Cách đây một năm
rưỡi tôi có viết một bài nhận định về t́nh trạng phong trào dân chủ
(*). Bên cạnh những đồng t́nh đông đảo hơn nhiều, bài này đă nhận
được một vài phản ứng gay gắt. Tôi đă không trả lời những phản ứng
này bởi v́ nói chung các tác giả không phản bác ǵ, họ chỉ tức giận
v́ tôi đă nói ra những điều mà họ nghĩ rằng không nên nói. Dần dần
với thời gian, qua trao đổi riêng, phần đông, kể cả những người đă
ủng hộ tôi, lại nhận định là bài viết đó chưa nói hết sự thực.
Một tổng kết về
thành quả và thực lực của phong trào dân chủ được một vị giáo sư
chính trị học mà tôi gặp tại Mỹ mùa hè vừa qua đưa ra qua một câu
nói đùa: "bọn cộng sản nó đểu lắm, nó cứ đợi cho các anh chết đi là
xong hết".
Nếu đảng cộng sản
chỉ cần đợi cho những người đối lập dân chủ chết đi (ông này muốn
nói là chết già) nghĩa là nó có thể đợi, phong trào dân chủ không
làm ǵ được nó; nói cách khác lực lượng dân chủ không đáng kể. Và
nếu những người dân chủ già chết đi là xong th́ điều này có nghĩa là
hàng ngũ dân chủ gồm phần lớn những người già và không có tiếp nối.
Câu nói đùa mai mỉa của vị giáo sư này là cả một tổng kết bi đát.
Hai vị lănh đạo
của hai tổ chức chính trị quen biết với quá tŕnh thành lập và sinh
hoạt lâu dài nói với tôi rằng số thành viên của họ không c̣n nhiều
và tuổi trung b́nh là trên 60. Họ thêm rằng dầu vậy đa số thành viên
kỳ cựu của họ không chấp nhận kết hợp với một tổ chức khác. Các tổ
chức dân chủ hải ngoại yếu, già nua và không được tuổi trẻ tiếp nối,
phân tán và sẽ tiếp tục phân tán; nhiều tổ chức không c̣n cả khả
năng đổi mới để tránh một sự đào thải chắc chắn. T́nh h́nh phong
trào dân chủ trong nước trên nhiều mặt c̣n khó khăn hơn. Lực lượng
đă mỏng mà sự phân hoá, chống đối và bài xích lẫn nhau c̣n trầm
trọng hơn. Nói rằng phong trào dân chủ Việt Nam yếu và đang ở trong
t́nh trạng báo động là nói nhẹ. Một thực trạng như vậy đ̣i hỏi một
xét lại toàn bộ về cả văn hoá lẫn phương pháp. Phong trào dân chủ
cần được cứu nguy khẩn cấp.
*
Đă có nhiều phân
tích về những nguyên nhân của t́nh trạng bi đát này. Những phân tích
này cần được thường xuyên nhắc lại, nhưng chúng không phải là mục
đích của bài này. Chỉ xin nhắc lại những điều cần thiết để giải
thích những đề nghị sẽ được đưa ra.
Sự thiếu văn hoá
tổ chức của người Việt Nam không c̣n là một bí mật. Nó khiến đại đa
số chúng ta không thấy cần thiết phải tham gia một tổ chức và khi đă
ở trong tổ chức th́ luôn luôn thấy có nhiều lư do để ra đi hơn là ở
lại. Nó cũng khiến người ta không ngần ngại phá hoại một tổ chức mà
chính ḿnh cũng đă đóng góp tạo dựng, hy sinh cả những t́nh bạn lâu
năm. Khuyết tật này có trong mọi dân tộc nhưng ở người Việt Nam nó
đạt tới một mức độ kinh khủng. Nó thể hiện trong mọi thành phần xă
hội, kể cả thành phần học thức cao, và trong mọi tổ chức, dù là các
tổ chức chính trị hay các tổ chức từ thiện, ái hữu. Điều đáng để ư
là khuyết tật này được mọi người Việt Nam nh́n nhận nhưng hầu như
không ai lấy làm xấu hổ và thấy cần khắc phục.
Chúng ta thường
nhấn mạnh và tự hào là có bốn ngh́n năm văn hiến và một lịch sử giữ
nước oai hùng mà quên rằng xă hội truyền thống của chúng ta là một
xă hội nô lệ và đến nay dưới một số góc nh́n xă hội ta vẫn c̣n h́nh
dáng của một xă hội nô lệ. Một đặc tính chung của những tập thể nô
lệ là người ta không quư trọng nhau và không kết hợp được với nhau.
Chúng ta mang nặng di căn nô lệ, trong khi kết hợp với nhau để thay
đổi xă hội chỉ có thể là phản xạ của những con người tự do. Ngoài ra
văn hoá Khổng Giáo c̣n để lại cho chúng ta một căn bệnh tổ tông
truyền: bệnh háo danh (đă mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh
ǵ với núi song - Nguyễn Công Trứ). Sự khao khát một "danh ǵ" có
thể khiến một người Việt Nam làm những cố gắng rất phi thường để có
được một chút tiếng tăm hăo huyền cho ḿnh, trong khi không chấp
nhận những hy sinh nhỏ để xây dựng một tổ chức có khả năng làm những
thay đổi lớn.
Ngoài ra người
Việt Nam c̣n có tập quán không đến với nhau bằng căn cước thực. Mọi
người cố gắng tỏ ra tài giỏi hơn, dũng cảm hơn, lương thiện hơn hẳn
con người thực của ḿnh và đ̣i được đánh giá như thế. Căn cước không
thực này không cho phép sinh hoạt lâu dài trong một tổ chức bởi v́
với thời gian và qua sự gần gũi con người thực tự nhiên hiện ra. Một
sản phẩm của tập quán này là cách hoạt động chính trị nhân sĩ, t́m
kiếm sự hưởng ứng của những người không biết con người thực của ḿnh.
Nền tảng của nó là một sự mâu thuẫn: muốn người ta biết đến ḿnh
nhưng lại sợ người ta biết rơ ḿnh.
Không thể xây dựng
một căn nhà tốt với những viên gạch mục. Chúng ta cần một thay đổi
văn hoá lớn để trút bỏ di sản năng nề, để trở thành những con người
tự do, dám có những dự án lớn và dám đảm nhiệm căn cước thực của
ḿnh nếu muốn h́nh thành với nhau những kết hợp lớn. Tuổi trẻ không
tiếp nối có thể v́ họ không có lư do để đánh giá cao những người đi
trước.
*
Nhưng giả thử
chúng vượt qua được những trở ngại tâm lư và văn hoá này th́ vẫn c̣n
những kiến thức khách quan và kỹ thuật về đấu tranh chính trị cần
phải nắm vững. Những kiến thức này đă được tŕnh bày rất đầy đủ
trong nhiều tài liệu nghiên cứu và được kiểm chứng qua lịch sử của
mọi quốc gia cũng như trong sinh hoạt chính trị thế giới. Một điều
bí ẩn là tại sao những người hoạt động chính trị Việt Nam vẫn không
biết đến và cứ tiếp tục luẩn quẩn trong những ngộ nhận lớn. (**)
Ngộ nhận thứ nhất
là nghĩ rằng một tổ chức chính trị, hay chính đảng, không cần lư
thuyết, không cần một tư tưởng chính trị, trong khi một chính đảng
chỉ có lư do hiện hữu và chỉ có thể tồn tại nếu là sự thể hiện của
một chủ thuyết nào đó, chủ thuyết hiểu theo nghĩa một cách diễn giải
cho những khái niệm lớn – như con người, xă hội, tự do, dân chủ,
b́nh đẳng, liên đới v.v…, một cách nh́n thế giới và đất nước, một
lập trường về phát triển, một định nghĩa của tiến bộ v.v… Tất cả đều
phải gắn bó với nhau trong một toàn bộ kiên kết (coherent) của một
tư tưởng chính trị, và chỉ có thể là thành quả của những cố gắng
nghiên cứu và suy tư lớn. Chủ thuyết đó (cứ tạm dùng một từ ngữ dễ
gây dị ứng) cho phép tổ chức thích nghi với t́nh thế mà không chối
bỏ chính ḿnh, nó khiến những thay đổi chiến thuật không có dáng dấp
của một sự phản bội. Nó cũng đem lại ư nghĩa và thế giá cho đấu
tranh chính trị, để hoạt động chính trị không rơi vào sự nhảm nhí.
Bề ngoài đấu tranh chính trị là tranh giành quyền lực, nghĩa là hoặc
để giành được chính quyền hoặc ít nhất một địa vị có ảnh hưởng trong
sinh hoạt chính trị. Nhưng sự tôn sùng và t́m kiếm quyền lực v́
quyền lực chỉ là một bản năng sơ đẳng c̣n sót lại trong quá tŕnh
tiến hoá từ vượn lên người, qua nô lệ. Tự nó quyền lực chẳng có ư
nghĩa ǵ. Có những điều quan trọng và đáng t́m kiếm hơn nhiều, như
t́nh yêu, tự do, lẽ phải, sự hiểu biết, bàn tay đưa ra cho những
người thiếu may mắn v.v… Quyền lực chỉ có ư nghĩa nếu là một phương
tiện để thực hiện một dự án thông mịnh và quảng đại. Người ta không
thể xây dựng một tổ chức chính trị trên một lập trường tiêu cực, dù
là để chống lại những ǵ phải chống, như độc tài, tham nhũng, áp bức.
Ngộ nhận này đưa đến sự thành h́nh của những tổ chức chỉ để hành
động và chỉ có những con người hành động. Nhưng hành động cái ǵ và
như thế nào khi không biết phải làm ǵ và không hiểu cái tại sao của
những việc ḿnh đang làm? Những tổ chức này dĩ nhiên không có triển
vọng mà chỉ làm phí uổng những sinh lực và thiện chí quí báu.
Ngộ nhận thứ hai
là cho rằng một tổ chức có thể thành lập một cách nhanh chóng. Trong
lịch sử thế giới chưa có tổ chức chính trị nào thành công chỉ sau
một vài năm thành lập. Ngộ nhận này là hậu quả của sự quan sát hời
hợt các biến cố lịch sử. Người ta thấy có những phong trào bùng lên
và nhanh chóng giành được thắng lợi mà không biết rằng đó chỉ là
giai đoạn cuối của một cố gắng kiên tŕ từ nhiều năm trước đó. Một
tổ chức chính trị có tầm vóc chỉ có thể là thành quả của những cố
gắng kiên tŕ trong nhiều thập niên. Ngộ nhận này đă đưa đến sự ra
đời vội vă của nhiều tổ chức đột xuất kiểu ḿ ăn liền, hay fast food,
trong những giai đoạn sôi động. Hậu quả chỉ là sự phân tán lực lượng
dân chủ, đánh lạc hướng sự chú ư khỏi những cố gắng nghiêm túc, và
làm lỡ cơ hội. Một tổ chức chính trị đúng nghĩa phải được thành lập
với tham vọng thực hiện một dự án quốc gia và phải có hành trang tư
tưởng và nhân sự để cầm quyền.
Ngộ nhận thứ ba là
về các liên minh chính trị. Một sự kiện nổi bật là từ hơn 35 năm qua
đă có rất nhiều liên minh chính trị giữa các tổ chức và cá nhân. Các
liên minh này đều giống nhau ở một điểm: chúng đều thất bại một cách
nhạt nhẽo, nhiều khi c̣n gây hiềm khích giũa các tổ chức thành viên.
Đây là một công thức phải dứt khoát từ bỏ. Tại sao? Lư do là v́ vấn
đề liên minh chỉ đặt ra giữa những tổ chức lớn, trong khi cho tới
nay chưa có một tổ chức dân chủ nào đủ tầm vóc để có tư cách tham
gia một liên minh cả. Các liên minh v́ vậy không khác ǵ những cuộc
tảo hôn. Chúng thường được coi như là một giải pháp cho t́nh trạng
phân tán lực lượng, trên thực tế chúng có tác dụng ngược lại. Chúng
khuyến khích sự thành lập những tổ chức không có thực chất chỉ ra
đời để tham gia một liên minh. Vấn đề trước mắt là phải xây dựng ra
một, hoặc một vài, tổ chức có tầm vóc.
*
Tóm lược nào cũng
thiếu sót nhưng cuộc vận động dân chủ có thể tóm lược như sau: một
bên là chính quyền cộng sản cố gắng thuyết phục người dân rằng không
cần phải thay đổi chế độ, mỗi người có thể t́m cách để thành công,
nghĩa là ít nhất có thể trở thành giầu có và thoải mái, trong khuôn
khổ chế độ này; một bên là đối lập dân chủ cố gắng thuyết phục dân
chúng rằng không thể có giải đáp cá nhân cho những vấn đề cá nhân mà
phải có một giải đáp chung cho cả xă hội, nghĩa là phải thay đổi chế
độ độc tài này bằng một chế độ dân chủ. Một bên khuyến khích chủ
nghĩa luồn lách, một bên hô hào kết hợp đấu tranh thay đổi xă hội.
Đây là một cuộc chiến tranh động viên.
Cuộc đấu tranh
này không cân xứng v́ chính quyền cộng sản vừa có phương tiện để
khuyến khích chủ nghĩa luồn lách vừa có bạo lực để đàn áp những kết
hợp phản kháng. Muốn thắng cuộc chiến tranh này chính nghĩa không đủ,
chúng ta cũng cần hiểu những điều kiện để một cuộc vận động quần
chúng thành công. Kẻ viết bài này đă từng phân tích những điều kiện
này. Một trong những điều kiện bắt buộc là phải có một tổ chức đủ
mạnh để lănh đạo cuộc đấu tranh và để tạo niềm tin vào thắng lợi.
Phải động viên quần chúng, nhưng không thể động viên quần chúng nếu
không có một tổ chức mạnh. Kết luận dứt khoát phải rút ra là nếu
không có ít nhất một tổ chức dân chủ mạnh th́ chế độ độc tài này sẽ
c̣n tồn tại dù nó có phân hoá và chao đảo đến đâu đi nữa, và mọi cố
gắng và hy sinh sẽ đều vô ích.
Kết luận này có một số hệ luận:
-Một là, mọi hành
động phải được đánh giá trên tiêu chuẩn chúng đóng góp ǵ cho việc
xây dựng một lực lượng dân chủ mạnh, tất cả những tác dụng khác đều
không quan trọng;
-Hai là phải thẳng
thắn vứt bỏ lối làm chính trị nhân sĩ, nghĩa là đấu tranh cho dân
chủ với tư cách cá nhân, các nhân sĩ thể hiện chủ nghĩa luồn lách
trong hoạt động chính trị, trong khi chủ nghĩa luồn lách chính là
điều mà chính quyền cộng sản khuyến khích và đối lập dân chủ phải
chống;
-Ba là phải tập
trung yểm trợ những tổ chức có tiềm năng, không khuyến khích, không
tốn th́ giờ và sinh lực cho những tổ chức đột xuất hoặc những tổ
chức đă chứng tỏ sự cằn cỗi.
Chỉ cần suy nghĩ
b́nh tĩnh một chút thôi th́ kết luận này và những hệ luận của nó là
hiển nhiên. Sở dĩ những sai lầm cứ tiếp tục và dẫn tới t́nh trạng
đáng buồn hiện nay là v́ một đặc tính rất lan tràn của trí thức Việt
Nam: kết luận trước khi lư luận. Kết luận theo những ǵ ḿnh muốn
rồi dùng lư luận để biện hộ cho một kết luận đến từ cảm tính, thành
kiến và sự thèm muốn. Chúng ta không thể là một dân tộc lớn nếu
không bỏ được tập quán này. Chúng ta đă mất quá nhiều thời giờ và
không c̣n thời giờ để mất.
*
Cuối năm là thời
điểm tự nhiên để kiểm điểm, nhưng cũng đă đến lúc những người dân
chủ bắt buộc phải tổng kết t́nh trạng của cuộc đấu tranh dân chủ.
T́nh trạng không
khả quan. Không phải chỉ có vị giáo sư chính trị học nói trên mà rất
nhiều người trong và ngoài nước cũng chia sẻ cái nh́n bi quan này về
lực lượng dân chủ. Chưa kể là một tác viên quan trọng khác cũng đă
xuất hiện và ngày càng chiếm vai tṛ áp đảo: đồng tiền, vừa là đồng
minh vừa là vũ khí của đảng cộng sản. Chưa kể là thế giới đang lâm
vào một cuộc khủng hoảng lớn, các chính quyền dân chủ và dư luận thế
giới đang tập trung quan tâm vào những khó khăn kinh tế. T́nh trạng
khẩn trương này buộc những người dân chủ tự hỏi phải làm ǵ, nhưng
nó cũng đặt ra cho mỗi người một câu hỏi nghiêm trọng hơn nhiều:
chúng ta có thực sự yêu nước Việt Nam không?
Nếu câu trả lời là
"có" th́ hệ luận phải rút ra là bắt buộc phải thay đổi chế độ này
bằng một chế độ dân chủ, nếu không th́ Việt Nam không có tương lai
nào và cũng không thể tồn tại. Trong thế giới toàn cầu hoá ngày nay
một trong những khái niệm bị xét lại gay gắt nhất chính là khái niệm
quốc gia. Sau cuộc chuyển hoá này sẽ chỉ c̣n lại những quốc gia
thành công, đem lại sự sung túc và niềm hănh diện cho người dân và
được quan niệm như là một không gian liên đới của những con người tự
do cùng chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung.
Không thể có một nước Việt Nam như thế với chế độ này. Trong vô số
lư do chỉ cần nêu hai lư do trên đó cả đối lập dân chủ lẫn những
người lănh đạo cộng sản đều đồng ư: tham nhũng và tụt hậu. Tham
nhũng là quốc nạn đang kéo đất nước xuống vực thẳm, nhưng cả lư
thuyết lẫn kinh nghiệm của mọi quốc gia đều chứng tỏ không thể có
trường hợp một chính quyền tham nhũng tự cải tiến để hết tham nhũng,
thậm chí để bớt tham nhũng, giải pháp cho tham nhũng chỉ giản dị là
phải thay thế một chính quyền tham nhũng bằng một chính quyền khác.
C̣n nguy cơ tụt hậu? Ư kiến và sáng kiến là những yếu tố quyết định
mức độ tiến bộ, chỗ đứng và sự vinh nhục của mỗi dân tộc trong kỷ
nguyên tri thức này, nhưng ư kiến và sáng kiến chỉ phát sinh và nẩy
nở nơi những con người tự do, trong những xă hôi dân chủ. Và cũng
đừng quên rằng trong khi chúng ta thảo luận th́ môi trường Việt Nam
đang bị huỷ hoại một cách nhanh chóng. Khi đất nước đă cằn cỗi đến
độ không c̣n sinh sống được nữa th́ cũng không c̣n ǵ để nói. Phải
thay đổi chế độ để đất nước có thể tồn tại. Cuộc đấu tranh dân chủ
hoá cũng là cuộc đấu tranh cứu nước.
Nếu câu trả lời là "có".
Một chữ NẾU quá
lớn bởi v́ những người Việt Nam yêu nước thực ra không c̣n nhiều. Đó
là thành tích lớn nhất của đảng cộng sản. Đó lại càng là lư do để
những người dân chủ và yêu nước thực sự nhận nhau là chí hữu, là anh
em, và đừng mất th́ giờ và công sức cho những manh động phù phiếm.
Chúng ta ít nhưng chúng ta có thể kết hợp để có sức mạnh v́ chúng ta
có những mục tiêu đúng gắn bó chúng ta. Sức mạnh của cuộc vận động
dân chủ cũng là ở chỗ không ai có nhu cầu và lư do chính đáng để lo
sợ và thù ghét nó cả. Và c̣n cả một khối hơn 80 triệu người Việt
đang chờ đợi lư do để tin và để được động viên.
*
Vả lại t́nh trạng
của cuộc vận động dân chủ tuy bi đát nhưng không tuyệt vọng. Vấn đề
xét cho cùng chỉ là quyết tâm và phương pháp. Bối cảnh thế giới có
thể c̣n thuận lợi hơn trước nếu chúng ta biết vận dụng. Trái với một
vài nhận xét, cuộc khủng kinh tế hiện nay gây khốn đốn nhiều nhất
cho các nước dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Nó là cuộc
khủng hoảng do những cán cân mậu dịch mất thăng bằng, có những nước
xuất khẩu nhiều và tiêu thụ ít trong khi những nước khác ngược lại
tiêu thụ nhiều và sản xuất ít. Nó sẽ phải được điều chỉnh lại theo
chiều hướng giảm bớt nhập khẩu tại các nước phương Tây. Khi thị
trường trở thành khó khăn th́ kẻ bán điêu đứng hơn người mua. Trung
Quốc, và nhất là Việt Nam, sẽ c̣n lệ thuộc hơn nữa vào các nước dân
chủ phát triển và c̣n phải nể nang dư luận thế giới hơn trước đây.
Hậu thuẫn quốc tế sẽ rất có hiệu lực, dĩ nhiên nếu đối lập dân chủ
Việt Nam biết vận dụng một cách nghiêm chỉnh và thông minh.
Một trong những
điều kiện cốt lơi để giành thắng lợi trong một cuộc chiến tranh động
viên là khối người bị ức hiếp nhận diện ra được một thành phần xă
hội khác như là nguyên nhân của những thua thiệt của họ. Thí dụ: sau
Thế Chiến II Đảng Cộng Sản đă động viên được quần chúng nhờ tạo ra
được ư thức một giai cấp bần cố nông bị giai cấp địa chủ bóc lột.
Chúng ta đang thấy ǵ?
Đặc tính của mọi
đảng cộng sản, ở mọi quốc gia, là sau khi đă cướp được chính quyền
chúng dần dần biến thành một giai cấp bóc lột và không c̣n là những
chính đảng đúng nghĩa. Không thể khác v́ triết lư chính quyền của
các đảng cộng sản là giai cấp thống trị đương nhiên phải bóc lột
giai cấp bị trị. (Nên nhớ Marx không hề coi việc giai cấp tư sản bóc
lột giai cấp vô sản là một tội ác, ông coi đó là một điều tự nhiên,
cũng tự nhiên như việc giai cấp vô sản phải tiêu diệt giai cấp tư
sản). Đó là điều đang xẩy ra tại Trung Quốc. Với hơn 70 triệu đảng
viên, bằng dân số của một nước lớn, đảng Cộng Sản Trung Quốc không
c̣n là một đảng mà là một giai cấp. Đó cũng là điều đang xẩy ra tại
Việt Nam, với gần 8 triệu đảng viên và đoàn viên Đảng Cộng Sản Việt
Nam cũng không c̣n là một chính đảng mà đă trở thành một giai cấp.
Sự nhận diện một giai cấp bóc lột, một điều kiện cốt lơi để động
viên quần chúng, đă có. Mặt khác, trở thành một giai cấp có nghĩa là
đảng cộng sản không c̣n chiến đấu tính của một chính đảng. Một giai
cấp không có khả năng đoàn kết chiến đấu, dù là để tự vệ. Phong trào
dân chủ sẽ thắng nếu có đội ngũ. Đảng cộng sản cũng biết như vậy cho
nên họ sợ và đàn áp trước hết các mưu toan thành lập tổ chức. Tuy
vậy với những phương tiện giao thông và truyền thông hiện nay một
lực lượng dân chủ có tổ chức vẫn thành lập được với điều kiện là
những người dân chủ làm đúng những điều cần làm và làm có phương
pháp. Quần chúng Việt Nam đă chín muồi cho một thay đổi chế độ rồi;
họ không đứng dậy chỉ v́ họ không nh́n thấy một tổ chức đủ tầm vóc
và uy tín để lănh đạo họ và đem lại cho họ niềm tin ở thắng lợi. Một
tổ chức như vậy chắc chắn sẽ nhanh chóng tranh thủ được quần chúng
và buộc đảng cộng sản phải nhượng bộ. Lúc đó ngay trong nội bộ đảng
cộng sản cũng sẽ có rất nhiều người nhận ra rằng nên đối thoại để
t́m một lộ tŕnh dân chủ hoá chấp nhận được cho mọi người thay v́
ngoan cố trong một cuộc đối đầu tuyệt vọng về lâu về dài, nhất là
nếu trước mặt họ là một lực lượng luôn luôn mở cửa cho đối thoại và
không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai mà chỉ nhắm dân chủ hoá đất
nước.
Ban lănh đạo cộng
sản sẽ không có chọn lựa nào khác nếu họ thấy là quần chúng có thể
động viên được. Họ càng phải khiêm tốn khi cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đang diễn ra ngày càng chứng tỏ rằng chạy theo mô thức
Trung Quốc là một sai lầm lớn, và khi cái thành tích tăng trưởng
kinh tế bẩy, tám phần trăm mỗi năm đă tiêu tan.
Cần nhấn mạnh một
lần nữa là một giai cấp không có chiến đấu tính. Đảng cộng sản ngày
nay với tám triệu đảng viên và thành viên và hàng chục tỷ đô-la là
một giai cấp và yếu hơn đảng cộng sản năm 1945 với vài trăm cán bộ
và những ruột tượng gạo. Quyền lợi và ḷng tham chưa bao giờ là keo
sơn gắn bó những con người. Nghĩ rằng các đảng viên cộng sản và
thành phần tư sản đỏ sẽ gắn bó với nhau v́ quyền lợi là một nhận
định ấu trĩ. Đồng tiền là một đồng minh dối trá và phản trắc, và
cũng có thể là thuốc độc. Chế độ này không mạnh, nó c̣n tồn tại và
ngoan cố chỉ v́ đối lập dân chủ quá yếu, và đối lập dân chủ yếu chỉ
v́ không đấu tranh đúng phương pháp. T́nh trạng rất đáng thất vọng
hiện nay không thể làm ta quên là triển vọng thành công của cuộc vận
động dân chủ rất lớn.
Ước ǵ năm mới sẽ
là khởi điểm của một cách suy nghĩ và hành động mới. |