Những người già
của xã Tri Phương, huyện Trà Lĩnh (Cao Bằng) cũng không nhớ chính
xác từ bao giờ người ta bắt đầu đào quặng sắt đem bán sang Trung
Quốc. Chỉ biết rằng đã từ lâu, lâu lắm rồi, từ những năm 80 của thế
kỷ trước người ta đã rầm rộ kéo nhau đi đào quặng. Từ đó đến nay,
hằng ngày hằng giờ, quặng âm thầm chảy, chảy mãi về bên kia biên
giới.
Nấm mồ
300 nhân mạng
Đường vào Tri
Phương xuyên qua những cánh rừng mới tái sinh, cỏ cây lúp xúp, xuyên
qua những thung lũng, bãi đất canh tác bỏ hoang lâu ngày. Đi ngang
qua Bãi Sập - nấm mồ khủng khiếp chôn hơn 300 người đào quặng năm
1992 - cảm giác ớn lạnh trùm lấy chúng tôi. Người dân Cao Bằng khi
nhắc đến thảm họa sập mỏ Kép Ky (xã Tri Phương, huyện Trà Lĩnh) vẫn
chưa hết bàng hoàng. Mùa hè năm đó, việc khai thác quặng nơi này
diễn ra tự do. Hàng nghìn người từ khắp các tỉnh tập trung về đây
đào quặng. Họ dựng hàng trăm lều lán dưới chân đồi.
Một đêm mưa to
gió lớn, cả một mảng đồi lớn ập xuống khu lán trại, tất cả đều không
còn. Gần nửa tháng trời tỉnh huy động quân đội, công an, dân quân và
người dân địa phương đi đào bới nhưng cũng chỉ tìm được hơn 100 xác
người. Có người ước tính vụ sập làm chết hơn 300 người, có người lại
khẳng định khu lán trại rộng lớn như vậy phải có đến 500 người. Bãi
quặng tự do không ai quản lý nên không ai biết chính xác con số đó
là bao nhiêu.
Sau thảm họa
khủng khiếp, suốt một thời gian dài không ai dám lại gần bãi sập đào
quặng. Thế nhưng gần đây, xung quanh bãi sập bắt đầu xuất hiện những
kẻ "điếc không sợ súng" mon men đào quặng. Không ai biết liệu thảm
họa năm 1992 có lặp lại?
Dọc theo con
đường vào xã, hai bên là những bãi khai thác quặng, nhìn xa như
những chiếc tổ mối khổng lồ chi chít những hố, đất đỏ đùn ra miệng
hố, theo dòng nước chảy xuống chân đồi đỏ quạch như những dòng máu
của núi rừng. Lại gần ngó xuống một miệng hố đã bỏ hoang, chúng tôi
giật mình lạnh toát sống lưng, hố sâu hun hút không thấy đáy. Miệng
hố, đất có thể sụt xuống bất cứ lúc nào. Chỉ một cái sẩy chân, người
ta có thể mất mạng ngay lập tức.
Nhìn xa, bãi
quặng như đã bỏ hoang, lại gần, nhìn kỹ mới thấy dưới những bụi cây
lớn, dưới những hốc đá, khe đồi, chỗ nào cũng có lán trại của người
khai thác quặng. Họ phủ lá cây lên mái, nguỵ trang cực khéo.
Một thầy giáo
công tác ở xã Tri Phương cho biết, đã 7 năm từ ngày anh nhận công
tác tại xã, chuyện khai thác vận chuyển quặng trái phép chưa bao giờ
dừng lại. Hiện nay có hàng nghìn người khai thác quặng trái phép.
Mỗi đêm có hàng trăm con la, con ngựa chuyển quặng, mỗi con vận
chuyển trung bình 2 tạ quặng. Ước tính mỗi đêm hàng trăm tấn quặng
bị chảy sang Trung Quốc. Mỗi khi chính quyền địa phương tổ chức giải
tỏa, ngăn chặn thì những người đào quặng tạm dừng hoạt động, được
mấy hôm họ làm tiếp tục. Huyện không đủ lực lượng để duy trì chiến
dịch giải tỏa nên việc ngăn chặn hầu như không có hiệu quả. Những
người đi đào quặng thường là dân tứ xứ. Đông nhất là Thái Nguyên,
Bắc Kạn và một số ở các huyện, các xã khác. Còn người dân Tri Phương
chủ yếu là đi buôn quặng. Buổi chiều, họ mang xe máy đến các điểm
tập kết và thu mua của người đào, chở về nhà đợi đêm xuống thì chở
ra gần biên giới tập kết. Sau đó dùng lừa, ngựa thồ qua đường mòn
sang biên giới tập kết tại bãi quặng của người Trung Quốc. Xe máy
dùng vận chuyển toàn xe Trung Quốc không có biển số. Giá mỗi chiếc
xe thế này chừng 2-3 triệu đồng. Khi xe máy bị công an chặn, họ bỏ
cả xe chạy, hôm sau đi mua cái mới. Nhiều người mua cả xe tải, xe
công nông, xe U-oát để buôn quặng. Mỗi ngày, một người buôn quặng có
thể kiếm được vài trăm nghìn, thậm chí có thể kiếm tiền triệu mà
không tốn bao nhiêu công sức.
Rời Tri Phương về
thị trấn Trà Lĩnh, chúng tôi nghỉ chân uống nước tại chợ xã Quang
Trung, bà chủ quán nước kể về một người đàn ông có tên là Hồ, dân
tộc Tày vừa xây một căn nhà 3 tầng to nhất chợ xong đã mua liền 2
chiếc ô tô. Chiếc xe tải gần 400 triệu để chở quặng, buôn quặng sang
biên giới và chiếc xe con gần 1 tỉ đồng để đi chơi. Người ta giàu có
như thế vì buôn quặng thì chắc chắn rằng việc đào quặng trái phép,
buôn quặng sang biên giới sẽ còn tiếp diễn dài dài chừng nào tỉnh
Cao Bằng chưa có một giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa.
Đường đi
của quặng
Cách trung tâm xã
Tri Phương chừng 2 km, giữa núi rừng hoang vắng có một bãi đất bằng
phẳng chừng 1.000m2 người ta dùng làm chợ quặng. Nói là chợ nhưng
thực ra chỉ có duy nhất một căn nhà (đúng hơn là căn lều) xây bằng
gạch ba vanh rộng chừng 20m2. Nơi này nguyên là bãi tập kết xe cộ
của một doanh nghiệp khai thác quặng. Từ khi doanh nghiệp rút đi,
người dân biến nó thành một chợ tự phát. Chợ đông nhất vào buổi
chiều khi đoàn người đào quặng gánh sản phẩm đào được từ trên núi
xuống. Họ gặp nhau hớn hở, nói cười líu ríu rồi hối hả cân quặng,
tính tiền đếm soàn soạt rồi hò nhau ném bao quặng lên ô tô, buộc lên
xe máy và phóng vèo đi. Tất cả chuyến mua bán diễn ra chưa đầy 5
phút. Con đường đất bụi tung mù mịt bởi những chiếc xe chở quặng
phóng ào ạt.
Bám sát theo sau
một xe máy chở quặng, chúng tôi đến gần trụ sở UBND xã Tri Phương.
Lúc này là hơn 3 giờ chiều, cửa ủy ban xã mở, cán bộ làm việc bình
thường, xe chở quặng vẫn đi qua lại bình thường trước cổng ủy ban xã.
Xe chạy chừng 3 km rồi dừng lại trước cổng một ngôi nhà cấp 4 xây
bằng gạch ba vanh. Phía trước nhà, một chiếc xe Minsk cũ nát, tháo
mất bánh trước dựng đó. Có vẻ như chiếc xe đã hoàn thành xuất sắc sứ
mệnh thồ quặng của mình. Cạnh đó là mấy chiếc xe cũ nát không biển
số. Hơn chục chiếc bao tải cáu bẩn rách nát lòi cả những cục quặng
đen xì ra ngoài vứt lổng chổng đầu hồi nhà. Người điều khiển xe là
thanh niên dáng người thấp nhỏ, áo quần lấm lem bùn đất, không rõ da
trắng hay đen vì bụi đất quặng bám đầy mặt. Cậu thanh niên nhanh
chóng cởi dây chun buộc, lẳng mấy bao quặng xuống sân rồi rồ máy
quay lại phía chợ quặng. Chừng 30 phút sau, chiếc xe lại oằn mình
cõng thêm 4 bao tải quặng về nhà. Cơn mưa chiều rải rác cũng không
đủ sức ngăn những chiếc xe chở quặng lầm lũi cõng quặng từ bãi thu
mua về nhà.
5 giờ chiều, con
đường nhỏ dẫn ra cột mốc 757 bắt đầu lác đác người dắt ngựa thồ
quặng qua biên giới. 8 giờ tối, từng đoàn xe máy ì ạch chở quặng đến
tập trung tại một địa điểm gần đường, thuộc xóm Nà Dốc, cách khu nhà
của Tổ biên phòng vài trăm mét. Hàng trăm con lừa (dân địa phương
gọi là lồ), ngựa và chủ của chúng đang khẩn trương chuẩn bị cho
chuyến hành trình. Những bao tải quặng xếp hàng loạt ven đường. Ánh
đèn pin, đèn xe máy loang loáng. Tiếng bước chân người, chân ngựa
lộp cộp trên đường. Đoàn người đông, nhưng không ồn ào, ai nấy lặng
lẽ và nhanh chóng thực hiện công việc của mình. Quặng được đặt lên
những chiếc giá hàng gắn trên lưng lừa, ngựa, chằng buộc bằng dây
chun rồi rồi hối hả tiến về phía trước. Ngựa, lừa đi trước, người
nối gót theo sau. Có hai con đường vận chuyển quặng sang biên giới.
Một đường qua xóm Koỏng Kẹo, rộng rãi, trải bê tông, ô tô có thể chở
quặng đi được, nhưng lại đi qua trước cửa khu nhà của bộ đội biên
phòng. Chỉ thỉnh thoảng khi bộ đội không ở nhà hoặc lơ là không để
ý, người ta mới dám chuyển quặng qua đường này. Một đường khác nhỏ
hơn, gập ghềnh toàn đá hộc đi qua xóm Đông Căm (xóm di dân ra biên
giới) đi khoảng nửa km là sang đến đất Trung Quốc.
Đêm tối mù mịt,
mưa lất phất, đoàn người ngựa âm thầm hối hả tiến về phía trước. Kẻ
xuôi người ngược chen chúc trên con đường ngoằn ngoèo lúc thì men
theo sườn núi, đá hộc trồ ra đường, lúc xuyên qua đám rẫy ngô ướt
rượt. Đường lầy lội trơn trượt chỉ rộng chừng
30 cm nhưng đoàn người, ngựa vẫn bình thản đi lại. Dường như tất
cả đã quá quen thuộc với con đường đêm nào cũng đi lại mấy lượt.
Vượt qua cột mốc 757 vài trăm mét, bóng tối loãng ra bởi những ánh
đèn điện hắt ra từ một khu nhà cấp 4 xây bằng gạch ba vanh nằm chênh
chếch dưới chân núi, gần bãi ngô. Đoàn lừa, ngựa dừng trước sân nhà,
người ta dỡ quặng, đưa vào kho và trả tiền Trung Quốc cho các phu
chở quặng. Tiền công cho phu quặng giá 20 tệ/tạ (khoảng 50 nghìn
đồng). Mỗi chuyến, một con lừa, ngựa thồ được 2 tạ. Mỗi phu quặng có
từ 2 - 4 con lừa, ngựa tính ra mỗi chuyến cũng kiếm được 200 - 400
nghìn đồng một chuyến. Mỗi đêm tùy số lượng quặng nhiều hoặc ít mà
phu quặng có thể kiếm từ vài trăm nghìn đến hơn 1 triệu đồng. Đoàn
người ngựa cứ thế túc tắc vận chuyển đến khoảng 3 giờ sáng. Như thế,
hành trình của quặng bắt đầu từ chiều và kết thúc vào 3 giờ sáng.
|