Qua suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc (TQ) chúng ta thấy rằng
dân tộc TQ năng động, đất nước TQ luôn luôn có xáo trộn hay biến
động và ảnh hưởng rất lớn đến nền an ninh toàn cầu. Kể từ khi cộng
sản TQ chiếm lục địa từ năm 1949 trở đi, xă hội TQ ngày càng biến
đổi, và càng biến đổi nhanh nhất từ khi Đặng Tiểu B́nh đưa ra chương
tŕnh hiện đại hoá TQ.
Những biến đổi đó đă đưa đất nước TQ từ lạc hậu trở thành một cường
quốc quân sự chỉ đứng sau Hoa Kỳ, và là một cường quốc kinh tế thứ
tư trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức quốc. V́ sao TQ có
những bước nhảy vọt? Và cũng chính v́ sức mạnh quân sự kinh tế tăng
trưởng nhanh chóng cộng thêm năo trạng của người Trung hoa đă tạo
nên những mối lo âu cho cộng đồng thế giới trước tiến tŕnh toàn cầu
hoá ngày hôm nay.
Đất nước Trung Quốc
Ngay sau khi chiếm toàn thể lục địa, Cộng sản TQ tiếp tục theo đuổi
chính sách phát triển quốc gia hoàn ṭan rập khuôn theo Nga Sô,
nghĩa là đặt trọng tâm vào sản xuất các công kỹ nghệ nặng, nhất là
quân sự và lơ là chính sách phát triển các nhu cầu thực dụng cần
thiết cho nhu cầu ṭan dân. Do đó, kinh tế tiếp tục tăng trưởng chậm
chạp, không đáp ứng được nhucầu sau chiến tranh.
Măi cho đến năm 1979, nền kinh tế quốc gia Trung Quốc (TQ) đă bắt
đầu được vực dậy qua chương tŕnh hiện đại hoá của Đặng Tiểu B́nh từ
một phần tư thế kỷ vừa qua. Và trong ṿng 10 năm trở lại đây, mức
phát triển của TQ vẫn ở mức 10% hàng năm. Điều nầy đă làm thế giới
ngạc nhiên nhất là qua các cuộc khủng hoảng tiền tệ ảnh hưởng lên
các nước trong vùng mà TQ vẫn tiếp tục phát triển chứ không bị suy
thoái. Trong những tháng gần đây, báo chí trên hầu hết khắp nơi đều
đặt vấn đề và xem đây là một hiện tượng “con rồng TQ” bắt đầu trở
ḿnh và một đất nước “Thiên Tử” đang hồi sinh.
Nhưng qua các thành tựu trên, chúng ta có thực sự thấy những ǵ đang
diễn ra ở TQ qua các thành quả đă đạt được ngày hôm nay.
Trước hết, xin liệt kê ra đây vài số liệu căn cứ vào thông tin của
cia.gov (2008), trên mạng lưới toàn cầu, để nói lên t́nh trạng phát
triển chung của TQ:
Trung Quốc là một nước lớn chiếm diện tích 9,596 triệu Km2 (nhỏ hơn
diện tích của Hoa Kỳ một ít), có dân số là 1,330 tỷ tính đến tháng
7/2008. Mức gia tăng dân số là 0,629% (2008). Số tuổi trung b́nh là
33,6 tuổi. Lực lượng lao động của TQ lớn nhất thế giới với 800,7
triệu (2008), trong đó tỷ lệ lao động được chia ra như sau: Lao động
nông nghiệp, 43% (2006), lao động kỹ nghệ, 25% (2006) và lao động
dịch vụ, 32% (2006). Trung b́nh mức lạm phát vào khoảng 4,8% (2007).
Lợi tức đầu người là 2.034 Mỹ kim (2007). Măi lực toàn quốc
(Purchasing power parity) năm 2007 là 7.099 tỷ Mỹ kim đưa đến măi
lực đầu người là 5.400 Mỹ kim (2007).
Trong tiến tŕnh phát triển chung trên thế giới, định mức sự phát
triển của một quốc gia vẫn c̣n căn cứ vào thuyết “tam khu” của Colin
Clarke, trong đó gồm khu nông nghiệp, khu công nghiệp, và khu dịch
vụ. Từ đó qua sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số phát
triển của một quốc gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vực. So
với mức phát tiển năm 2001, TQ giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp từ 43
xuống c̣n 40%, và tăng lao động dịch vụ từ 25 lên 32%. Đây là một sự
phát triển tốt.
Tuy nhiên, mặc dù có những bước nhảy vọt, lợi tức đầu người tăng từ
900 Mỹ kim năm 2003 lên đến 2.034 năm 2007, TQ cũng đă để lại một xă
hội bất b́nh đẳng với 22 triệu người dân sống dưới mức 90 Mỹ kim/năm,
và 36 triệu dưới 125 Mỹ kim, và khoảng 300 triệu sống dưới 1 Mỹ kim/ngày,
tiêu chuẩn nghèo tuyệt đối của Liên Hiệp Quốc!
Như đă nói ở phần trên, TQ đă đi đôi hia “bảy dặm” bằng cách mở cửa
giao tiếp với thế giới bên ngoài từ năm 1979 dưới thời Đặng Tiểu
B́nh với một phương châm bất hủ là:” Dù mèo trắng hay mèo đen
cũng chẳng sao, chỉ cần biết bắt chuột là được”. Trong tinh thần
thực dụng trên, TQ đă thành công và đưa đất nước ra khỏi tụt hậu chỉ
trong một thời gian không dài.
Trong những năm trở lại đây, TQ đă phát triển vượt bực, cao hơn mức
dự tính của thế giới. Vào năm 2004, Ngân hàng Phát triển Á châu đă
dự tính TQ sẽ tăng 7,9%. Nhưng trên thực tế TQ đă gia tăng 9,3%, hơn
10% năm 2007. Tính đến cuối năm 2007, có trên 5.000 Cty TQ đă trực
tiếp đầu tư vào 172 quốc gia trên ṭan cầu. Có nhiều lư do đúc kết
sự thành công vượt bực của TQ cho những năm gần đây là:
1 – Đất nước TQ không phải chịu những tai ượng thiên nhiên ảnh
hưởng đến phát triển như những quốc gia trong vùng. Cuộc khủng hoảng
dầu hoả gần đây đă được TQ kiểm soát và điều tiết chừng mực do đó
không tạo ra khủng hoảng năng lượng như những năm 1979-1980.
2 – Phát triển kinh tế ở TQ hiện tại vẫn c̣n trong giai đoạn sử dụng
ít năng lượng hơn so với các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến. Nhưng từ
năm 2007 trở đi, nhu cầu năng lượng của TQ là yếu tố hàng đầu cho
đất nước nầy. Chính v́ cuộc chiến tranh dành năng lượng có thể đưa
đến chiến tranh trong vùng trong tương lai. Hiện tại, TQ tiêu thụ
trên 7 triệu thùng dầu hàng ngày, chỉ đứng sau Hoa Kỳ với 26 triệu
thùng/ngày mà thôi.
3 – Qua vốn đầu tư ngoại quốc, TQ đă cân bằng được mức phát triển
qua những dịch vụ thâm thủng trong cán cân thương mại xuất nhập
nguyên liệu và thành phẩm. Trong bảng xếp hạng 50 Đại công ty toàn
cầu năm 2004, Cty China Petroleum & Chemical của TQ được xếp vào
hạng 9 với số thương vụ là 16,7 tỷ Mỹ kim, tăng 39% so với năm 2003,
chỉ đứng sau các cộng ty Dow Chemical, BASF, Du Pont, Exxon, Total
v.v...
4 – Phát triển TQ hiện nay đang dựa vào đầu tư ngoại quốc, do đó sự
gia tăng giá dầu thô đă được mức ngoại tệ đầu tư trên bổ sung vào
mức thiếu hụt.
5 – Quan trọng hơn cả là 1,3 tỷ nhân khẩu nội địa. Hiện tại người
dân TQ c̣n cần quá nhiều nhu cầu để phục vụ tối thiểu cho đời sống
của người dân ở một quốc gia tân tiến, do đó kỹ nghệ TQ chỉ cần tập
trung vào những mũi dùi phát triển là có thể làm cho kinh tế cất
cánh mau. Những mũi dùi phát triển đó là những mặt hàng thông dụng
như xe cộ, tủ lạnh, microwave, máy giặt, máy sấy, truyền thanh,
truyền h́nh, xây dựng, và những mặt hàng gia dụng khác v.v...
Tuy nhiên, thiết nghĩ sự phát triển kinh tế của TQ ngày hôm nay chỉ
là một quá tŕnh chuyển tiếp mục đích để phục vụ nhu cầu cần thiết
cho người dân của nước nầy, hầu có được một đời sống vật chất “tử tế”.
Một khi mức sống tối thiểu của người dân đă được bảo hoà, vấn đề
phát triển kinh tế của TQ sẽ chuyển qua một tiến tŕnh khó khăn hơn
nữa mà lănh đạo TQ cần phải tiên liệu cho tương lai, nếu muốn ngăn
chặn những cơn khủng hoảng xă hội có thể xảy ra sau đó. Đó là
việc chuyển tải lực lượng lao động qua công nghiệp và dịch vụ. Ở các
quốc gia đă phát triển như Tây Âu và Bắc Mỹ, lực lượng lao động nông
nghiệp không quá 15%. Riêng tại Hoa kỳ, lực lượng nầy chỉ c̣n dưới 2
triệu, so với trên 300 triệu dân mà vẫn có đầy đủ lương thực cho
nước Mỹ cũng như viện trợ cho hầu hết các nước nghèo trên thế giới.
Qua những nhận xét và phân tích ở phần trên, chúng ta thấy TQ đang
có những bước phát triển “nhanh” trong tiến tŕnh hiện đại hoá quốc
gia, nhưng những bước phát triển của TQ chỉ là những bước đột phá
ban đầu. Thực sự những chỉ số phát triển vừa nêu trên chỉ là những
chỉ số biểu kiến và tương đối trong việc ổn định xă hội TQ hiện nay
mà thôi.
Gọi là biểu kiến v́ trong quá tŕnh phát triển quốc gia
v́ TQ đă để lại biết bao vấn nạn môi trường với ảnh hưởng và
hậu quả nghiêm trọng chắc chắn sẽ xảy ra trong một vài thập niên tới.
TQ không có chính sách cân bằng phát triển và quản lư môi trường.
Do đó, t́nh trạng môi trường ngày càng xuống cấp: không khí đầy bụi
bậm chứa các kim loại độc hại như ch́ (lead) và thuỷ ngân (mercury)
cùng nhiều hợp chất hữu cơ nhẹ, nguồn nước ở nhiều nơi không c̣n sự
hiện diện của tôm cá và đă là những “ḍng sông đen”, đặc biệt là
trong các phụ lưu của sông Hoàng Hà và Dương Tử. Ngay cả ḍng chảy
của sông Hoàng Hà đă chậm dần so với trước kia, và không c̣n chảy ra
biển nữa. Thành phố Vân Nam đă biến thành khu đại kỹ nghệ hoá chất
và khi gió đổi chiều, khói và bụi thành phố đă di chuyển đến tận...Hoa
Kỳ. Thành phố Thượng Hải và thềm lục địa chung quanh đang bị báo
động về ô nhiễm. Ngay cả việc chuẩn bị cho Thế vận hội vào ngày
8/8/2008, TQ vẫn chưa giải quyết được t́nh trạng ô nhiễm không khí
tại Bắc Kinh theo yêu cầu của Uỷ ban Thế vận Quốc tế, mặc dù đă có
rất nhiều cố gắng qua các biện pháp như ngăn cấm người dân hút thuốc,
hạn chế lượng xe cộ chạy vào thành phố, đóng cửa những nàh máy phát
điện sử dụng than, v. v…
Gọi là tương đối,
v́ sự phát triển của TQ chỉ tương đối so với nhu cầu của 1,3 tỷ dân
chúng và thị trường nhân công rẻ mạt. Các chương tŕnh hiện đại hoá
điển h́nh của TQ sau đây thể hiện rơ nét của tính tương đối trong
phát triển của TQ. Theo một báo cáo của Hàn Lâm Viện TQ (Chinese
Academy of Sciences, 2006) th́ TQ đă phát triển chậm hơn so với Hoa
Kỳ 100 năm, với Đức Quốc 70 năm, và 60 năm so với Nhật Bản.
Vào năm 2001, măi lực tính theo đầu người của một người TQ là 3.583
Mỹ kim (năm 2004 lên đến $5.000), trong lúc đó thời điểm một người
Hoa Kỳ có măi lực trên là vào năm 1892, tức 109 năm trước đó. Vào
năm 2002, lợi tức người dân HK là 35.400 Mỹ kim, tăng 4% so với năm
trước đó, tức tăng 1.416 Mỹ kim. Trong lúc đó, lợi tức của một người
TQ ở thời điểm trên là 900 Mỹ kim, tăng 8% so với năm trước, tức 72
Mỹ kim. Qua các số liệu trên, chứng tỏ rằng dù mức tăng trường hàng
năm của TQ có là 15%, th́ khoảng cách lợi tức so với HK cũng ngày
càng cách xa dù KH chỉ tăng trưởng 3-4% mỗi năm.
TQ hiện nay vẫn c̣n nằm trong danh sách quốc gia đang phát triển dù
hiện đang thúc đẩy rất mạnh tiến tŕnh hiện đại hoá và khó có thể
h́nh dung được một h́nh ảnh TQ vượt trội lên hàng quốc gia phát
triển trong ṿng 30 – 40 năm tới.
Cũng theo tài liệu của Hàn Lâm Viện Khoa học TQ, tính theo định mức
kinh tế, năm 2005 TQ được xếp vào thứ hạng 69 trên 209 quốc gia trên
thế giới. Theo đà phát triển như hiện tại, TQ sẽ vươn lên thứ hạng
39 về kinh tế so với các quốc gia trên thế giới vào năm 2080.
Rốt ráo lại, có thể nói, TQ hiện đang đối mặt với những thách thức
trong khi cố gắng giữ mức tăng trưởng trong phát triển quốc gia như
sau:
*
Vấn đề bảo đảm mức tăng trưởng hàng năm của lực lượng lao động mới,
giải quyết hàng chục triệu lao động thặng dư do việc sa thải công
nhân từ các xí nghiệp quốc doanh, và lao động do việc di chuyển từ
nông thôn lên thành thị;
*Vấn
đề giảm thiểu tệ trạng tham nhũng và các tội ác trong sản xuất, kỹ
nghệ hoá chất và thực phẩm là một điển h́nh;
*Quan
trọng nhất là việc giải quyết nạn ô nhiễm môi trường. Theo một báo
cáo của Chương tŕnh Môi trường LHQ vào năm 2002, hậu quả của việc
phát triển ồ ạt ở TQ và lơ là trong việc bảo vệ môi trường làm cho
chi phí ước tính cho việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường có
thể lên đến 7% tổng sản lượng quốc gia. Nói như thế, có nghĩa là với
mức tăng trưởng trung b́nh hàng năm là 8 – 9%, nhưng trên thực tế,
mức tăng trưởng thực sự chỉ vào khoảng 2% mà thôi.
*Chính
sách một con/giađ́nh đă đưa đến t́nh trạng trai thừa gái thiếu như
trong hạn tuổi lao động và sản xuất từ 15 đến 64, tỷ lệ nam nữ là
1,06/1. Đây sẽ là một vấn nạn lớn cho xă hội TQ hiện đang diễn ra
trước mắt.
*Phát
triển của TQ hiện nay, phần lớn căn cứ vào vốn đầu tư của nước ngoài
chứ không thực sự dựa vào nội lực của chính ḿnh để sản xuất hàng
tiêu dùng với giá rẻ cho người ngoại quốc. Đứng trước vấn nạn tŕ
trệ kinh tế và khủng hoảng tài chánh hiện nay, mức tiêu thụ của thế
giới giảm dần, và dĩ nhiên ảnh hưởng đến t́nh trạng sản xuất của TQ.
Thí dụ điển h́nh là, sau vụ khám phá đồ chơi trẻ em bị nhiễm ch́
(lead) năm 2007 tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia Tây phương khác, hiện
nay khoảng 52,7% của 3.631 công ty xuất cảng sản phẩm nầy phải đóng
cửa, gây ra nạn thất nghiệp cho hàng triệu công nhân. Từ đó có thể
kết luận là chính sách phát triển kinh tế của TQ không ổn định v́
chỉ dựa theo nhu cầu tiêu dùng nhất thời của các quốc gia khác mà
không có một chính sách phát triển bền vững dài hạn hầu tạo thêm ra
phúc lợi cho người dân Trung hoa.
T́nh trạng môi trường Trung Quốc hiện tại
Vào ngày 23/11/2005, TQ đă xác nhận một vụ nổ tại một nhà máy sản
xuất hoá chất của một công ty hoá dấu và dầu khí Jilin, đă tạo ra
một t́nh trạng ô nhiễm trầm trọng sông Songhua, nguồn nước chính
cung cấp cho thành phố Thiên Tân với 9 triệu cư dân, thủ phủ của Hắc
Long Giang ở miền Đông Bắc TQ. Cũng cần nên biết vụ nổ đă xảy ra 10
ngày trước đó, mà người dân địa phương hoàn toàn không được thông
báo. Hoá chất thải hồi vào ḍng sông là benzene, nitrobenzene, và
aniline là các hoá chất thường được dùng để chế tạo chất nổ, thuốc
sát trùng, thuốc nhuộm. Được biết benzene và nitrobenzene có thể ảnh
hưởng đến hệ thần kinh. Nếu tiếp xúc với benzene dài hạn có thể có
nguy cơ gây ung thư và rối loạn nhiễm sắc thể. Hiện tại, ḍng chảy
đă bị ô nhiễm đă chảy ngang qua biện giới LB Nga, đổ vào sông và
chảy ra biển Okhotsk gần Vladivostok. Hiện tại TQ có 12 ngàn nhà máy
hoá chất trên toàn quốc, trong đó 50% nhà máy được xây dựng trên hai
ḍng sông chính là sông Hoàng Hà và Dương Tử. Do đó nguy cơ xảy ra
tai nạn từ những nhà máy nầy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, và không
một ai có khả năng tiên liệu được mức thiệt hại sẽ như thế nào. Đây
là những quả bom nổ chậm cho đất nước nầy. Và đây chỉ là một thí dụ
điển h́nh cho hàng ngàn tai nạn xảy ra thường trực trên mănh đất
Trung hoa nầy. Qua những tai nạn đă xảy ra, Cơ quan Bảo vệ Môi
trường Quốc gia TQ vừa ra lệnh ngừng ngay 10 công tŕnh xây dựng
đường xá, nhà máy phát điện v́ những công tŕnh nầy có nguy cơ tạo
ra ô nhiễm môi trường. Quyết định trên là một trong những quyết định
cứng rắn của TQ, nói lên sức ép của dân chúng về thảm họa ô nhiễm
môi trường trên đất nước nầy ngày càng tăng thêm sau 25 năm kỹ nghệ
hoá.
Trên đây là một sự kiện điển h́nh, kết quả của việc phát triển kinh
tế quốc gia không an toàn về mặt sản xuất cũng như bảo vệ môi trường
của TQ làm ảnh hưởng đến các quốc gia lân cận. Điều nầy cho thấy TQ,
một quốc gia đang chuyển ḿnh để trở thành một cường quốc kinh tế
quốc tế đang xuất cảng “ô nhiễm” cùng lúc với những mặt hàng do họ
sản xuất.
Nhiều hiện tượng tương tự khác như nguồn nước ngày càng cạn kiệt, bị
ô nhiễm trầm trọng, không khí không c̣n trong lành, chất thải độc
hại từ những nhà máy, chỉ là một trong những vấn đề hàng ngày mà
người dân TQ đang phải đối mặt. Môi trường sống ở TQ ngày càng xuống
cấp và đă lây lan qua các quốc gia láng giềng.
Các nguồn bụi khói ô nhiễm từ Vân Nam đă bay sang tận miền duyên hải
vùng Tây Nam Hoa Kỳ. Mứa acid xuống tận Nam Hàn và Nhật Bản. Đặc
biệt là những ḍng sông. Có gần phân nửa dân số trên thế giới sống
trong những lưu vực sông ng̣i phát nguyên từ TQ đang bị đe doạ với
cơn khủng hoảng nước đă được mô tả trong một quyển sách nổi tiếng
của Ma Jun dưới tựa đề:”China's Water Crisis”. Tại một hội nghị ở
Bắc Kinh vào tháng 11/2005, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Bao Xing phải
thốt lên rằng:”Quốc gia nầy với t́nh trạng khủng hoảng nước khốc
liệt và khẩn cấp hơn mọi quốc gia khác trên thế giới”.
Do đó, đă đến lúc TQ cần phải chọn lựa giữa sự tăng trưởng kinh tế
hay có được một môi trường sạch hơn. Và lănh đạo TQ đă xoá dần quan
điểm “bảo vệ môi sinh” chỉ là sản phẩm của tư tưởng tiểu tư sản. Do
đó, có nhiều chuyển biến trong việc phát triển của TQ.
Từ cuối thập niên 1990, Bắc Kinh đă ra lịnh cấm đốn cây trong hầu
hết những khu rừng núi của họ, sau khi nhận ra rằng sự phá rừng là
một yếu tố chính dẫn đến những nạn lụt, hạn hán lớn gây thiệt hại
hàng tỉ Mỹ kim.Và đi xa hơn nữa, lănh đạo TQ đă bù đấp nhu cầu gỗ
trong nước bằng cách phá rừng ở các quốc gia Phi Châu, Miến Điện, và
nhất là Việt Nam...để có thể giữ cương vị “cơ xưởng sản xuất của thế
giới”. Để đạt được danh hiệu trên, nạn nhân gần nhất và chịu nhiều
thiệt hại nhất là Việt Nam.
Tuy nhiên, dù đối mặt với nhiều thách thức nội tại, TQ cũng không
che đậy chính sách hiếu chiến để bành trướng qua các chính sách quân
sự thể hiện trong năm 2008 nầy.
Chính sách hiện đại hoá quân sự của Trung Quốc
Sau đây là một số nhận định chính sách hiện đại hoá cùng các nhân tố
khiến cho TQ có những quyết định căn cứ vào báo cáo của Thư kư Hội
đồng Cố vấn An ninh Quốc tế (International Security Advisory Board-
ISAB) của Hoa Kỳ do Paul Wolfowitz lam Chủ tịch. Các nhận định nầy
sẽ được Hoa Kỳ điều nghiên chuẩn bị cho chính sách an ninh và ngoại
giao với TQ. Những nhận định nầy đề ra một số phương sách tiếp cận
như sau:
*
Chuyển hoá mối quan hệ an ninh quốc gia giữa Hoa Kỳ và TQ đặt trên
căn bản tin tưởng lẫn nhau và tăng cường tính xuyên suốt thông tin;
*
Thúc đẩy sự hợp tác hổ tương;
*
Cố gắng giảm thiểu các tính toán sai lạc và tránh sự hiểu lầm có thể
đưa đến những hậu quả như đối đầu hay chạy đua (vũ khí).
Từ ba căn bản trên Hội đồng đă khuyến cáo Hoa Kỳ đặt trọng tâm vào
những điểm mấu chốt sau căn cứ vào chính sách hiện đại hoá của TQ
như sau:
*
Lănh đạo cộng sản Bắc Kinh nhắm vào 3 mục tiêu cốt lơi của đất nước
là: 1- Sự sống c̣n của chế độ; 2- Áp đảo vùng Châu Á-Thái b́nh dương
để tiến hành ảnh hường toàn vùng; 3- Đề pḥng Taiwan tuyên bố độc
lập. Dĩ nhiên, các mục tiêu nầy ngầm hướng về đối tác là Hoa Kỳ. Mặc
dù vẫn xem Hoa Kỳ là thù địch, nhưng TQ vẫn nh́n HK như một đối tác
trao đổi thương măi chính yếu để thúc đẩy kinh tế TQ đi lên.
*
Sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc rất phực tạp và là hợp tác có
một không hai. Nó hoàn toàn khác với sự hơp tác Mỹ-Nga sô trước kia
qua cuộc đối đầu chiến tranh lạnh. Cả hai quốc gia đều muốn chia sẻ
mối tương quan kinh tế, và là vấn đề then chốt của chế độ TQ. V́ Hoa
Kỳ là quốc gia duy nhất có thể cung cấp cho TQ các công nghệ hiện
đại và là một thị trường tiêu thụ lớn nhất thề giới.
*
Hiện đại hoá guồng máy chiến tranh của TQ là mối quan tâm của những
nhà chiến thuật và chiến lược hiện nay, cho dù TQ cố t́nh giải thích
là tất cả chỉ nhằm mục tiêu hoà b́nh mà thôi. Sự gia tăng tiềm năng
nguyên tử của TQ cho thấy âm mưu làm chiếc dù chính trị-quân sự
trong vùng của TQ, và có thể đi xa hơn nữa ngoài Châu Á-Thái b́nh
dương.
*
Việc tăng trưởng nhanh chóng của TQ là mục tiêu hàng đầu của quốc
gia nầy để sống c̣n và khống chế các nước nhỏ trong vùng trong đó có
Việt Nam.
*
TQ cổ suư việc thu thập hay làm gián điệp đánh cắp các công nghệ
chiến tranh mới từ các quốc gia Tây phương và Hoa Kỳ.
*
TQ thiết lập cùng một lúc ba mặt trận trên toàn cầu: khơi động chiến
tranh tâm lư, chiến tranh dư luận, và nhất là cuộc chiến dành lại
tính “chính thống” (legal warfare) cho các cuộc thương lượng hay
tranh chấp quốc tế.
Qua các phân tích trên, chúng ta nhận rơ là TQ muốn nhắm vào việc
thành lập một trung tâm quyền lực trong vùng Đông Nam Á Châu để từ
đó có thể tiến xa hơn nữa trong việc hợp nhất với Taiwan trong ḥa
b́nh hay vơ lực, v́ đây là miếng xương vẫn c̣n mắc trong cổ của
chính quyền cộng sản TQ.
Chính sách hiện đại hoá nhất là trongkỹ nghệ chiến tranh khiến cho
Hoa Kỳ và thế giới e ngại. Hiện tại, Sau Liên bang Nga, TQ là quốc
gia thứ nh́ có thể tấn công thẳng vào Hoa Kỳ bằng vũ khí xuyên lục
địa IRBM. Theo tạp chí 2008 Military Power of the People’s Republic
of China, th́ vào năm 2001, TQ sẽ chế tạo được “năng lượng đặc”
(solid-fueled) và ICBM, và có thể phóng từ các tiềm thuỷ đỉnh. Ngoài
ra TQ c̣n có khả năng hiện đại hoá hệ thống viễn thông và lănh vực
điện toán ṭan cầu.
Từ những khai triển căn bản trên, TQ dù muốn dù không cũng thể hiện
nhiều chỉ dấu chuẫn bị cho một cuộc chiến mới. Do đó, thế giới ngày
nay, tuy không c̣n là một thế giới lưỡng cực nữa như trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, nhưng sự chuẫn bị và hiện đại hoá của TQ cần phải
được cân nhắc kỹ lưỡng qua: 1- mục tiêu hiện đại dành cho phát triển
trong hoà b́nh hay chuẫn bị chiến tranh; 2- Khả năng khống chế của
TQ có đủ mạnh không? 3- Và những yếu điểm của quốc gia nầy khiến cho
họ chùng bước.
Câu hỏi được đặt ra là liệu TQ có thể mở một cuộc chiến tranh toàn
diện hay không?
Câu trả lời là không trong t́nh trạng hiện tại của TQ. Nhưng họ vẫn
có khả năng khuấy động từng phần qua việc gây ra những xáo trộn ở
biển Đông, việc tranh dành ảnh hưởng thềm lục địa v.v… nhằm mục tiêu
thăm ḍ và đánh giá phản ứng của Hoa Kỳ.
Tuy không chính thức mở ra nhửng cuộc chiến quy ước, họ đă bắt đầu
phát động nhiều chủng loại chiến tranh trong vùng, hay khuynh đảo
địa phương bắng những chiến thuật sau đây:
*
Chiến tranh hàng lậu, hàng giă (hàng nhài), hàng bán dưới giá rẻ để
làm lũng đoạn thị trường thế giới, mà nạn nhân gần nhất là Việt Nam.
Kỹ nghệ thực phẩm như cà rốt, bông cải, bắp cải ở Đà Lạt hầu như bị
tiêu diệt v́ những sản phẩm nầy được chuyển tải từ TQ với giá rất hạ
tại Sài G̣n. Kỹ nghệ xe đạp của Việt Nam cũng không sống nổi v́ có
giá thành cao hơn xe đạp TQ. Kỹ nghệ đường cũng chết theo v́ nhập
máy cũ của TQ và v́ giá thành cao hơn đường TQ v.v…
*
Chiến tranh tuyên truyền văn hoá ru ngũ thế hệ thanh niên Việt Nam
qua phim ảnh, DVD, CD, và các tạp chí không lành mạnh.
*
Phá hoại tài nguyên Việt Nam bằng cách lũng đoạn thị trường, chuyển
dịch ô nhiễm đối với một số công nghệ cho nhiều phế thải độc hại,
rút tỉa tài nguyên thiên nhiên như gỗ và các mơ kim loại cần cho
công nghiệp.
*
Nguy hiễm hơn cả là cuộc chiến tranh không quy ước và vũ khí giết
người hàng loạt là chiến tranh vi sinh. Tuy chưa có bằng chứng rơ
ràng, nhưng trong năm vừa qua, nhiều học sinh tiểu học ở nhiều vùng
khác nhau từ Bắc chí Nam bị bịnh hàng loạt trong khi đi học. Chứng
tiêu chảy, nóng sốt, ngất xỉu xảy ra đồng loạt trong cùng một thời
điểm. Bác sĩ không t́m ra bịnh lư. Phải chăng đây là một trong những
cuộc thử nghiệm vũ khí vi trùng?
Chính sách Đại hán của TQ không dừng lại trong âm mưu biến Việt Nam
thực sự thành một tỉnh của TQ qua vài nhận định và thực tế ở phần
tiếp theo dưới đây.
Chiến lược sử dụng cho nhu cầu kinh tế-chính trị của TQ
Chính sách đối với Việt Nam:
Tương tự như đa số các hăng xưởng sản xuất của Hoa Kỳ, từ hơn hai
thập niên vừa qua, đă di chuyển cơ sở sản xuất về các quốc gia Mỹ La
tinh, đặc biệt là Mễ Tây Cơ, v́ ở những nơi nầy, nhân công rẻ mạt và
luật lệ môi trường hầu như không được áp dụng. Tư bản Tây phương
cũng hành xử tương tự là đổ xô vào Đông Âu, những quốc gia vừa thoát
khỏi gông cùm Cộng sản như Ba Lan, Hung Gia Lợi. TQ cũng đang chuyển
ḿnh tiến về Đông Nam Á. Và Việt Nam là một trong những thí điểm lớn
để cho tư bản TQ định cư.
Trước sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, việc hạ giá
thành phẩm là việc làm ưu tiên để có thể chiếm lĩnh thị trường thế
giới. Đó là chính sách chung của mọi quốc gia. Do đó, Việt Nam là
một mảnh đất béo bở cho tài phiệt TQ đầu tư v́: - Nhân công c̣n quá
rẻ, ngay cả đối với nhân công TQ vốn dĩ đă quá rẻ mạt; - Chi phí cho
việc bảo vệ môi trường không bị đ̣i hỏi gắt gao như ở TQ hiện tại; -
Và quan trọng nhất là mọi thủ tục hành chánh và dịch vụ xuất nhập
cảng đều được dễ dàng v́ cung cách quản lư địa phương ở Việt Nam dễ
bị mua chuộc. Từ 3 yếu tố trên, Việt Nam đối với TQ có thể được ví
như là Mễ Tây Cơ với Hoa Kỳ trong lănh vực đầu tư và sản xuất.
Thêm một yếu tố tâm lư quan trọng khiến cho các nhà đầu tư TQ di
chuyển xuống VN là TQ t́m thấy nơi đây một xứ sở giống như đất nước
của họ, một đất nước đang chuyển ḿnh từ từ và đang từ bỏ chủ
thuyết cộng sản không tưởng để tiến tới một nền kinh tế thị trường
tự do đầy hấp dẫn. C̣n về tâm lư chung của hai dân tộc, có nhiều
điểm tương đồng chính nhất là việc quan hệ kinh doanh dựa theo cách
tiếp cận có tính cách cá nhân và thường sử dụng quyền lực áp đặt để
lấn át pháp luật hầu mang lại mọi dễ dăi trong thủ tục hành chánh.
Hảy nghe Zou Qinghai, Chủ tịch pḥng Thương măi Triết Giang tuyên bố:”
Chúng tôi hiểu thông suốt rằng phải đưa tiền hối lộ mới xong công
việc. Cách thức phát triển của VN chỉ đơn giản là một bản sao của TQ”.
Hiện tại, tính đến cuối năm 2005, đầu tư của TQ chính thức vào VN
tương đối c̣n khiêm nhường so với các quốc gia trong vùng như Đài
Loan, Nhật Bản, Đại Hàn là 734 triệu Mỹ kim so với hơn 50 tỷ của ba
nước vừa kể trên. Nhưng qua những con số không chính thức có liên
quan đến những đối tác Hồng Kông th́ mức thẩm thấu vào VN có thể lên
đến 3,7 tỷ. Và thương măi hai chiều dự kiến trong năm 2008 là trên
10 tỷ Mỹ kim.
Các công ty TQ chú trọng đầu tư vào năng lượng và tài nguyên thiên
nhiên của VN. TQ đă kư thoả thuận trong việc thăm ḍ dầu khí ở vịnh
Bắc Việt trong khi Hồ Cẩm Đào viếng thăm thủ đô Hà Nội vào tháng 10,
2005. Việt Nam vẫn là một lợi điểm cho TQ v́ hai quốc gia đă kư hiệp
ước tự do mậu dịch với nhau. Từ đó, TQ có thể chuyển ngành dệt sang
VN để tránh vấn đề hạng ngạch (quota) trong việc xuất cảng các sản
phẩm nầy qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu.
Ảnh hưởng lên môi sinh Việt Nam:
Như đă nói ở phần trên, TQ đă bắt đầu chuyển dịch các cơ sở sản xuất
qua VN v́ áp lực của luật ô nhiễm môi trường ở bản địa là chính. Các
đầu tư di chuyển về VN cũng v́ luật lệ ở TQ nghiêm ngặt hơn qua việc
bảo vệ môi trường ở một số khu vực tại TQ, đặc biệt ở các tỉnh ở
miền duyên hải như Thượng Hải, Hong Kong, Triết Giang. Chính quyền ở
những tỉnh nầy khuyến khích đầu tư ở VN đối với các công nghệ gây ô
nhiễm môi trường nhiều nhất như công nghệ thép, plastic, điện tử,
hoá chất v.v... Cơ quan bảo vệ môi trường ở các tỉnh trên đă bắt đầu
ngăn cấm và tước quyền sử dụng đất, nước, và điện của những cơ sở có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Đó cũng là một trong
những lư do chính để các nhà đầu tư TQ xuôi Nam, một nơi có chi phí
dùng trong an toàn lao động rẻ mạt.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, quả thật VN đang phải hứng
chịu nhiều hệ quả của việc bành trướng và phát triển kinh tế và kỹ
nghệ của TQ. Tư thế của một đàn em VN trước một đàn anh nước lớn TQ
cho đến nay vẫn là một sự thuần phục hoàn toàn. Thuần phục trong tư
thế chính trị, quân sự lẫn kinh tế. TQ đă tạo được một sức ép quá
mạnh trong ba lănh vực trên, khiến cho VN luôn luôn đang ở thế bị
động và không thể nào thoát khỏi tầm ảnh hưởng của ba gọng kền trên.
Đất Nước là Đất Nước của chung, của cả dân tộc.
Từ người lănh đạo quản lư Đất Nước cho đến người dân cùng đinh trong
xă hội cần phải được dự phần và chia xẻ trách nhiệm đối với Đất Nước.
Ở các quốc gia tiến bộ và phát triển, người có quyền hạn càng cao
th́ trách nhiệm càng lớn. Một tai nạn xe lữa hay máy bay có thể
khiến cho ông/bà Bộ trưởng Giao thông phải nhận lănh trách nhiệm và
từ chức. Huống chi trong việc quản lư một Đất Nước. Việt Nam từ bao
năm nay, có biết bao chính sách, kế hoạch... bị phá sản mà nhân sự
đề ra chính sách vẫn ung dung tự tại trên cương vị cũ, có khi càng
cao hơn để có điều kiện đề ra những chính sách phá sản khác!
Đó là một trong nhiều nghịch lư làm tŕ trệ sự tiến hóa và phát
triển của Dân tộc.
Để
kết luận, chúng ta thử h́nh dung các mắc xích có thể kết nối bốn sự
kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận. Đó là
các công tŕnh xây dựng xa lộ Trường sơn, đường số 9 nối liền biên
giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xả Đồng Hới, nhà máy lọc dầu Dung
Quất, và dự án quốc tế giữa Trung Quốc và Thái Lan trong việc khai
thông ḷng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên
thủy lộ nầy.
Trước hết, theo quan điểm về chiến lược quân sự mới, xa lộ Trường
sơn sẽ không c̣n là con đường chiến lược một khi có chiến tranh như
lănh đạo Việt Nam biện minh cho việc xây dựng nầy. Thiết nghĩ đây là
con đường chiến lựơc dành cho mục đích kinh tế-chính trị, nhưng
không hẳn để áp dụng cho Việt Nam v́ trong suốt chiều dài của xa lộ
là vùng thưa dân cư nếu không nói là hoang dă. Quốc lộ I, con đường
huyết mạch của Việt Nam, cần phải được nâng cấp nhất là từ Quảng trị
trở ra Bắc nhưng không được lưu tâm đến.
Đường số 9 được nới rộng thành một xa lộ để mở một huyết mạch đông
tây từ Thái Lan ra biển Đông. Về nhà máy lọc dầu Dung Quất, tuy vùng
nầy không có hạ tầng cơ sở như giao thông, điện nuớc, và dân cư thưa
thớt, và rất xa trung tâm sản xuất dầu thô hàng ngàn dậm. Địa điểm
nầy phải chăng được chọn lựa để đáp ứng mục tiêu chuyển vận dầu khí
vào vùng đất phía Tây Nam của Trung Quốc?
Và công tŕnh quốc tế thứ tư là trục vớt cùng nới sâu ḷng sông Cửu
Long không ngoài mục đích vận chuyển của các tàu vận tải hàng hóa
lớn nối liền Vân Nam (Tây Nam Trung Quốc), Thái, Lào, và Việt Nam?
Nếu tổng hợp bốn mắc xích trên lại với nhau, chúng ta có thể h́nh
dung được một sự phối hợp chiến lược nhuần nhuyễn về quân sự-kinh
tế-chính trị. Nhưng sự phối hợp đó có thể chỉ để phục vụ cho nhu cầu
của đàn anh nước lớn để:
Chuyển vận hàng hóa xuất cảng từ lục địa Tây Nam Trung Quốc sang
Thái, Lào, Việt Nam và quốc tế. Sản phẩm nhập cảng chiến lược của
Trung Quốc là dầu khí, và Dung Quất sẽ là nguồn cung cấp quan trọng
cho vùng nầy.
Nếu dự kiến cảnh tượng trên đây là một sự thật th́ đây sẽ không thể
hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của
Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lư tính thần phục, nếu không
nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính
trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người
dân Việt.
Xuyên qua bốn cản ngại đă phân tích ở phần trên để lư giải cho việc
phát triển không đồng bộ đưa đến t́nh trạng bế tắc hiện tại của Việt
Nam trong vấn đề hội nhập vào tiến tŕnh ṭan cầu hóa trên thế giới,
Việt Nam đang tiếp tục đi theo chiều hướng kinh tế chỉ huy, do đó
không c̣n đủ sức quán tính mạnh để vượt ra khỏi rào cản thần phục và
xin-cho, để rồi cuối cùng giải pháp thần phục vẫn là giải pháp dễ
nhất và an toàn nhất cho công cuộc bảo vệ quyền lực. Tin mới
nhất vào tháng 8 vừa qua, Việt Nam lại quyết định xây dựng các xa lộ
huyết mạch từ biên giới Lao Kay vào Hà Nội nối liền xa lô Côn Minh,
Hà Khẩu bên TQ, và đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Điều nầy chứng
tỏ thêm một lần nữa tư thế lệ thuộc của Việt Nam và chính sách bành
trướng về phương Nam của TQ đă hiện rơ.
Từ những lư do đó, làm sao lănh đạo Việt Nam có thể đem lại niềm tin
cho người dân được. Biết đến bao giờ thái độ thần phục của Việt Nam
được chấm dứt để cho người dân Việt có khả năng đứng vững trên hai
chân của ḿnh. Lịch sử Việt Nam trong tương lai chắc chắn sẽ không
quên ghi lại những trang sử đen tối của dân tộc trong giai đoạn nầy.
Thay lời kết
Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đă
thấy thật rơ tinh thần quốc gia cực đoan và tự ái dân tộc của người
Trung hoa, kể cả người dân và chính quyền.
Đối với người dân Trung hoa, qua Thế vận hội Bắc kinh vừa qua, sau
khi thế giới khám phá ra về rất nhiều vụ giả tạo từ màn chiếu pháo
bông, cho đến việc nguỵ tạo tuổi giả để tham dự của vận động viên,
việc ghép h́nh, và gần đây nhất việc phi hành gia TQ lên không gian….trong
hồ nước v.v… vẫn được người dân trong nước chấp nhận v́ năo trạng
của một “dân tộc Đại Hán”. Họ chấp nhận và sẳn sàng bỏ qua những
hành động gian trá của chính quyền TQ, v́ tinh thần dân tộc cực đoan,
làm bất cứ giá nào để cho bộ mặt đất nước TQ được nở rộ trước thế
giới.
Đối với chính quyền cộng sản TQ, v́ cảm nhận được tâm lư người dân
Trung hoa, qua tuyên truyền, họ càng khích động và ru ngũ người dân
Trung hoa thể hiện tinh thần đại hán qua các chính sách bành trướng
hướng về Đông Nam Á và biển Đông, đặc biệt VIỆT NAM được chiếu cố
đến nhiều nhất.
Chính v́ hai lư do trên, cộng sản TQ giữ được ổn định xă hội tương
đối trong hiện tại dù là tạm bợ, v́ theo nhận định của một số chuyên
gia quốc tế, xă hội TQ có thể bị xáo trộn và cơn biến động có thể
xảy ra bất cứ lúc nào do sự quản lư theo cung cách hiện tại của
người cộng sản TQ.
C̣n Việt Nam th́ sao?
Đảng cộng sản Việt Nam cũng đang rập khuôn theo con đường của đảng
cộng sản TQ, nhưng trên thực tế họ không thể hiện được chủ nghĩa dân
tộc cực đoan hay tinh thần yêu nước cực đoan như TQ, mà chỉ hành xử
theo lịnh của đán anh nước lớn mà thôi.
Mặc dù Việt Nam đă lấn chiếm Lào và Cambodia bằng cách nắm trọn ảnh
hưởng quân sự, chính trị, và kinh tế lên hai quốc gia nầy, nhưng một
lần nữa, việc làm trên cũng chỉ là làm theo mệnh lệnh của TQ, chứ
không thể hiện chủ nghĩa bành trướng và tinh thần yêu nước cực đoan
như TQ.
Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, mọi hành xử của cộng sản Việt Nam đều
do cộng sản TQ điều khiển từ xa; Việt Nam hoàn toàn không c̣n quyền
quyết định ngay cả trong nội t́nh trong xứ. Qua việc đàn áp người
dân trong nước trong khi biểu t́nh chống TQ lấn chiếm Hoàng Sa và
Trường Sa, cũng như qua việc Việt Nam để công an TQ đàn áp người dân
trong khi biểu t́nh chống việc rước đuốc thế vận vừa qua đủ để nói
lên tính nô lệ TQ của nhà cầm quyền cộng sản Viêt Nam hiện tại.
Hiện tại, nội bộ đảng cộng sản Việt Nam đang có nhiều rạn nứt trầm
trọng, và rạn nứt nầy có thể làm cho đảng cộng sản tan ră trong
tương lai. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chờ đợi
trong thụ động mà cả người Việt trong nước hay tại hải ngoại cần
phải thúc đẩy càng mạnh thêm để tiến tŕnh dân chủ và nhân quyền ở
Việt Nam diễn ra càng nhanh hơn nữa.
Sách Lịch sử Việt Nam của Cụ Trần Trọng Kim có ghi là Việt Nam trong
suốt chiều dài lịch sử trải qua bốn lần bị Bắc thuộc. Ngày hôm nay,
có thể được ghi thêm là Bắc thuộc lần thứ năm kể từ ngày 3 tháng 2
năm 1930 và kết thúc vào ngày … Ngày đó sẽ do tất cả người Việt
trong và ngoài nước quyết định.
Mai Thanh Truyết
Xuân Kỷ Sửu - 2009 |