dân, xin lỗi những người bị nạn để vĩnh viễn chấm dứt
một thời mông muội, sử dụng bạo lực chuyên chính vô sản chà đạp lên
pháp luật! Không nh́n nhận, không thức tỉnh, vẫn say sưa dùng bạo
lực chuyên chính vô sản đàn áp tiếng nói dân chủ, gây ra những tội
lỗi mới!
Phạm Đ́nh
Trọng |