Các nhà
hoạch định sách lược của Trung Quốc dự tính rằng ASBM có khả năng
đánh ch́m những mẫu hạm lớn của Hoa Kỳ khi những mẫu hạm này c̣n rất
xa bờ biển Trung Quốc, xa ngoài tầm của các phản lực cơ chiến đấu
tối tân sắp chế tạo có tầm hoạt động 600 dặm. Do đó ASBM sẽ thực
hiện được mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là không cho Hải quân
Hoa Kỳ hoạt động một cách an toàn tại phía Tây Thái B́nh Dương, cách
bờ biển châu Á 1000 dặm.
Sự
tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan là mối đe doạ lớn nhất cho
Hải quân Hoa Kỳ hoạt động ở Tây Thái B́nh Dương. Nếu Trung Quốc có
ASBM th́ Hoa Kỳ không có khả năng giữ lời cam kết bảo vệ Đài Loan
nếu bị Trung Quốc tấn công. Hải quân Hoa Kỳ chưa có vũ khí chống
ASBM và không có chương tŕnh chế tạo. Trong trường hợp này ảnh
hưởng của Hoa Kỳ tại Á châu đương nhiên bị giảm sút. Hậu quả là
chính sách làm bá chủ trong vùng của Trung Quốc trở nên một thực tế
và sẽ tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang trong vùng.
Các
nước đồng minh của Hoa Kỳ đặc biệt ba nước Úc, Nhật Bản và Nam Hàn
tự hỏi phải làm ǵ khi Hải quân Hoa Kỳ không c̣n hoạt động tự do
trong vùng Tây Thái B́nh Dương để duy tŕ hoà b́nh tại đó như Hoa Kỳ
đă làm trong nhiều thập niên qua, mà thí dụ điển h́nh nhất là năm
1995 và 1996 Tổng thống Clinton đă cho các mẫu hạm đặc nhiệm vào eo
biển Đài Loan và giải quyết được sự căng thẳng giữa Trung Quốc và
Đài Loan.
Nếu Hải
quân Hoa Kỳ không c̣n bảo vệ được Tây Thái B́nh Dương các nước trong
vùng phải t́m cách tự vệ. Tháng Bảy vừa qua, lần đầu tiên sau 36 năm
kể từ khi chấm dứt Thế chiến II, Nhật Bản tuyên bố sẽ tăng cường lực
lượng tàu ngầm. Mùa Xuân năm 2009 Úc châu cũng công bố chương tŕnh
tăng cường hạm đội tàu ngầm và mua thêm nhiều chiến hạm tối tân. Nam
Hàn cũng đang tối tân hóa Hải quân và lực lượng đổ bộ của ḿnh. Nam
Hàn c̣n một bận tâm khác là câu hỏi: Nếu Trung Quốc bảo đảm với Nam
Hàn sẽ không xâm lăng Nam Hàn với điều kiện Nam Hàn yêu cầu quân đội
Mỹ rút quân ra khỏi Nam Hàn th́ Nam Hàn sẽ tính sao?
Cho đến
lúc này các nhà hoạch định sách lược Hoa Kỳ chưa xem sự phát triển
khả năng hoả tiễn của Trung Quốc là một đe doạ – v́ Hoa Kỳ đang dồn
sức vào chiến tranh trên bộ mà quên vai tṛ quan trọng có tính lịch
sử của Hải quân.
Sau
nhiều tháng quan sát chính sách ngoại giao có tính bành trướng của
Trung Quốc, Đô đốc Wiillard mới lên tiếng bày tỏ sự lo lắng về khả
năng đánh ch́m các mẫu hạm của Hoa Kỳ.
Tháng
Ba vừa qua Bắc Kinh tuyên bố Biển Đông là vùng “quyền lợi thiết
yếu” (core interest) của Trung Quốc. Biển Đông là một vùng biển
quốc tế chạy dài từ Trung Quốc đến Phi Luật Tân, xuống tận vùng biển
rộng hơn giữa Mă Lai Á và Việt Nam. Biển Đông là hải lộ thương măi
nối liền Đông Á và Trung Đông, trong đó dầu thô là chính yếu. Biển
Đông có nhiều đảo nhỏ các nước chung quanh như Brunei, Mă Lai Á, Phi
Luật Tân, Việt Nam đang tranh giành chủ quyền với Trung Quốc. Khi
tuyên bố Biển Đông là “vùng quyền lợi thiết yếu”, Trung Quốc muốn
nói Biển Đông là vùng biển của ḿnh và sẽ bảo vệ nó bằng sức mạnh
quân sự.
Giữa
tháng 7/2010, bốn tháng sau lời tuyên bố độc quyền trên, Tân Hoa Xă
trích lời một giới chức quân sự cao cấp trong ngành nghiên cứu của
Trung Quốc nói rằng Hoàng Hải (Yellow Sea), vùng biển nằm giữa bán
đảo Triều Tiên và Trung Quốc là “vùng quyền lợi thiết yếu có tính
sinh tử của Trung Quốc (pivotal core interest) chẳng những thiết
yếu về phương diện hàng hải mà c̣n thiết yếu cho an ninh của Trung
Quốc”.
Đầu
tháng 9, tại Hoàng Hải xảy ra vụ đụng chạm giữa Nhật Bản và Trung
Quốc khi Hải quân Nhật bắt giữ một tàu đánh cá của Trung Quốc vào
quá gần quần đảo Senkaku. Quần đảo Senkaku hiện trong tay Nhật nhưng
Trung Quốc cho là đảo của ḿnh.
Tháng
Tám Trung Quốc loan tin một tàu ngầm nhỏ của Trung Quốc có người lái
đă cắm cờ của Trung Quốc dưới đáy Biển Đông, ư nói Biển Đông thuộc
chủ quyền ḿnh. Lời tuyên bố “vùng quyền lợi thiết yếu” và việc cắm
cờ chủ quyền đều là những hành động vừa vi phạm luật quốc tế vừa có
tính khiêu khích.
Những
lời tuyên bố mới đây của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc không có
thái độ nhượng bộ. Trong tháng Bảy sau khi chính quyền Tổng thống
Obama (qua lời tuyên bố tại Hà Nội của bà Bộ trưởng Ngoại giao
Hillary Clinton) đề nghị giải pháp thương thuyết đa phương để giải
quyết cuộc tranh chấp tại Biển Đông, ông Bộ trưởng Ngoại giao Trung
Quốc Dương Khiết Tŕ (Yang Jiechi) nói với một nhà ngoại giao
Singapore rằng, “hăy nh́n vào thực tế, Trung Quốc là một nước lớn và
các nước khác chỉ là những nước nhỏ” (China is big country and other
countries are just small countries, and that’s just a fact) (1).
Người
ta đặt câu hỏi: không biết Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào khi trở
thành bá chủ trong vùng? Sức mạnh quân sự lớn mạnh theo cấp số nhân
đe doạ ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Đông Á, cùng những lời tuyên bố mạnh
miệng của Trung Quốc cho thấy một tương lai khó khăn cho những nước
trong vùng từ trước đến nay vẫn ủng hộ lập trường của Hoa Kỳ là: duy
tŕ sự tự do lưu thông trên biển; không có tham vọng đất đai; và
ngăn không cho nước nào trở thành bá chủ trong vùng Á châu.
Người Á
châu có kinh nghiệm để biết rằng “sức mạnh tạo ra quyền lực và hải
lực có thể tạo ra sức mạnh”. Hạm đội của Tây Ban Nha chiếm Phi Luật
Tân trong thế kỷ thứ 16, và trong suốt thế kỷ thứ 19 và phần đầu của
thế kỷ 20 Hải quân của đế quốc Anh làm chủ vùng biển Tây Thái B́nh
Dương.
Nhưng
đối với Trung Quốc bài học biến hải lực thành sức mạnh chính trị là
bài học Nhật Bản. Lịch sử bành trướng của Nhật trong mấy thập niên
sau của tiền bán thế kỷ 20 cho thấy Á châu sẽ bị đe doạ như thế nào
khi có một nước có nhiều tham vọng trở thành bá chủ trong vùng.
Sau khi
Hải quân Nhật kiểm soát toàn bộ vùng Tây Thái B́nh Dương Nhật đă xâm
lăng, uy hiếp và đàn áp các nước chung quanh. Với khả năng chuyên
chở binh sĩ bằng đường biển Nhật đă đe doạ an ninh từ Ấn Độ đến
Hawai.
Điều
này không có nghĩa khi mạnh như Nhật (vào thời đó) Trung Quốc sẽ
hành động như Nhật Bản. Nhưng hiện nay khi thấy Trung Quốc tăng
triển lực lượng hải quân, chế tạo ASBM và tuyên bố chủ quyền những
vùng biển quốc tế các nước Úc, Ấn Độ và Việt Nam đều lo và t́m cách
tăng cường hải lực của ḿnh. Sự chạy đua vũ trang này chứng tỏ sự an
ninh và ổn định tại Tây Thái B́nh Dương trước đây nhờ sự hiện diện
của hạm đội Mỹ sẽ không c̣n nữa.
Hoả
tiễn ASBM của Trung Quốc là một đe doạ. Nhưng Hoa Kỳ cũng có thể
giảm thiểu mối đe doạ này bằng cách đóng nhiều những mẫu hạm nhỏ hơn
và tăng tầm hoạt động của các phản lực cơ cất cánh từ mẫu hạm. Lúc
này với t́nh trạng ngân sách thâm thủng Hoa Kỳ khó thực hiện việc
đóng tàu và chế tạo máy bay tốn kém này. Mặt khác ông Bộ trưởng Quốc
pḥng Robert Gates cho rằng trong tương lai Hải quân không c̣n là
tượng trưng của sức mạnh.
V́ vậy
hiện nay chính phủ Hoa Kỳ áp dụng chính sách khả dĩ nhất là: tăng
cường mối quan hệ liên minh với các nước trong vùng Tây Thái B́nh
Dương và giúp h́nh thành một thoả thuận chung để giải quyết sự tranh
chấp biển đảo trong Biển Đông.
Ngoài
ra Hoa Kỳ nên mở rộng các cuộc thao dượt hải quân chung với các nước
đồng minh trong vùng. Hoa Kỳ cần giữ lịch tŕnh tập trận ngoài biển
chung với Nhật Bản vào tháng 12 năm nay chung quanh quần đảo Ryukyu,
một quần đảo nằm trên vùng ranh giới phía đông của biển Đông Trung
Quốc (East China Sea).
Chính
phủ Obama nên bỏ lệnh ngầm cấm các giới chức Hải quân Hoa Kỳ công
khai nói lên sự đe doạ của sự lớn mạnh của Hải quân Trung Quốc. Sự
“nói lên” này có thể làm cho Quốc hội quan tâm và thay đổi chính
sách giảm ngân sách của hải quân Hoa Kỳ hiện nay.
Nếu Hoa
Kỳ không có một lực lượng an ninh hùng mạnh và một chính sách ngoại
giao cứng rắn tại Đông Á th́ Hoa Kỳ sẽ mất tư thế một nước có vai
tṛ hàng đầu trong vùng Thái B́nh Dương. Điều này sẽ làm thiệt hại
quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ và sự an ninh của gần một nửa dân số
thế giới.
ASBM
của Trung Quốc chưa phải là thứ vũ khí đáng sợ đe doạ tương lai của
Hoa Kỳ. Cái đe doạ Hoa Kỳ chính là ở chỗ Hoa Kỳ không huy động được
nội lực để duy tŕ sức mạnh của ḿnh.
Seth
Cropsey
Nguồn: Forign Affairs, 27/09/2010
Trần B́nh
Nam lược dịch
(1) Ư rằng lớn nhỏ không thể ngồi
chung với nhau cá mè một lứa được.
© Thông Luận 2010 |