Con người
được ngàn xưa quan niệm như là trung tâm của vũ trụ, hạt nhân của
thế giới. Chính con người phát triển và tạo ra thế giới ngày nay.
Trong xuyên suốt mấy ngh́n năm lịch sử tiến hóa, con người không
ngừng nghiên cứu, t́m hiểu, thế giới quanh ḿnh. Với sự bùng nổ khoa
học và kinh tế của thời Hiện Đại, con người đi sâu vào ḷng trái đất,
rừng hoang, núi cao và biển cả, thám hiểm địa cầu; bay sâu vào không
gian, t́m hiểu vũ trụ. Con người đă đi bộ trên Mặt Trăng, thám hiểm
Sao Hỏa, đang xây thêm nhiều vệ tinh, con thuyền vũ trụ, trạm không
gian, trung tâm du lịch trong không gian v.v… Nhưng những sự t́m
hiểu về bản thân ḿnh, về nội tâm, về vũ trụ bên trong của chính
ḿnh th́ lại chưa được con người nghiên cứu đầy đủ. Cũng bởi v́ nhân
loại vào thời ấy, phương tiện đối thoại (communication) c̣n nghèo,
do đó nhân loại có cách nh́n khác nhau về nội tâm của ḿnh, cách
nh́n ấy tùy thuộc vào mỗi đặc trưng văn hóa của từng xă hội, quốc
gia, tôn giáo, thời đại.
Tự
do là hạt nhân phát triển con người
Một
trào lưu có tính chất bứt phá vừa xảy ra ở cuối thế kỷ thứ XX và đầu
thế kỷ XXI như một nhận thức mới về thế giới và con người, một hiện
tượng xă hội, kinh tế, chính trị mới, một xu thế mới đang làm thay
đổi bộ mặt địa cầu - Đó là Toàn Cầu Hóa. Tư tưởng Toàn Cầu Hóa (TCH)
đă thật sự phá vỡ các lớp vỏ “khu trú”, “cục bộ”, “tự bảo hộ” của
các nền văn hóa và tạo điều kiện cho nhân loại ngồi lại với nhau hầu
tiến tới thống nhất những giá trị về con người. Trước kia, các nền
văn hóa nhân loại có nhiều mâu thuẩn đối kháng. Nhân loại không có
nhiều cơ hội để đối thoại (communication) để giải tỏa những bế tắc.
Những nền văn minh nhân loại lúc ấy vẫn là những chiếc bè lớn trôi
theo trong một ḍng. Những va chạm, mâu thuẩn, đối kháng là những
hậu quả không thể tránh được. Những cuộc chiến, những Thánh chiến xa
xưa, hai cuộc Đại Chiến Thế Giới I và II và cuộc Chiến Tranh Lạnh
của thế kỷ trước là những điển h́nh. Để tránh khỏi sự tái diễn những
va chạm khốc liệt ấy, những chiếc bè lớn này, những mâu thuẩn đối
kháng này sẽ được điều chỉnh lại bởi tư tưởng, trào lưu TCH. Như vậy
TCH trước hết là cống hiến cho nhân loạn cơ hội đối thoại - đối
thoại toàn cầu - global communication - hầu tiến tới thống nhất và
xúc tiến việc hóa giải. Quá tŕnh TCH làm nổi bật vai tṛ con người.
TCH tùy thuộc vào sức cạnh tranh của con người. Khi sức cạnh tranh
của con người càng cao th́ TCH càng nhanh, càng bền vững. Con người
ở đây phải được hiểu là cá nhân. Đó là cá nhân trong các cộng đồng,
cá nhân trong mọi xă hội, cá nhân trong mọi quốc gia. Khả năng cạnh
tranh của con người chỉ phát triển tốt khi nào con người có tự do.
Con người càng nhiều tự do, sức cạnh tranh càng cao. Như vậy, tự do
là hạt nhân phát triển con người. Con người là hạt nhân của TCH.
Không gian tự do của con người cần được nới rộng, quyền lợi con
người, phẩm cách con người, cần phải được tôn trọng, bảo vệ và phát
triển không ngừng. Tạo điều kiện và cơ hội cho con người được tự do
là triết lư sâu sắc của TCH. Tự do có 3 chiều: Tự do Kinh tế, Tự do
Chính trị, Tự do Văn hóa. Đó cũng là 3 nhóm cơ bản của Nhân quyền.
Như vậy TCH làm nẩy bật vai tṛ Nhân quyền trong thế giới hiện đại.
Thật vậy, qua quá tŕnh TCH, nhân lọai nhận thấy ở đâu có Tự do, ở
đó có Nhân quyền, ở đó có tiến bộ về mọi mặt từ kinh tế, chính trị,
nhân văn và khoa học. Cứu cánh của Tự do là mang lại vinh dự và hạnh
phúc cho con người.
Từ
thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XVIII, Việt Nam là một nước c̣n trôi
giạt ngoài ḍng thời đại quốc tế. Việt Nam đă đánh mất cơ hội tham
gia Toàn Cầu Hóa lần thứ I vào năm 1496, khi Christopher Colombus
t́m ra Tân Thế Giới - châu Mỹ. Và TCH lần thứ II vào năm 1789 sau
cuộc Cách mạng Tư sản Pháp. Măi đến năm 1991, TCH hóa lần thứ III,
sau khi bức tường Đông Bá Linh sụp đổ (1989), sau đó là Chế độ Cộng
sản bị xóa số ở Nga và châu Âu năm 1991, VN mới mạnh dạn tham gia
bước vào TCH cùng với nhân loại trong đó có những nước XHCN cũ, gồm
có các quốc gia Đông Âu, Nga và Tàu…
Khi
gia nhập TCH vấn đề quan trọng là làm thế nào để có đầy đủ khả năng
tham gia vào sức cạnh tranh toàn cầu. Muốn có được năng lực cạnh
tranh người dân phải có đầy đủ tự do. Có tự do người dân mới có đủ
khả năng mở rộng không gian hiểu biết và quyền làm chủ của ḿnh để
phát triển, mới đủ khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của ḿnh.
Con người có tự do là con người chịu trách nhiệm chính ḿnh, tự làm
chủ của ḿnh. Cùng với xu thế TCH, Xă Hội Dân Sự trở thành một bức
thiết cho mọi quốc gia. Trong Xă Hội Dân Sự-XHDS- con người độc lập
với nhà nước càng nhiều càng tốt. Con người phải có đầy đủ bản lỉnh
để xác quyết chỗ đứng của ḿnh, thân phận của ḿnh trong tương quan
với cộng đồng. Trong XHDS, mực độ Dân chủ của người dân là tiêu
chuẩn đo lường tính hợp pháp của chính phủ; mực độ phát triển Tự do
của người dân nói lên bản chất lănh đạo của chính phủ.
Trong quá tŕnh TCH, Tự do là một khái niệm cần được luôn luôn cảnh
thức, cần được luôn luôn soi sáng, chiếu rọi, cần được thường xuyên
làm mới, làm phong phú hơn. Trong quá tŕnh TCH sự cạnh tranh vô
cùng khốc liệt, con người sẽ thấy rằng nếu ḿnh không đầy đủ tự do
th́ sẽ thiếu năng lực cạnh tranh, ḿnh sẽ thua cuộc. TCH là môi
trường lư tưởng để rèn luyện h́nh thành phẩm chất con người. Mỗi khi
con người Tự do làm chủ lấy ḿnh, th́ không ai có thể ép buộc ḿnh
phải sống với một vùng đất nước hay một chế độ mà họ không hỗ trợ
hạnh phúc của ḿnh, con người có quyền lựa chọn nơi cư trú thích hợp
với ḿnh, có quyền di cư, có quyền tị nạn. Con Người Tự Do làm chủ
lấy ḿnh c̣n có thể hiểu con người có quyền sở hữu tài sản đất đai,
của cải vật chất và trí tuệ.
Hai mặt thực và ảo của Toàn Cầu hóa
TCH
là sức ép, buộc các quốc gia phải mở cửa đón nhận cơ hội lớn để phát
triển con người, để nâng cao sức cạnh tranh của ḿnh trong toàn cầu,
để cùng sinh tồn trong b́nh đẳng cùng nhân loại. TCH là một hiện
tượng cạnh tranh toàn cầu để phát triển. Nếu không tham gia vào quá
tŕnh này th́ dân tộc, cộng đồng sẽ bị loại ra khỏi ḍng chủ lưu của
thời đại. Lộ tŕnh TCH có hai giai đoạn: TCH Kinh tế và sau đó là
TCH Văn hóa.
A -
TCH Kinh tế đă và đang là một xu thế lớn có sức cuốn hút phần lớn
các quốc gia. Sự chuyển vận các nguồn năng lực, các ḍng vốn đầu tư,
ḍng công nghệ, ḍng tài nguyên… trên cùng khắp thế giới từ quốc gia
này đến quốc gia khác, từ vùng này đến vùng khác trên khắp địa cầu
là một h́nh thức TCH Kinh tế. Sự luân lưu dịch chuyển này phá vỡ
biên giới quốc gia. Xuất khẩu lao động, xuất khẩu chuyên gia, là
những bức thiết của những quốc gia đông dân mà không có đủ cở sở
công nghệ để tiêu thụ họ như Ấn Độ và Việt Nam hôm nay. Các nguồn
vốn đầu tư sẽ đổ vào các quốc gia có sức lao động cao và rẻ, có tay
nghề giỏi và cỏ đủ nguồn tài nguyên và công nghệ tạo ra những sản
phẩm có sức cạnh tranh cao như Ấn Độ, TQ, Hoa Kỳ… Các quốc gia có
nguồn tài nguyên rộng lớn như năng lượng, dầu khí, than đá, gỗ, kim
khí, uranium v.v… xuất khẩu nguồn nguyên liệu là một nhu cầu bức
thiết cho họ. Thế giới TCH là một thế giới cộng sinh, mọi người cùng
có lợi. Bên cạnh đó là sức cạnh tranh bắt buộc gây gắt các thanh
viên TCH phải luôn luôn phát triển, phải luôn tạo môi trường thống
thoáng nhất là Tự Do cho mỗi con người, cho mỗi nghành nghề. ”Thị
trường Tư do, Thương mại Tư do, con người Tự do”,(1) là ba yếu tố
cần thiết cho phát triển kinh tế. Các quốc gia, các xă hội, có không
gian chính trị thống thoáng, tự do, có sức thu hút mạnh mẻ những
ḍng năng lực chính trí, những nhà tư tưởng, như Mỹ đă từng thu hút
Albert Einstein, Arthur Koestler, Henry Kissinger, Mikhail
Gorbachev…
B-TCH
Văn hóa là sự giao lưu văn hóa. Tất cả các nền văn hóa, các dân tộc
t́m cách chung sống với nhau, cùng trao đổi với nhau, cùng có lợi,
cùng có cơ hội so sánh, hóa giải, cùng phát triển bản sắc văn hóa
riêng của ḿnh. Về phương diện TCH văn hóa, các quốc gia nếu không
chủ động, sẽ bị sức ép, buộc phải mở rộng cửa tiếp thu, trao đổi
những nền văn hóa, những luồng văn hóa, những phong trào văn hóa mới…
Nhưng phải hiểu đó cũng là cơ hội để phát triển con người, để phát
triển người dân. Du lịch là một cách thức điển h́nh để con người tạo
ra giao lưu văn hóa. Qua tốc độ TCH, các dân tộc, các quốc gia, các
xă hội, giao lưu với nhau chủ yếu thông qua các hệ giá trị đặc biệt
của nhiều nền văn hóa, con người càng ngày càng nhận ra được những
giá trị văn hóa chung mà con người cần vươn tới. Đó là những tiêu
chuẩn văn hóa có giá trị phổ quát toàn cầu. Do đó việc xây dựng một
hệ tư tưởng có giá trị toàn cầu đă trở thành một nhu cầu tất yếu.
Các hệ tư tưởng lạc hậu, được kiên tŕ bảo vệ qua các lớp vỏ “khu
trú”, ”cục bộ”, “tự bảo hộ”… khó đứng vững trước trào lưu TCH hiện
đại. Các hệ tư tưởng này phải chấp nhận một quá tŕnh thanh toán vô
cùng gay gắt trước khi bước vào thế giới TCH. Chỉ qua quá tŕnh này,
họ mới hy vọng tồn tại, và cuối cùng là phát triển trên những cơ sở
của giá trị thật của họ.
Tất
nhiên tất cả các trào lưu đều có những mặt sáng và tối của chúng. Tự
do là hạt nhân trong quá tŕnh phát triển con người. Tự do cũng là
bà mụ đỡ đầu của Nhân quyền. Không có Tự do, Nhân quyền không tồn
tại. Trong quá tŕnh TCH, Tự do và Nhân quyền có những giá trị tương
quan với nhau, có những hệ lụy với nhau. Tự do và Nhân quyền đóng
vai tṛ then chốt trong TCH. Do vậy, Tự do và Nhân quyền thường hay
bị cố ư lạm dụng. Trong quá khứ Nhân quyền nhiều lúc được các quốc
gia “cá lớn” sử dụng như một “chiêu”, như một thứ vũ khí để xen vào
nội bộ của các nước “cá bé”, các nước yếu hơn. Tuy nhiên sự “lạm
dụng ư nghĩa của nhân quyền” cũng phải được hiểu trong nhiều chiều
hướng khác nhau. Có lúc cũng có những kẻ yếu hơn, dùng nhân quyền
như cái thuẩn để bảo vệ ḿnh, để bảo vệ tư tưởng ḿnh: thời cổ Hy
Lạp, triết gia Diogène, (thế kỷ thứ IV trước J.C), phản đối
Alexandre Đại Đế đứng chắn mất ánh sáng mặt trời lẽ ra ông ta được
hưởng khi Alexandre Đại Đế đến thăm ông và ban phát bổng lộc cho ông.
Diogène vẫn tố cáo Alexandre Đại Đế đă vi phạm nhân quyền. Gần 2000
năm sau, Michelangelo, (nhà điêu khắc Ư 1475-1564), trong lúc ông
đang tạc tượng Piéta, Hồng Y giáo chủ Villier De La Groslaye lân la
đến hỏi ông tại sao ông tạc tượng Đức Mẹ Maria trẻ thế? Lập tức
Michelangelo cho rằng Hồng Y Giáo chủ vi phạm nhân quyền khi ông can
thiệp vào chuyện riêng tư của nghệ thuật! Theo Michelangelo sáng tạo
của nghệ sĩ là điều không ai có thể ra lệnh chỉ đạo một cách trực
tiếp hay thô bạo được. Trong lịch sử thế giới, có những chính phủ,
những chế độ hoàn toàn ư thức được giá trị của Nhân quyền, nhưng họ
không thể để cho người dân của họ được hoàn toàn tự do, được hưởng
nhân quyền đúng theo ư nghĩa lịch sử của nó. Như Ôn Gia Bảo, Thủ
tướng Trung quốc, đă thối thác về vấn đề Nhân quyền, Tự do, Dân chủ
với Thủ tướng Anh, Gordon Brown tại Bắc Kinh hồi tháng 1/2008, Ôn
Gia Bảo phát biểu: “ Dân chủ, Tự do, B́nh đẳng, t́nh Bằng hữu luôn
luôn là những giá trị chung mà nhân loại cùng chia sẻ. Nhưng con
đường thực hiện Dân chủ tại các nước khác nhau gắn liền với điều
kiện lịch sử và tinh thần của các quốc gia đó. Mỗi nước đều có con
đường khác nhau để tiến đến Dân chủ…”. Mỹ, một trường hợp điển h́nh
khác: vào ngày 4/7/1776, đúng 233 năm về trước, các nhà lănh đạo
chính trị của Hợp Chủng Quốc, trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đă xác
quyết: “Con người được sinh ra b́nh đẳng, có quyền sống, có quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” Ấy thế mà phải đến năm 1920, nghĩa
là 144 năm sau, Chính phủ Mỹ mới cho phụ nữ Mỹ được quyền bầu cử,
nếu không th́ sợ phải vi phạm nhân quyền. Trong khi đó người phụ nữ
Âu Châu được quyền bầu cử từ năm 1840! Trong thế giới TCH, sự lạc
hậu về kinh tế, sự kém cỏi về khoa học kỹ thuật ở các quốc gia chậm
tiến cũng bị lợi dụng cũng bị triệt để khai thác. Một nhà sử học vào
giữa thế kỷ XX, đă nói một câu bất hủ: “Nếu anh là một quốc gia châm
tiến lạc hậu về khoa học kỹ thuật, mà anh muốn hưởng những lợi ích
của khoa học kỷ thuật hiện đại th́ anh phải chấp nhận lệ thuộc. C̣n
nếu anh muốn bảo vệ Độc lập, tự do và b́nh đẳng th́ phải tiếp tục
sống trong t́nh trạng, nghèo khó đói kém và lạc hậu ”. Thế giới TCH
không phải là thế giới phẳng như Thomas Friedman quan niệm The World
is Flat, thật sự nó cũng lồi lơm, cũng có những gốc khuất, nhưng tất
cả đều phải được đưa ra đối thoại trên diện toàn cầu. Cho nên chúng
ta cũng phải hiểu TCH là một quá tŕnh thương mại, đổi chác
(Trading). Dù vậy, con người người không thể tách ḿnh ra khỏi quá
tŕnh TCH. Toàn cầu hóa là cơ hội lớn để các dân tộc nh́n vào sư
thật về ḿnh bằng các so sánh, bằng cách quyết liệt cạnh tranh với
những dân tộc bên cạnh ḿnh, cùng hoàn cảnh lịch sử và xă hội giống
ḿnh. Tự nhiên mọi dân tộc tự đặt ḿnh trong những tương quan so
sánh, họ phải nh́n thấy những nhược điểm của ḿnh để phấn đấu vươn
lên. TCH là bài học cần có để nâng cao nhận thức của ḿnh, là cơ hội
để ta so sánh ta cùng với các đối tác. Khi đă có được những ư thức
chân chính như vậy về TCH, con người mới làm chủ được ḿnh. Có thế,
những thất bại mà con người gặp phải trong quá tŕnh TCH mới được
xem như những bài học học cần thiết để nâng cao năng lực nhận thức
về cuộc sống cộng hưởng và cộng sinh trong thế giới TCH.
Có
một số quốc gia c̣n mang nặng tính chất khu trú, cục bộ, tự bảo hộ,
chuyên chính, độc tài theo kiểu XHCN cuối mùa như Cuba, Venezuella,
Bolivia... hay một ít lực lượng chính trị trên thế giới cảm thấy
chắc chắn ḿnh thất bại trong quá tŕnh TCH, như El Qaeda, hay các
quốc gia thuộc Khối Thứ III, người dân ở đó sống thiếu tự do, thường
xuyên chống lại, phản bác trào lưu TCH. Chủ Nghĩa Khủng Bố thể hiện
sự thất vọng của một lực lượng chính trị đối với quá tŕnh TCH. Cuộc
chiến chống lại bọn khủng bố là cuộc chiến toàn cầu, bảo vệ tự do
của con người, bảo vệ TCH.
Việt Nam hội nhập và phát triển
Có
người bảo nhờ ở sự may mắn của lịch sử mà Việt Nam có cơ hội tích
cực tham gia TCH lần thứ III. Có thể là như thế. Trên thực tế, Việt
Nam đă mạnh dạn tham gia TCH III đó là kết quả tất yếu của các cuộc
dấn thân đấu tranh của dân tộc ta, quyết tâm đi vào ḍng chủ lưu của
thời đại. Hơn thế nữa, Việt Nam, sau năm 1991 mạnh dạn tham gia TCH
cũng là nhờ sự xoay chiều chuyển hướng và ư chí phấn đấu, giác ngộ
quyền lợi dân tộc của cố Thủ tướng Vơ văn Kiệt và hai vị kế nhiệm
ông là nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Cố Thủ tướng Vơ văn Kiệt được xem như người thầy kiệt xuất “Đổi Mới”
Việt Nam. Dưới thời của ông nền kinh tế VN chuyển đổi mạnh từ tập
trung bao cáp sang cơ chế thị trường. Nhân dân lần đầu tiên được
hưởng tự do làm ăn. Ông đẩy mạnh quan hệ đối ngoại đa dạng hóa, đa
phương hóa, làm cho VN thêm bạn bớt thù. Cố Thủ tướng Vơ văn Kiệt đă
tạo được một không gian chính trị, kinh tế thống thoáng và cởi mở.
Dưới thời của ông, Tổng thống Mỹ, Bill Clinton, v́ thế đă không ngần
ngại chấp nhận tái lập bang giao với VN trên cấp bậc đại sứ vào năm
1995. Để có cái nh́n chính xác và để Việt Nam biết ḿnh là ai, đang
ở đâu trong cộng đồng nhân loại, cố Thủ tướng Vơ văn Kiệt đă mạnh
dạn đưa Việt Nam vào TCH, đưa Việt Nam vào sức cạnh tranh toàn cầu,
làm thức tỉnh phần nào nhóm tả khuynh cực đoan trong hàng ngũ CSVN.
Tiếp
nối tư tưởng “Đổi Mới” của bậc tiền nhiệm, Nguyên Thủ tướng Phan Văn
Khải tiếp tục khuếch trương quan hệ ngoai giao theo chiều hướng đa
dạng hóa, đa phương hóa thêm bạn bớt thù, và tiếp tục đẩy mạnh phát
triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Không gian tự do buôn bán được
nới rộng hơn, khả năng cạnh trạnh toàn cầu của VN được hoàn thiện
phần nào. Trong cuộc thương lượng với Tổng thống Hoa Kỳ, Geoge W.
Bush, tại Ṭa Bạch Ốc, tháng 6/2005, Nguyên Thủ tướng Phan văn Khải
quyết tâm đưa Viet Nam gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới, WTO.
Tại
lễ nhậm chức vào ngày 2-8-2007 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
phát biểu:
“…thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự do rộng mở đa diện
hóa, đa phương hóa. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc
gia, các dân tộc trong cộng đồng quốc tế tốt đẹp và mong rằng sẽ
tiếp tục nhận được sự ủng hộ và hợp tác của chính phủ các nước, các
tổ chức quốc tế, các chính giới, các nhà khoa học, các nhà kinh
doanh nước ngoài, v́ mục tiêu ḥa b́nh, ổn định, hợp tác, b́nh đẳng
cùng phát triển cùng phồn vinh cho mỗi quốc gia trong khu vực và
trên thế giới…” (2)
Trước Khóa họp lần 62, Đại Hội Đồng LHQ, hôm 27/9/2007, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng phát biểu:
“
Việt Nam kiên tŕ thực hiện chủ trương là bạn là đối tác tin cậy của
các quốc gia phấn đấu v́ ḥa b́nh độc lập và phát triển…Việt Nam đă
là thành viên thứ 150 của TCMDQT-WTO…”
Và
trong dịp này, chính Thủ tướng Dũng đă đưa Việt Nam thành một thành
viên không thường trực của tổ chức HĐBA - LHQ…(3).
Đó là
quá tŕnh hội nhâp TCH và phát triển của Việt Nam qua quyết tâm của
3 đời Thủ tướng, mà Cố Thủ tướng Vơ văn Kiệt là người thầy kiệt xuất
trong Đổi Mới đất nước, người đă biết giác ngộ không ǵ quí hơn
quyền lợi tổ quốc, lợi ích dân tộc.
Ông Phong
Lê viết trên báo Văn Nghệ tháng 12/08:
“ …Ra
khỏi chiến tranh, Việt Nam với nhiều thương tích, lại hướng theo một
mô h́nh xă hội sai lầm không thuận với qui luật, nên bước đi của dân
tộc bị chậm rất nhiều so với khu vực. C̣n so với các nước tiền tiến
tư bản th́ sự thấp thua là nhiều trăm năm…”.
Và
Việt Nam được gia nhập TCH lần III, với ông Phong Lê:
“
Đó là một may mắn của lịch sử. Để không được chậm trễ và bỏ lỡ cơ
hội, ta phải biết cách làm bạn với tất cả thế giới và phải biết cách
đi tắt đón đầu…”
Và
ông cũng lên tiếng cảnh giác:
”Đó là điều khó tránh vi phạm những bước tiến theo qui luật tự nhiên
của lịch sử. Kinh nghiệm của những Bứt Phá, những Đại Nhảy Vọt,
những cuộc cách mạng với những cái tên rất kêu và cả một hệ thống lư
thuyết nằm trong các đường lới cương lĩnh, nghị quyết đậm đặc ư chí
luận, đă gây ra biết bao đứt gẫy với truyền thống và mất gốc rễ lịch
sử.” (4)
Cả nước đang lo
ngại, trước áp lực của Chuyên chính vô sản, ĐCSVN c̣n nắm giử Công
an và Bộ đội, Đảng c̣n chỉ huy súng, th́ những tư tưởng “đổi mới”
của cố Thủ tướng Vơ văn Kiệt sẽ đi vào tàn lụi, những tiếng kêu gọi
của Thủ Tướng Phan Văn Khải, những thông điệp về Hội nhập và phát
triển của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cũng như những lời cảnh cáo của
ông Phong Lê… tất cả sẽ rơi vào hoang mạc! Sự hiện hữu của Chuyên
Chính vô sản như một nỗi đe dọa cho những ai muốn đổi mới, muốn đưa
đất nước đi sâu vào hội nhập cùng thế giới để cùng phát triển. Trước
t́nh thế Tự do báo chí, tự do thông tin, tự do ngôn luận, đều bị bóp
nghẹt, tham nhũng ngày một lộng hành, hàng loạt Tổng Biên Tập, phóng
viên của các báo chí bị kiểm điểm, cho thôi việc, bị tù đầy, học tập
cải tạo, nền kinh tê đang ở trong gọng kềm của lạm phát ở cấp hai
con số, sức cạnh tranh sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng… Việt
Nam sẽ đi về đâu? Vấn đề tốc độ Việt Nam hội nhập TCH trong suốt gần
hai thập kỷ vừa qua, là một bận tâm của những ai c̣n quan tâm đến
vận mệnh tương lai của đất nước. Có lẽ v́ ư thức vấn đề Việt Nam Hội
nhập và Phát triển c̣n là một vùng nhạy cảm của thời hiện tại, cho
nên trong suốt thời gian của diễn đàn “Việt Nam Học” tổ chức tại Hà
Nội vào 12/2008, không thấy có bài tham luận nào liên quan đến vấn
đề trên được đem ra mỗ xẻ và phổ biến.
Cũng v́ lư do ấy,
tôi mạo muội viết bài tham luận ngắn này để hầu quí vị, những ai c̣n
quan tâm dến vấn đề hội nhâp và phát triển của đất nước,/.
13/1/2009
Đào Như
BS Đào Trọng Thể
Thetrongdao2000@yahoo.com
Oak park,Illinois,USA
Chú thích:
Phát biểu của TT Bush
trong hội nghị APEC-16 tại Lema-Peru
(1)http://www.voanews.com/vietnamese/2008-11-22-voa22.cfm
Phát biểu của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng tại lễ nhậm chức 2-8-07
(2)http://www.mofa.gov.vn/vi/cs_doingoai/pbld/ns070802150433
Diễn văn của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đọc tại khóa hơp thứ 62-Đại Hội Đồng LHQ
(3)http://www.chinhphu.vn//portal/page?_pageid=33,128127&_dad=portal&_schema=PORTAL&item
Việt Nam Đang Ở Đâu-
Đào Như
(4)http://www.diendan.org/viet-nam/vietnam-dang-o-dau/
Về Cái Thời Chúng Ta
Đang Sống- Phong Lê
(5)http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Ve_cai_thoi_
chung
|